Luận giải “Kim Cương Kinh” (Phần 3)



Tác giả: Tần Chính

[ChanhKien.org]

Lời của Ban biên tập: Loạt bài này được viết dựa trên lý giải của tác giả đối với luận thuật trong “Kim Cương Kinh”. Chúng tôi cho rằng bài viết này có giá trị tham khảo nhất định đối với việc giảng chân tướng cho các nhân sĩ trong giới tôn giáo nên đã đăng lại tại đây. Đối với các đệ tử Đại Pháp không có liên quan đến việc giảng chân tướng cho các nhân sĩ tôn giáo thì không cần thiết phải đọc. Hy vọng mọi người dĩ Pháp vi Sư, làm tốt ba việc mà Sư phụ yêu cầu chúng ta làm.

(Theo Ban biên tập báo Nhân Dân: “Luận giải Kim Cương Kinh” là những tâm đắc thảo luận nghiên cứu Kinh Kim Cương giữa tiên sinh Tần Chính với bạn bè trong giới Phật giáo).

Đàm luận thứ ba

1. Chúng ta hãy cùng xem phần “Đệ nhị phẩm thiện hiện khải thỉnh phân” (Đoạn thứ 2 phần Tu Bồ Đề thưa hỏi), như đã từng nói ở phần trước, việc phân chia kinh văn thành nhiều “phẩm” (đoạn) là do người đời sau thêm vào, trong đó đã thể hiện sự giải thích kinh văn của người đời sau. Việc này dường như tạo thuận tiện cho người đời sau đọc kinh, kỳ thực cũng đã đặt thêm cái khung giới hạn chúng ta lý giải ý nghĩa của kinh. Nếu chỉ hạn cuộc trong những lý giải ấy thì người đời sau vĩnh viễn bị nhốt trong cái khung ấy. Vì vậy thật ra không nên chia kinh văn thành các đoạn như vậy.

2. Chúng ta hãy xem đoạn kinh văn này: “Thời, Trưởng lão Tu Bồ Đề tại đại chúng trung, tức tùng tòa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng cung kính nhi bạch Phật ngôn: “Hy hữu Thế Tôn! Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phó chúc chư Bồ Tát! Thiện nam tử, thiện nữ nhân, phát A Nậu Đa La Tam miệu Tam bồ đề tâm, ưng vân hà trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?” (Tạm dịch: Khi ấy, Trưởng lão Tu-bồ-đề ở giữa đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, hạ vai phải, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay cung kính thưa với Phật rằng: “Thế Tôn! Đức Như Lai tận tâm bảo hộ tâm niệm các vị Bồ Tát, tận tâm căn dặn các vị Bồ Tát. Bạch Thế Tôn! Người thiện nam, người thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên làm sao trụ lại, làm sao hàng phục tâm kia?”). “Thời” chính là lúc Đức Phật đã chuẩn bị giảng Pháp cho chúng đệ tử, Trưởng lão Tu Bồ Đề đứng lên giữa đám đệ tử, đến trước Đức Phật, vì đệ tử của Phật mặc áo cà-sa là một tấm vải màu vàng dài khoảng một trượng, quấn lên thân thể, có người lộ vai, có người không lộ vai. Động tác ở đây cho thấy Trưởng lão Tu-bồ-đề mặc cà-sa không lộ vai, nhưng vì muốn thuận tiện hành lễ với Đức Phật, nên trước tiên đã tháo cánh áo cà-sa bên phải xuống, sau đó quỳ đầu gối bên phải chạm đất, quỳ lạy một chân, dùng nghi lễ kính Sư của đệ tử nhà Phật song thủ hợp thập cung kính thưa với Đức Phật: “Sư tôn, Bậc Tôn giác ngộ vĩ đại trong thế gian, Ngài vì độ chúng con mà đến thế giới Diêm Phù Đề này, đây là duyên phận hiếm có của chúng sinh, là cơ duyên vô cùng trân quý! Đúng như chúng con thấy, Ngài có Pháp vô lượng biết cách căn cứ vào trạng thái đặc điểm của chúng đệ tử mà chỉ đạo chúng con tu hành, khai thị chân lý cho chúng con. Thưa Sư tôn! Hiện có một vấn đề con cảm thấy nghi hoặc khó hiểu, đó là trong quá trình trợ Sư truyền Đạo truyền Pháp, khi gặp các thiện nam tín nữ phát thiện niệm muốn tu luyện, có thể phát tâm muốn tu luyện thành chính quả, vậy tâm của họ nên lấy đó làm căn cứ, nhưng dựa vào cái gì để kiềm chế được ham muốn và phiền não của con người? Ở đây rõ ràng điều Trưởng lão Tu-bồ-đề hỏi là “tâm thuật”. Lấy thí dụ, tôi phát tâm muốn nghiên cứu thế giới vi quan, vậy tôi dựa vào điều gì làm căn cứ lý luận cơ bản? Đại khái chính là ý nghĩa đó.

3. Phật Thích Ca nghe xong câu hỏi của Trưởng lão Tu-bồ-đề, trả lời rằng: “Thiện tai, thiện tai! Tu Bồ Đề, như nhữ sở thuyết, Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phó chúc chư Bồ Tát, nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết. Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát A Nậu Đa La Tam miệu Tam bồ đề tâm, ưng như thị trụ, như thị hàng phục kỳ tâm” (Tạm dịch: Thiện tai, thiện tai. Tu Bồ Đề, chính như ông nói, Như Lai biết hộ niệm các vị Bồ Tát, biết chỉ giáo các vị Bồ Tát. Bây giờ ông hãy lắng nghe, ta sẽ giải thích cho ông rõ ràng: Nếu như thiện nam thiện nữ thấy được cái tâm giác ngộ mà Như Lai chỉ giáo thì nên tự nhiên an trụ cái tâm đó, nếu như thấy được cái tâm đó thì nên chế ngự nó). Ở đây phải nói rõ rằng tu luyện trong quá khứ, dù là Đạo gia hay Phật gia đều độ phó nguyên thần của con người. Phó nguyên thần không nhập tam giới mà ở ngoài tam giới điều khiển thân thể người tu luyện, nhưng vì không thể tách rời khỏi sự phối hợp với chủ thể của con người, đương nhiên trong giảng Pháp cũng cần phải giảng các nguyên tắc cơ bản trên bề mặt thân thể này, giảng về con người cần tiến nhập vào thiền định tịch mịch, kỳ thực cũng chính là để chủ ý thức bề ngoài của con người không khởi tác dụng, khi đó bên kia (phó nguyên thần) có thể lợi dụng thân thể của chúng ta để tu luyện. Như thế câu “nhữ kim đế thính” (bây giờ chư vị hãy lắng nghe) ở đây, kỳ thực toàn bộ của cảnh giới chân thực đã giảng hết cho Trưởng lão Tu-bồ-đề. Tại sao thế? Vì sự câu thông giữa Phật và Bồ Tát hoàn toàn là một loại tư duy truyền cảm, đồng thời mang theo âm thanh lập thể, trong một nụ cười đã chứa một niệm, thì hoàn toàn đã minh bạch ý cần diễn đạt. Vì Trưởng lão Tu-bồ-đề là đệ tử đạt đến cảnh giới quả vị La Hán tinh tấn hướng đến cảnh giới Bồ Tát, khi Đức Phật nói những lời này thì ở trong không gian khác Ngài đã triển hiện cho trưởng lão biết nên làm thế nào. Vì vấn đề này thể hiện việc Tu-Bồ-Đề đã tìm hiểu đối với Phật Pháp, tập trung vào vấn đề tâm tính cốt yếu, nên Đức Phật rất vui mừng đối với câu hỏi như vậy. Không giống như những câu hỏi trước đây tập trung vào “Thế giới Cực Lạc như thế nào?” “Thế giới Phật quốc ra sao?” mà là tâm pháp trực chỉ Phật tính, đó là nền tảng căn bản của một người tu luyện chân chính, tức tâm Phật là như thế nào? Đó chính là một câu hỏi rất hay, đã hỏi đến thực chất vấn đề. Bởi vậy Phật khen ngợi họ rằng: “Thiện tai, thiện tai! Tu Bồ Đề, như nhữ sở thuyết, Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phó chúc chư Bồ Tát, nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết. Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát A Nậu Đa La Tam miệu Tam bồ đề tâm, ưng như thị trụ, như thị hàng phục kỳ tâm”. Ý nghĩa là như Ngài đã nói, Như Lai biết dựa theo căn cơ đặc điểm của các đệ tử mà dạy theo năng lực khiến con minh bạch Pháp lý, hiện giờ con cần dùng hết tinh thần để nghe! Ta đương nhiên trình bày rõ Pháp lý ấy một cách toàn diện cho con, người phát tâm tu Phật nên trụ tâm như vậy, mọi người nên chế ngự những phiền não ham muốn của mình. Cũng giống như hiện tại chúng ta biểu đạt thông thường: Nên phải là như vậy…

4. Tu-bồ-đề đã hoàn toàn minh bạch, nhưng người khác có minh bạch không? Không nhất định minh bạch. Nên để người khác cũng có thể minh bạch, và để người sau có thể nghe kinh điển như vậy, Tu-bồ-đề đã thỉnh cầu Đức Phật: “Duy nhiên, Thế Tôn! Nguyện lạc dục văn”. Ý là: Sư tôn, con đã minh bạch. Nhưng mà con hy vọng Ngài có thể khai thị diệu Pháp ấy bằng ngôn ngữ, con nghĩ không chỉ riêng con, chúng sinh đều sẽ nguyện ý và rất vui mừng nghe được kinh điển như vậy. Thật ra lúc này Ngài đã dùng tư duy truyền cảm giảng xong, vì Tu-bồ-đề thỉnh cầu Đức Phật dùng ngôn ngữ để biểu thị, nên mới có câu sau. Bởi vì dùng ngôn ngữ của người để biểu đạt Pháp lý cao thâm vốn rất khó, con người dùng cái gọi là suy xét tỉ mỉ để đo lường vấn đề, quyết định đúng sai, còn Phật thì suy xét và hành động đồng thời theo nhiều phương diện. Hơn nữa một sự việc sẽ phải nhìn thấu từ đầu đến cuối. Cho nên, bậc trí giả biết được điểm này, gọi trình tự tư duy của nhân loại là “lôgic nhỏ hẹp”.

5. Chúng ta hãy xem tiếp “Đệ tam phẩm Đại Thừa Chánh Tông Phân” (Đoạn thứ ba Chính Tông của Đại Thừa). Đoạn khái quát này có chút khiến người ta chẳng hiểu gì cả, theo tôi thấy nó hơi giống việc mở rộng cái lý của hệ Ngân Hà thành quy luật phổ biến của vũ trụ mà “có thể đạt được cùng quy luật”. Khái quát như vậy rất dễ hạn cuộc người đời sau, nên không thể áp dụng.

6. Đức Phật nói với Tu-bồ-đề: “Chư Bồ Tát ma ha tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm, sở hữu nhất thiết chúng sinh chi loại, nhược noãn sanh, nhược thai sanh, nhược thấp sanh, nhược hóa sanh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng, nhược phi vô tưởng, ngã giai linh nhập vô dư Niết Bàn nhi diệt độ chi. Như thị diệt độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh, thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu Bồ Đề, nhược Bồ Tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức phi Bồ Tát”. (Tạm dịch: “Đây là điều mà một Đại Bồ Tát nên khắc chế cái tâm ngông cuồng của mình: cái tâm của tất cả các loại chúng sinh, chẳng hạn như chim và côn trùng sinh ra từ trứng, con người và động vật sinh ra từ bào thai, động vật dưới nước sinh ra từ ẩm ướt, thiên nhân do sự chuyển hóa mà sinh ra, bốn loài đều có một cái tâm ham muốn sâu nặng. Ví dụ như chúng sinh ở cõi sắc giới tuy đã không còn cái tâm ham muốn ái dục nhưng vẫn còn sắc tâm. Chẳng hạn như chúng sinh ở cõi vô sắc giới không những không có tình dục mà còn không có sắc thân. Nếu nghĩ đến chúng sinh ở Thượng giới duy chỉ có một niệm; nếu không nghĩ đến chúng sinh trên Thượng giới thì ngay một niệm cũng không có, tĩnh lặng bất động; nếu như tâm cảnh của tất cả chúng sinh trên cõi trời phi hữu tưởng phi vô tưởng tĩnh lặng bất động, và lại không vô tri như gỗ đá v.v. Chúng đều là cái tâm vọng tưởng vô căn cứ, ta sẽ khiến chúng bước vào cảnh giới bất sinh bất diệt, tiêu trừ cái tâm ngông cuồng. Giống như chúng sinh vô lượng vô số vô biên viên tịch như vậy, tuy nhiên trên thực tế, tâm ngông cuồng là tồn tại hư ảo, chúng sinh cũng là tồn tại hư ảo, bản lai là không sinh không diệt, không cần hàng phục, cũng không cần viên tịch, không có bất kỳ chúng sinh nào có thể viên tịch. Ngươi có biết tại sao không? Tu-bồ-đề, phàm là ở cảnh giới nào thì có thể chứng ngộ được sự tồn tại của cái “tôi”, đều là ngã tưởng, chẳng hạn đau khổ hoặc vui sướng, để tự thân ý thức được sự tồn tại của cái tôi thì sẽ không cảm thấy đau khổ hay hạnh phúc. Nếu Bồ Tát có ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng thì không phải là Bồ Tát).

Từ đây trở đi bắt đầu bước vào phần xưa nay khiến người ta khó hiểu nhất của “Kim Cương Kinh”, có biết bao lý giải điên điên cuồng cuồng, biết bao giả tưởng kiêu ngạo hư vô, đều là do không hiểu được kinh này nên miễn cưỡng lấy ngôn ngữ con người để giải thích Pháp một cách không rõ ràng. Năm xưa Lão Tử nói: “Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề, liêu hề, độc lập nhi bất cải, chu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên địa mẫu. Ngô bất tri kì danh, tự chi viết đạo, cưỡng vị chi danh viết đại”. (Diễn nghĩa: Có một vật được sinh ra từ trong hỗn độn, nó tồn tại trước trời và đất, vắng lặng và yên tĩnh, đứng một mình và không thay đổi, vận hành khắp vũ trụ mà không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong trời đất. Ta không biết nó là gì, tạm đặt tên nó là Đạo, miễn cưỡng gọi nó là lớn vô cùng). Thật ra điều này tương tự với cảnh giới chân thực mà Thích Ca Mâu Ni giảng lúc đó chính là miễn cưỡng dùng ngôn ngữ con người mà đo lường Đạo và danh Pháp. Vì là giảng Pháp với các đệ tử thượng tọa bộ đã đạt đến quả vị Bồ Tát La Hán, trạng thái nghe Pháp của họ cũng đã quyết định hình thức giảng Pháp của Thích Ca Mâu Ni, kỳ thực là có biểu hiện trên dưới nhiều tầng. Bậc Giác Giả đã khai ngộ khi giảng Pháp, kỳ thực là tại tầng tầng dưới cảnh giới của Ngài đều đang giảng, nhất là hình thức phổ độ quảng truyền như vậy, đều là như thế, sau này các bậc thượng sư Mật Tông của Phật giáo Tây Tạng truyền Pháp đã lấy hình thức như khẩu quyết và hình vẽ Mandala, cũng đều được kế thừa từ đây. Cho nên, câu thứ nhất chư Bồ Tát ma ha tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm (Đây là điều mà một Đại Bồ Tát nên khắc chế cái tâm của mình!). Phàm là đệ tử của cảnh giới có quả vị đều hiểu rõ. Sở dĩ Đức Phật còn luận giảng điều ấy là vì ưng thuận thỉnh cầu của Trưởng lão Tu-bồ-đề, miễn cưỡng lấy ngôn ngữ con người mà tiết lộ Pháp lý ấy. Nhưng Phật giáo quá khứ cũng chỉ là vì đặt định nền văn hóa cho việc truyền Đại Pháp hôm nay, đồng thời vào thời kỳ ấy cũng không cho chúng sinh biết được nhiều như vậy, vì họ chú trọng tu luyện phó nguyên thần, còn chủ nguyên thần chân chính của con người thì biết được rất ít. Mặc dù họ đọc thấy rất mơ hồ không hiểu nhưng rất nhiều người vẫn thích đọc, càng đọc càng thấy hay, kỳ thực cũng chỉ là một chút cảm giác, tín tức của người ta mà thôi. Mà ý nghĩa chân chính là để phó nguyên thần có thể tu luyện một cách thuận lợi. Phật Pháp là viên dung, tất cả chúng sinh dưới cảnh giới của Ngài nghe được Phật Pháp cũng đều là phúc phận vô lượng, đều có thể giúp họ giác ngộ thăng lên. Mà năm xưa Thích Ca Mâu Ni khai sáng con đường tu luyện khai ngộ, chính là Niết Bàn, chiếu theo cách Ngài nói thì đó là một loại “diệt độ”.

7. Diệt độ là gì? Chúng ta cho thí dụ thì sẽ thấy rất rõ ràng. Vì sinh mệnh được sản sinh trong không gian vũ trụ. Ban đầu sinh mệnh sản sinh ra là phù hợp với đặc tính của vũ trụ, chính là đồng hóa với đặc tính của vũ trụ, nhưng sau khi thể sinh mệnh sản sinh nhiều, thì cũng giống như mối quan hệ giữa người với người, trong đó những sinh mệnh trở thành không tốt, trở nên ích kỷ, nên phải rớt xuống dưới. Khi tình huống ấy xuất hiện với số lượng lớn, các vị Thần ở cao tầng đã sáng tạo ra một không gian tương đối thấp hơn, và đem những sinh mệnh không tốt ấy phong tỏa trong một không gian với vật chất và năng lực tương đối thấp. Vì Thần từ bi nên đã cho họ một cơ hội quay trở về. Cứ như vậy, thuận theo quá trình diễn biến của vũ trụ, sinh mệnh ngày càng trụy lạc bại hoại, tầng thứ không gian ngày càng nhiều, cuối cùng rớt đến nơi con người này. Tam giới này từ trên một tầng diện mà nói chính là đống rác của vũ trụ, nằm ở tầng thứ bề ngoài nhất, thô ráp nhất của vũ trụ, sinh mệnh rớt đến nơi đây, vốn dĩ là bị tiêu hủy hoàn toàn. Nhưng sau này Thần lại phát tâm từ bi, quyết định cấp thêm một cơ hội cho những sinh mệnh ấy, nên đã tạo ra không gian con người này. Lúc ban đầu Thần cũng không nghĩ điều gì khác, chính là tạo một không gian mê nhất, khổ nhất, sinh mệnh bị phong tỏa vào nhục thân thấp kém này, năng lực rất thấp. Con người ở nơi đây thật đáng thương, từ khi sinh ra đều như vậy, mọi người đều như nhau, mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ý chỉ có năng lực thấp khiến con người không thể nhìn thấy không gian khác, việc gì cũng đều dùng phương thức thấp nhất để làm, dùng phương thức thấp để sinh sản nối tiếp đời sau. Thần đã cấp cho con người cơ hội cuối cùng, mong mỏi con người ở trong mê mà ngộ, ngộ được thì có thể quay trở về, ngộ không được thì rớt xuống và bị tiêu hủy. Tự con người rất khó biết được hoàn cảnh ấy, nhưng bậc Giác Ngộ rất biết và thương xót cho họ. Trang Tử từng kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: những con cá sắp chết trong cái ao nhỏ đã cạn nước, nhờ một chút hơi ẩm thổi từ miệng nhau để làm ẩm ướt vảy cá, ông nói, lấy “hơi ẩm để làm ướt lẫn nhau, nước bọt để thấm ướt lẫn nhau” cho là đạo đức và tốt đẹp, chẳng thà thực sự thăng hoa trở về, nhưng chúng “đã quên mất sông hồ rồi”. Sông hồ đối với cá có hàm ý gì? Có nghĩa là tài nguyên vô hạn và không gian tự tại. Con người cũng như vậy, thực sự thông qua tu luyện Chính Pháp để phản bổn quy chân, đó mới là hạnh phúc thật sự. Như vậy cũng chính là nói bản chất của con người trong quá trình rớt xuống, thì giống như viên kim cương rớt vào những thứ ô nhiễm khác nhau, vừa dính lên một lớp bơ, thêm vào một lớp mực, lại nhúng một lớp bùn lầy, cuối cùng dính lên một lớp phân, mỗi một tầng ô nhiễm thực ra chính là thêm một tầng phong tỏa cho linh tính tiên thiên chí thiện viên mãn của bản thân, vậy Thích Ca Mâu Ni áp dụng phương thức nào giúp bạn quay trở về? Chính là diệt độ Niết Bàn, chính là tẩy tịnh bạn, tầng thứ khác nhau cần dùng cách tẩy tịnh khác nhau, đó là cách lý giải tốt nhất về “Pháp vô định Pháp”. Dùng phương pháp rửa sạch phân mà tẩy bơ e rằng không có hiệu quả, mà dùng phương pháp lấy bơ tẩy sạch phân tất nhiên cũng sẽ không có công dụng. Cũng chính là nói Đại Giác Giả xưa nay dạy con người, cảnh giới nào thì dạy họ Pháp ấy, đó cũng là điều rất quan trọng. Con người sau này tại sao rất khó thành tựu? Rất nhiều người tham vọng cao siêu ngưỡng mộ xa vời, vừa vào liền dùng tâm danh lợi của con người muốn tu cao như ý muốn, Tiểu Thừa còn chưa tu được khá, đã nhắm mắt suốt ngày tụng kinh điển Đại Thừa, kết quả là uổng phí công lao, việc gì cũng không thành. Một người ngay cả nghi lễ ở bậc tiểu học cũng chưa trở thành thói quen, một người tâm pháp nhân lễ chưa khắc chế thành tự nhiên, mà đã ngông cuồng luận bàn việc trị quốc bình thiên hạ, bất quá cũng chỉ là kiêu ngạo thiếu hiểu biết mà thôi. Cũng giống như một người mà bốn phép tính cộng trừ nhân chia còn chưa biết, mới biết được vài chữ nghĩa lại muốn vừa vào đã thông suốt môn toán tích phân, sáng tác được những tác phẩm văn chương tuyệt diệu, thì đó là điều không thể làm được. Rất nhiều người còn giảng lung tung bừa bãi về “buông bỏ” ra sao, thật ra họ đâu từng cầm lên? Nói chi buông bỏ xuống?

8. Như vậy “Vô dư Niết Bàn nhi diệt độ chi” (không niết bàn mà là diệt độ) nói một cách đơn giản chính là tẩy sạch bản thân, hiện ra tiên thiên bản lai Phật tính, quá trình, viên mãn tự nhiên và con đường cốt lõi của nó là phương pháp “Giới Định Huệ” mà Thích Ca Mâu Ni đã truyền ra. Vào thời kỳ tu luyện chính thường tại vũ trụ, đây là một đại lộ Chính Pháp, nhưng phương pháp ấy không cách nào chuyển hóa thân thể của tầng thứ hậu thiên khác nhau thành những thứ tốt nhất để mang đi, đó là điều Thích Ca Mâu Ni giảng rõ ràng rằng “sự thực không có chúng sinh nào đắc được diệt độ”. Chúng ta vừa đưa thí dụ về ô nhiễm bơ, ô nhiễm cát bùn, thật ra đối với sinh mệnh mà nói không phải khái niệm là ở bề ngoài sinh mệnh bôi thêm một lớp, mà là những thứ ấy đều sẽ hình thành nên những thân thể tồn tại ở những tầng thứ khác nhau, giống như con người được cấu thành từ toàn bộ tế bào, có tầng diện nguyên tử, tầng diện neutrino v.v… Thí dụ như con người sẽ hình thành cái mà người Giác Ngộ cho là “thân xác thối tha”, công pháp của họ không tu mệnh (cũng chính là không chuyển hóa bản thể) nên đều vứt bỏ cái thân xác này, trong giây phút khai công khai ngộ lập tức bỏ lại cái thân thể được sinh ra từ hậu thiên, và nguyên thần mang theo công mà đi lên. Vậy hòa thượng khai ngộ lại có “Xá lợi tử”, thực chất là sau khi cái đan ấy nổ, toàn bộ các khóa và hàng trăm khiếu trên thân thể đều chấn động mở tung, tức thì bỏ đi bản thể mà viên mãn. Phương pháp ấy cũng chỉ là khai ngộ của cá thể mà nhảy ra khỏi Tam giới, không thể đổi mới triệt để vật chất vũ trụ và dung luyện sinh mệnh để đề cao thăng hoa lên các cảnh giới ở tầng thứ khác nhau.

9. “Hà dĩ cố? Tu Bồ Đề, nhược Bồ Tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng tức phi Bồ Tát”. (Tạm dịch: Vì cớ sao? Tu-bồ-đề, nếu Bồ Tát còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả ắt không phải là Bồ Tát). Đức Phật tiếp tục giải thích rằng tại sao như vậy? Vì con người thông thường có sự phân biệt lẫn nhau, nên tại thế gian con người đương nhiên để ý đến sự phân biệt này, giống như Trang Tử đã nói: Từ góc độ con người mà quan sát, vạn vật tự coi mình là quý trọng nhưng khinh bỉ lẫn nhau, từ góc độ Đạo mà quan sát, thì vạn vật không có phân biệt sang hèn. Gọi là Đạo tức là không có phân biệt cái này với cái kia, chính là cảnh giới thấu suốt toàn trí toàn năng và hoàn mỹ. Bồ Tát chân chính là bậc Giác Giả “Không Tính” cuối cùng viên mãn tự tại, không phải nói họ không có hiện tướng mà là họ đã đồng hóa với tiêu chuẩn Pháp lý của vũ trụ tầng ấy, không còn quan niệm và cách nhìn của con người ở tầng thứ ấy. Thí dụ, nếu có bản ngã thì họ sẽ tự nhiên chấp trước vào cái bản ngã ấy. Nếu chấp trước vào nhân tướng thì sẽ cảm thấy bảy nỗi khổ của con người như sinh lão bệnh tử mà chấp trước vào đó, vẫn chưa hiểu rõ Đạo. Những tình cảnh ta gặp phải trên thế gian đều có thể đem đến cảm xúc, nếu còn chấp trước vào tướng thì sẽ có sự phân biệt về diện mạo và thái độ của người này với người kia, từ đó mà trong tâm có sự đối xử khác nhau. Chấp trước vào thọ mệnh thời gian, tất sẽ không minh bạch được rằng tất cả chỉ là thể hiện trình tự diễn tiến của Pháp trong tầng thứ khác nhau mà thôi, sự viên mãn “Không Tính” cuối cùng của Bồ Tát tuyệt đối không có liên quan với những điều ấy. Vậy bạn phải dùng ngôn ngữ của con người chính là nói nên có một cột “trụ” ở trong tâm, giống như Lão Tử tìm hiểu về “Đạo” vậy, chỉ có thể miễn cưỡng đặt tên là “Không”. Nhưng Không ấy hiển nhiên hoàn toàn là hai sự việc khác nhau với cái mà con người gọi là “không có”, nếu như miễn cưỡng giải thích thì chính là “không chấp trước”. Hơn nữa là “vô lậu”. Tỷ dụ một người tẩy sạch một tầng đến tầng thứ cao hơn, như vậy bất cứ thứ gì của tầng dưới đều không còn nữa, những gì của tầng dưới chính là “không”, hoàn toàn triệt để không còn, nhưng lại là “có” và tồn tại ở tầng cao hơn.

10. Tiếp theo lại bàn về “Đệ tứ phẩm diệu hạnh vô trụ phân” (Phần thứ 4 Diệu hạnh vô trụ). Tại đây tôi dùng cách phân chia này, không phải là thừa nhận nó, mà là để cho thuận tiện, bởi mọi người đã quen với cách phân chia này rồi. “Phục thứ, Tu Bồ Đề, Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ, hành ư bố thí, bất trụ thanh hương vị xúc pháp bố thí. Tu Bồ Đề, Bồ Tát ưng như thị bố thí, bất trụ ư tướng. Hà dĩ cố? Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lượng. Tu Bồ Đề, ư ý vân hà? Đông phương hư không khả tư lượng bất? Phất dã, Thế Tôn! Tu Bồ Đề! Nam Tây Bắc phương tứ duy thượng hạ hư không, khả tư bất? Phất dã, Thế Tôn!” “Tu Bồ Đề! Bồ Tát vô trụ tướng bố thí, phúc đức diệc phục như thị bất khả tư lượng. Tu Bồ Đề, Bồ Tát đản ưng như sở giáo trụ”. (Tạm dịch: Lại nữa Tu-bồ-đề, Bồ Tát nên bố thí vô trước tướng của Pháp Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, cái gọi là bố thí bất trước tướng chính là lục căn phải thanh tịnh, bố thí ly khai sắc, thanh, hương, vị, xúc, phép thuật và hình tướng trần thế, cũng chính là người cho quên cho, người nhận quên nhận và vật cho cũng quên. Tu-bồ-đề! Bồ Tát nên không ngừng bố thí, tại sao vậy? Bởi vì bố thí hình tướng chỉ là giới hạn ở hình tướng, và hình tướng của chúng sinh chỉ là một hạt bụi, ngay cả khi hưởng phúc đức từ điều này cũng có hạn chế. Tu-bồ-đề, ý ngươi như thế nào? Hư không Đông phương có thể suy xét được không?” “Bạch Thế Tôn, không!” “Tu-bồ-đề! Hư không bên các phương Nam Tây Bắc và trên dưới có suy lường được không?” “Bạch Thế Tôn, không!” “Tu-bồ-đề! Bồ Tát bố thí vô chấp trước thì phúc đức cũng vô lượng như thế, chẳng thể suy lường. Tu-bồ-đề! Bồ Tát nên theo lời dạy của ta như ta đã bảo”).

Nhìn thấy Trưởng lão Tu-bồ-đề bước đầu đã lĩnh hội những Pháp lý mà Ngài đã giảng, tiếp theo Đức Phật giảng một cách thâm sâu hơn, nên có từ “phục thứ” (lại một lần nữa). Có thể thấy rằng Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử, Lão Tử, Chúa Giê Su và tất cả các bậc Đại Đức Đại Giác chân chính cũng đều là những bậc “Không Tính” trí huệ viên mãn, Ngài từng bước dẫn dắt, nhắm thẳng vào tình huống cụ thể của chúng sinh mà giảng Pháp phù hợp chứ không bị hãm trong đó. “Phương pháp huấn luyện” hiện đại do phương Tây phát triển kỳ thực không có gì mới, những lý niệm cốt lõi “phân tách, vị tha, khai sáng” thì trước đây các Giác Giả đã nhắc đến rồi, nhưng thế nào là “vị tha”? “Khai sáng” cái gì, nếu người “huấn luyện” không thật sự ngộ Đạo, mà chỉ quan tâm công danh lợi lộc hoặc lợi ích trước mắt, thì vận dụng phương pháp này hiệu quả cũng rất thấp. Giống như Yoga vốn là môn tu luyện của xã hội nhân loại thời kỳ trước, nhưng trong thời kỳ này cho đến hiện tại lại bị con người biến thành hoàn toàn khác hẳn, người ta đều cho rằng tập Yoga để tăng cường sức khỏe và giảm béo. Chân Pháp là đấng sáng tạo nguyên thủy có ở khắp mọi nơi, trong tất cả mọi vật, trong các trạng thái tồn tại của bản nguyên vật chất và Pháp tại mỗi một tầng, thật ra đó là thứ “không gì không bao hàm, không gì bị bỏ sót”. Đạt đến tầng ấy kỳ thực cũng chính là đồng hóa với Pháp lý của tầng ấy, công lực vũ trụ và trí tuệ của tầng ấy sẽ mở ra cho bạn dùng. Đó chính là thực chất vấn đề. Vậy đạt đến cảnh giới của Bồ Tát Pháp, đối với Pháp cần phải hiểu “vô sở trụ” là ý gì đây? Khổng Tử trong những năm cuối đời đã nói: “30 tuổi có thể tự lập, 40 tuổi không bị mê hoặc bởi những hiện tượng bề mặt của ngoại cảnh, 50 tuổi hiểu được thiên mệnh là gì, 60 tuổi có thể lắng nghe và đối đãi chính xác với những ý kiến khác nhau, 70 tuổi có thể làm theo ý muốn của mình mà không vượt ra ngoài khuôn phép”. Đối chiếu với những lời này, thật ra đó chính là một hình thức đồng hóa tự tại viên mãn thực sự, tất cả mọi thứ bên dưới tầng thứ của mình họ đều biết, đều có thể làm, đều biết được làm thế nào mới là tốt nhất. Pháp không còn là nguyên tắc quy định bề ngoài nữa mà là Phật tính bên trong, giống như nước vậy, nước không có hình dạng nhưng chứa trong vật nào thì có cùng hình dạng với vật ấy, có thể dung chứa tất cả mọi vật, cũng có thể viên dung tất cả. Đạt đến cảnh giới như thế quả thật không còn chấp trước nào nữa, ở trong cảnh giới ấy cũng sẽ thể hiện bản sự rất lớn, cái gì cũng làm được, cái gì cũng hài hòa. Tại đây, Đức Phật đề cập đến hư không, kỳ thực đó không chỉ là sự miêu tả mà cũng là phép tu từ tỷ dụ, nó chính là không nhưng chứa đựng tất cả các thứ hữu hình. Trạng thái ấy, chính là xả đắc bất trước tướng mà Phật giáo giảng, nhiều người không lý giải được “trước tướng” là gì, có những người ngay cả những thứ trước mắt cũng không hiểu, thực chất chính là chấp trước. Bất trước tướng chính là không chấp trước. Vậy giảng đến đây thì cũng rõ câu “Dung thiên dung địa vu nhân hà sở bất dung” (Bao dung với trời đất tại sao không bao dung với con người), ở trên cảnh giới Tự Không Tính Viên Mãn để phán xét tất cả thì tự nhiên sẽ nhìn thấy sự ngu dốt và đáng thương của chúng sinh trong các tướng khác nhau, đương nhiên Đức Phật viên mãn tối thượng sẽ siêu vượt lên cao đứng riêng ra mà “cười quá khứ, cười hiện tại, cười nhạo những kẻ nực cười ở nhân gian”. Phương Tây có câu ngạn ngữ: “Con người hễ suy nghĩ, Thượng Đế liền cười”, cũng là nói ý này. Tại cảnh giới hoàn toàn “Không Tính” và “toàn tri” (hiểu biết sâu sắc về mọi thứ) hoàn toàn khác với bất cứ lối nhận thức cục bộ nào. Lúc ấy sẽ biết được sự biến đổi thực sự của Thiên ý, chư Phật và Bồ Tát cũng phải hành sự theo ý trời, bản thân họ cũng là sản phẩm và người bảo vệ Đại Pháp của vũ trụ. Nhìn từ cảnh giới cao hơn, họ cũng chỉ là các lạp tử tồn tại của tầng thứ khác nhau trong Pháp vũ trụ. Giống như suy nghĩ của biển khác với suy nghĩ của cá voi dưới biển, cá voi tuy là sinh vật lớn nhất dưới biển, nhưng sự tồn tại của nó là sống nhờ vào biển, nó rất có thể cho rằng cách nghĩ của bản thân chính là cách nghĩ của biển cả, thật ra không phải. Đó là cách nhìn “Không Tính” ở tầng diện cao hơn. “Không Tính” không phải là không có thứ gì, mà là không chấp trước vào thứ gì. Lúc này có thể lý giải một chút ý nghĩa của lời Phật Chủ dạy “Chấp trước không còn mới là chân không”. “Xả bỏ hết thảy mới là Pháp lý cao nhất của vô lậu”. Nhưng Pháp của quá khứ là giảng cho phó nguyên thần, hôm nay chúng ta giải thích kinh này, không phải vì giảng giải kinh mà để hiểu nó, chính là để khôi phục trở lại mục đích chân chính của việc truyền bá Phật giáo, quy chính nhận thức của con người nhằm giải khai những sai lầm trong lịch sử, khiến chúng sinh được thức tỉnh. Bố thí ở đây cũng chính là giúp Phật truyền Pháp độ nhân.

11. Thế nào là “Bất trụ tướng bố thí”? Chúng ta có thể đưa vài thí dụ để nói rõ. Ví như người không ăn cơm sẽ chết đói, nhưng bạn yêu cầu họ ăn một tấn lương thực trong một bữa, cho dù toàn là nhân sâm, sơn hào hải vị thì họ cũng sẽ bị chết vì no. Một chiếc thuyền buồm nhỏ chỉ có thể chở năm người, nhưng bạn lại nói thuyền đã là dùng để chở người tại sao không thể chở 50 người? Vì có thể xảy ra tai nạn. Một người đưa cái ly nhỏ để xin một ly nước, bạn lại nói: Vâng, tôi sẽ đi về phía Đông đến Ngô Việt nhờ Long Vương dẫn nước ở biển Đông để cứu anh. Tủ lạnh là tốt, có thể bảo quản thực phẩm lâu hơn một chút, nhưng bạn mắc sai lầm khi đông lạnh tất cả những thứ không thích nghi với nhiệt độ đông lạnh, kết quả sẽ phát hiện ớt, cải bắp hỏng rất nhanh vì khi bạn cấp đông chúng thì còn hỏng nhanh hơn ở nhiệt độ bình thường. Bạn cũng không thể cho rằng đông lạnh sẽ giúp bảo quản tốt hơn, nếu làm trứng gà đông lạnh, có thể chúng hoàn toàn hỏng không thể ăn được. Trí tuệ ấy, kỳ thực Nho gia Đại Thành gọi là “Trung dung”, trung dung thực sự không đơn giản là ở ngay chính giữa, thậm chí là trung lập không thiên về phía nào, mà là “Không Tính” vô chấp trước. Vậy trí tuệ ấy thật sự mọi người đều có sẵn. Thí dụ nói về phương diện sinh hoạt hàng ngày như ăn, mặc, ở, đi lại, rất nhiều người hiểu được cư xử đúng mực và vừa phải, làm việc biết nhập gia tùy tục, không rập khuôn máy móc, lấy cái gọi là dầu cù là xoa để trị bách bệnh, hoặc nhận định nhân sâm chính là vị thuốc tốt nhất, dùng để trị tất cả các loại bệnh, đó đều là quan điểm cứng nhắc bảo thủ và thiếu hiểu biết. Thật ra trị bệnh cảm, có lẽ cây sài hồ không đáng giá lại có hiệu quả hơn nhân sâm. Trong công việc, trí tuệ của Trung Quốc xưa nay đều nói “Nhập hương tùy tục”, “Nhân địa đáo trực” (tương tự như “Nhập gia tùy tục, qua sông tùy khúc”) và “Đạo thuận theo tự nhiên”, thật ra là cùng một nội hàm với “Bất trụ tướng bố thí”, mà tâm thái của bố thí chính là hoàn toàn mở rộng ra, Trung Quốc cổ xưa gọi là “Công”. Đạo thuận theo tự nhiên và Pháp vận dụng tự nhiên, thân tâm chí công vô tư, chính là tâm thái ấy. Đã hiểu rõ điểm này thì sẽ không cứng nhắc mà dùng cảm tình của con người để xem xét đối đãi với trí tuệ chân chính. Đối với Đại Giác không tính viên minh, trí tuệ của Ông chính là vô hạn, dùng lời của Khổng Tử mà nói thì chính là “Quân tử vô sở bất dụng kỳ cực” (Quân tử khi làm một việc gì thì phải làm mọi cách để đạt được mức độ hoàn hảo). Tất cả mọi thứ xuất hiện đều có tác dụng của nó, đều có thể đem nó dùng đến mức tốt đa để “hiểu lý của tạo hóa thiên địa”, khiến sinh mệnh giác ngộ thăng hoa.

12. Hiểu rõ điểm này vậy thì chúng ta lại xem “Đệ ngũ phẩm như lý thực kiến phân” (Đoạn 4 thấy lẽ thật đúng lý). “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Khả dĩ thân tướng kiến Như Lai phủ? Phất dã, Thế Tôn! Bất khả dĩ thân tướng đắc kiến Như Lai. Hà dĩ cố? Như Lai sở thuyết thân tướng tức phi thân tướng. Phật cáo Tu Bồ Đề: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng tắc kiến Như Lai”. (Tạm dịch: Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Có thể do thân tướng mà thấy Như Lai chăng? Bạch Thế Tôn, không phải vậy. Không thể do thân tướng thấy được Như Lai. Vì cớ sao? Như Lai đã nói thân tướng tức không phải thân tướng. Phật bảo Tu-bồ-đề: Phàm những gì có tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai).

Giác Giả giảng Pháp dạy dỗ từng bước, “Tu-bồ-đề! Ư ý vân hà?” Ý là: Tu-bồ-đề, ông đã hiểu rõ rồi chứ? Có nghi vấn gì không? Thấy họ đã không có nghi hoặc, tiếp theo lại nêu vấn đề, kỳ thực quá trình triển khai của “Kim Cương Kinh”, về phương pháp và trí tuệ đó chính là “kỹ thuật huấn luyện” vô cùng hoàn mỹ, Đức Phật dùng nó để giúp Tu-bồ-đề làm sáng tỏ những suy nghĩ và ý tưởng của mình. Ông hỏi thêm “Khả dĩ thân tướng kiến Như Lai phủ?”. Ở đây có hai ý, thứ nhất là người tu luyện nếu bản thân còn chưa đạt đến viên mãn tối thượng Không Tính, thì luôn luôn sẽ dùng cách nghĩ của người (thông thường là tình cảm tôn kính của con người) để nghĩ về Đức Phật, đồng thời hy vọng có thể nhìn thấy hoặc được gia trì, thật ra cũng đều là hữu cầu, là một loại tham vọng không chính đáng, nhưng bản thân luôn luôn không nhận thức được. Đó là một chướng ngại. Mặt khác, trạng thái tồn tại tột cùng của Như Lai tại Pháp giới là gì? Điều mà mọi người nhìn thấy giống như tượng khắc vậy chăng? Vậy Pháp của Ông chẳng lẽ có thể lấy phương thức hạn định một cách hữu hình đó sao? Đó cũng là một chướng ngại về lý giải Phật Pháp của người tu luyện. Bởi vì “Lấy Đạo mà quan sát từ góc độ tự nhiên, vạn vật không phân biệt sang hèn”. Phật Chủ giảng: “Không phải nói sinh mệnh lớn mới đáng quý, nhỏ thì không đáng quý”. Thật ra tất cả sinh mệnh, tất cả vạn vật đều là biểu hiện trạng thái tồn tại của Pháp vũ trụ, sự diễn biến tiến hóa của chúng đều tuân theo nguyên tắc của Pháp. Nhưng mà, vì hạn chế bởi tầng thứ và cảnh giới của Tu-bồ-đề, đối với Pháp mà Đức Phật giảng lúc bấy giờ, chỉ có thể là một loại lĩnh hội và lý giải, vẫn còn chưa kịp chứng thực, cho nên họ nói như vậy “Như Lai sở thuyết thân tướng, tức phi thân tướng” (Tạm dịch: Thân tướng mà Như Lai nói tức là không phải thân tướng). Ý nghĩa là gì? Chẳng lẽ nói thân tướng của Như Lai là giả sao? Kỳ thực điều này có thể hiểu từ những câu kệ mà Phật Di Lặc đã nói trước khi Niết Bàn viên tịch, Di Lạc nói: “Di Lặc chân Di Lặc, hóa thân ngàn trăm ức, thời thời bả thị nhân, thế nhân tự bất thức” (Tạm dịch: Di Lặc Di Lặc chân chính, hóa thân trong hàng trăm tỷ người, luôn hiển lộ cho mọi người, nhưng con người thế gian lại không biết”. Trong tất cả mọi thứ đều có thể biểu hiện, mọi hình thức thể hiện đều có thể được vận dụng mà không chấp trước, Pháp của Như Lai dưới Ngài cũng là không gì không bao hàm, không gì bị bỏ sót, Ngài có thể ở dưới cảnh giới của Ngài triển hiện tầng tầng đều là Ngài, cũng có thể không triển hiện, cũng có thể lựa chọn triển hiện, Ngài là Tự Tại Không Tính Viên Dung. Thân tướng của Ngài là gì? Chân thân tướng của Ngài rất khó để người bình thường nhìn thấu. Cho nên Đức Phật bảo với Tu-bồ-đề rằng: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng, tắc kiến Như Lai” (Phàm có tướng đều là vô căn cứ. Nếu thấy các tướng không phải tướng thì tức là nhìn thấy Như Lai). Hư vọng, là hình tượng biến hóa do sự vọng tưởng của nhân tâm, nếu có thể thấy vẻ đẹp của thiên địa, bách khoa toàn thư của cổ kim, không gì không bỏ sót, lúc ấy mới biết thân tướng chân thực của Như Lai. Đó là một chứng minh thực tế, tuyệt đối không phải một cuộc nói chuyện, cũng tuyệt đối không phải hư không vọng tưởng của con người. Vì thành tựu cảnh giới của Phật Đà, nên thân thể của Ngài được cấu thành từ vật chất tốt nhất của vũ trụ, vũ trụ bất hoại Ngài bất hoại. Phật Chủ giảng: “Như Lai là tên gọi của thế nhân bước theo chân lý như ý mà đến”, và Đức Phật thật sự, Ngài là bậc bảo vệ vũ trụ, chịu trách nhiệm tất cả nhân tố chính diện trong vũ trụ”. Ngài là năng lực vô hạn, đồng thời cũng là Pháp Vương kiểm soát, điều khiển Pháp Lý chân thật như ý ở tầng của mình, mà cảnh giới này, lại không phải là cõi hư không mà mọi người nghĩ đến, mà lại là cảnh giới của bậc Giác Giả không chấp trước mà viên dung đối với tất cả cảnh giới phía dưới.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48443



Ngày đăng: 09-03-2025

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.