Trang chủ Right arrow Văn hóa Right arrow Văn hóa truyền thống

Luận giải “Kim Cương Kinh” (Phần 5)

23-08-2025

Tác giả: Tần Chính

[ChanhKien.org]

Lời của Ban biên tập: Loạt bài này được viết dựa trên lý giải của tác giả đối với luận thuật trong “Kim Cương Kinh”. Chúng tôi cho rằng bài viết này có giá trị tham khảo nhất định đối với việc giảng chân tướng cho các nhân sĩ trong giới tôn giáo nên đã đăng lại tại đây. Đối với các đệ tử Đại Pháp không có liên quan đến việc giảng chân tướng cho các nhân sĩ tôn giáo thì không cần thiết phải đọc. Hy vọng mọi người dĩ Pháp vi Sư, làm tốt ba việc mà Sư phụ yêu cầu chúng ta làm.

(Theo Ban biên tập báo Nhân Dân: “Luận giải Kim Cương Kinh” là những tâm đắc thảo luận nghiên cứu Kinh Kim Cương giữa tiên sinh Tần Chính với bạn bè trong giới Phật giáo).

Đàm luận thứ năm

1. Chúng ta phải nhận thức rất rõ ràng rằng Đức Phật dạy đồ đệ tùy theo trình độ của họ. Việc Ngài hướng dẫn Tu Bồ Đề đều nhằm mục đích gợi mở và rèn luyện suy nghĩ của ông, nâng cao ý thức và uốn nắn những nhận thức sai lầm của ông. Vì vậy, câu trả lời của Tu Bồ Đề ở đây cũng chỉ là nhận thức của ông ấy mà thôi. Ngược lại, câu trả lời của Đức Phật cũng có tính nhắm thẳng, chúng ta không thể nhìn nhận những vấn đề này theo một cách cố định. Giống như trong lớp cơ học cổ điển của Newton, những câu trả lời ở cảnh giới cao nhất trong vật lý cổ điển hoàn toàn khác với những câu trả lời ở cảnh giới của thuyết tương đối và thuyết lượng tử trong tương lai. Kim Cương Kinh giảng rằng: “Pháp vô định Pháp”, chỉ là có ý rằng Pháp của vũ trụ có hình thức tồn tại và triển hiện khác nhau ở các tầng thứ và cảnh giới khác nhau. Một sinh mệnh ở tầng thứ đó phù hợp với Pháp ở tầng thứ đó chính là sinh mệnh tốt ở tầng thứ đó, nhưng tiêu chuẩn mà người đó đạt được có thể là sai ở một cảnh giới khác. Chính là đạo lý này.

2. Bây giờ chúng ta hãy tiếp tục xem phẩm thứ chín “Nhất tướng vô tướng phân”. Phẩm thứ chín đề cập đến một vấn đề rất quan trọng, kỳ thực có thể dùng hai chữ “diệt độ” mà Thích Ca Mâu Ni đã giảng để giải thích. Phật Chủ đã giảng một cách hết sức rõ ràng rằng:

“[Tôi] nói rõ cho chư vị một chân lý: toàn bộ quá trình tu luyện của người ta chính là quá trình liên tục tống khứ tâm chấp trước của con người” (Chuyển Pháp Luân).

Ví dụ, khi một người đạt được quả vị La Hán, tại cảnh giới đó anh ta sẽ không còn ý nghĩ trở thành bất cứ một sinh mệnh nào trong Tam Giới nữa, không có quan niệm kiểu như vậy. Hết thảy quan niệm và sự tồn tại ở tầng tương đối thấp, bất kể coi đó là “tốt” hay “xấu” ở tầng thứ đó, anh ta đều xả bỏ hết. Khi chúng ta nói đến “xả bỏ” ở đây, không có nghĩa là hành động cưỡng ép như người bình thường vẫn nghĩ, bởi vì con người vẫn còn có tâm mục đích, tâm tự tư vì tình riêng và suy nghĩ về công danh lợi lộc, kỳ thực họ không thể đạt được những điều đó. Nhưng đây là sự trợ giúp cho con người thế gian đang ở trong mê có thể bước vào tu luyện. Vì vậy ở những thời đại khác nhau, các Giác Giả khi độ nhân cũng đã triển hiện một số thần thông cho họ, nhưng chúng có giới hạn. Cũng cần phải để cho con người tự ngộ. Trong đoạn kinh văn này, Thích Ca Mâu Ni nói với con người về tâm Pháp “bất khả tư nghị”, thông qua các câu hỏi và câu trả lời đối với Tu Bồ Đề, chính là các vị không thể dùng quan niệm người thường để nghĩ về việc tu luyện và các vấn đề ở tầng thứ cao. Thực ra chính là muốn các vị phải buông bỏ tâm truy cầu của người thường. Nhưng Ngài không nói thẳng ra. Ngài nói: “Tu Bồ Đề, ư ý vân hà? Tu-đà-hoàn năng tác thị niệm ngã đắc Tu-đà-hoàn quả phủ? Tu Bồ Đề ngôn: Phất dã Thế Tôn! Hà dĩ cố? Tu-đà-hoàn danh vi Nhập lưu nhi vô sở nhập, bất nhập sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thị danh Tu-đà-hoàn”. (Tạm dịch: “Này Tu Bồ Đề, ý ông nghĩ sao? Một vị Tu-đà-hoàn có thể khởi suy nghĩ thế này: Ta được quả Tu-đà-hoàn chăng? Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn, không phải vậy sao! Vì cớ sao? Tu-đà-hoàn gọi là Nhập lưu mà không có chỗ nhập, chẳng nhập sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nên gọi là Tu-đà-hoàn”.

Tu-đà-hoàn và sau đó là Tư-đà-hàm đều là những tầng thứ chuyển tiếp chưa đạt đến quả vị La Hán. Điều đó giống như việc đi học đại học ngày nay vậy. Nếu bạn trượt kỳ thi tuyển sinh vì thiếu một vài điểm, thì sẽ thiết lập một “lớp học dự bị” để bạn có thể vào đại học, nhưng sau đó bạn phải tham gia kỳ thi và chỉ khi vượt qua kỳ thi đó, bạn mới được coi là sinh viên chính thức của trường đại học. Đây thực sự là một cơ chế thuận tiện để độ nhân. Bởi vì Thích Ca Mâu Ni cho dù từ vũ trụ tầng thứ sáu giáng lâm, ở một tầng thứ cao như vậy, nhưng theo cơ chế Pháp lý vũ trụ cũ, cũng không tránh khỏi việc Ngài chỉ có thể độ được phó nguyên thần của con người. Đệ tử của Ngài cả đời tu hành cũng không cao lắm. Cho nên, phải hiểu rằng khi một người tu luyện, điều quan trọng là phải biết mình dùng Pháp nào để tu luyện và ai là sư phụ của mình. “Tu Bồ Đề, ý ông nghĩ sao? Một vị Tư-đà-hàm có thể khởi suy nghĩ thế này: Ta được quả Tư-đà-hàm chăng?” (kể chuyện) Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn, không phải vậy sao! Vì cớ sao? Vì Tư-đà-hàm tên là Nhất vãng lai mà thật không có vãng lai, nên gọi là Tư-đà-hàm”. Về bản chất, nếu lấy phó nguyên thần làm chủ, kỳ thực mà nói đó cũng là cách mượn thân tu luyện. Vũ trụ trong quá khứ đã mở ra một cánh cửa bất chính về mặt này, và những phụ thể xấu xa cũng đã làm như vậy. Đến thời kỳ mạt kiếp mạt pháp, những điều này trở nên rất nghiêm trọng trong một thời gian. Nếu không có sự hồng truyền của Đại Pháp, chính Pháp căn bản của toàn vũ trụ, những vấn đề này cơ bản sẽ không được giải quyết.

“Tu Bồ Đề, ư ý vân hà? Tư-đà-hàm năng tác thị niệm: Ngã đắc Tư-đà-hàm quả phủ? Tu Bồ Đề ngôn: Phất dã Thế Tôn! Hà dĩ cố? Tư-đà-hàm danh Nhất vãng lai nhi thật vô vãng lai, thị danh Tư-đà-hàm”. (Tạm dịch: Tu Bồ Đề, ý ông nghĩ sao? Một vị A-na-hàm có thể khởi suy nghĩ thế này: Ta được quả A-na-hàm chăng? Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn, không phải vậy sao! Vì cớ sao? A-na-hàm tên là Bất lai mà thật không có bất lai, nên gọi là A-na-hàm). Bởi vì phương thức được chọn áp dụng chỉ là sự giải thoát đơn giản, không bao hàm vấn đề chuyển hóa và viên dung vật chất tầng thấp lên tầng cao rồi mang đi.

“Tu Bồ Đề, ư ý vân hà? A-la-hán năng tác thị niệm: Ngã đắc A-la-hán đạo phủ? Tu Bồ Đề ngôn: Phất dã Thế Tôn! Hà dĩ cố?” (Tạm dịch: Tu Bồ Đề, ý ông nghĩ sao? Một vị A-la-hán có thể khởi suy nghĩ thế này: Ta được đạo A-la-hán chăng?” Tu Bồ Đề thưa: “Bạch Thế Tôn, không phải vậy sao! Vì cớ sao?) Kỳ thật không có Pháp danh là A-la-hán, lời dịch này thật là mập mờ nước đôi, kỳ thực điều mà Thích Ca Mâu Ni thực sự muốn biểu đạt ý nghĩa là Pháp của La Hán không thể coi là Phật Pháp và bản thân nó không thể độ nhân. Bởi vì La Hán là một Giác Giả tự giác ngộ, sự giác ngộ của ông chỉ có thể đảm bảo rằng ông có thể vượt qua Tam Giới, do tầng thứ và năng lực có hạn, ông chỉ có thể hỗ trợ Bồ Tát làm một số công việc phụ trợ để cứu độ chúng sinh, còn những điều ông chứng ngộ thì không có khả năng độ nhân. “Bạch Thế Tôn nếu A-la-hán khởi ý nghĩ thế này: Ta được đạo A-la-hán tức là còn chấp ngã nhân chúng sanh thọ giả. Bạch Thế Tôn! Đức Phật nói rằng ta đã đạt được Vô Thanh Tịnh Tam Muội, là bậc nhất trong loài người, là vị A-la-hán đầu tiên thoát khỏi dục vọng. Con không nghĩ rằng con là một vị A-la-hán đã từ bỏ dục vọng”. Kỳ thực, Đức Thích Ca Mâu Ni cũng hàm ẩn một ý nghĩa ở đây, đó chính là, với tư cách là một người tu luyện thì chỉ có một nguyện vọng muốn tu thành, còn đạt đến thành tựu thì là do Sư phụ của anh ta làm. Còn về sự diễn hóa của công, sự an bài của con đường tu luyện v.v., thì tư tưởng và năng lực của một người bình thường làm sao có thể làm được? Vì sinh mệnh đối với con người mà nói là rất phức tạp nên cấu trúc cơ thể và trường của con người ở không gian khác rất khó để con người biết và phân biệt, trong một không gian có một trường xung quanh cơ thể con người, trường này có chức năng phản chiếu hình ảnh của những vật thể chiếu sáng từ vũ trụ, tuy nhiên, đó không phải là thực chất mà chỉ là cái bóng. Nếu con người ta chấp trước vào những cái bóng mà họ nhìn thấy trong quá trình tu luyện, thì sẽ dẫn động cái tâm hiển thị và hoan hỷ của con người, sẽ tạo thành tùy tâm nhi hóa, cũng tức là tự tâm sinh ma. Vậy thì tình huống này sẽ rất nghiêm trọng và người tu luyện rơi vào đó thì rất khó thoát khỏi, và sẽ bị ma quỷ nhập vào và hủy diệt. Bởi vì Pháp mà Thích Ca Mâu Ni giảng năm đó không có giảng về “tự tâm sinh ma”, để phòng ngừa vấn đề này, Ngài đã yêu cầu cực kỳ nghiêm khắc với đệ tử về vấn đề này. Ngài cũng không ngừng cảnh báo họ về giải pháp đối với vấn đề này, kỳ thực chính là không nên suy nghĩ hoặc đối đãi với các hiện tượng xuất hiện trong tu luyện bằng khái niệm của con người. Bởi vì mặc dù là độ phó nguyên thần của con người, nhưng trong lịch sử cũng bao hàm nhiệm vụ bề ngoài là tôi luyện con người. Hơn nữa chỉ khi lấy phương thức này để ước chế quan niệm của con người đối với sự can nhiễu khi tu luyện phó nguyên thần, thì người tu luyện mới có thể thành tựu nhanh hơn. “Bạch Thế Tôn! Nếu con khởi suy nghĩ: Con đắc đạo A-la-hán, Thế Tôn ắt chẳng nói Tu Bồ Đề là người ưa hạnh A-lan-na. Do Tu Bồ Đề thật không có sở hành nên gọi là Tu Bồ Đề ưa hạnh A-lan-na”. Điều này có nghĩa là gì? Vào thời điểm đó, Tu Bồ Đề đã đạt được đạo A-la-hán. Vì vậy trong Phật giáo trước đây, đạt được đạo A-la-hán được coi là đã đạt được quả vị.

A-la-hán là những Giác Giả tự giác ngộ, đã thoát khỏi Tam Giới và giải thoát chính mình. Đạt được đạo A-la-hán đương nhiên có nghĩa là bước vào chân tịch. Theo thuật ngữ Trung Quốc cổ đại, điều này có nghĩa là được liệt vào hàng Thần tiên. Tuy nhiên, những người tu hành chân chính trong quá khứ đều là từ trên trời được phái xuống để tu hành. Do sau khi Tam Giới xuất hiện, các vị Thần trong phạm vi cận kề với Tam Giới đã nảy sinh một tình huống, đó là họ đã dùng thời gian của con người để tính toán, thông thường đây là chế độ cứ mười năm thay đổi một lần, vì vậy, mỗi vị Thần cũng sẽ đảm nhận một vị trí trong nhiệm kỳ của mình (tên gọi quả vị của họ có thể hiểu đơn giản là một chức vị của con người, vì họ đều mang trách nhiệm của Thiên thượng), chọn một người tu luyện và giúp người đó tu luyện được những khả năng giống như họ, và khi thời gian kết thúc, vị Thần đó sẽ đưa người kia lên để thay thế và trở thành một vị Thần thay thế. Khi đó, người đã đạt được giác ngộ này sẽ không còn được gọi bằng tên cũ nữa, mà phải được gọi bằng danh hiệu không thay đổi của mình. Vì Tu Bồ Đề đã đạt được danh hiệu A-la-hán và được đặt tên là A-lan-na, nên Thích Ca Mâu Ni gọi ông là A-lan-na. Ý nghĩa thực sự của không làm gì là cảnh giới vô vi, không vui mừng hay sợ hãi, nhưng không phải là không làm gì cả hoặc không đạt được gì cả. Nếu không thực tu, người đó sẽ không đạt được bất cứ điều gì.

3. Chúng ta hãy xem tiếp phẩm thứ mười “Trang nghiêm cõi Tịnh Độ”: “Đức Phật nói với Tu Bồ Đề: Ý ông nghĩ sao? Xưa kia Đức Như Lai đã từng ở nơi của Đức Phật Nhiên Đăng”. Phật Nhiêu Đăng là một trong sáu vị Phật nguyên thủy mà năm xưa Thích Ca Mâu Ni đã nói đến, bởi vì nhiều câu chuyện mà Thích Ca Mâu Ni kể kỳ thực đều là một số quá trình tu luyện của Ngài ở không gian khác. Bởi vì Ngài đã khai ngộ, Ngài đã nhớ lại một số tình huống tu luyện trong quá khứ của mình và truyền ra để cứu độ chúng sinh, coi trọng mức độ tiếp thu của chúng sinh và quy định của thiên ý vào thời điểm đó. Ví dụ, khi Ngài nói về Vua Goliath cắt xác người, thì đó không phải là về vị vua của Ấn Độ cổ đại như những người sau này diễn giải, mà là về hoàn cảnh của một thời không khác. Đức Phật Nhiên Đăng cổ xưa là Sư phụ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi Ngài tu hành vào một kiếp nào đó. Đoạn này trên thực tế là đang giảng về “khai ngộ” thực chất là gì. Đây chính là cách tu luyện của sinh mệnh cá nhân trong quá khứ. Nhưng trong Chính Pháp lại vượt rất xa trạng thái này.

Ngài đã đạt được diệu Pháp nào để trở thành Phật chưa? Điều đó có nghĩa là Đức Phật Nhiên Đăng không thêm bất cứ điều gì cho Ngài mà chỉ là đả khai. Khai ngộ chính là nhớ lại bản lai của mình, trong thời kỳ tu luyện bình thường thì như vậy, nhưng trong giai đoạn Chính Pháp thì lại hoàn toàn khác. Tất cả người tu luyện thực ra đều có nguồn gốc, rất nhiều người là từ trên Thiên thượng phái xuống để tu. Bởi vì họ không còn thuần khiết nữa. Bởi vì cái mê và đau khổ của Tam Giới có thể khiến sinh mệnh được tu luyện, thăng hoa và đề cao, mà các vị Thần gần kề Tam Giới cần phải được thay thế sau một khoảng thời gian nhất định, còn một số vị Thần được an bài xuống hạ giới để tu luyện và trùng tân dung luyện Pháp của họ, đây là biện pháp mà thượng giới giải quyết đối với các vấn đề phát sinh ở đây sau khi Tam Giới xuất hiện. Thích Ca Mâu Ni từ tầng thứ sáu đi xuống, tuy rằng vượt qua trong chốc lát, nhưng mỗi tầng Ngài đều bị phủ lên “lớp da” của tầng đó, khi Ngài truyền Pháp phổ độ ở thế gian, kỳ thực Ngài cũng phải viên dung Pháp của mỗi tầng và làm cho cơ chế này trở nên viên dung. Phương pháp được sử dụng chính là phương pháp “niết bàn” để gột rửa hết thảy. Kỳ thực không thể làm cho cơ chế vũ trụ bên dưới của Ngài thay đổi bởi vì mọi thứ ở tầng dưới về cơ bản không hề chuyển động. Điều mà Thích Ca Mâu Ni thực sự muốn làm là đặt định ra một số nền tảng văn hóa cơ bản của Phật giáo cho sự truyền bá của Đại Pháp, đồng thời để các đệ tử của Ngài tu luyện trong khi chuyển sinh nhiều lần trên thế gian, để họ có thể tích lũy được uy đức to lớn trong Chính Pháp cuối cùng, đắc Pháp, đồng hóa và quay trở về, ít nhất cũng phải đạt đến thế giới Đại Phạm của vũ trụ tầng thứ sáu.

Vậy, tại sao ngày nay chúng ta lại nói về “đắc Pháp”? Bởi vì sinh mệnh trong toàn bộ vũ trụ đều thuộc về cựu vũ trụ của quá khứ, bản thân sự ngộ đạo ban đầu của họ, về vấn đề tu luyện chỉ đơn giản là vấn đề phản bổn quy chân. Bản thân trong sinh mệnh của họ không tăng thêm thứ gì khác, đây là trạng thái của thời kỳ thông thường. Nhưng khi toàn bộ vũ trụ bị hủy diệt, Pháp mới sẽ được tạo ra, vũ trụ mới hoàn toàn khác với vũ trụ cũ, đối với sinh mệnh cũ mà nói, lịch sử của vũ trụ đã kết thúc. Họ hoàn toàn không biết vũ trụ mới như thế nào hoặc trạng thái tồn tại của nó là gì. Sử dụng hết tất cả trí huệ của họ, đó cũng chỉ là lối suy nghĩ của sinh mệnh vũ trụ cũ. Lần này, do lòng từ bi của Phật chủ, Ngài đã chọn dùng phương pháp không phải là hủy diệt và tái tạo như trong quá khứ, mà là bằng cách hồng truyền Pháp cơ bản của vũ trụ trong vũ trụ cũ, ban cho họ một chiếc thang lên Thiên thượng, chúng sinh có thể có cơ hội được cứu độ đến vũ trụ mới bằng cách điều chỉnh thái độ của họ đối với Pháp của vũ trụ và đồng hóa với bộ Pháp này. Như vậy, không có nghĩa là tầng thứ quả vị của bạn trong vũ trụ cũ đối ứng với tầng thứ mới, mọi thứ đều giống như tái tạo trùng sinh, hoàn toàn theo tiêu chuẩn của vũ trụ mới để đo lường tương lai quả vị và tầng thứ của sinh mệnh. Như thế, đối với các cựu sinh mệnh mà nói, nghe được bộ Pháp này và có thể tu luyện thì tương đương với việc đắc được Pháp. Bởi vì bộ Pháp này đối với họ mà nói không phải là thứ gì đó vốn có và cố hữu.

“Bạch Thế Tôn, không phải vậy! Như lai khi ở cùng Đức Phật Nhiên Đăng, Ngài nhận ra rằng Pháp vô thượng chính đắc chính giác là thứ huyền ảo không có gì và thật sự là không đạt được điều gì cả”. “Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? Các vị Bồ Tát có dùng lực độ vạn hạnh như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, bát nhã (trí huệ) để trang nghiêm cõi Phật không?” “Dạ không, Bạch Thế Tôn! Tại vì sao? Bởi vì trang nghiêm cõi Phật giống như thứ trong hư ảo, vốn không có cõi Phật để trang nghiêm, chỉ là cái danh được gọi là trang nghiêm”. Trong quá trình tu luyện, để đạt đến cảnh giới đó, nhưng không ai nhận biết và biểu đạt được cảnh giới đó. Ví dụ, người ta kính ngưỡng nhắc đến Bồ Tát và coi họ là Thần thánh, nếu như một vị Bồ Tát đã đạt đến cảnh giới đó lại còn có nhân tâm, điều đó là không thể, như thế chứng tỏ quả vị mà bà đạt được là giả, cho dù đạt được cũng sẽ ngay lập tức rớt xuống. Giống như khi kiến ​​nhìn thấy con người, chúng cảm thấy con người rất vĩ đại và vô cùng kính sợ, nếu như một người trước mặt bạn bè của anh ta cũng cho rằng mình vĩ đại như trong mắt một con kiến hoặc nghĩ rằng những người khác nên tôn trọng “sự vĩ đại” của mình, thì người đó nhất định không phải là người bình thường. Cách mọi người nhìn thấy Phật và cách Phật nhìn thấy Phật là hai điều hoàn toàn khác nhau. Đối với Đức Phật ở cảnh giới cao hơn mà quan sát, Như Lai chỉ là một người bình thường. Bởi vì năng lực của họ quá lớn nên họ không quản đến chuyện trong người thường. Con người cũng không được phép biết. Mà bản thân danh hiệu đạt được vốn có như của Thích Ca Mâu Ni, Chúa Jesus, Lão Tử, cũng đã trở thành một Phật vị (một vị Phật đắc chính quả), có điểm giống như chức vị danh xưng mà người thường vẫn nói đến. Đức Phật A Di Đà Như Lai và Bồ Tát Quán Thế Âm đều giống nhau, nhưng khi nói đến tên gọi một Pháp Vương nào đó thì đó chỉ là một chức danh mà thôi. Chức vị có phân chức còn chức danh thì có cao thấp. Nhưng điều đó không có nghĩa là những người chức vị đến sau thì nhất định sẽ làm giống hệt như những người trước. Vì vậy, khi chúng ta nói rằng Pháp nào đó hay vị Thần nào đó đã hoại rồi, thì không nhất thiết nói đến vị ấy là vị ban đầu.

“Cho nên, này Tu Bồ Đề! Tất cả các vị Đại Bồ Tát đều nên sinh ra tâm thanh tịnh như thế này, không nên sinh ra tâm chấp vào sắc, không nên sinh ra tâm chấp vào thanh, hương, vị, xúc, pháp”. Trong quá trình tu luyện những điều thiên mục nhìn thấy, những điều dễ chấp trước, Thích Ca Mâu Ni đem khóa tất cả lại để tránh tự tâm sinh ma. “Ứng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”. Không nghĩ điều gì hết, cứ theo Giới Định Huệ mà tu, cho đến khi đi hết con đường đã được an bài. “Tu Bồ Đề! Giả sử có người có thân hình cao như vua núi Tu Di, ông nghĩ sao? Thân thể của Ngài có lớn không?” Tu Bồ Đề đáp: “Rất lớn, thưa Đức Phật! Vì cớ sao? Điều Đức Phật nói đến không phải là Pháp thân vô tướng, mà là thân thể vật chất có hình sắc, sắc thân to nhỏ, nên thân thể này được gọi là lớn”. Tu Bồ Đề nói: “Rất lớn, thưa Đức Phật! Tại sao? Chỉ có thoát khỏi thân thể pháp không tướng, mới thực sự là thân thể lớn”. Lớn có nghĩa là Đạo. Quan niệm của con người về Thần Phật cũng giống như cảm nhận được tạo ra khi râu của một con kiến ​​chạm vào một người, ví dụ, giống như một người mù ở Ấn Độ cổ đại sờ vào một con voi. Kể cả những gì ông ta đánh giá dù có tương đối chính xác thì vẫn cách xa sự thật một tầng, hơn nữa ngôn ngữ dùng để thuật lại, miêu tả lại và mở rộng giải thích thêm thì sao nhỉ? Buông bỏ, buông bỏ, kỳ thực bạn chưa từng nắm được, vậy thì nói buông bỏ cái gì? Nhiều người ngày nay nói nhảm về “buông bỏ”, thực ra là họ đang tự lừa mình dối người, che đậy bằng giả tượng chỉ càng khóa chặt con đường thăng hoa của chính họ mà thôi.

4. Chúng ta hãy tiếp tục đọc phẩm thứ mười một “Vô vi phước thắng”: “Tu Bồ Đề, như Hằng hà trung sở hữu sa số, như thị sa đẳng Hằng hà. Ư ý vân hà? Thị chư Hằng hà sa, ninh vi đa phủ? Tu Bồ Đề ngôn: Thậm đa, Thế Tôn! Đản chư Hằng hà, thượng đa vô số, hà huống kỳ sa. Tu Bồ Đề, ngã kim thật ngôn cáo nhữ, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ thất bảo mãn nhĩ sở Hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới, dĩ dụng bố thí, đắc phước đa phủ? Tu Bồ Đề ngôn: Thậm đa, Thế Tôn! Phật cáo Tu Bồ Đề: Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân ư thử kinh trung, nãi chí thọ trì tứ cú kệ đẳng, vị tha nhân thuyết, nhi thử phước đức thắng tiền phước đức”. (Tạm dịch: “Tu Bồ Đề! Giống như toàn bộ số cát trong sông Hằng, mỗi hạt cát lại tạo thành một sông Hằng, ông có nghĩ rằng nhiều hạt cát trong sông Hằng như vậy là quá nhiều không? Tu Bồ Đề đáp: Quá nhiều, thưa Đức Phật! Nếu một hạt cát tượng trưng cho một sông Hằng, thì bản thân sông Hằng còn không thể đếm được, huống hồ là số hạt cát trong sông Hằng phải không? Này Tu Bồ Đề! Nay ta nói thật với ông, nếu có thiện nam tín nữ nào đem thất bảo đầy tam thiên đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng để bố thí, thì họ có được nhiều phúc đức hay không? Tu Bồ Đề đáp: Rất nhiều, thưa Đức Phật! Đức Phật lại bảo thêm Tu Bồ Đề: Nếu có thiện nam tín nữ nào có thể thụ trì Kim Cương Kinh, thậm chí chỉ thụ trì bốn câu kệ, có thể giải thích ý nghĩa của kinh cho người khác, khiến người khác cũng có lòng tin vô hạn vào kinh này. Vậy thì phúc đức của việc bố thí Pháp này còn lớn hơn phúc đức bố thí thất bảo). Khi Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng bộ kinh này, Ngài không bao giờ nhấn mạnh tầm quan trọng của nó nhiều như khi Ngài đã thuyết giảng Kinh A Di Đà trước đó hoặc một số tình huống ở các thế giới khác, chỉ riêng bộ kinh này là kinh duy nhất nhấn mạnh một cách phi thường như vậy, kỳ thực đoạn này rõ ràng là được các thế hệ sau thêm vào. Bởi vì lúc đó Thích Ca Mâu Ni chưa giảng xong, ít nhất là khi đó chưa giảng bốn câu kệ, vậy thì làm sao có thể nói “thậm chí chỉ thụ trì bốn câu kệ”? Nếu nói Thích Ca Mâu Ni đã giảng kinh này, vậy thì cũng nhất định là sau khi Ngài giảng xong bộ kinh này, nếu Thích Ca Mâu Ni lại giảng lại kinh này, thì phải là sau “bốn câu kệ”. Vì được các thế hệ sau tập hợp và chỉnh lý dựa trên trí nhớ của họ nên không chỉ có lỗi về từ ngữ, câu văn mà còn có sự đảo ngược câu trước và câu sau, điều này cũng cần phải được giải thích rõ. Câu này có thể xem như là lời tuyên bố giác ngộ về tính không, kỳ thực một vị Phật nhỏ hơn thể hệ của chúng ta, khi ông có thể đến trong thể hệ của chúng ta, sự thay đổi rất lớn, có thể lớn như Ngân Hà, huống chi đức Phật Như Lai đã tu thành hệ Ngân Hà này của chúng ta, thì phúc đức của Ngài sẽ lớn biết bao. Còn việc thọ trì kinh, bởi vì đây vẫn là phó nguyên thần tu luyện. Vậy nên đối với mọi người mà nói, họ chỉ cần thọ trì kinh điển là được. Nhận, chấp nhận kinh. Giữ, kiên trì giữ mình theo kinh. Sau đó, người ta có thể sử dụng thần thể con người để tu luyện một cách thuận lợi. Đây là trạng thái trong quá khứ.

Như vậy, bởi vì bộ Pháp này là Pháp Như Lai do Thích Ca Mâu Ni Như Lai thuyết giảng vào những năm cuối đời, nên được coi là bộ kinh quan trọng nhất mà Ngài truyền lại cho hậu nhân. Bởi vì trong bộ kinh này chứa đựng những nội hàm quan trọng của văn hóa Phật giáo mà Ngài chịu trách nhiệm truyền bá, nên Ngài đã nhấn mạnh rất nhiều. Và cũng chính vì sự nhấn mạnh này, mặc dù ý nghĩa của văn bản rất khó hiểu và sau này đã có nhiều cách giải thích, nhưng mọi người đều biết rằng Đức Phật thời đó cũng đã nhấn mạnh rất nhiều rằng, mọi người phải đặc biệt chú ý đến việc ghi nhớ thuộc lòng kinh và việc truyền đạt và kế thừa kinh. Vì vậy, nhìn chung, bộ kinh này có tương đối ít lỗi và ý nghĩa đã được bảo tồn tương đối nguyên vẹn. Mặc dù vậy, rất nhiều điều trong đó đã trở nên pha tạp không còn thuần khiết nữa do những ký ức không chính xác và bất đồng ý kiến với nhau trong quá trình truyền bá, sự không chính xác trong quá trình dịch thuật và việc các thế hệ sau đưa vào những kiến giải sai trái của riêng họ. “Kim Cương Kinh” đã như vậy, huống hồ những thứ khác. Cho nên ngày nay những kẻ ôm chết cứng vào kinh Phật ngồi dưới đáy giếng nhìn trời, đã làm hỗn loạn tâm trí mọi người, kỳ thực nói theo cách tốt hơn một chút, đó bất quá chỉ là dùng tình cảm của con người để đối đãi với Thích Ca Mâu Ni và Pháp mà Ngài giảng mà thôi. Nói tệ hơn một chút, mục đích thực sự của những người này chẳng qua là lợi dụng ảnh hưởng của Phật giáo trong 2500 năm để kiếm danh lợi cho bản thân mình. Những người tu luyện chân chính nên biết điều này.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48482

Ban Biên Tập Chánh Kiến

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.

Loạt bài