Trang chủ Right arrow Văn hóa Right arrow Văn hóa truyền thống

Luận giải “Kim Cương Kinh” (Phần 4)

26-06-2025

Tác giả: Tần Chính

[ChanhKien.org]

Lời của Ban biên tập: Loạt bài này được viết dựa trên lý giải của tác giả đối với luận thuật trong “Kim Cương Kinh”. Chúng tôi cho rằng bài viết này có giá trị tham khảo nhất định đối với việc giảng chân tướng cho các nhân sĩ trong giới tôn giáo nên đã đăng lại tại đây. Đối với các đệ tử Đại Pháp không có liên quan đến việc giảng chân tướng cho các nhân sĩ tôn giáo thì không cần thiết phải đọc. Hy vọng mọi người dĩ Pháp vi Sư, làm tốt ba việc mà Sư phụ yêu cầu chúng ta làm.

(Theo Ban biên tập báo Nhân Dân: “Luận giải Kim Cương Kinh” là những tâm đắc thảo luận nghiên cứu Kinh Kim Cương giữa tiên sinh Tần Chính với bạn bè trong giới Phật giáo).

Đàm luận thứ tư

1. Chúng ta hãy xem “Đệ lục phẩm chính tín hy hữu phân” (Đoạn thứ sáu Chính tín rất ít có người tin đúng). Đoạn này tiếp tục nói về vấn đề “bất trước tướng”, Tu Bồ Đề thưa với Đức Phật: “Thế Tôn! Phả hữu chúng sinh, đắc văn như thị ngôn thuyết, chương cú, sinh thật tín phủ?” (Tạm dịch: Bạch Thế Tôn, vả lại có chúng sinh được nghe những lời nói, câu từ như thế thì liệu có thực sự tin tưởng chăng?) Bởi vì Tu Bồ Đề cũng cảm thấy có chút khó khăn để hiểu được Pháp do Đức Phật giảng, dựa vào tu vi {tầng thứ tu luyện} của mình, ông cảm thấy lo lắng không biết chúng sinh sau này khi tụng kinh có thực sự tin vào Pháp hay không. Bởi vì xét theo logic của con người thì điều mà đoạn này giảng dường như muốn nói rằng mọi thứ đều trống rỗng, người bình thường vì hiểu biết hạn chế, nếu dùng cái tâm yêu ghét và logic của con người để suy đoán thì kết quả của việc tu Phật là không có gì, vậy thì họ tu làm gì nữa? Đức Phật liền giải thích rõ cho Tu Bồ Đề rằng: “Mạc tác thị thuyết. Như Lai diệt hậu, hậu ngũ bách tuế, hữu trì giới tu phúc giả, ư thử chương cú năng sinh tín tâm, dĩ thử vi thực, đương tri thị nhân bất ư nhất Phật nhị Phật tam tứ ngũ Phật nhi chủng thiện căn, dĩ ư vô lượng thiên vạn Phật sở chủng chư thiện căn, văn thị chương cú, nãi chí nhất niệm sinh tịnh tín giả, Tu Bồ Đề! Như Lai tất tri tất kiến, thị chư chúng sinh đắc như thị vô lượng phúc đức. Hà dĩ cố? Thị chư chúng sinh vô phục ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng; Vô pháp tướng, diệc vô vi pháp tướng”. “Hà dĩ cố? Thị chư chúng sinh nhược tâm thủ tướng, tắc vi trước ngã nhân chúng sinh thọ giả. Nhược thủ pháp tướng, tức trước ngã nhân chúng sinh thọ giả. Hà dĩ cố? Nhược thủ phi pháp tướng, tức trước ngã nhân chúng sinh thọ giả, thị cố bất ứng thủ (câu) pháp, bất ứng thủ phi pháp. Dĩ thị nghĩa cố, Như Lai thường thuyết: ‘Nhữ đẳng tỷ khưu, tri ngã thuyết pháp, như phiệt dụ giả; pháp thượng ứng xả, hà huống phi pháp’” (Tạm dịch: Đừng nói những lời nghi ngờ như vậy. Sau khi Như Lai hóa thân rời khỏi thế gian này, bắt đầu thời kỳ mạt Pháp 500 năm thứ năm, có những người giữ giới tu phúc, có thể sinh ra sự tín tâm đối với những chương cú này và coi đó là hiện thực. Nên biết người này không những đã gieo trồng thiện căn với một, hai vị Phật, ba, bốn, năm vị Phật mà còn gieo nhiều thiện căn với ngàn vạn vô lượng chư Phật. Nghe những lời này, thậm chí chỉ cần một niệm liền sinh ra tâm tịnh tín. Tu Bồ Đề này! Như Lai ắt biết và ắt thấy rõ những chúng sinh này đắc được vô lượng phúc đức như thế. Vì cớ sao? Bởi vì loại chúng sinh này không còn ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng, không có tướng pháp cũng không tướng phi pháp. Vì cớ sao? Vì nếu các chúng sinh ấy tâm còn giữ chấp trước tức là còn chấp vào ngã nhân chúng sinh, thọ giả. Nếu còn chấp tướng pháp tức còn chấp ngã nhân chúng sinh thọ giả. Vì cớ sao? Nếu còn chấp tướng pháp tức còn chấp vào ngã nhân, chúng sinh, thọ giả. Vì thế không nên chấp pháp, không nên chấp phi pháp. Bởi thế, Như Lai thường nói: ‘Tỳ Kheo các ngươi nên biết ta nói Pháp ví như chiếc bè để vượt qua sông, qua sông rồi thì phải vứt chiếc bè đó; Phật Pháp cũng như vậy, Pháp còn xả bỏ, huống hồ phi Pháp”.

Trước khi bàn đến ý nghĩa của đoạn kinh văn này, trước tiên phải giải thích rõ sự khác biệt giữa cuộc sống trần thế ngày xưa và cuộc sống thời mạt Pháp ngày nay. Sinh mệnh trong quá khứ được tạo ra bằng vật chất trong Tam Giới, chúng ta đang nói đến chủ nguyên thần của họ, tức là con người hoàn toàn là người thường , vì vậy sức chịu đựng và trí huệ của họ là có hạn, con người ngày xưa hễ chạm vào là chết ngay, con người ngày nay rất rắn chắc, bị đánh vẫn sống như thường. Đó là vì sự phát triển của sinh mệnh đã trải qua sự thay đổi căn bản. Bởi vì mục đích của việc tạo ra Tam Giới là để Chính Pháp hôm nay, nên trong quá trình gần 5000 năm văn hóa Thần truyền, lấy Trung Quốc làm sân khấu chính, sinh mệnh trong các thể hệ vũ trụ khác nhau đã được an bài rất cẩn thận từng bước một kết duyên với Phật Chủ, và dưới sự dẫn dắt của Ngài đã tạo nên một nền văn hóa giúp cho nhân loại cuối cùng có thể hiểu được Pháp. Như vậy, điều này được bắt đầu sau khi cơ thể con người được tôi luyện trở nên cơ bản khỏe mạnh.

Sự an bài 5000 năm này cũng tượng trưng cho quá trình thành trụ hoại diệt của sinh mệnh cả về vật chất lẫn tinh thần, bởi vì thời kỳ đầu không có nhiều sinh mệnh cao tầng đến, như thế đối với những chúng sinh tầng thấp do Thần tạo ra mà nói, thì một mặt cần hình thành khuôn mẫu tư duy mà Thần yêu cầu một cách sâu sắc và toàn diện hơn, mặt khác xét về đẳng cấp thì những sinh mệnh này vốn được Thần tạo ra, do đó hình thái xã hội xuất hiện trên thế gian là xã hội nô lệ. Dần dần trải qua thiên tai, chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh trên quy mô lớn, kỳ thực nguyên thần thực sự của con người trên Trái Đất đã đi đến không gian ở một tầng thấp hơn tầng của nhân loại, tức là âm gian, và không còn chuyển sinh nữa, còn những bộ da người này dần dần được thay thế bởi những sinh mệnh cao cấp hơn, sau đó các vị Thần tầng cao hơn chuyển sinh theo cả một triều đại, vậy nên xuất hiện Chủ, Vương, Công Chúa. Những triều đại này có liên quan đến sự cấu thành của sinh mệnh ban đầu, cho nên ở nơi con người xuất hiện hình thức xã hội phong kiến, bởi vì tất cả các phương pháp và hình thức về cơ bản đều thực hiện theo yêu cầu của Thần. Đến thời cận đại, vấn đề rất phức tạp, chúng ta trước tiên chưa nói về nó, thời kỳ đầu là từng triều đại kế tiếp nhau, đến hai triều đại nhà Minh và nhà Thanh là thời kỳ kết hợp và tu bổ văn hóa, bởi vì thực chất cần xây dựng văn hóa. Nếu nền văn hóa này không đầy đủ thì không được, nhưng lịch sử đã trôi qua cũng khó mà an bài lại được, bởi vì đó là sự an bài của cựu thế lực, rất nhiều việc không như mong muốn (của Phật Chủ). Vậy nên ở các giai đoạn khác nhau Phật Chủ sẽ an bài cho các đệ tử Đại Pháp hoặc đích thân Ngài sáng tạo ra nền văn hóa mà Ngài cần. Ví dụ nếu thời đại Tam Quốc không diễn giải được nội hàm như yêu cầu của Phật Chủ, vậy thì dùng cuốn tiểu thuyết “Tam Quốc Diễn Nghĩa” để bổ sung. Ví dụ, về sự hiển lộ sâu sắc về thuộc tính và chủ đề của sinh mệnh, rất nhiều tác phẩm văn chương của Trung Quốc không giải thích được bản chất và chủ đề của sinh mệnh một cách rõ ràng hoặc là quá tản mạn và quá khó hiểu đối với người thường, vì vậy đích thân Phật Chủ đã dựa trên cơ sở kinh sách do Đường Tăng thỉnh về mà diễn dịch thành “Tây Du Ký”. còn vào thời nhà Minh, Ngài đã tham khảo hệ thống Đạo giáo để tổng kết ra văn hóa và viết nên bộ bách khoa toàn thư “Vĩnh Lạc Đại Điển”. Vào thời nhà Đại Thanh, Ngài tham chiếu hệ thống lý thuyết của Phật giáo để tổng kết ra văn hóa và viết bộ bách khoa toàn thư “Tứ Khố Toàn Thư”. Mỗi triều đại sau thay thế triều đại trước, về cơ bản là một triều đại có ý chí và tinh thần kiên cường, kỳ thực chính là giúp những sinh mệnh của thể hệ trước đó tiêu giảm nghiệp lực, đồng thời diễn dịch và ghi lại văn hóa của họ thông qua việc biên soạn lịch sử. Trong nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều sinh mệnh cao tầng cũng sử dụng hình thức phó nguyên thần để điều khiển và tôi luyện nhục thân của chính họ mà họ sẽ sử dụng khi đắc Pháp trong tương lai. Vì vậy, trong quá trình lịch sử, chúng ta đều đã trải qua tu luyện nhiều lần, rất nhiều thời kỳ khá đau khổ và khó khăn, và chúng ta cũng đã trải qua vô số khảo nghiệm, và cũng đạt được rất nhiều thành tựu mà Pháp yêu cầu. Ví dụ như Lý Bạch uống một đấu rượu mới có thể viết trăm bài thơ, Đỗ Phủ cũng thích uống rượu mà không uống rượu thì không thể làm ra thơ hay. Người xưa cho rằng, sau khi uống rượu sẽ cảm thấy “tràn đầy sinh lực”, “Lan Đình tập tự” của Vương Hy Chi được viết khi say rượu với kiểu viết chữ độc nhất vô nhị trong thiên hạ, các bài viết khác của ông không thể so sánh với bài này, túy quyền và túy kiếm mà mọi người thường say sưa nói đến, những kỹ năng thần diệu và công năng có thể đạt được một cách tự nhiên và dễ dàng đó, thì những người bắt chước hình thức của chúng ngày nay không thể lý giải được. Con người ngày nay không uống rượu thì còn được, rất lý trí, nhưng hễ uống rượu thì đủ thứ xấu xuất hiện, tại sao vậy? Anh ta đã đánh mê tinh thần và trí huệ mạnh mẽ và lý trí nhất của mình, điều bộc lộ ra vừa hay lại là phần thuộc tính ngu dốt của mình. Tất nhiên, đây chỉ là một số ví dụ để giải thích cho sự diễn biến của sinh mệnh này. Bất cứ sự việc gì đều không tuyệt đối. Giống như ngày nay người ta biết rằng giả thuyết cho rằng con người đến từ loài khỉ là một sai lầm lớn, nhưng ngay cả về mặt bằng chứng, từ các cuộc khai quật cũng khó có thể phân biệt được điều đó là thật hay giả, nguyên nhân cơ bản là do mức độ cực đoan của các nhân tố tương phụ tương thành ở tầng thứ này của cựu vũ trụ và trạng thái của các sinh mệnh cũ trong thời kỳ mạt kiếp tạo ra. Kỳ thực chủ nguyên thần của con người rất yếu nhược, chỉ có ở trong trạng thái thần thái phấn chấn thì mới có được tác phẩm thơ văn thực sự hay, võ nghệ điêu luyện hay kỹ năng tốt. Mọi thứ trên thế giới này đều được tạo ra theo yêu cầu, những thứ kỹ năng này được cấp cho con người chính là phải thông qua làm mê chủ nguyên thần, nhưng lại cũng phải dùng chủ nguyên thần làm vật tải thể để tạo ra nền văn hóa mà Đại Pháp cần, nó đã được làm theo cách như thế. Việc tu luyện và sáng tạo ra văn hóa của Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo cũng được thực hiện như thế. Đến đời cuối cùng muốn đắc được Pháp thì theo yêu cầu cùa Phật Chủ, bạn phải chuyển sinh vào thế gian với tư cách là chủ nguyên thần, như vậy Pháp trong quá khứ là độ phó nguyên thần, nên chỉ phó nguyên thần mới thực sự có thể hiểu được, còn chủ nguyên thần thì khó mà biết được ý nghĩa thực sự của kinh ấy là gì. Chỉ có các bậc Nho gia Đại thành chú trọng làm người tốt, tuy rằng có Pháp lý Đại Đạo cao hơn nhưng chủ nguyên thần của họ khó biết được, mục đích thực sự của họ chính là tôi luyện cái thân thể này để có thể được sử dụng vào thời kỳ mạt Pháp mạt kiếp. Tất nhiên, điều này không hoàn toàn phù hợp, bởi vì Thích Ca Mâu Ni cũng dạy các đệ tử của mình tu khổ hạnh, và Trương Thiên Sư (Lăng) đã thành lập Đạo giáo, nhưng ban đầu ông ấy cũng không xuất gia. Tuy nhiên thế hệ sau đã làm rối loạn những điều này. Như vậy, nhục thân của con người trong quá trình lịch sử đã được rèn giũa sức chịu đựng và bản lĩnh, cũng chính là tạo ra những “cỗ máy” tương đối phù hợp để các vị Thần ở tầng thứ cao sử dụng vào thời mạt kiếp. Cho nên sinh mệnh ngày hôm nay có giống với sinh mệnh ngày xưa không? Tất cả họ đều là các Vương các Chủ ở các tầng thứ khác nhau chuyển sinh thành chủ nguyên thần để được đắc Pháp, vậy thì Pháp truyền ra trước đây để độ phó nguyên thần sao có thể độ được chủ nguyên thần? Từ điểm này mà xét cũng thấy được rằng tất cả Pháp trước đây đều không được nữa. Trong quá trình đặt định này và xoay chuyển trạng thái này, Phật Chủ đã luôn dẫn dắt các đệ tử của mình và dẫn dắt mọi người, Ngài đã tu luyện chủ nguyên thần trong rất nhiều thời kỳ lịch sử, tất nhiên là rất cực khổ, nhưng cũng là để cho cựu thế lực ở cao tầng thấy rằng phương pháp này có thể thành công. Tất nhiên để xoay chuyển sự việc này Ngài phải phó xuất rất lớn và đó là điều sinh mệnh bình thường không thể tưởng tượng nổi. Như vậy đến thời kỳ mạt kiếp và mạt Pháp, chính là thời kỳ hiện nay, về cơ bản con người trên Trái Đất đều ở trong trạng thái có sinh mệnh cao tầng xuống để thay thế họ, thậm chí da người còn không đủ, nên có một số sinh mệnh còn chuyển sinh thành động vật. Ngoài nguyên nhân việc các Vương và các Chủ của các dân tộc và các thể hệ đều đã chuyển sinh đến Trung Quốc ra, còn bởi vì xã hội của Thần thực sự rất từ bi bất kể lớn hay nhỏ, cao hay thấp, tức là ở xã hội con người xuất hiện hình thức quản lý dân chủ. Đồng thời, vì để thống nhất tư tưởng của con người trong lịch sử, mà tạo ra cái khung chính trị thống nhất sản sinh trong tư tưởng con người, một mặt do con người bị sa đọa và bị lợi dụng làm công cụ để trục lợi. Mặt khác cũng do tư tưởng của con người lúc đó không còn cần phải kiểm soát một cách quá cưỡng ép như thế nữa nên trào lưu tư tưởng tự do hưng khởi lên, ở phương Tây thực sự đã xuất hiện cơ chế chính phủ nhỏ gọn kiểm soát xã hội rộng lớn. Trạng thái này là nhu cầu của xã hội nhân loại bình thường, nhưng quá trình này rất quan trọng trong tiến trình lịch sử, vì vũ trụ có nguyên tắc “dần dần” (tiệm), tại tầng thứ “mê” này của con người chính là thông qua sự đấu tranh và ảnh hưởng lẫn nhau giữa cái cũ và cái mới, từ đó giúp cho cái mới được tôi luyện, đồng thời triển hiện ra tâm tính thực sự của mọi sinh mệnh để sắp xếp lại vị trí của chúng ở các tầng thứ khác nhau, như vậy sẽ tạo nên sự mập mờ khó hiểu trong quá trình này. Tất nhiên điều này hoàn toàn không bao gồm cuộc bức hại Pháp quy mô lớn và cuộc bức hại đệ tử Đại Pháp do cựu thế lực tạo ra nhằm mục đích gọi là khảo nghiệm Đại Pháp. Khi hiểu được quá trình này thì sẽ rất dễ dàng lý giải được đoạn văn này. Kỳ thực, trong bộ kinh này, năm đó Thích Ca Mâu Ni đã giảng rất giản lược, Ngài đã nói chi tiết hơn trong những hoàn cảnh khác nhưng không được lưu truyền. Lời dịch “500 năm sau khi Như Lai nhập diệt” rất dễ khiến người ta hiểu theo ý khác nhau, kỳ thực đó chính là “Thời kỳ Chính Pháp” của bộ Pháp mà Thích Ca Mâu Ni đã giảng, tức là trong khoảng thời gian 500 năm sau khi Ngài viên tịch chứ không phải 500 năm sau khi Ngài viên tịch. Bởi vì Pháp rất chính và không xấu, đằng sau đó có Phật hộ Pháp, chỉ cần người tu luyện có thể kiên định trì giới, tức là tu hành một cách nghiêm khắc theo giới luật, có thể giữ tín tâm đối với kinh này, coi kinh này là sự thật, nên biết rằng người này không những đã gieo trồng thiện căn với một vị Phật, hai vị Phật, ba, bốn, năm vị Phật, mà đã gieo trồng thiện căn với vô lượng ngàn vạn chư Phật, người nghe kinh này chỉ cần một niệm liền sinh ra tâm tịnh tín,Tu Bồ Đề à! Như Lai ắt biết và ắt thấy rõ những chúng sinh này đều đắc được vô lượng phúc đức như vậy. Nhưng những sinh mệnh này là ai? Một sinh mệnh bình thường được tạo ra trong Tam Giới có thể làm được không? Tất cả những người thật sự tu thành đều là do an bài ở trên, chẳng hạn trong “Tây Du Ký”, khi Quán Âm nhận Pháp chỉ của Như Lai đến Đông thổ, Ngài có tùy ý tìm một người nào đó để đạt được chân kinh không? Không, Huyền Trang là hóa thân của Kim Thiền trưởng lão, một đại đệ tử của Thích Ca Mâu Ni. Vì sinh mệnh của ông có nghiệp lực, không trong sạch, hoặc ông có sứ mệnh, có cơ duyên để đề cao và tu luyện nên ông được phái xuống đây để tu luyện. Ở đây là chuyện bình thường ư? Ví dụ, ở sông Lưu Sa, Sa Tăng nói rằng anh ta tự coi mình là một con quái vật ở hạ giới chuyên ăn thịt người ở sông Lưu Sa, trong số đó có chín người đi thỉnh kinh, vì hộp sọ của họ không chìm, nên anh ta lấy những hộp sọ này xâu lại với nhau và treo quanh cổ. Tại sao những người đi thỉnh kinh này lại bị yêu quái ăn thịt, tại sao Đường Tăng suýt bị ăn thịt nhiều lần như vậy nhưng lại được Thần bảo hộ, chuyển nguy thành an? Có thể thấy, nếu một người tu luyện mà không có sự bảo hộ của Sư phụ, không có sự trông coi của các vị Thần Phật cao tầng thì liệu có thể tu luyện được chăng? Mà một người nhỏ bé được tạo ra trong Tam Giới muốn nghe được Pháp vượt quá tầng thứ sinh ra của anh ta thì phải trả một cái giá rất lớn nhưng thường vẫn không thể có được. Điều này không phải Đức Phật không từ bi, quá khứ chính là như vậy, Thần Phật hoàn toàn không coi trọng thế nhân nhỏ bé trong Tam Giới, cũng giống như bạn không coi trọng những con kiến trên mặt đất, đây là một đạo lý. Những người có thể nghe Phật Pháp mà lập tức sinh lòng tịnh tín thì đều không phải là người đơn giản mà là người được bề trên phái xuống để tu luyện, bởi vì tân Pháp đã hoàn thiện, và rất nhiều bậc Đại Giác đã tu thành trong Phật giáo có cảnh giới tương đối cao. Mặc dù họ theo hình thức Phật giáo nhưng trên thực tế họ không thuộc giáo phái này, có vị ở tầng thứ rất cao, các vị Thần và Phật cao tầng hoàn toàn không có tâm hiển thị của con người hay tâm cầu danh tiếng gì đó. Họ thường chỉ để lại một tấm hoành phi hoặc một câu đối ở đâu đó trong danh xuyên đại tự. Những người có công năng thực sự cao tầng chỉ cần nhìn thoáng qua là có thể thấy được, ồ, một bậc Đại Giác Giả như vậy đã tu thành ở đây, nhưng người bình thường thì không nhìn thấy và cũng không hiểu được nên đọc lên chỉ cảm thấy khó lý giải. Bởi vì họ không cần lập nên một giáo phái mới nên họ không có cách nghĩ này. Nhưng vào thời đó cũng có một số người chưa bỏ được tâm tranh đấu hoặc có người đã đạt đến tầng thứ nhất định nhưng vì không giữ được tâm tính nên có một số suy nghĩ khác. Điều này ngay lập tức bị Thần trong vũ trụ cho là bất chính. Phật Chủ đã giảng trong Pháp: “Bản thân vốn là gì, thì ngay tại Phật giáo cũng là điều rất kỵ húy [không nói đến]”. Chính là giống như có ý qua cầu rút ván. Nói xa xôi quá.

Chúng ta giảng tiếp, bởi vì mục đích của việc tạo ra Tam Giới là để toàn bộ Chính Pháp, là việc hệ trọng liên quan đến toàn bộ vũ trụ này được an bài vô cùng tỉ mỉ và nghiêm túc, vậy thì những sinh mệnh cao tầng cũng không dễ dàng rơi xuống như mọi người tưởng tượng. Rất nhiều sinh mệnh cũng đều đến từ các thể hệ khác nhau vì Chính Pháp mà cứu độ chúng sinh của họ, chịu đựng nỗi khổ ở tầng thứ khác nhau của toàn bộ thể hệ của họ, mục đích là muốn có được uy đức lớn lao để vào giờ phút cuối cùng có thể cứu độ chúng sinh, nhưng họ không thể làm được điều đó, chỉ có đồng hóa với Đại Pháp mới có cơ hội. Nhưng cảnh giới của họ cao như vậy nên họ không giống người thường, con người ở đây dù có chuyển sinh bao nhiêu lần, trong vòng quay ngắn ngủi của toàn bộ xã hội loài người, hàng nghìn năm cũng sẽ không có một vài vị Phật hạ thế phải không? Như vậy, cho dù bạn đời này đời khác làm người tốt, đời đời đều có mối thiện duyên thiện căn, bạn cũng sẽ chỉ có thiện căn với một vị Phật, hai vị Phật và ba vị Phật, nói cách khác, bạn sẽ chỉ nhìn thấy nhiều nhất một vài vị Phật chân chính. mà những sinh mệnh đó đúng là đã xuống từ các tầng thứ vũ trụ rất cao, và nhiều tầng thứ đều có các thế giới thiên quốc mà họ đã tạo ra hoặc từng đi qua. Bởi vì mục đích của họ hạ thế là vĩ đại và từ bi như thế, thực ra là vì vô lượng ngàn vạn chư Phật mà gieo trồng thiện căn. Nguồn gốc và căn cơ của những sinh mệnh này thì những sinh mệnh trên Trái Đất không thể sánh được, vậy thì còn có gì mà họ không hiểu được khi nghe Kinh Kim Cương do Thích Ca Mâu Ni giảng? Một niệm liền sinh ra tâm tịnh tín, liền tin theo. Và bởi vì đang thời kỳ “Chính Pháp” của Pháp này, đằng sau Kinh có Pháp thân của Thích Ca Mâu Ni, đương nhiên một sinh mệnh như vậy chỉ cần phát ra niệm này thì chẳng phải chấn động thập phương thế giới sao? Tất nhiên Như Lai biết tất thảy, tất cả Thần Phật trong vũ trụ đều nhìn thấy. Đương nhiên phúc đức sẽ vô hạn. Tại sao? Là vì các chúng sinh này vô phục ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng; vô pháp tướng, và cũng vô phi pháp tướng. Nói thẳng ra là vì họ vốn là những sinh mệnh cao cấp, trong sinh mệnh họ có trí huệ vĩ đại và cảnh giới cao. Tại sao? Vì nếu chúng sinh ấy còn tâm chấp trước tức là còn chấp ngã nhân, chúng sinh, thọ giả. Nếu còn chấp tướng pháp tức là còn chấp ngã nhân, tướng sinh, thọ giả. Vì cớ sao? Nếu còn chấp tướng phi pháp tức là chấp ngã nhân, tướng sinh, thọ giả, vì thế không nên chấp pháp, không nên chấp phi pháp. Vì vậy, đối với những chúng sinh như thế, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng: Nếu các con khiến cho Pháp lý mà ta giảng ở các tầng thứ khác nhau trở nên cứng nhắc và cố định ở bộ Pháp mà ta truyền, thì bề ngoài có vẻ như đang tôn trọng ta, trên thực tế là phạm tội đối với các vị Thần Phật ở cao tầng, bởi vì các khái niệm này sẽ can nhiễu họ khiến họ sẽ dùng khái niệm của con người như ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng để suy nghĩ về Phật và suy nghĩ về Pháp, đó là điều sai lầm. Ở đây cần phải hiểu rằng “không nên thủ Pháp” là câu nói sai, câu đúng là “không nên câu thúc Pháp”, tức là không coi Pháp mà ta giảng là chân lý tuyệt đối và bất biến, điều đó sẽ hạn chế, câu thúc với người đời sau và tạo thành chướng ngại cho những sinh mệnh ở các tầng thứ cao hơn trong tương lai đắc Pháp. (Đây không phải là tình huống ngày nay sao? Một số người vẫn muốn kiếm được nhiều tiền hơn và tương lai xây dựng một ngôi chùa lớn, thì sẽ tính được công đức và đạt đến viên mãn). Vì đạo lý này nên Như Lai thường nói: “Này các Tỳ Kheo, chư vị nên hiểu Pháp mà ta giảng là để độ nhân sang bờ bên kia và được giải thoát, cũng tỷ dụ như chiếc bè tre, đến được bờ bên kia rồi thì Pháp này nên xả bỏ, huống hồ phi Pháp”. Cho nên Thích Ca Mâu Ni tổng kết rằng: vì lý do này mà ta thường nói với chư vị, những người xuất gia tu hành, chư vị phải biết rằng điều gọi là “Phật Pháp” mà ta nói với chư vị, kỳ thực là nhắm thẳng vào tình huống và trạng thái hiện tại của chư vị, cũng giống như trên đường đi về phía trước chư vị gặp phải một con sông mà không thể vượt qua, ta sẽ cho chư vị một chiếc bè. Bản thân chiếc bè không phải là Pháp. Pháp mà ta giảng về thực chất không giảng các đặc tính cơ bản của vũ trụ và ta cũng không có cách nào giảng nó một cách toàn diện. Về thực chất, “Giới, Định, Huệ” là một phương pháp tu luyện, cùng với cơ chế cấu thành một Pháp môn, chư vị phải thăng hoa đến cao tầng thì mới lĩnh ngộ được Pháp chân chính. Như vậy đến một giai đoạn tu luyện nhất định, chư vị sẽ phát hiện rằng Pháp mà ta giảng này đã trở thành một sự câu thúc, lúc đó thì nên từ bỏ Pháp tầng thấp và đồng hóa với Pháp ở tầng cao. Cho nên, khi chư vị tiến đến các cảnh giới trong tu luyện, Pháp mà ta giảng nên dần dần bị loại bỏ, huống chi những điều mà không được các bậc Giác Giả giảng và không phải là Pháp thì nhất thiết đừng nghe đừng tin mới được. Ở đây còn một vấn đề cần được bổ sung nói rõ, đó là cơ thể con người có thể nhìn thấy bằng nhục nhãn này không phải là một mặt phẳng mà mắt thường nhìn thấy, bên trong có một lớp “da thật” và lớp da thật này được “chân thân” của Thần sử dụng. Vậy thì khi đầu thai xuống thế gian, những thứ mà chúng ta ăn vào hậu thiên sẽ dần dần mở rộng lớp “da thật” này mà người ta gọi là “trưởng thành”. Và khi chết, lớp da thật này sẽ bị Thần thu hồi lại, còn thứ bị thối rữa chỉ là thứ vật chất được hình thành bởi các chất dinh dưỡng nơi nhân loại hậu thiên này. Vì vậy, lớp da này không bị diệt vong mà nó luôn được tôi luyện và bảo vệ, đến thời mạt kiếp mạt Pháp sẽ được các vị Thần cao tầng sử dụng. Còn đối với Thiền tông hiểu sai về Pháp mà Thích Ca Mâu Ni giảng, khiến cho Pháp trở nên trống rỗng và sai lầm, kỳ thực chẳng qua chỉ là một tham chiếu phản diện trong toàn bộ quá trình truyền bá Phật giáo mà thôi. Bằng không tại sao nó chỉ có thể truyền đến Lục Tổ? Tại sao chưa từng nghe đến Thất Tổ? Chính là “La Hán Pháp” không phải là Phật Pháp, từ lâu đã “không còn Pháp” rồi. Cho nên, chúng sinh phải tỉnh ngộ.

2. Chúng ta hãy xem phần “Đệ thất phẩm vô đắc vô thuyết phần”, đoạn này Thích Ca Mâu Ni kỳ thực giảng thế nào là “ngộ”. Phật Chủ dạy: Giác ngộ là gì? Giác ngộ tức là hồi tưởng lại, nhớ lại cái vốn có tiên thiên của mình, toàn bộ ký ức đều được đả khai, nguyên thần mang theo công mà thăng lên thành Phật. Vậy thời kỳ tu luyện bình thường là như thế, điều này khác với Chính Pháp của toàn vũ trụ. Bởi vì lúc đó Thích Ca Mâu Ni chỉ giảng Pháp của Ngài, vì Chính Pháp mà đặt định nền văn hóa tu luyện Phật gia, cho dù giảng về “ngộ” thì Ngài vẫn muốn để mọi người ngộ ra. Bởi vì Ngài đang giảng cho phó nguyên thần nên bề mặt câu chữ kỳ thực rất mơ hồ, nhất là việc lật lại ký ức và trạng thái và cảnh giới của dịch giả trong quá trình dịch thuật lại càng khiến người ta khó hiểu hơn. Kỳ thực, điều ông muốn nói là sự viên mãn của Phật tính không phải đắc được từ bên ngoài, mà là sự viên mãn của tự tính và ký ức của chính mình. Không tăng thêm một chút bên ngoài vào cũng không giảm đi chút nào,chính là tiên thiên vốn như thế. “Tu Bồ Đề! Ý nghĩa là gì? Như Lai đã đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác? Như Lai có giảng Pháp không?” Vậy Tu Bồ Đề lý giải nó như thế nào? Ông ta nói: “Theo tôi hiểu ý nghĩa lời Phật dạy thì không có Pháp nào nhất định gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cũng không có Pháp cố định nào mà Như Lai giảng. Tại sao? Pháp mà Như Lai giảng đều không thể câu thúc (hạn chế), không thể giảng ra được, không phải Pháp cụ thể, cũng không phải là Pháp không cụ thể. Cho nên điều này là sao? Tất cả các bậc Thánh hiền đều có sự khác biệt bởi vì Pháp vô vi”. Nhất thiết phải hiểu rằng Tu Bồ Đề cũng là một người tu luyện, ông ta chưa đạt đến cảnh giới của Phật nên sự hiểu biết của ông ấy không phải là tuyệt đối. Và theo cách nhìn của chúng tôi, sự hiểu biết của ông ấy rõ ràng giống như nhìn ngó biển qua khe cửa dù những gì nhìn thấy chỉ là hình ảnh một điểm của biển, chứ không phải là toàn bộ trạng thái của biển, càng không phải bản chất tự tính tự thân của biển. Bởi vì những đệ tử này đã theo Thích Ca Mâu Ni, kể từ lần đầu tiên Ngài truyền Pháp ở vườn Lộc Uyển để độ Kiều Trần Như và sáu anh em, Ngài liên tục thăng hoa, mỗi khi đề cao lên một tầng Ngài phát hiện rằng Pháp mà Ngài giảng trước đây tương đối thấp, dùng Pháp lý cao tầng để nhìn tầng thấp thì thấy tầng thấp hoàn toàn sai. Vậy thì, các đệ tử cũng đang tu luyện lên từng tầng một, nên những bài giảng trước đây sẽ hình thành chướng ngại cho sự thăng hoa của họ, nhưng đó là lý ở tầng thứ đó, nên trong những năm cuối đời, trong số các đại Tỳ Kheo, chính là trong quần thể người tu luyện thường theo Ngài, vấn đề này đã trở thành vấn đề phổ biến, Thích Ca Mâu Ni mới giảng lý “Pháp vô định Pháp” để cho các đệ tử của Ngài có thể phân biệt một cách lý tính và không dùng lý tầng thấp để đo lường Pháp tầng thứ cao, hơn nữa, cũng không nên nghĩ rằng Pháp do Thích Ca Mâu Ni giảng chính là căn bản của vũ trụ. Bởi vì Ngài biết rằng giới, định và huệ mà Ngài giảng về căn bản vẫn là thuộc về “Pháp của phương pháp”, đó là làm thế nào để hiểu trạng thái tồn tại thực sự của Pháp căn bản ở các tầng thứ khác nhau và đồng hóa với một con đường Pháp lý ở các tầng thứ khác nhau, chứ không phải là bản thân pháp cơ bản đó. Bởi vì Ngài không giải thích tại sao “Giới, Định, Huệ” có thể tu thành, Ngài cũng không giảng Như Lai và Pháp của Như Lai được tạo thành như thế nào. Không có Pháp nào quy định tên là Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, lý giải này có chút mơ hồ. Nhưng tìm hiểu kỹ cũng sẽ biết rằng sinh mệnh đến từ các tầng thứ khác nhau. Kỳ thực, khai ngộ chính là nhớ lại những Pháp lý của tầng đã tạo nên sinh mệnh của mình trong thời kỳ đầu của vũ trụ, các tầng thứ khác nhau có ngộ khác nhau. Tất nhiên là không có Pháp được định ra. Mà tại tầng thứ Như Lai, bởi vì đã biết được hết thảy tầng thứ bên dưới, nên các tầng thứ khác nhau có Pháp khác nhau, dựa vào căn khí và tình huống thực tế của chúng sinh mà không thể giảng một Pháp giống nhau. Còn vượt quá tầng thứ của Ông thì sao? Bởi vì điều nhìn thấy được rất ít nên càng không thể giảng ra được. Cho nên nói rằng Pháp mà Như Lai giảng, đều không thể gò bó (hạn chế), không thể giảng, phi Pháp, phi phi Pháp. Chính là đừng bị hạn chế bởi Pháp mà Ngài giảng. Cái gọi là “không thể giảng được” không phải nói là “không thể giảng”, mà là không thể phác họa giống nhau. Phi Pháp tức là tại tầng cao mà xem tầng thấp thì không phải là Pháp. Phật giáo giảng rằng “không bằng Pháp”. Nhưng tầng cao có thể viên dung tầng thấp, quá khứ vì tình huống Pháp này của Ngài cho nên chỉ có thể xuất gia tu hành. Phi phi Pháp có nghĩa là mặc dù từ góc độ Pháp lý ở cao tầng để xem xét Pháp ở tầng thấp là sai, nhưng chư vị không thể nói rằng nó không nên tồn tại, nó ở tầng đó nhưng lại là tiêu chuẩn và trạng thái tồn tại mà chúng sinh ở tầng đó phải tuân theo. Thế thì chúng ta có thể dùng quy luật diệt nhân dục (diệt dục vọng của con người), tồn thiên lý (bảo tồn thiên lý) của Chu Hy (nhà thư pháp, nhà sử học, nhà triết học, nhà chính trị, nhà văn thời Tống) để chứng minh trạng thái này, khi sinh mệnh rơi xuống, thì giống như tầng thứ nhất được bọc trong một lớp bơ, tầng thứ hai được bọc trong một lớp dầu… Phương pháp làm sạch từng lớp từng lớp có phải là cơ bản không? Ngay cả phương pháp mài kim cương cũng không phải là bản thân viên kim cương mà là thứ bạn muốn đạt được chính là bản thân viên kim cương. Cơ bản chính là đạo lý này. Bởi vì sự khai ngộ không thể cầu từ bên ngoài đến được, cho nên gọi là “vô đắc”. Vì không thể câu thúc Pháp, nên thường “vô thuyết” (không giảng ra được). Nhưng nó không giống như cho một gậy bổng hát mà sau này Thiền tông tà ngộ, nói rằng không có Pháp có thể giảng. Không phải ý nghĩa đó. Và tất cả các bậc Thánh hiền đều có sự sai biệt bởi Pháp vô vi. Câu này rất quan trọng, kỳ thực tất cả các vị Thần Phật đều giảng để chứng minh sự ngộ Đạo của họ đối với các Pháp lý của vũ trụ nhưng vì do đặc điểm hoặc sứ mệnh sinh mệnh khác nhau nên lời giảng ra của họ cũng có sự sai biệt, ở đây có sự sai biệt về tầng thứ cũng có sự sai biệt về đặc điểm. Căn bản lại là “vô vi”. Giống như Khổng Tử hỏi các đệ tử của mình: Các trò có nghĩ rằng thầy là người học rộng tài cao không? Các đệ tử trả lời: Đúng ạ, Khổng Tử sửa lại và nói rằng: “Ngộ Đạo nhất dĩ quán chi” (nghĩa là: Đạo mà ta giảng là dựa trên một tư tưởng căn bản quán triệt từ đầu đến cuối). Pháp của vũ trụ ví như nước, và những người khác nhau sử dụng những vật chứa đựng khác nhau để lấy được nó, lấy được nhiều là sông biển, lấy được ít là khe suối, lấy được rất nhỏ chỉ là một vốc nước, hình dáng và tên gọi của nó lại khác nhau, gọi là Đông Hải, gọi là Tây Dương, gọi là Động Đình, gọi là cốc vuông, gọi là ấm trà. Từ xưa đến nay, Đại Đạo Đại Pháp trong vũ trụ chưa bao giờ thay đổi, Ông là bất biến. Những điều thay đổi là tất cả vật chất và sinh mệnh được sinh ra từ nó, Nó có đầy đủ năng lực bất phá bất bại và viên dung như ý để sinh thành mọi thứ, diễn hóa mọi thứ, sáng tạo mọi thứ, vận hành mọi thứ, cân bằng mọi thứ, tiêu hủy mọi thứ, tái tạo mọi thứ và đổi mới mọi thứ. Không có sinh mệnh nào thực sự nhìn thấy cội nguồn của Ông, cũng không có sinh mệnh nào có thể lấy sự xưng hô của họ để gọi tên của Ông, đối với tất cả chúng sinh trong vũ trụ mà nói Ông là hư không, nhưng ngay cả sinh mệnh cao nhất cũng biết rằng Ông dựa vào “Mẹ của vạn vật” này để tồn tại. Đó là điều hoàn mỹ, trí huệ vô hạn, cho dù trí huệ của tất cả chúng sinh có cao đến đâu, cũng đều đến từ Ông, Ông là nguồn gốc của mọi trí huệ, là huyền cơ của mọi sinh mệnh và là người điều khiển các nhân tố tồn tại của hệ thống thiên thể vũ trụ. Bao trùm tất cả nhưng lại không ở trong tất cả. Xem ra như thế, sự cuồng vọng và hư danh của bất kỳ sinh mệnh nào ở trước mặt Ông đều thật nhỏ bé biết bao. Cũng chính là nhàm chán và nực cười giống như một người lái chiếc xe BMW của ông chủ và mượn cà vạt của ông chủ để khoe khoang sự xa hoa nhưng rõ ràng lại cuồng vọng đến mức nực cười. Cho nên Khổng Tử mới nói: “Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ, thiết bỉ ngã Lão Bành” (nghĩa là: Ta truyền thuật (Đạo của cổ nhân) mà không sáng tác, tin và thích (kinh điển của) cổ (nhân); ta trộm ví với ông Lão Bành của ta). Tất cả các bậc Thánh hiền chân chính đều biết rằng họ chỉ là con của Phật Chủ của vũ trụ, và quá trình sinh mệnh của họ chỉ là dựa vào một cái vỏ và một thanh kiếm do Ngài ban cho mà thôi.

3. Chúng ta hãy xem tiếp “Đệ bát phẩm y pháp xuất sinh phần”. “Tu Bồ Đề! Ý anh là gì? Nếu một người dùng thất bảo (bảy bảo vật gồm vàng, bạc, ngọc, ngọc trai, hổ phách, san hô đỏ và mã não) lấp đầy tam thiên đại thiên thế giới để đi bố thí thì người ấy có được công đức nhiều không?” Tu Bồ Đề thưa: “Bạch Thế Tôn, phúc đức của người này rất nhiều! Tại sao? Là phúc đức tức là không có tính phúc đức, (mất chữ, rõ ràng ở đây vì người đời sau trong quá trình sao lục đã bị làm mất chữ, sai lung tung. Ý nghĩa của văn bản rất phức tạp). Cho nên Như Lai nói là nhiều phúc đức”. “Nếu có người thực hành những nguyên lý trong kinh này, thậm chí chỉ dùng bốn câu kệ để giải thích cho người khác hiểu thì công đức của người ấy cũng sẽ lớn hơn công đức người đã dùng thất bảo lấp đầy tam thiên đại thiên thế giới”. Kỳ thực, điều giảng ở đây chính là tầm quan trọng của việc yêu cầu các đệ tử trân quý kinh này và để họ truyền bá kinh này một cách rộng rãi. Tại sao vậy? Tu Bồ Đề và tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai, cũng như tất cả chư Phật và Pháp Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, đều được sinh ra từ kinh này. Đây là một điểm then chốt của việc giải thích sai lầm của lịch sử. Bởi vì năm đó khi Thích Ca Mâu Ni đạt đến tầng Như Lai, vũ trụ có nguyên tắc “ẩn”, nhưng Ngài không biết rằng bên trên còn có một cảnh giới cao hơn. Tính không mà Ngài giảng ở đây, lấy Kinh Kim Cương làm ví dụ, trên thực tế là giảng về trạng thái tâm tính cơ bản của tầng Phật này của Như Lai. Vì vậy, nói rằng tất cả chư Phật và Pháp viên mãn của Ngài đều đến từ kinh này (đặc tính của vũ trụ được liên kết). Nếu mở rộng ra một chút thì câu này kỳ thực là do thế hệ sau thêm vào. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với lời giảng của Thích Ca Mâu Ni rằng Như Lai nhiều như cát sông Hằng, Ngài giảng “Kinh A Di Đà Phật” và “Kinh Liên Hoa”, giảng rõ ràng rằng Pháp của Như Lai ở thế giới Cực Lạc và Liên Hoa là khác nhau. Tuy nhiên, nếu từ nguồn gốc của Đức Thích Ca Mâu Ni và tầng thứ Pháp giới, định, huệ của Ngài mà giảng, cũng có thể nói rằng tất cả con đường mà Như Lai tu cũng phải tuân theo giới định huệ. Nhưng ở trên tầng thứ sáu của vũ trụ và nằm ngoài phạm vi hệ thống của Ngài thì cái đạo lý này là không đúng. Tu Bồ Đề! Cái gọi là Phật Pháp, tức là phi Phật Pháp. Bởi vì Thích Ca Mâu Ni biết rằng chỉ có Pháp tạo ra tất cả Phật Đạo Thần mới là Phật Pháp bản chất hơn, và tất cả các Pháp do chư Phật thuyết giảng chỉ là sự hiểu biết của họ về Phật Pháp căn bản của vũ trụ. Như Lão Tử đã nói: “Có một thứ trộn lẫn với nhau mà thành trước cả trời đất. Nó tĩnh lặng và trống không, nó không dựa vào bất kỳ ngoại lực nào tồn tại độc lập và không thay đổi. Ta không biết tên của nó, nên tạm gọi là Đạo, lại miễn cưỡng đặt tên là Đại”. Cùng câu chuyện như nhau. Họ đều nói rằng điều họ giảng không phải là Pháp cơ bản của vũ trụ, mà chỉ là một chút hiểu biết của họ về những đặc tính cơ bản, nói cách khác, đó là Pháp của họ (Đạo). Cho nên Thích Ca Mâu Ni mới giảng “Pháp vô định Pháp”, và ở mọi tầng thứ trong vũ trụ đều có Pháp, nhưng nó không phải là Phật Pháp cơ bản thực sự của vũ trụ. Trong những năm cuối đời, Ngài nói “Ta đời này chưa có giảng Pháp nào hết”, đó chính là ý nghĩa này. Ngài đã nói với Văn Thù Bồ Tát những lời đó, và đó chính là lời cảnh báo các đồ đệ Phật giáo sau này. Nhưng không ngờ, các tín đồ Phật giáo sau này do những điều kiện hạn chế về tầng thứ và tâm tính đã trở nên điên loạn và tà ngộ về điều này. Thiền tông đã hiểu điều này một cách cực đoan, do đó thực sự đã làm loạn Pháp của Thích Ca Mâu Ni. Đây là một bài học lịch sử phức tạp nhưng con người ngày nay không còn có thể hiểu được điều đó nữa.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48475

Ban Biên Tập Chánh Kiến

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.

Loạt bài