bút kí tu luyện | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 10 Apr 2025 00:14:36 +0000en-UShourly1Bút ký tu luyện: Một chút thể ngộ về học Pháp (2)https://chanhkien.org/2023/08/but-ky-tu-luyen-mot-chut-the-ngo-ve-hoc-phap-2.htmlFri, 25 Aug 2023 03:47:10 +0000https://chanhkien.org/?p=31169Tác giả: Thiên Chân [ChanhKien.org] Khoảng thời gian vàng để học Pháp Thực ra khoảng thời gian vàng cũng chính là lúc đầu óc thanh tỉnh nhất, khi đó hiệu quả học Pháp là tốt nhất. Mỗi tuần, thời gian tôi đi làm không quá nhiều, và thời gian mà tự mình có thể sắp […]

The post Bút ký tu luyện: Một chút thể ngộ về học Pháp (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Thiên Chân

[ChanhKien.org]

Khoảng thời gian vàng để học Pháp

Thực ra khoảng thời gian vàng cũng chính là lúc đầu óc thanh tỉnh nhất, khi đó hiệu quả học Pháp là tốt nhất. Mỗi tuần, thời gian tôi đi làm không quá nhiều, và thời gian mà tự mình có thể sắp xếp cũng tương đối thoải mái, nên có thể lựa chọn thời gian thích hợp nhất để học Pháp. Thông thường tôi học Pháp luyện công vào lúc bản thân thanh tỉnh nhất, đương nhiên thời gian luyện công được cố định tại thời điểm luyện công tập thể vào buổi sáng. Vào trước và sau khi luyện công, thông thường tôi rất thanh tỉnh, tâm cũng tương đối tĩnh, ngoài việc phát chính niệm đúng giờ ra thì học Pháp. Vào buổi sáng tôi cũng học Pháp trước rồi sau đó làm việc khác. Từ 4 giờ chiều đến 8 giờ tối cũng là thời điểm tương đối thanh tỉnh, thường thường tôi cũng học Pháp một chút trong khoảng thời gian này.

Đừng học Pháp khi buồn ngủ, đây là nhận thức của tôi. Chủ ý thức tương đối yếu khi buồn ngủ, học lúc đó rất khó tập trung tinh lực và duy trì tâm thái thanh tịnh, dễ bị tạp niệm can nhiễu, và hiệu quả học Pháp thường rất kém. Khi cơn buồn ngủ không nghiêm trọng lắm, thì vô cùng dễ mất tập trung, nghĩ ngợi lung tung, nhưng khi cơn buồn ngủ đến cực điểm, thì thực sự là không thể mở mắt trong nháy mắt, sau đó thì bắt đầu mơ màng. Một lúc sau đột nhiên mở mắt ra, và thấy mắt vẫn đang nhìn chằm chằm rất lâu vào vị trí ban đầu. Đầu tê cứng, tôi gắng gượng xem vài dòng, và cơ thể cũng không có phản ứng. Nhiều lần tôi cũng từng thử một số phương pháp mà các đồng tu đề cập để khắc phục cơn buồn ngủ, đề cao nhận thức dựa trên Pháp, phát chính niệm, và cố gắng chỉ ngủ hai, ba tiếng mỗi ngày, nhưng không đạt hiệu quả, nên tôi đành phải nhượng bộ. Thời gian ngủ cũng giảm bớt dần dần cùng với sự đề cao về tầng thứ tu luyện. Theo kinh nghiệm của cá nhân tôi, việc tốn thời gian và công sức để học Pháp bằng cách đấu tranh với ma ngủ, thì hiệu quả không tốt, không những bản thân không thể học Pháp, nói không chừng còn bị người khác học mất, chi bằng nghỉ ngơi một lát hoặc làm việc khác, rồi tìm một thời gian thanh tỉnh học tiếp, như vậy hiệu quả mới cao, việc học Pháp mới có hiệu quả thật sự.

Khi tôi buồn ngủ và không thể đối phó một cách hiệu quả với nó, thì không những không thể học Pháp, mà cũng không thể luyện công hoặc phát chính niệm. Nếu mơ mơ màng màng buồn ngủ, thì không phải là bản thân đang luyện công, cũng không có uy lực để thanh trừ tà ác. Đôi khi nhìn thấy đồng tu ngủ gật khi phát chính niệm, ở trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh, thủ ấn đơn chưởng ngã đổ, gần như muốn cầm chắc thành nắm đấm, và thủ ấn liên hoa giữ một lúc sau thì 10 ngón tay khép lại thành một khối, như vậy căn bản không khởi được tác dụng trừ ác. Nhưng bản thân họ lại không thể nhận ra trạng thái đó, chỉ là cảm thấy mơ hồ rằng vừa rồi mơ màng khiến thủ ấn chệch hình sau khi thanh tỉnh lại. Nếu thường xuyên xuất hiện tình huống đó, thì yêu cầu cần hết sức coi trọng, bởi vì nếu không đảm bảo được hiệu quả phát chính niệm, đó có thể không phải là vấn đề nhỏ.

Nếu khi làm việc khác một chút cũng không buồn ngủ, mà cứ hễ học Pháp, luyện công hoặc phát chính niệm liền mơ màng, đó không phải là phản ứng bình thường của cơ thể, mà là bị can nhiễu, nên cần chính niệm thanh trừ.

Vấn đề đọc nhanh

Vì để loại trừ can nhiễu từ tạp niệm hoặc cải biến trạng thái buồn ngủ, thậm chí thỉnh thoảng vì đuổi theo tiến độ trong thời gian ngắn, tôi đã từng chọn dùng phương pháp đọc nhanh để học Pháp trong một giai đoạn thời gian, nhưng tôi đã sớm từ bỏ. Có vẻ như không ít đồng tu đã chọn dùng phương pháp đó. Bởi vì tốc độ đọc vô cùng nhanh, nhưng cần đảm bảo đọc từng chữ trước mắt, không thể bỏ sót, cho nên mắt cần chăm chú rất kỹ, đồng thời mắt cũng cần di chuyển nhanh chóng từ trái sang phải, vốn dĩ việc di chuyển mắt như vậy sẽ kích thích đại não, đồng thời vì có thể phản ánh ra ý nghĩa mặt chữ của văn tự mà mắt quét với tốc độ nhanh, đại não cũng cần tăng tốc hoạt động, như vậy nó liền tiến nhập trạng thái hưng phấn thanh tỉnh, và tạp niệm cũng không có “khoảng trống” để phát ra ngoài.

Nhìn trên bề mặt dường như rất có hiệu quả, có thể đọc Pháp thêm nhiều trong thời gian ngắn, nên rõ ràng là hiệu suất đặc biệt cao. Nhưng bản thân phương pháp này sẽ mang lại một vấn đề rất lớn. Ngồi trên xe đang lao nhanh như bay, có thể nhìn thấy vật thể bên ngoài xe đều đang chớp qua với tốc độ nhanh, vật thể càng gần mình thì chớp qua càng nhanh, vẫn chưa kịp nhìn rõ nó thì đã không thấy rồi, tôi có cảm giác rất giống với khi đọc nhanh. Tuy có thể đạt được nhìn thấy từng chữ trước mắt (thực ra là quét với tốc độ nhanh), nhưng do tốc độ đọc quá nhanh, đại não tiếp nhận lượng thông tin quá lớn trong một đơn vị thời gian, cho nên dấu tích từng chữ được giữ lại trong não cực kỳ nhạt, hơn nữa lại bị che lấp bởi dấu tích mơ hồ của từng chữ phía sau, thực ra cũng không đọng lại bao nhiêu nội dung trong não sau khi đọc xong. Vả lại, điều đáng chú ý hơn là học Pháp với trạng thái đó, nội hàm cao tầng của Đại Pháp ở phía sau văn tự sẽ không điểm hoá cho chúng ta, vấn đề chủ yếu là ở chỗ này! Theo cách như thế, nó trở thành vì đọc Pháp mà đọc Pháp, không phải là học Pháp chân chính rồi. Nếu dùng phương pháp đó để bắt kịp tiến độ học Pháp, như thế càng không được coi là học Pháp, trở thành ứng phó cho xong.

Trên thực tế trạng thái này cũng không thể duy trì lâu. Mắt, não và toàn bộ cơ thể duy trì lâu dài ở trạng thái căng thẳng cao độ thì cũng chịu không nổi, và rất dễ mệt mỏi rã rời, sau đó thì vẫn buồn ngủ như thường. Cho nên nói cho cùng, quả thực không thể áp dụng đọc nhanh vào việc học Pháp.

Số lượng học Pháp

Bởi vì chất lượng học Pháp không dễ đo lường, bản thân rất khó nắm bắt, như vậy không giống số lượng học Pháp liền có thể thấy rõ ràng, cho nên dễ bị xem nhẹ, nhưng việc này không có nghĩa sẽ không có bất kì vấn đề nào về phương diện số lượng học Pháp. Nhiều lần Sư phụ đã căn dặn chúng ta rằng cần “học Pháp nhiều hơn, học Pháp nhiều hơn” (Giảng Pháp tại Pháp hội Atlanta năm 2003 ), có thể thấy thời gian học Pháp và số lượng học Pháp cần phải đảm bảo, hơn nữa càng nhiều càng tốt. Khẳng định không được cưỡi ngựa xem hoa và chỉ theo đuổi số lượng, nhưng cũng không thể chỉ vì yêu cầu chất lượng học Pháp cao mà mỗi ngày chỉ học một chút cho xong. Vậy rốt cuộc mỗi ngày học bao nhiêu là thích hợp nhỉ? Tôi cảm thấy rất khó nói, bởi vì trạng thái của mỗi cá nhân đều khác nhau, chỉ có thể xác định thời lượng và số lượng học Pháp bao nhiêu tuỳ theo tình huống bản thân. Nhưng tôi cho rằng, nếu thường xuyên không thể đọc hết một bài giảng của Chuyển Pháp Luân trong một ngày, thì đó có thể chính là một vấn đề lớn, cần tìm ra nguyên nhân nào tạo thành, điều chỉnh cân bằng thời gian giữa các công việc khác nhau, dành nhiều thời gian hơn để học Pháp. Nếu quả thực rất khó sắp xếp thời gian học Pháp, vậy cũng đừng bị động tiếp nhận cái gọi là “hiện thực”, chân chính mong muốn học Pháp nhiều hơn, thì Sư tôn sẽ giúp chúng ta cải biến “hiện thực”, dù cựu thế lực có an bài và can nhiễu, thì cũng sẽ bị phá bỏ.

Bản thân số lượng học Pháp ẩn chứa một khía cạnh khác của vấn đề, chính là tỷ lệ giữa các nội dung học Pháp, hay nói cách khác, về vấn về phân bổ thời gian giữa việc đọc Chuyển Pháp Luân với những kinh văn và giảng Pháp khác. Có đồng tu đọc một bài giảng trong Chuyển Pháp Luân, sau đó học những kinh văn và giảng Pháp khác, rồi lại đọc bài giao lưu tâm đắc thể hội trên mạng, khi không thể truy cập mạng thì đọc tạp chí in hàng tuần hoặc sách nhỏ, nên thời gian đọc các nội dung khác dài hơn thời gian đọc Chuyển Pháp Luân. Việc đọc các bài giao lưu tâm đắc thể hội trong tu luyện giữa các đồng tu không phải là học Pháp, nhưng liên quan đến vấn đề phân bổ thời gian học Pháp. Tôi cũng từng làm như vậy, đọc kinh văn và giảng Pháp khác nhiều hơn một chút, rồi đọc thêm một số bài chia sẻ giao lưu, khi tôi đọc Chuyển Pháp Luân nhiều hơn một bài giảng thì cảm thấy có chút khó khăn lớn, vì dù sao thời gian cũng có hạn. Về sau thảo luận vấn đề này với các đồng tu, tôi đã thay đổi suy nghĩ và phương pháp: tôi đọc Chuyển Pháp Luân nhiều hơn, mỗi ngày ít nhất đọc hai bài giảng, dựa trên tiền đề này, rồi học những kinh văn và giảng Pháp khác.

Sư phụ đã giảng:

“Tôi nói rằng Sư phụ đã đưa mọi thứ ép nhập vào trong bộ Đại Pháp này rồi; chư vị cho đến nay vẫn chưa có bao nhiêu người có thể minh bạch được lời tôi vừa nói ấy có sức nặng đến đâu; tương lai tôi sẽ giảng lại cho chư vị. Nhưng chư vị cần phải thật sự dựa vào bộ Pháp này mà tu, nhất định có thể tu thành! Vậy nên phải đọc sách cho nhiều, học Pháp thật nhiều”. (Giảng Pháp tại Pháp hội New York năm 2007 ).

Vì vậy, tôi hiểu rằng cần lấy việc đọc Chuyển Pháp Luân làm chính khi học Pháp, tốt nhất là thời gian đọc kinh văn khác không nên chiếm dụng thời gian đọc Chuyển Pháp Luân, nếu thời gian đọc Chuyển Pháp Luân bị trì hoãn vì đọc các bài giao lưu chia sẻ thì càng không thích hợp. Có một vị đồng tu cũng từng chọn dùng khuôn mẫu được đề cập ở trên để học Pháp, một ngày chỉ đọc một bài giảng trong Chuyển Pháp Luân, nên đã hình thành khuôn mẫu và quan niệm. Sau đó một đồng tu khác nói với cô ấy rằng đọc một bài giảng mỗi ngày là quá ít, rồi kiến nghị cô đọc nhiều hơn. Lúc đó cô ấy dường như chưa đồng ý hoàn toàn, nhưng cô vẫn quyết định thử xem sao, kết quả là mỗi lần sau khi đọc xong một bài giảng, chỉ cần đọc một bài giảng tiếp theo thì liền đau đầu. Thực tế là quan niệm “một ngày đọc một bài giảng” đó bị dùi vào sơ hở, chịu can nhiễu, và hình thành biểu hiện giả. Đồng tu khuyến khích cô ấy đọc nhiều hơn mỗi ngày, dù đau đầu đến đâu cũng phải đọc tiếp, vượt qua can nhiễu. Kiên trì một thời gian, quả nhiên thì đã đột phá rất nhanh.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/59626

The post Bút ký tu luyện: Một chút thể ngộ về học Pháp (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bút ký tu luyện: Rắc rối của đồng tuhttps://chanhkien.org/2023/06/but-ki-tu-luyen-rac-roi-cua-dong-tu.htmlSat, 10 Jun 2023 03:50:12 +0000https://chanhkien.org/?p=30393Tác giả: Thiên Chân [ChanhKien.org] Một nữ đồng tu trẻ thỉnh thoảng đến chỗ tôi để giảng chân tướng đã gặp riêng tôi. Sau khi đã làm xong mọi việc, cô đột nhiên cau mày nói: “Thật ra hôm nay tâm trạng tôi không tốt, mẹ tôi lại giục tôi tìm bạn trai! Lần này […]

The post Bút ký tu luyện: Rắc rối của đồng tu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Thiên Chân

[ChanhKien.org]

Một nữ đồng tu trẻ thỉnh thoảng đến chỗ tôi để giảng chân tướng đã gặp riêng tôi. Sau khi đã làm xong mọi việc, cô đột nhiên cau mày nói: “Thật ra hôm nay tâm trạng tôi không tốt, mẹ tôi lại giục tôi tìm bạn trai! Lần này bà ấy như đang cầu xin tôi vậy, tôi thực sự không biết phải làm sao. Thực ra, những gì bà ấy nói tôi thấy cũng đúng: ‘À, con luyện công thì cứ luyện đi, mẹ không quan tâm nữa. Công việc, con nói có công việc tốt mà không làm, hiện tại kiếm mấy trăm đồng một tháng… được, cũng coi như con tự nuôi được mình. Nhưng ít ra con cũng phải kết hôn và sinh con, sau này mới có người chăm sóc chứ, không thì lúc già con thế nào đây, hả?’ Anh nói tôi nên nói gì với bà ấy đây?”

“Người ta thường quan tâm đến những vấn đề như vậy”, tôi nói, “Đây chính là những điều lớn lao trong mắt họ, đối với con người thì là bình thường. Vậy cô có muốn kết hôn và sinh con không?” Cô ấy nói: “Tôi không muốn, tôi thật sự không muốn. Nhưng mẹ tôi… còn có chị gái của tôi, cứ giới thiệu cho tôi hết người này đến người khác, giới thiệu cho tôi người nào tôi đều giảng chân tướng cho người đó. Có lẽ là do chưa đủ chính niệm, đôi khi nói vòng vo quá nhiều, không thể đề cập đến chủ đề chính, lần gặp mặt đầu tiên nếu không làm được tốt, mà không gặp lại họ lần thứ hai, thì cơ hội cứu người sẽ bị mất đi. Chị gái tôi không đồng ý nữa. Hôm qua, chị ấy đã lên lịch cho tôi gặp một người nữa, chị ấy hỏi tôi có định kể cho người đó biết rằng tôi tu luyện Pháp Luân Công hay không, tôi nói tất nhiên phải nói với người đó, nếu không nói sự thật mà vẫn tiếp tục giao lưu thì đó không phải là lừa dối người ta sao? Lúc đó chị gái tôi tức giận, chỉ vào tôi và nói: ‘Sao em lại tu luyện trở thành người lạnh lùng và nhẫn tâm như vậy? Được, từ bây giờ chị sẽ không quan tâm đến em nữa! Mẹ, đừng quan tâm đến nó nữa, nó muốn sống hay chết thì tuỳ nó!'”

Tôi hỏi: “Chị của cô không tu luyện à?” Cô ấy nói: “Chị tôi trước đây cũng từng tu luyện, trước năm 1999, sau khi cuộc bức hại bắt đầu và tôi bị bắt cóc, chị ấy đã ngừng tu luyện. Một lần cha tôi ép buộc kéo tôi đến bảo tàng khoa học và công nghệ để xem triển lãm chống lại xxx, tôi nghĩ, đi thì đi, sau khi đi tôi đã nói với những người xem ở đó rằng những điều này đều sai, đều là thông tin vu khống và xuyên tạc. Bố tôi đã tức đến phát khóc. Thực ra, lúc đó tâm tôi cũng không ổn định lắm. Nếu vì những gì chúng ta làm không tốt mà người khác bị rơi xuống hoặc bị hủy hoại, thì tội của chúng ta rất nặng”.

Tôi nói: “Tất cả chúng ta ít nhiều đều trải qua một quá trình không ổn định, nhưng tôi nghĩ tình huống của họ không phải là do chúng ta tạo ra, việc chúng ta duy hộ Đại Pháp trong cuộc bức hại này là việc làm chân chính nhất, họ hoang mang, sợ hãi và từ bỏ tu luyện, đó là sự lựa chọn của họ. Chúng ta có trách nhiệm cứu độ họ, điều này là chắc chắn, nhưng chúng ta không phải là nguyên nhân khiến họ rớt xuống. Vì tâm sợ hãi và tư tình của họ quá lớn mà chúng ta không duy hộ Pháp và cứu độ những chúng sinh khác nữa hay sao?”

“Nếu là trước đây, khi họ đề cập đến việc tìm bạn trai, tôi sẽ tự tin phản đối họ bằng những lý lẽ: Vì tu luyện, nên tôi sẽ thế nào đó thế nào đó. Nhưng giờ đây, suy nghĩ của tôi đã thay đổi – phải điều chỉnh tối đa để phù hợp với trạng thái của một người thường, chỉ như vậy mới có thể cứu họ được”.

Tôi nói: “Đúng vậy, chúng ta cần phải phù hợp tối đa với trạng thái của người thường, hơn nữa Sư phụ cũng đã giảng rằng cần thuận theo chấp trước của người thường để cứu độ họ. Tuy nhiên, tôi cho rằng phù hợp với trạng thái và chấp trước của người thường cũng phải có giới hạn. Nếu như là một học viên mới, thì kết hôn sinh con là chuyện bình thường, thậm chí kết hôn với một người thường cũng có thể hiểu được. Nhưng cô không phải là một người mới tu, đã tu luyện bao nhiêu năm, cô lại kết hôn với một người thường khắp thân đầy nghiệp lực sao?”

Cô ấy lắc đầu: “Chắc chắn không thể”. Tôi hỏi: “Vậy điều này không cần nói nữa. Nếu tìm một đồng tu để kết hôn thì sao? Cô có thể đảm bảo hai người sẽ làm được như cặp vợ chồng Tôn giả Ma Ha Ca Diếp giữ thân như ngọc, thay phiên nhau đả toạ tu hành suốt đêm không?” “Không thể làm được”, cô ấy trả lời. Tôi tiếp tục: “Có đồng tu cho rằng giữa các cặp vợ chồng đồng tu hiện tại không nên phát sinh kiểu quan hệ như vậy nữa, tôi cũng nghĩ rằng chắc cũng đã đến lúc rồi. Ai cũng đều còn nhân tâm và dục vọng, mới kết hôn sẽ rất khó kiềm chế. Vào thời khắc cuối cùng của Chính Pháp, đáng ra là nên tu tâm đoạn dục, lại vì kết hôn mà khởi dục vọng, điều này có thể rất nguy hiểm”.

Cô ấy nói: “Tôi nghĩ việc tìm bạn, kết hôn và lập gia đình quá tốn thời gian”. Tôi nói: “Đúng vậy, tôi cũng có ‘thái độ cảnh giác’ như vậy. Mặc dù không nên nhận thức quá cực đoan, nhưng xét cho cùng thì người đã lập gia đình sẽ tốn nhiều thời gian và tinh lực hơn cuộc sống của một người độc thân. Tôi biết rằng có một số đồng tu trẻ, sau khi kết hôn và sinh con, ngoài công việc thì chỉ xoay quanh việc chăm sóc con cái, gần như không có thời gian tu luyện nữa. Điều đó đáng sợ phải không?” Cô ấy hỏi: “Không phải có nhiều đồng tu trẻ sau khi kết hôn và sinh con trạng thái cũng rất tốt sao?” Tôi trả lời: “Đúng, thực tế cũng nên như vậy. Nhưng tôi nghĩ rằng có người đã lạc đường, đó chính là bài học, về vấn đề kết hôn này, cô phải cẩn trọng”.

“Vậy còn anh thì sao? Anh đã lớn như vậy rồi, cha mẹ không giục kết hôn à?” Cô ấy bất ngờ chuyển mục tiêu vào tôi. Tôi cười: “Tình huống của tôi khác với cô, tôi sống một mình, không phải đối mặt với áp lực mà cha mẹ mang lại hàng ngày. Tôi là người rất độc lập, không ỷ lại vào cuộc sống và cảm xúc, thậm chí chưa bao giờ trải qua cảm giác cô đơn trong một phút. Tôi chưa bao giờ có khái niệm sống cùng một người khác, sau khi tu luyện, tôi càng như vậy. Cô xem tôi sống một mình bận rộn như thế này, mỗi ngày làm không hết việc, tôi ước mình có thể không ngủ. Thật không dám tưởng tượng cuộc sống sau khi kết hôn và có con sẽ trở thành thế nào! Nhưng làm sao để giải thích với họ? Họ không hiểu được tâm tính và cảnh giới của chúng ta, chỉ có thể nói đơn giản một chút rằng: ‘Đừng vội, các vị muốn ôm cháu trai, tôi thì còn chưa có ý định ôm con trai đâu'”.

Cô ấy nửa phàn nàn, nửa nói đùa: “Nói tới nói lui, anh cũng chẳng cho tôi một lời khuyên rõ ràng”. Tôi nói “Đúng vậy, con đường là mình tự đi, tôi không thể đưa ra một cách giải quyết cụ thể cho một vấn đề, chỉ có thể giúp cô từ Pháp mà ngộ”. Nói đến đây, tôi bỗng cảm thấy không còn gì để nói nữa, vì tôi vẫn chưa thấu hiểu vấn đề từ Pháp lý, không biết nên tiếp tục như thế nào để nhận thức sâu sắc hơn từ Pháp, đột nhiên dường như trở lên trống rỗng!

Nhưng ngay lúc mà ý thức tôi trống rỗng ấy, một cách thần kỳ, mọi thứ bỗng trở nên rõ ràng, vì vậy tôi tiếp tục nói với cô ấy: “Phương pháp mà người khác đưa ra không nhất thiết phù hợp với cô, càng cụ thể càng không chắc chắn có hiệu quả, không phải vấn đề nằm ở phương pháp. Dù cô kết hôn và có con cũng không chắc chắn có thể cứu được họ. Đúng vậy, sau khi kết hôn, họ không thể phàn nàn với cô về vấn đề này, nhưng cô có thể đảm bảo rằng họ sẽ có nhận thức đúng đắn về Đại Pháp chỉ vì cô kết hôn không? Tôi nghĩ rằng điều đó rất khó, là việc không thực tế. Nếu cô không đủ tinh tấn, không làm tốt những việc chúng ta nên làm, thì vẫn rất khó cứu độ họ. Ngược lại, nếu nhìn từ một góc độ khác, cô không kết hôn vẫn có thể cải biến và cứu độ họ, mà không cần phải nghe họ thúc giục mỗi ngày. Có một điều mà cô chắc chắn biết, đó là Đại Pháp không có gì không thể, hơn nữa còn viên dung. Sư phụ đã giảng rồi:

“Trước đây tôi đã giảng, tôi nói rằng trên thực tế hết thảy những gì phát sinh tại xã hội người thường, hiện nay, đều là do tâm các đệ tử Đại Pháp tạo thành”. (Giảng Pháp tại Pháp hội Philadelphia ở Mỹ quốc năm 2002)

“Đúng vậy, Sư phụ đã giảng rồi”, cô ấy nói. Tôi tiếp tục: “Do đó, tôi tin rằng chắc chắn có cách giải quyết tốt hơn để cải biến họ, mà không nhất thiết phải là kết hôn và sinh con. Tôi nghĩ rằng thật ra vấn đề chính là nằm ở trạng thái của cô, nếu dục vọng của cô thực sự đã coi nhẹ, họ cũng sẽ không mãi giục cô kết hôn nữa, vì tâm tính của cô đã cao đến đó rồi, loại can nhiễu kiểu này cũng sẽ không tồn tại nữa. Nếu như cô đầy chính niệm, làm tốt ba việc, có thêm trí huệ để giảng chân tướng cho họ, thì cô có thể thực sự cải biến họ. Đừng bị mắc kẹt trong một vấn đề tìm kiếm giải pháp giải quyết vấn đề. Khi đã tu luyện đến mức này, nếu cô không muốn kết hôn nhưng lại kết hôn, thì đó chỉ là việc ép buộc, tất nhiên điều đó phụ thuộc vào trạng thái tu luyện của từng cá nhân. Trong số chúng ta, có người muốn kết hôn và lập gia đình, nhưng cũng có người sẽ không chọn kết hôn. Hiện nay là thời khắc cuối cùng của Chính Pháp, chúng ta nên tận dụng thời gian một cách tối đa để làm tốt ba việc, đệ tử Đại Pháp kết hôn lập gia cũng là một phần trong việc đặt nền móng cho con đường tu luyện của nhân loại trong tương lai, Sư phụ đã giảng Pháp về phương diện này rồi. Tất nhiên, mất thời gian và tinh lực là không thể tránh khỏi, ngay hiện tại thì không thể nói là lãng phí, nhưng dù sao thì tôi cũng không thể chịu đựng được. Tôi nghĩ rằng việc phù hợp tối đa với xã hội người thường không phải là chúng ta phải tuân theo và thích nghi với xã hội người thường, không phải là xã hội người thường trói buộc chúng ta, mà chính là chúng ta cải biến và cứu độ họ. Tinh tấn, chính niệm chính hành, đường đường chính chính, đây là trạng thái tu luyện chúng ta nên có, cũng là nền tảng để giải quyết vấn đề”.

Cô ấy lặp lại lời Sư tôn: “Tâm các đệ tử Đại Pháp tạo thành”…. và tiếp tục nói, “Ừ, tôi phải quay về ngộ thêm”.

Vài ngày sau, cô ấy lại đến với vẻ mặt tươi cười: “Hai ngày nay mẹ tôi không nhắc đến chuyện đó nữa!” Tôi cũng rất vui, nói rằng: “Thay đổi nhanh như vậy à?”

“Chị gái tôi cũng không giận dỗi với tôi nữa, hôm nay chị ấy còn gọi điện thoại cho tôi và cười nói: ‘Khi nào em lại trở thành người nổi tiếng như vậy? Lại có người muốn giới thiệu bạn trai cho em rồi đó!” Tôi nói: “Có người đang chờ cô cứu độ đấy”. “Đúng vậy, tôi nghĩ, nếu có người được giới thiệu đến, thì tốt lắm, có lẽ họ và tôi có duyên, tôi phải tiết lộ chân tướng và cứu độ họ”.

Tôi nhân tiện hỏi cô ấy: “Nếu tôi viết một bài về cuộc trò chuyện giữa chúng ta về việc tìm bạn kết hôn rồi đăng lên trang web của chúng ta để giao lưu chia sẻ, cô không phiền chứ?” “Được, tuyệt vời!” Cô ấy vui vẻ nói rằng: “Hãy đăng nhanh nhé, tôi chờ xem phản hồi của các đồng tu và xem họ ngộ như thế nào”.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/55122

The post Bút ký tu luyện: Rắc rối của đồng tu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bút ký tu luyện: Không nhặt của rơi và trạng thái của Thầnhttps://chanhkien.org/2023/05/but-ki-tu-luyen-khong-nhat-cua-roi-va-trang-thai-cua-than.htmlThu, 25 May 2023 02:39:14 +0000https://chanhkien.org/?p=30223Tác giả: Thiên Chân [ChanhKien.org] Không lâu trước đây, tôi đã giao lưu chia sẻ với hai bạn đồng tu, họ đề cập đến một bài chia sẻ của một đồng tu khác. Vì không nhớ chính xác tiêu đề, nên tôi không thể tìm đọc được. Qua lời kể ngắn gọn của họ, tôi […]

The post Bút ký tu luyện: Không nhặt của rơi và trạng thái của Thần first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiên Chân

[ChanhKien.org]

Không lâu trước đây, tôi đã giao lưu chia sẻ với hai bạn đồng tu, họ đề cập đến một bài chia sẻ của một đồng tu khác. Vì không nhớ chính xác tiêu đề, nên tôi không thể tìm đọc được. Qua lời kể ngắn gọn của họ, tôi biết quan điểm của bài viết đó đại khái là: các đệ tử Đại Pháp không nên nhặt tiền của người khác, bởi vì đó là vị tư, Thần sẽ không nhặt tiền. Hai bạn đồng tu rất không đồng ý với quan điểm này, và chỉ ra rất rõ ràng: Điều này không phải là nói nhận thức của chúng tôi cao như nào, nhưng chúng tôi nghĩ rằng, làm một đệ tử Đại Pháp, nhặt được tiền không nhất định là vị tư.

Cả hai bạn đồng tu này đều đã từng nhặt được tiền. Một người nhặt được tiền bên bờ sông, vài tờ tiền bị gió thổi và cuốn theo đến nơi cô đang đứng. Nếu không nhặt, tiền sẽ bị cuốn bay xuống sông mất. Sau khi đợi hơn hai mươi phút và không thấy ai đến tìm, cố ấy không nghĩ nhiều, trực tiếp đưa tiền cho điểm tài liệu. Còn đồng tu kia sau khi nhặt được tiền, không thể tìm được chủ sở hữu của số tiền đó, trong đầu cô nghĩ: Tiền này là đến vì Pháp. Vì vậy, cô ấy đem số tiền đó đi mua nguyên liệu làm tài liệu giảng thanh chân tướng.

Vậy rốt cuộc thấy tiền rơi có nên nhặt tiền không? Có vẻ như đây là một câu hỏi rất đơn giản nhưng quan điểm của đồng tu lại có thể rất khác nhau. Xem ra vẫn phải từ Pháp để thảo luận vấn đề này, vì vấn đề này liên quan đến những thứ rộng lớn hơn. Trong bài viết này chúng ta có thể chia sẻ quan điểm của mình với các đồng tu.

Việc nhặt được tiền của người khác không nhất định là hành động vị tư, mà phụ thuộc vào tâm thái của người nhặt tiền lúc đó và cách mà họ sử dụng số tiền đó.

Văn hóa không nhặt đồ thất lạc trên đường đã tồn tại ở Trung Quốc cổ đại, thậm chí một số nơi ở các nước phương Tây có phong tục không đóng cửa vào ban đêm và không nhặt đồ thất lạc trên đường. Nếu mọi người đều như vậy thì không phải tốt quá rồi sao? Người mất đồ có thể tìm lại được đồ của mình vào ngày mai. Từ góc độ lớn hơn, điều đó cho thấy một xã hội chưa suy thoái đến mức quá thấp. Tuy nhiên, xã hội Trung Quốc đại lục ngày nay đã bị tà đảng Trung Cộng tàn phá đến thối nát, khác xa trạng thái của một xã hội bình thường rồi. Nhiều người chỉ vì tiền bạc mà làm bất cứ điều gì, huống hồ là nhặt đồ đánh rơi trên đường. Nếu bạn lấy tiền đó và chi tiêu thì có thể đang tạo nghiệp, vì tiền đó không thuộc về bạn. Đương nhiên cũng có thể là bằng cách này người bị mất đồ đó trả nghiệp cho người nhặt được tiền kia mà không biết, nếu bạn giao số tiền đó cho cảnh sát hoặc cho một người khác giữ tiền để chờ người mất đồ đến nhận lại, họ có thể biển thủ số tiền đó cho riêng mình, điều đó càng tạo nghiệp hơn.

Dựa trên thực trạng xã hội hiện nay, việc một người không nhặt đồ làm rơi trên đường là rất hiếm, tuy nhiên điều đó cũng chỉ là kiềm chế lòng tham của con người, giữ mình trong sạch, không vượt qua giới hạn của con người. Trái lại, dù là tìm hay không tìm được chủ nhân, thì việc chúng ta làm đều là phi thường, người thường không thể làm được. Nếu chúng ta tìm thấy người làm rơi đồ, không chỉ trả lại tài sản cho người đó, mà quan trọng hơn là chúng ta có thể nắm bắt cơ hội giảng chân tướng trực diện cứu người; còn khi chúng ta không tìm thấy người làm mất đồ, thì chúng ta sử dụng tiền đó để làm tài liệu giảng chân tướng, cũng là đang làm việc cứu người. Theo lý luận của con người ở đây, dùng hết số tiền nhặt được để làm việc tốt cho người khác đã là làm việc thiện, đáng quý hơn việc không nhặt tiền vì nghĩ cho bản thân mình. Mà chúng ta sử dụng nó để cứu độ chúng sinh, thì không những không xâm phạm đến trạng thái của xã hội loài người, mà còn là việc người bình thường không thể làm được, đó là việc đại thiện. Khi tiền của người làm mất kia được dùng vào việc thiện như vậy, thì anh ta sẽ nhờ đó mà được hưởng phúc phận, mà chính đồng tiền kia cũng sẽ có một nơi chốn tốt đẹp trong tương lai.

Như vậy có vẻ hơi quá chú trọng vào vấn đề cụ thể rồi. Thực tế vấn đề này liên quan đến chúng ta làm một đệ tử Đại Pháp không chỉ là không phá hủy lẽ thường của xã hội nhân loại mà còn là vấn đề nhận thức đúng về trạng thái của Thần. Chúng ta là những người tu luyện, là những sinh mệnh đặc biệt, khác với người thường và cũng khác với Thần Phật. Người thường không chỉ không có Thần tính, nếu không trở thành người tu luyện thì sẽ không thể trở thành Thần; còn Thần Phật thì không tu luyện ở nhân gian, đồng thời cứu độ chúng sinh. Chúng ta vừa phải phù hợp tối đa trạng thái của nhân loại và phải tu luyện thăng hoa theo tiêu chuẩn của Đại Pháp để bước đi trên con đường trở thành Thần; cần buông bỏ mọi chấp trước, tu tâm đoạn dục, nhưng đồng thời phải thực hiện các công việc cụ thể để cứu độ chúng sinh. Vì vậy, chúng ta không thể để bản thân lẫn lộn với người thường và cũng không thể biểu hiện trạng thái giống như Thần; không thể phá vỡ cái mê của nhân loại, nhưng đồng thời phải dùng chính niệm đối đãi tất cả.

Có một số đồng tu cho rằng Thần thấy tiền sẽ không nhặt vì Thần là vô vi thanh tịnh, không có tham vọng của con người và không bao giờ muốn lấy những thứ không thuộc về mình. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng cách nhìn này vẫn chưa đầy đủ, vì trạng thái của Thần không chỉ dừng lại ở đó. Chính Thần là từ bi, vô tư và có trí huệ to lớn, và sự vô tư của Thần không chỉ hiện diện trong việc không đòi hỏi những gì thuộc về chính mình, quan trọng hơn là, Thần, đặc biệt là các vị Chủ và Vương của các thế giới, đều suy nghĩ và bận tâm về các chúng sinh trong thế giới của mình. Trong trạng thái như này, Thần sẽ an bài mọi việc tốt nhất vì lợi ích của chúng sinh. Bây giờ chúng ta chính là vì chúng sinh mà nghĩ, vì vậy, chúng ta phải làm việc và nhìn nhận vấn đề từ một tầm nhìn cao hơn, chứ không chỉ hạn chế ở góc độ cá nhân.

Trên thực tế, nếu coi việc cứu độ chúng sinh là ưu tiên hàng đầu, thì không cần nghĩ xem Thần sẽ làm như thế nào, chúng ta sẽ có được trí huệ phù hợp từ Pháp, đối với bất kỳ vấn đề nào chúng ta cũng có cách nhìn đúng đắn, từ đó mà làm tốt hơn.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/61264

The post Bút ký tu luyện: Không nhặt của rơi và trạng thái của Thần first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bút ký tu luyện (5): Lịch sử được sửa lại cho đúnghttps://chanhkien.org/2023/03/but-ky-tu-luyen-5-lich-su-duoc-sua-lai-cho-dung.htmlSat, 11 Mar 2023 00:10:29 +0000https://chanhkien.org/?p=29760Tác giả: Chân Ngu [ChanhKien.org] 1. Giới thiệu Vài năm trước, một mẩu chuyện đột nhiên mở ra trong đầu tôi. Thời gian gần đây trong quá trình dụng tâm học Pháp, mẩu chuyện này lại tái hiện trở lại, và một số tình tiết trước đây không rõ ràng hoặc mơ hồ thì nay […]

The post Bút ký tu luyện (5): Lịch sử được sửa lại cho đúng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Chân Ngu

[ChanhKien.org]

1. Giới thiệu

Vài năm trước, một mẩu chuyện đột nhiên mở ra trong đầu tôi. Thời gian gần đây trong quá trình dụng tâm học Pháp, mẩu chuyện này lại tái hiện trở lại, và một số tình tiết trước đây không rõ ràng hoặc mơ hồ thì nay tất cả đã trở nên rõ ràng. Trong học Pháp, tư duy cũng dường như liên tục được khai mở, liên tục hiểu ra rất nhiều điều mà trước đây không hiểu…

Xin kể câu chuyện này trước, nếu không sẽ rất khó biểu đạt ra những gì tôi muốn bày tỏ phía sau:

Tôi không biết đó là năm nào, chỉ biết là thời xa xưa. Hình tượng xoay quanh một người mà triển khai, tôi không biết người này là ai, tạm gọi là A. Khi A còn rất nhỏ, sư phụ của anh đã luôn luôn theo suốt anh, là một lão đạo sĩ hiền từ, mà còn chơi với anh ta, nhưng người khác không biết điều đó. Sau này, lão đạo sĩ đã rời đi. Trước khi đi, lão đạo sĩ nói với anh ta: “Ta sắp từ biệt ngươi, đợi đến năm nào đó, ngươi nhớ tới ngọn núi nào đó tìm ta, ta là sư phụ của ngươi”.

Sau đó lão đạo sĩ này không xuất hiện lại nữa. A rất thông minh, khi lớn lên anh xem rất nhẹ mọi thứ trên đời, nhất tâm hướng Đạo, cùng với tuổi tác tăng thêm thì cái tâm tu luyện cầu Đạo của A càng ngày càng mạnh mẽ. Anh thường nghĩ về lão đạo sĩ mà anh gặp khi còn nhỏ, và những gì lão đạo sĩ đã nói với anh khi ông ấy rời đi: đến một năm nọ, hãy đến một ngọn núi nào đó để tìm ta, ta là sư phụ của ngươi.

Chẳng mấy chốc đã đến năm ấy, A liền từ biệt gia đình, còn nói lời từ biệt như thế nào thì tôi không biết, dù sao cũng đã rời nhà, đã lên núi đó tìm Đạo.

Khi đến chân núi, anh ta hỏi những người dân làng sống trên sườn núi, nhưng họ chưa bao giờ nghe nói về một lão đạo sĩ như vậy trong núi. A đành phải tự mình vào sâu trong núi để tìm. Không biết đã tìm bao lâu, nhưng rồi trong núi sâu xuất hiện một đạo quán. A rất phấn chấn vội vã chạy vào. Bên trong có một đạo sĩ tóc vàng ngồi đó hỏi: “Một mình vào núi sâu làm gì vậy?”

A nói rằng anh ta đến tìm sư phụ để cầu Đạo. Đạo sĩ tóc vàng liền hỏi: “Vậy thì ngươi hãy nhìn ta, xem có giống sư phụ mà ngươi muốn tìm không?”

A liền hồi tưởng lại, đoạn ký ức khi nhỏ càng ngày càng rõ ràng, lão đạo sĩ đi theo anh ta từ nhỏ trông giống như lão đạo sĩ tóc vàng trước mặt, càng nhìn càng giống, một chút cũng không sai. Anh ta vội vàng hành lễ quỳ bái sư phụ.

Sau đó đạo sĩ tóc vàng liền giảng Đạo cho A. Cũng không biết đã giảng được bao lâu, A càng ngày càng cảm thấy khó chịu, Đạo mà đạo sĩ tóc vàng giảng cho anh ta khác xa Đạo mà anh khao khát trong lòng, quả thực là hoàn toàn trái ngược nhau. A càng ngày càng thất vọng, cuối cùng quyết định rời đi, tiếp tục đến nơi khác cầu Đạo mà lòng mình mong muốn.

Ngay khi A quyết định rời đi, đạo sĩ tóc vàng đã rất tức giận, hỏi anh ta tại sao lại rời đi. A nói một cách kiên quyết: “Đạo của ngài ở đây không phải là Đạo mà tôi tìm kiếm, Đạo như thế tôi thà không tu!”

Xem ra không ngăn cản được, đạo sĩ tóc vàng đột nhiên lộ ra vẻ mặt dữ tợn, đúng khi ông ta sắp ra tay với A, đột nhiên một tia chớp cắt đạo sĩ tóc vàng thành hai đoạn, ngã xuống đất hiện hình là một con chồn, Đạo quán cũng đã được phục hồi thành một sơn động âm u.

Lúc này, một lão đạo sĩ từ trên trời hạ xuống, dung mạo phi phàm, vô cùng nhân hậu. Ông ấy cười và nhìn A đang ngơ ngác: “Tại sao sư phụ ở trước mặt, mà lại không nhận ra?”

A ngẩn người đứng ở nơi đó, anh không kịp phản ứng, anh không biết đạo sĩ trước mặt là ai, bởi vì đó hoàn toàn không phải là đạo sĩ trong ký ức hồi nhỏ của anh, đạo sĩ tóc vàng nhìn thấy lúc nhỏ rõ ràng là đã biến thành con chồn.

Đạo sĩ này vẫy tay chào A, rồi hỏi: “Nhìn lại xem, ta có phải là sư phụ của ngươi không?”

Lúc này A đột nhiên nhớ lại, đạo sĩ mà mình nhìn thấy hồi nhỏ rõ ràng chính là đạo sĩ nhân từ trước mặt, hoàn toàn không phải lão đạo sĩ tóc vàng, chuyện này là sao?

Lão đạo sĩ nói với A rằng đạo sĩ tóc vàng là hình người mà một con yêu tinh chồn biến thành, từ khi A mới lên núi thì nó đã để mắt tới A, A sinh ra trên thân đã mang một cái gì đó rất đặc biệt, nên con chồn đó muốn lấy được thứ trên thân của của A, vì vậy nó đã sử dụng yêu thuật để thay đổi ký ức của A, xóa bỏ hình ảnh vị đạo sĩ trong ký ức hồi nhỏ của anh, hoán đổi thành hình ảnh của nó, làm cho A nghĩ rằng sư phụ mà anh ta đang tìm kiếm chính là nó, và đi theo nó để học yêu thuật.

Đây cũng là một khảo nghiệm đối với A trong quá trình cầu Đạo, xem A có thể nhận biết được chính tà không, tâm Đạo có thuần chính hay không. Lão đạo sĩ đã trực tiếp theo dõi từ đầu đến cuối, con chồn đó hoàn toàn không biết gì, cho đến khi A đã vượt qua được khảo nghiệm, lão Đạo sĩ mới ra tay chém chết con chồn.

A nhất thời không thể tiếp nhận nổi việc này: Ký ức cũng có thể sửa đổi sao? Có phải những ký ức của bản thân đều không đáng tin cậy? Chẳng nhẽ những sự việc bản thân đã làm trong cuộc đời này, con đường đã đi qua, mọi thứ đã từng trải qua, có thể không phải là những gì như mình biết?

Thấy A vẫn còn đang ngây người ra, lão đạo sĩ hỏi anh ta: “Ta bảo ngươi mang tín vật đến, ngươi có mang đến không?”

Tín vật? A hoảng sợ, gắng sức nhớ lại, lục lại ký ức, nhưng hoàn toàn nghĩ không ra bất kỳ hình ảnh nào liên quan đến tín vật. Lão đạo sĩ cười bảo anh ta sờ vào thắt lưng. A liền sờ vào thắt lưng, sờ thấy một mảnh ngọc bội nhỏ. Nhìn thấy ngọc bội đột nhiên nhớ ra rằng hồi nhỏ khi lão đạo sĩ rời anh ra đi đã tặng cho anh một mảnh ngọc bội, bảo anh mang giữ nó bên mình, đến khi lên núi để tìm ông thì cầm mảnh ngọc bội này. Bây giờ A mới nhớ rằng mình đã luôn giấu mảnh ngọc bội này bên mình trong nhiều năm như thế, tại sao bây giờ mới nhớ ra? Vậy mà trước đó sao không có ký ức này?

Lẽ nào ký ức của bản thân lại bị sửa đổi sao? A nhìn lão đạo sĩ một cách nghi ngờ.

Lão đạo sĩ cười nói: “Ký ức của ngươi chỉ là hình tượng, ta thì không sửa đổi ký ức của ngươi, đó chỉ là yêu thuật che tai mắt con người. Ta bây giờ đang đứng trước mắt ngươi, nhưng cả cuộc đời của ngươi lại đồng thời đang ở trước mặt ta. Ta có thể cùng lúc tiến nhập vào bất kỳ thời khắc nào trong sinh mệnh của ngươi, xuất hiện trước mắt ngươi, lại đồng thời thoát ra khỏi bất kỳ khoảnh khắc nào trong sinh mệnh của ngươi, không để lại dấu vết nào. Hiện tại, ta đứng trước mắt ngươi, điều này đối với ngươi mà nói là “hiện tại”. Nhưng quá khứ và tương lai của ngươi, đối với ta mà nói đều là “hiện tại”. Ta vừa đồng thời nói chuyện với ngươi, nhưng lại tiến nhập vào quá khứ của ngươi, đưa cho ngươi miếng ngọc bội này, lại trở về hiện tại trước mắt ngươi. Vì vậy trong quá trình sinh mệnh từ đó về sau ngươi đã có miếng ngọc bội này, hiện tại đang ở trên thân ngươi. Ký ức của ngươi không sai, ngươi không nhớ được ta đã đưa cho ngươi miếng ngọc bội là bởi vì trước kia ta thật sự không đưa cho ngươi miếng ngọc bội, cho nên ngươi không nhớ được, trong quá trình sinh mệnh của ngươi hoàn toàn không có miếng ngọc bội này. Bây giờ ta đã tiến nhập vào quá khứ của ngươi, đã đưa cho ngươi miếng ngọc bội này, vì vậy từ nay trở đi, trong quá trình sinh mệnh của người từ nay về sau có miếng ngọc bội này, nên bây giờ ngươi cũng đột nhiên có thể nhớ ra. Không phải là ký ức của ngươi đã bị sửa đổi, mà là quá trình sinh mệnh của ngươi đã được sửa đổi. Ta đã luôn ở ngay trước mắt ngươi”.

2. Tôi là ai?

“Tại sao tôi lại bảo bản thân chư vị tu? Nếu như thực sự dùng Đại Pháp để tái tạo chư vị, không để cho chư vị tu, từ vi quan của sinh mệnh cho đến bề mặt, tương lai sẽ vĩnh viễn không còn là chư vị nữa. Tất cả ký ức, tất cả tư tưởng và phương thức tồn tại của chư vị đều sẽ cải biến, chư vị [sẽ] không biết mình là ai, đó được gọi là tái tạo lại mới. Đó là sự việc rất đáng sợ, đó không phải là vấn đề độ nhân nữa rồi.” (Giảng Pháp tại Pháp hội Canada [1999])

“Nhưng [tạo] thành mới ấy, duy nhất chỉ là những sinh mệnh nguyên thủy kia, [và] những tinh hoa vượt qua những năm tháng đằng đẵng ấy đều mất hết. Cái gì cũng đều mất hết, tùng tân tái tạo, đến khi hết thảy [dù] đi theo hướng cùng dạng quá trình ấy thì cũng không nhất định là giống như thế, [những gì] mất đi thì luôn cảm thấy đáng quý” (Giảng Pháp tại Pháp hội New York 2019)

Tại tầng thứ cá nhân tôi hiểu rằng: Tái tạo một sinh mệnh có thể tương đương với việc hoàn nguyên sinh mệnh đó về trạng thái ban đầu, tương đương với hoàn nguyên lại thời điểm ban đầu khi anh ta sinh ra, có nghĩa là tương đương với việc xóa bỏ toàn bộ quá trình sau khi sinh mệnh này được sinh ra.

Sau khi một sinh mệnh được tái tạo, nó có thể giống với sinh mệnh ban đầu về hình tượng, đặc điểm v.v. nhưng không còn là sinh mệnh ban đầu kia nữa mà là một sinh mệnh khác hoàn toàn không liên quan.

Một sinh mệnh không chỉ khi sinh ra đã là người đó, mà toàn bộ quá trình sinh mệnh sau đó của người đó đều là người đó, nếu trải qua một quá trình hoàn toàn khác, người đó sẽ trở thành một sinh mệnh khác.

Sinh mệnh lúc đầu sinh ra là một tờ giấy trắng, phần khi sinh ra chỉ là tải thể, là toàn bộ quá trình sau khi sinh ra đã thành tựu nên sinh mệnh này. Quá trình này chính là người đó, người đó chính là quá trình này, tất cả tư tưởng, tất cả ký ức, nội hàm và phương thức tồn tại của người đó v.v. đều được tích tụ trong quá trình này mà thành.

Cho dù khi hai sinh mệnh được sinh ra giống hệt nhau, nhưng quá trình phát triển của họ khác nhau, thì họ sẽ trở thành hai sinh mệnh khác nhau. Ngay cả khi họ được đặt trong hoàn cảnh ban đầu giống hệt nhau, họ cũng có thể phát triển thành hai sinh mệnh hoàn toàn khác nhau, quá trình phát triển khác nhau.

Tôi là ai? Đối với câu hỏi muôn thuở này, ở tầng thứ cá nhân tôi cho rằng đó là toàn bộ quá trình của người đó.

Tất cả những thứ tồn tại khi sinh mệnh ra đời tạm gọi là cấu tạo của sinh mệnh, nó chỉ là điểm khởi đầu nhất ở trong quá trình sinh mệnh, nếu không có quá trình sinh mệnh sau đó thì không thể đại diện cho sinh mệnh này. Cấu trúc của sinh mệnh cùng với toàn bộ quá trình phát triển của người đó, mới đại diện cho sinh mệnh này.

3. Quá khứ – hiện tại – tương lai

Quá khứ, hiện tại và tương lai là những khái niệm do con người định nghĩa ra dưới sự chế ước của trường thời gian con người. Nó thay đổi và liên tục thay đổi theo thời gian. Nếu trong trường thời gian này, đi từ điểm khởi đầu của sơ khai nhất đến điểm kết thúc cuối cùng nhất theo thời gian thì nó được gọi là một quá trình.

Vậy “hiện tại” là gì? Nó là một điểm trong quá trình này, một điểm trong dòng chảy liên tục theo thời gian. Khi chúng ta nói ra từ “hiện tại” này, nó đã trở thành “quá khứ”, bởi vì thời gian đang trôi qua. “Tương lai” lại không ngừng biến thành “hiện tại”, “hiện tại” không ngừng biến thành “quá khứ”, và “quá khứ” đều đã từng là hiện tại.

Cũng có thể nói rằng mọi điểm trong toàn bộ quá trình này đều đã từng là “hiện tại”, cũng đều có thể là “hiện tại”.

Nếu nhảy ra khỏi sự chế ước của trường thời gian, thì quá trình này, từ đầu đến cuối, đều sẽ triển hiện đồng bộ trước mặt, là nhất thể đồng tại. Vì vậy, quá trình này, từ đầu đến cuối, đều là “hiện tại”, hoàn toàn không có khái niệm quá khứ hay tương lai. Cũng giống như câu chuyện mở đầu, lão đạo sĩ có thể đồng thời tiến nhập vào bất kỳ thời điểm nào trong sinh mệnh của A, xuất hiện ở trước mắt anh, cũng có thể ra khỏi bất kỳ thời điểm nào trong sinh mệnh của anh vào bất cứ lúc nào mà không để lại bất kỳ dấu vết gì. Bởi vì sinh mệnh của A, từ đầu đến cuối, quá khứ và tương lai, đều đồng thời ở trước mắt ông, đối với ông mà nói đều là “hiện tại”, ông không bị chế ước của trường thời gian này.

Cá nhân tôi nhận thức rằng: “Hiện tại” chính là nơi chủ ý thức đang tồn tại. Dưới sự chế ước của trường thời gian, trong cả quá trình thì điểm mà chủ ý thức đang tồn tại chính là “hiện tại”; nhảy xuất ra khỏi sự chế ước của trường thời gian thì toàn bộ quá trình đều là “hiện tại”.

4. Quá trình vĩnh hằng

Chúng ta đều là những sinh mệnh được sinh ra trong vũ trụ này, đều chịu sự chế ước về thời gian ở các tầng thứ khác nhau trong vũ trụ, chỉ có Sư tôn là ở bên ngoài vũ trụ, vượt qua hết thảy mọi thời gian.

Ở tầng thứ cá nhân tôi nhận thức rằng: Vũ trụ này của chúng ta, toàn bộ quá trình từ đầu đến cuối, thành trụ hoại diệt, đều đồng thời ở trước mắt Sư tôn.

Vũ trụ là do Sư tôn và Đại Pháp tạo ra, vì vậy khi được sinh ra, toàn bộ vũ trụ đều ở trong Đại Pháp và đồng hóa với Đại Pháp. Nhưng bởi vì không có sinh mệnh nào trong vũ trụ quá khứ biết đến sự tồn tại của Đại Pháp, cho nên trong quá trình dài đằng đẵng tất cả các sinh mệnh trong vũ trụ dần dần xa rời Đại Pháp, do đó tiến nhập vào quá trình thành trụ hoại diệt, cuối cùng đi đến kết thúc.

Vũ trụ từ khi sinh ra cho đến khi kết thúc, toàn bộ quá trình ở trước mặt Sư tôn là nhất thể đồng tại. Cá nhân tôi nhận thức rằng: Khi vũ trụ được sinh ra, Sư tôn cũng đồng thời nhìn thấy sự kết thúc của nó. Có nghĩa là, khi quá trình này được sinh ra, thì sự kết thúc cũng đã xuất hiện đồng bộ, bởi vì nó đã xuất hiện kết thúc, cho nên quá trình này cũng đã kết thúc, không thể tiếp tục lưu tồn.

Nếu nó có thể tiếp tục lưu tồn mãi mãi, vậy thì nó là vĩnh hằng, vậy thì quá trình này nhất định không được xuất hiện kết thúc, không được chấm dứt. Cũng có nghĩa là quá trình này chỉ có bắt đầu mà không có kết thúc. Chỉ có Đại Pháp là vĩnh hằng, vĩnh viễn viên dung bất phá, vũ trụ nếu muốn vĩnh hằng thì trong quá trình đó nhất định phải đồng hóa với Đại Pháp, cho dù có xuất hiện lệch hướng thì cũng phải kịp thời quy chính, quay trở về trong Pháp. Như vậy vũ trụ mới có thể là vĩnh hằng bất diệt, quá trình này sẽ vĩnh viễn không bao giờ kết thúc.

Sư tôn có tất cả năng lực, cái gì cũng làm được. Cá nhân tôi hiểu rằng: Sư tôn có thể ở bên ngoài vũ trụ, dùng Đại Pháp để quy chính bất kỳ sai lệch nào trong quá trình của vũ trụ, để nó hoàn toàn đồng hóa với Đại Pháp. Cho nên nếu dùng phương thức bên ngoài này để quy chính sự sai lệch của vũ trụ tại bất kỳ một điểm nào trong quá trình này, thì có thể tương đương với việc xóa bỏ toàn bộ quá trình trước điểm này, khiến nó trở về trạng thái ban đầu, làm lại từ đầu. Điều này tương đương với sự tái tạo.

Vũ trụ sau khi được tái tạo sẽ bắt đầu lại từ đầu, nảy sinh quá trình mới, sinh mệnh trước đó sẽ không còn tồn tại nữa. Trong quá trình mới này, hết thảy sinh mệnh vẫn chưa biết đến sự tồn tại của Đại Pháp của vũ trụ, vẫn sẽ lệch khỏi Đại Pháp, sau đó lại lần nữa bước vào quá trình thành trụ hoại diệt, lại lần nữa đi đến kết thúc…

“Trong quá trình lịch sử của vũ trụ cự đại, trong vũ trụ có hằng bao nhiêu huy hoàng! Nhân loại trên một cái tinh cầu bé xíu thế này còn là như thế, vậy trong vũ trụ vô số tinh cầu, lạp tử to nhỏ đều bất đồng, trên mặt [các tinh cầu] đó có vô lượng vô số sinh mệnh, Thần cũng không tra ra được có bao nhiêu sinh mệnh và đã sáng tạo ra hằng bao nhiêu huy hoàng! Mỗi cá nhân đều giống như một bộ sách lịch sử, ai ai cũng tựa như một bộ truyện trường thiên đầy sinh động, những chuyện trải qua hết đời này đời khác khi nhìn lại cũng thật thú vị. Vũ trụ cự đại như vậy, chúng sinh vô lượng vô kể; hết thảy đều huỷ đi thì rất đáng tiếc” (“Thế nào là đệ tử Đại Pháp” – Giảng Pháp tại Pháp hội New York năm 2011)

Vì sự vĩnh hằng và hạnh phúc của tất cả sinh mệnh trong vũ trụ, Sư tôn đã bước vào vũ trụ và gánh vác tất cả nợ nghiệp của tất cả sinh mệnh trong vũ trụ do họ đi chệch khỏi Đại Pháp mà sinh ra trong quá trình thành trụ hoại diệt, từng tầng hạ xuống, lần đầu tiên truyền Đại Pháp của vũ trụ cho tất cả chúng sinh trong vũ trụ. Sư tôn cho phép tất cả sinh mệnh lựa chọn tương lai của mình một cách công bằng để đồng hóa với Đại Pháp một cách tự nguyện. Bởi vì tự nguyện đồng hóa với Đại Pháp và tự nguyện thay đổi, nên mọi sai lệch trong quá trình sinh mệnh đều sẽ tự động được quy chính, tịnh tẩy trong Đại Pháp, cái tốt lưu lại, cái xấu bỏ đi. Như thế, toàn bộ quá trình sinh mệnh được bảo lưu, sẽ không trở lại trạng thái ban đầu, sinh mệnh được đắc cứu, vẫn là sinh mệnh ban đầu, nhưng chỉ là quá trình đã được tịnh tẩy, sẽ không còn đi đến kết thúc như lúc ban đầu, mà là bước vào vũ trụ mới và đạt được sự vĩnh hằng và hạnh phúc! Đối với những người từ chối Đại Pháp, quá trình sinh mệnh của họ thuộc về vũ trụ cũ, họ chắc chắn đi đến kết thúc ban đầu, không có tương lai, dấu vết của họ sẽ không được lưu lại trong vũ trụ mới.

5. Quá trình có sinh mệnh

Ở tầng thứ cá nhân tôi thể ngộ: Nếu một quá trình cuối cùng đi đến kết thúc, thì quá trình này không có sinh mệnh, không cách nào chi phối bản thân một cách tự chủ. Thời gian chỉ là khắc độ (vạch, nấc) của quá trình, nó không phải là yếu tố “thay đổi” của quá trình. Toàn bộ quá trình kỳ thực là nhất thể, là một “sinh mệnh thể”, là liên đới mà đồng bộ sinh thành, nếu không có sức sống thế thì quá trình này là quá trình chết. Cũng giống như cơ thể con người, nếu không có sự chi phối của nguyên thần, thì nó sẽ chết, không có sức sống, không thể hoạt động một cách tự chủ.

Khi sinh ra, chính là đã đồng thời tạo ra toàn bộ quá trình, cũng đã đồng thời xuất hiện kết thúc. Cũng có nghĩa là ngay khi quá trình này được sinh ra thì đã đồng bộ kết thúc rồi, thời gian chỉ là thước đo cố định giữa bắt đầu và kết thúc quá trình này, quá trình này là cố định, sẽ không sinh ra bất kỳ thay đổi nào một cách tự chủ, sẽ không tiếp diễn một cách tự chủ, cho nên đó là một quá trình không có sinh mệnh.

Nếu can dự cưỡng ép từ bên ngoài, làm cho nó phát sinh biến hóa, thì nó sẽ đồng bộ trở thành một quá trình khác với sự liên đới một cách tương ứng, vẫn là một quá trình cố định, quá trình chết, vẫn là có kết thúc, sẽ không tự chủ biến hóa, sẽ không tự chủ tiếp diễn.

Nếu một quá trình có thể tiếp diễn một cách tự chủ, biến đổi vô tận, viên dung bất phá, thì sẽ không xuất hiện kết thúc, thì quá trình này là quá trình “sống”, là quá trình có sinh mệnh. Chỉ có khởi đầu, không có kết thúc, thay đổi và tiếp diễn vô tận không dừng.

Thể ngộ ở tầng thứ cá nhân tôi: Đại Pháp là ngọn nguồn sinh mệnh của quá trình vũ trụ, ban sức sống cho quá trình vũ trụ.

Bởi vì cựu vũ trụ là do Đại Pháp tạo ra, cho nên lúc mới ra đời nó nằm trong Pháp, nó có sức sống ban đầu, có thể dưới sự thúc đẩy của sức sống ban đầu này, tiếp diễn vận chuyển và phát triển ra quá trình. Nhưng bởi vì trong quá trình phát triển, cựu vũ trụ dần dần lệch lạc với Đại Pháp, rời xa khỏi nguồn gốc của sinh mệnh, vì vậy dần dần mất đi sức sống, đi đến thành trụ hoại diệt, trở thành quá trình chết.

Sư tôn tiến nhập vào vũ trụ để Chính Pháp, lần đầu tiên truyền Đại Pháp của vũ trụ cho tất cả chúng sinh trong vũ trụ, và các đệ tử Đại Pháp trong quá trình trợ Sư Chính Pháp đã dung luyện thành các lạp tử của Đại Pháp trong vũ trụ, kết nối vũ trụ mới với Đại Pháp, khiến vũ trụ mới có được sức sống thực sự. Quá trình này là tự chủ vận hành, thay đổi vô cùng vô tận, tiếp diễn không ngừng, tràn đầy sức sống, là quá trình có sinh mệnh, trở thành chủ thể thực sự của chính mình.

Sư tôn đã hồi sinh tất cả những điều này, và ban sinh mệnh thật sự cho tất cả những điều này, khiến các sinh mệnh từ đó trở thành chủ nhân thực sự của bản thân mình.

6. Sửa đổi lại lịch sử

Các đệ tử Đại Pháp sẽ là những sinh mệnh xuất sắc và đặc biệt nhất trong vũ trụ mới, Sư tôn đã ban cho chúng ta những năng lực và vinh dự đặc biệt mà bất kể sinh mệnh nào cũng vĩnh viễn không có được, chúng ta sẽ đồng tại cùng với vũ trụ mới, vũ trụ bất diệt, chúng ta cũng bất diệt. Chúng ta là Thần bảo hộ của vũ trụ mới, là cầu nối câu thông giữa vũ trụ mới và Đại Pháp, duy trì sức sống của vũ trụ mới. Thật là may mắn và vinh diệu biết bao khi được làm đệ tử Đại Pháp!

Trong quá trình hạ thế qua các tầng của vũ trụ, Sư tôn đã kết duyên với tầng tầng sinh mệnh, truyền giảng Đại Pháp. Chúng ta được cảm hóa bởi trí huệ và lòng từ bi vô lượng của Sư tôn, đã tự nguyện lựa chọn trở thành đệ tử Đại Pháp, ký thệ ước với Sư tôn hạ thế để trợ Sư Chính Pháp.

Xét trên bề mặt, là chúng ta đã đứng lên vào thời khắc cuối cùng, lựa chọn trở thành đệ tử Đại Pháp, hạ thế trợ Sư Chính Pháp. Nhưng từ một phương diện khác mà xét, thì ở tầng thứ cá nhân tôi lý giải rằng: Chính là Sư tôn trong toàn bộ quá trình đã tuyển chọn và tạo ra, thành tựu các đệ tử Đại Pháp.

Toàn bộ quá trình của vũ trụ đều đang ở trước mắt của Sư tôn, Sư tôn chỉ cần nhìn thoáng qua là biết những sinh mệnh nào sẽ trở thành đệ tử Đại Pháp. Ở tầng thứ cá nhân tôi có nhận thức rằng: Để có thể trở thành đệ tử Đại Pháp không chỉ yêu cầu trải đường trong quá trình lịch sử nhân loại lần này, mà có thể bắt đầu từ khi vũ trụ sinh ra, thậm chí trước khi vũ trụ ra đời đã có bước đệm rồi. Trong quá trình của toàn bộ vũ trụ, Sư tôn tạo ra và thành tựu những khả năng và nhân tố cần thiết để tạo nên đệ tử Đại Pháp, đưa vào trong tầng diện thâm sâu nhất của sinh mệnh của chúng ta, tầng diện mà chúng ta không bao giờ chạm tới được.

Như vậy, vào thời khắc cuối cùng này của quá trình vũ trụ, chúng ta mới có năng lực để có thể trợ Sư Chính Pháp, mới có tư cách trở thành đệ tử Đại Pháp. Trong toàn bộ quá trình, thậm chí trước cả quá trình, Sư tôn đã ban cho chúng ta tất cả những khả năng và vinh dự này. Chúng ta là một lạp tử của Sư tôn và Đại Pháp trong vũ trụ, vào thời khắc đặc biệt của kết thúc cuối cùng của quá trình vũ trụ, đến để hoàn thành sứ mệnh của chúng ta, trợ Sư Chính Pháp, cuối cùng trở thành cầu nối câu thông giữa vũ trụ mới và Đại Pháp.

Mỗi đệ tử Đại Pháp chúng ta đều tương ứng với một thể hệ vũ trụ cự đại, tất cả các đệ tử Đại Pháp đều cùng tương ứng với toàn thể vũ trụ, tất cả các nhân tố và năng lực đều đã được Sư tôn sớm trải nền an bài trước cho chúng ta trong quá trình này. Cá nhân tôi cho rằng: Hiện tại Sư tôn đang Chính Pháp, và quá trình trợ Sư Chính Pháp của chúng ta, kỳ thực chính là đang sửa lại và quy chính quá trình lịch sử của toàn bộ vũ trụ, để quá trình này có thể được hồi sinh và có sinh mệnh thực sự.

Trải qua quá trình lịch sử dài đằng đẵng của cựu vũ trụ, bởi nó dần dần lệch lạc với Đại Pháp, nên đi vào thành trụ hoại diệt, cuối cùng đi đến kết thúc. Tất cả những phần sai lệch với Đại Pháp trong toàn bộ quá trình này đều cần phải quy chính lại, cái tốt lưu lại, cái xấu bỏ đi. Như vậy, khi toàn bộ quá trình này đã được tu chính, tịnh tẩy, khi hoàn toàn quy về trong Pháp, thì quá trình này sẽ trở thành quá trình của vũ trụ mới, và dưới sự tiếp nối với Đại Pháp, nó sẽ có sinh mệnh và vĩnh viễn bất diệt.

Cá nhân tôi nhận thức rằng: Giai đoạn Chính Pháp hiện tại của Sư tôn và giai đoạn trợ Sư Chính Pháp ngắn ngủi của chúng ta là giai đoạn quá độ then chốt để canh tân quá trình vũ trụ cũ và sửa lại thành quá trình vũ trụ mới, giai đoạn này tương ứng với quá trình của toàn bộ lịch sử nhân loại, thậm chí tương ứng với quá trình của toàn bộ vũ trụ. Hiện nay, mỗi bước đi trong việc Sư phụ Chính Pháp và chúng ta trợ Sư Chính Pháp kỳ thực là đồng thời đang quy chính, sửa lại lịch sử và quá trình của toàn nhân loại và vũ trụ. Đó cũng chính là điểm mấu chốt để quá trình vũ trụ cũ “phục sinh” và có sinh mệnh thật sự. Sau khi quá trình của vũ trụ cũ được sửa lại thành quá trình của vũ trụ mới, nó sẽ trở thành khởi điểm và tải thể của vũ trụ mới, và tại thời điểm then chốt này sẽ đạt được sức sống.

7. Quá trình trưởng thành

Nhiều năm trước, từng có một đồng tu không hiểu được đã hỏi tôi: Sư phụ có năng lực hoàn toàn có thể không để cựu thế lực xuất hiện, như vậy sẽ không có cuộc đại đào thải, cũng sẽ không có cuộc bức hại tàn khốc mà các đệ tử Đại Pháp đang phải gánh chịu ngày hôm nay, tại sao Sư phụ lại cho phép cựu thế lực xuất hiện?

Ở phần trước tôi đã có trao đổi rất đơn giản ở cấp độ cá nhân. Cá nhân tôi nghĩ rằng toàn bộ quá trình của vũ trụ này là một chỉnh thể, từ khi sinh ra cho đến khi kết thúc, đồng bộ trước mặt Sư tôn, Sư tôn có thể sửa đổi bất kỳ điểm nào trong toàn bộ quá trình này vào bất kỳ lúc nào.

Tất cả các nhân tố và nội hàm đều nhất định phải trải qua quá trình hoàn chỉnh này mới có thể hoàn thành việc trải nền, tất cả các sinh mệnh chỉ có thể trải qua quá trình hoàn chỉnh này mới có thể đạt đến sự hoàn thiện cuối cùng.

Ở tầng thứ cá nhân tôi hiểu rằng: Sư tôn đã chọn thời điểm khi quá trình này cuối cùng đã hoàn thành và kết thúc để hạ thế Chính Pháp, bởi vì chỉ khi đến thời cơ này mọi thứ mới đạt đến sự hoàn thiện và đầy đủ. Nếu chọn Chính Pháp giữa quá trình này, thì quá trình này sẽ không hoàn chỉnh, nội hàm và các nhân tố của sinh mệnh cũng sẽ không hoàn chỉnh, trong những điều kiện như vậy sẽ không thể sinh ra vũ trụ mới vĩnh hằng và bất diệt được. Bởi vì vũ trụ cũ và quá trình hoàn chỉnh của nó sẽ được sửa lại và trở thành tải thể của vũ trụ mới, nếu quá trình không hoàn chỉnh thì tải thể này sẽ không hoàn chỉnh, không thể thu được sức sống, không thể có sinh mệnh thực sự. Giống như khi trái cây khi vừa mới ra đã được hái xuống thì nó sẽ không thể bén rễ và nảy mầm.

Đợi khi quá trình này đi đến bước cuối cùng một cách tự nhiên, cựu thế lực xuất hiện. Cá nhân tôi lý giải rằng là vì khi vũ trụ vừa ra đời thì toàn bộ quá trình đã được sinh ra đồng bộ, đây là quá trình của vũ trụ cũ trong quá khứ, đồng bộ triển hiện trước mặt Sư tôn. Sư tôn đã không chọn ở bên ngoài vũ trụ, để rồi đứng ở bất kỳ thời điểm nào trong quá trình của cựu vũ trụ này để quy chính nó, bởi vì điều đó sẽ tương đương với việc tái tạo. Sư tôn muốn cứu độ tất cả sinh mệnh, bảo lưu tất cả tinh hoa của quá trình sinh mệnh, vì vậy Ngài đã lựa chọn rằng sau khi toàn bộ quá trình của vũ trụ hoàn thành, thì đích thân tiến nhập vào vũ trụ, truyền Đại Pháp cho tất cả chúng sinh trong vũ trụ, để chúng sinh tự nguyện lựa chọn và đồng hóa với Đại Pháp, và Sư tôn dẫn dắt các đệ tử Đại Pháp hạ thế Chính Pháp, tại thời khắc đặc biệt nhất này, lại quay trở lại trùng tân, sửa chữa, quy chính toàn bộ quá trình này, khiến quá trình này trở nên vô cùng thuần tịnh, quá độ chuyển sang quá trình của vũ trụ mới.

8. Chân tượng và hình tượng

Toàn bộ quá trình lịch sử của nhân loại và vũ trụ đang được liên tục quy chính, canh tân theo sự thúc đẩy của tiến trình Chính Pháp hiện nay, cũng tương đương với việc đang tịnh tẩy và sửa đổi. Đây là quá trình sửa đổi vũ trụ cũ thành vũ trụ mới.

Nếu quá trình lịch sử của nhân loại và vũ trụ hiện nay đang thuận theo Chính Pháp của Sư phụ và sự trợ Sư Chính Pháp của chúng ta mà được đồng bộ sửa đổi, thế thì tại sao chúng ta không biết gì cả? Theo thể ngộ cá nhân: Bởi vì hiện tại chúng ta còn chưa tiến nhập vào vũ trụ mới, do đó sẽ không biết mọi thứ sau khi sửa đổi và canh tân là như thế nào.

Ở tầng thứ cá nhân tôi nhận thức rằng: Toàn bộ quá trình đều có một chân tượng và sẽ lưu lại những hình tượng tương ứng.

Lấy cả đời của một người để ví dụ, tất cả những việc trải qua chân thực trong cuộc đời người này, con đường anh ta đã đi, những việc anh ta đã làm, v.v., tất cả những điều xảy ra chân thực này đều là chân tượng, nhưng ký ức và hồi ức của anh ta thì là hình tượng. Lại lấy lịch sử nhân loại làm ví dụ, mọi thứ xảy ra chân thực trong lịch sử là chân tượng; nhưng những ghi chép lịch sử như sử sách và truyền thuyết để lại đều là hình tượng.

Hình tượng không phải là cái tồn tại chân thực, nói chung, nó sẽ thay đổi theo sự thay đổi của chân tượng, nhưng có thể có sự sai khác về thời gian, cũng có thể bị con người bóp méo xuyên tạc.

Do đó, hình tượng không nhất định sẽ đồng bộ với chân tượng, không nhất định triển hiện chân tượng một cách chân thực. Như trong câu chuyện mở đầu: Ký ức của A có thể bị yêu đạo tùy ý sửa đổi, đây là sự soán cải do con người tạo ra và sai lệch với chân tượng. Ngoài ra lão đạo sĩ đã sửa đổi quá trình sinh mệnh của A, tức là sau khi đã sửa đổi chân tượng, ký ức của A cũng không lập tức đối ứng với nó, mà những hình tượng cũ vẫn còn lưu lại trong ký ức của anh ta, có một sai lệch về thời gian.

Cũng có nghĩa là lịch sử mà chúng ta biết, hiện nay đang được sửa lại, nhưng hiện nay chúng ta sẽ không biết lịch sử sau khi đã được sửa đổi là như thế nào. Những ghi chép lịch sử của nhân loại như sử sách và truyền thuyết, những cái mà đã hiện rõ vẫn là những hình tượng của lịch sử cũ, đây là những gì mà chúng ta đã biết.

9. Sự thay đổi của quá trình

“Ngay cả bản thân sự xuất hiện của cựu thế lực cũng như an bài của chúng thì chúng ta thảy đều phủ định, đều không thừa nhận sự tồn tại của chúng. Chúng ta phủ định hết thảy những gì của chúng từ căn bản; [chỉ] khi phủ định và bài trừ chúng thì hết thảy những gì chúng ta thực hiện mới là uy đức. Không phải là tu luyện trong những ma nạn mà chúng tạo thành, mà là khi không thừa nhận chúng thì chúng ta cũng đang tiến bước thật tốt trên con đường của mình; không thừa nhận ngay cả việc tiêu trừ biểu hiện ma nạn của bản thân chúng. (vỗ tay) Như vậy từ góc độ đó mà xét, thì những sự việc trước mắt chúng ta chính là phủ định toàn bộ cựu thế lực. Về biểu hiện tranh giành khi chúng đang chết, thì tôi cùng các đệ tử Đại Pháp cũng không thừa nhận” (Giảng Pháp tại Pháp hội Chicago năm 2004)

Cá nhân tôi lý giải rằng: Sau khi toàn bộ quá trình của vũ trụ cũ được sửa đổi và tịnh tẩy, nó không biến mất mà là chuyển biến thành quá trình của vũ trụ mới, trở thành tải thể và khởi điểm của vũ trụ mới. Vũ trụ mới có sức sống, sẽ tiếp diễn trong quá trình này và trên tải thể này, thay đổi vô tận, vĩnh viễn không ngừng. Khi tiến trình Chính Pháp hoàn thành bước cuối cùng, toàn bộ quá trình của vũ trụ cũ liền được sửa đổi và canh tân thành quá trình của vũ trụ mới. Trong quá trình này hết thảy những gì sai lệch với Đại Pháp hoặc đã lệch lạc đều được chính lại, tịnh tẩy hoặc loại bỏ, trở nên vô cùng thuần tịnh. Vì vậy tất cả các nhân tố và dấu vết tồn tại của cựu thế lực đều sẽ bị loại bỏ đến kiền tịnh hoàn toàn trong quá trình này.

Cho nên trong quá trình của vũ trụ mới, cựu thế lực không tồn tại, trong quá trình của vũ trụ mới, nó chưa từng xuất hiện……

Những hình tượng cũ về quá trình tồn tại của cựu thế lực trong quá khứ có thể sẽ được lưu giữ lại, trở thành bài học giáo huấn vĩnh viễn cho sinh mệnh trong vũ trụ mới. Vì vậy trong vũ trụ mới, cựu thế lực chưa bao giờ được sinh ra, và sự tồn tại của cựu thế lực chỉ là cái hình tượng, không phải là chân tượng.

Cá nhân tôi lý giải rằng: Trong quá trình sửa lại vũ trụ cũ thành vũ trụ mới, chân tượng và hình tượng cũng có thể chuyển hoán (hoán đổi, đổi chỗ) lẫn nhau, thời điểm chuyển hoán then chốt chính là giai đoạn Chính Pháp của Sư phụ và trợ Sư Chính Pháp của chúng ta hiện nay.

Có đồng tu đã từng chia sẻ với tôi rằng trong vũ trụ cũ, chư Thần đến một thời kỳ nhất định, đều sẽ tái sinh. Sau khi tái sinh, những ký ức trước đây đều bị quên hết. Các sinh mệnh cuối cùng đều được tạo ra trong thời kỳ diệt, không ai biết những chuyện trước đây, không ai biết trạng thái của vũ trụ ở thời kỳ tốt đẹp trước đó, vũ trụ đã thiên lệch và bại hoại, nhưng các sinh mệnh đều không biết. Trong vũ trụ mới chắc sẽ không như thế, ít nhất những ký ức của đệ tử Đại Pháp có lẽ sẽ được lưu giữ mãi mãi, sẽ không bị lãng quên.

Ở tầng thứ cá nhân, tôi đồng ý với quan điểm này của đồng tu này. Cá nhân tôi cho rằng: Trong vũ trụ mới, các đệ tử Đại Pháp có thể sẽ không bao giờ tái sinh nữa, sẽ đồng tại cùng vũ trụ, họ sẽ là sinh mệnh nguyên sơ nhất trong sự vĩnh hằng của vũ trụ mới (đương nhiên không thể giống như sinh mệnh của vũ trụ cũ, sống nhàm chán trong quá trình sinh mệnh dài đằng đẵng, mà sẽ vĩnh viễn tự tại, hạnh phúc không gì sánh được, bởi vì quá trình của vũ trụ mới là có sinh mệnh), sẽ luôn lưu giữ ký ức, vĩnh viễn bảo lưu ký ức về quá trình Chính Pháp của vũ trụ, thậm chí bảo lưu cả hình tượng toàn bộ quá trình của vũ trụ cũ. Như vậy mới có thể trở thành nhịp cầu kết nối giữa vũ trụ mới với Đại Pháp, trong quá trình bất diệt của vũ trụ mới, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu có vấn đề, đều có căn cứ và tham chiếu để kịp thời quy chính, viên dung bất phá.

Lịch sử Trung Hoa 5000 năm là lịch sử đã được toàn thể đệ tử Đại Pháp do Sư tôn dẫn dắt diễn giải, là để mở đường cho Chính Pháp hôm nay, cũng là triển hiện tinh hoa của toàn vũ trụ tương ứng tới nhân gian.

Mấy năm nay, nhiều chương trình của Shen Yun biểu diễn đã khác với những gì được ghi lại trong lịch sử và truyền thuyết, một số tình tiết hoặc kết cục đã được sửa đổi và viết lại. Cá nhân tôi lý rằng: Những gì Shen Yun biểu diễn có thể là chân tượng lịch sử đã được sửa đổi trong tiến trình Chính Pháp hiện nay, Sư tôn đã thể hiện rõ với thế nhân thông qua hình thức này.

Hiện nay trong các đệ tử Đại Pháp có những nhóm nhỏ đang làm hạng mục lịch sử, với cái nhìn thuần chính về lịch sử đã được quy chính trong Đại Pháp, biên soạn lại lịch sử Trung Hoa 5000 năm, quy chính quan niệm về sự biến dị của nhân loại, thể hiện tất cả những điều này một cách quang minh và chính diện, để lưu lại cho con người tương lai. Cá nhân tôi cho rằng, đây cũng là ở tầng diện nhân loại hiện tại, mà quy chính hình tượng của lịch sử, để lưu lại làm tham chiếu vĩnh viễn và bài học chính diện cho con người tương lai.

Lời kết

Đại Pháp huyền diệu vô biên, tuyệt không phải là điều mà một vài sinh mệnh tầm thường như tôi có thể hiểu được. Trên đây chỉ là một chút nhận thức hạn hẹp từ tầng thứ nông cạn và hạn hẹp của cá nhân, hy vọng được giao lưu với các đồng tu của các hạng mục liên quan, có chỗ nào không phù hợp xin các đồng tu từ bi chỉ rõ, xin hãy lấy Pháp làm Thầy và đừng để bị lầm lạc hay cản trở bởi nhận thức ở tầng thứ nông cạn của cá nhân tôi.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/256371

The post Bút ký tu luyện (5): Lịch sử được sửa lại cho đúng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bút ký tu luyện (4): Tu luyện ở nơi thấphttps://chanhkien.org/2023/02/but-ky-tu-luyen-4-tu-luyen-o-noi-thap.htmlSat, 04 Feb 2023 03:32:41 +0000https://chanhkien.org/?p=29625Tác giả: Chân Ngu [ChanhKien.org] (1) “Trong tu luyện có những người tu luyện không những [tăng] trưởng công hướng lên cao, mà còn [tăng] trưởng công hướng xuống dưới, đứng ở tầng thứ ấy mà nhìn con người, thì càng có một ý vị đặc biệt” (Giảng Pháp tại Pháp hội Houston [1996]) Trong […]

The post Bút ký tu luyện (4): Tu luyện ở nơi thấp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Chân Ngu

[ChanhKien.org]

(1)

“Trong tu luyện có những người tu luyện không những [tăng] trưởng công hướng lên cao, mà còn [tăng] trưởng công hướng xuống dưới, đứng ở tầng thứ ấy mà nhìn con người, thì càng có một ý vị đặc biệt” (Giảng Pháp tại Pháp hội Houston [1996])

Trong những bài giảng Pháp ở thời kỳ đầu, Sư phụ cũng đã giảng Pháp có liên quan đến núi Tu Di. Núi Tu Di là do các nguyên tử tạo thành, nhưng đồng thời núi Tu Di cũng nằm trong vũ trụ tầng thứ hai.

Ở tầng thứ cá nhân tôi hiểu rằng: núi Tu Di tại vi quan tồn tại ở tầng bề mặt của nguyên tử; tại hồng quan, nó lại nằm trong vũ trụ tầng thứ hai. Nó nằm trong phạm vi cự đại giữa nguyên tử và vũ trụ tầng thứ hai, và cái tiểu vũ trụ này của chúng ta thậm chí không bằng một hạt bụi trong phạm vi này. Do đó núi Tu Di mà chúng ta có thể thấy trong tiểu vũ trụ này của chúng ta chỉ là một điểm rất nhỏ bé của toàn bộ núi Tu Di trong tồn tại thực tế mà thôi, chỉ là đối ứng của nó đến một phần rất nhỏ trong tiểu vũ trụ này của chúng ta.

Nhận thức cá nhân: dung lượng là phạm vi của vũ trụ chứa đựng các sinh mệnh ở đó, là mức độ mà sinh mệnh có thể dung nạp và chịu đựng được, là nội hàm sở tại của sinh mệnh.

Thế giới mà nhân loại chúng ta tồn tại vừa vặn nằm ở lớp trung gian nhất, bề mặt nhất, và ngoài cùng của vũ trụ, nội trong phạm vi không gian cực kỳ nhỏ bé giữa các phân tử (vi quan) và các hành tinh (hồng quan).

Để xem dung lượng của một sinh mệnh lớn đến đâu, không chỉ xem chỗ cao (vi quan) của anh ta là bao nhiêu, mà còn xem chỗ thấp (hồng quan) của anh ta là bao nhiêu, phạm vi bao gồm từ điểm cao nhất đến điểm thấp nhất, tức là phạm vi bao hàm từ nơi vi quan đến hồng quan của nó, đó mới là mức độ dung lượng thực sự của anh ta. Cho dù điểm cao rất cao, nhưng nếu điểm thấp mà nông cạn, không thể thấp được, thì dung lượng và phạm vi sẽ rất hạn chế, anh ta sẽ không thể bao dung và chứa đựng được các chúng sinh và nội hàm với lượng lớn hơn nhiều hơn.

Ở tầng thứ cá nhân tôi hiểu rằng: đệ tử Đại Pháp chúng ta tương ứng và đại diện cho toàn bộ phạm vi của vũ trụ to lớn, vì vậy trong tu luyện Đại Pháp, chúng ta không chỉ tăng công lên cao (ở vi quan), mà đồng thời còn tăng công xuống thấp (ở hồng quan), sau khi tu thành viên mãn, toàn thể đệ tử Đại Pháp chúng ta mới có thể bao hàm toàn bộ vũ trụ.

Trong tu luyện, rất nhiều người thường chỉ chú trọng đến “cao” mà bỏ qua tu luyện đến thấp. Đặc biệt là những người tu luyện có một chút năng lực giữa người thường.

(2)

Ở tầng thứ cá nhân thấy được rằng: nguyên nhân cơ bản ngăn cản người tu luyện tu xuống thấp vẫn là chữ “tư”. Tu lên cao hơn và tu xuống thấp là việc được tiến hành đồng bộ, là tương ứng với nhau, cuối cùng hợp lại làm một, chỉ là quá trình đó thể hiện ở hai phương diện. “Tư” chính là ngăn cản người tu luyện tu lên cao hơn, đồng thời cũng ngăn cản người tu luyện tu xuống thấp hơn, chỉ là biểu hiện khác nhau.

Sinh mệnh không thể xuống thấp hơn, là bởi vì có các thứ đệm lót ở dưới, cho nên bị bản thân đệm cao lên chứ không thể hạ xuống thấp. Nếu lấy đi các thứ đệm lót ở dưới, lấy đi một ít thì nó sẽ xuống một chút, nếu lấy hết ra thì nó sẽ xuống đến đáy, từ đó mà “vô đáy”.

Khi cái “tư” bị loại bỏ hoàn toàn, khi cái “vô biên” ở trên và cái “vô đáy” ở dưới hợp lại làm một, thành một khối hoàn chỉnh, có lẽ là một vòng tròn đến mức vô lậu, bên trong là bên ngoài, bên ngoài là bên trong, bao hàm tất thảy và vô lậu bất phá. Đây là sự “viên dung bất phá” được lý giải ở tầng thứ cá nhân tôi.

Hãy nhìn lại ví dụ về bể cá, nếu chỉ nhìn từ một khía cạnh phiến diện: bể cá dung tích có hạn, một ít nước thì đã chứa đầy. Nếu phá vỡ biên giới của nó, đem chọc thủng đáy của nó, nó sẽ không bao giờ đầy và dung lượng của nó là vô hạn. Nhưng đồng thời, nó cũng không đọng lại một giọt nước nào, tất cả đều rò rỉ hết sạch, cuối cùng là công dã tràng, bởi vì trong toàn bộ quá trình, nó không có đáy, nên không đựng được nước và đã đi một vòng vô ích.

Vì vậy một phía khác phải được tu bổ, làm cho nó thành nơi có tác dụng thực tế, tiến hành đồng bộ. Làm cho nó có đáy và có thể chứa đựng, sau đó trong quá trình, hãy liên tục từng lớp loại bỏ cái “tư”, liên tục hạ thấp “đáy” của nó xuống tầng sâu hơn, mở rộng dung lượng của nó để chứa đựng, cho đến khi cuối cùng hoàn toàn loại bỏ hết cái “tư” và đạt được “vô đáy”, “vô biên”, đạt được bên trong tức là bên ngoài, bên ngoài tức là nhất thể hoàn chỉnh của bên trong, đó chính là đã hình thành một vòng tròn viên dung mà vô lậu. “Bên trong” là dung lượng của nó, “bên ngoài” cũng là dung lượng của nó. Vĩnh viễn chứa không đầy, nhưng lại chứa đựng tất cả mọi thứ, không có rò rỉ.

Ở tầng thứ cá nhân tôi thấy: đệ tử Đại Pháp chân chính, sau khi viên mãn tiến nhập vào vũ trụ mới, sẽ tương ứng với toàn bộ vũ trụ mới. Nếu tiến lên thì đệ tử Đại Pháp tương ứng với toàn bộ vũ trụ, vũ trụ chính là thân thể của đệ tử Đại Pháp. Nếu lùi lại thì đệ tử Đại Pháp sẽ là một lạp tử của Đại Pháp, lùi vào trong Đại Pháp thì sẽ vô hình không dấu vết, trở thành cầu nối câu thông giữa vũ trụ và Đại Pháp trong tương lai, bảo vệ sự trường tồn và không bao giờ bị hủy diệt của vũ trụ mới trong tương lai.

(3)

Cá nhân tôi cho rằng: “xả bỏ” không có nghĩa là “hạ thấp”. Hạ thấp nặng hơn, nội hàm của nó bao hàm sự chịu đựng.

Ví dụ: trong hạng mục do A phụ trách, A lại làm tổn thương gạt bỏ B hết lần này đến lần khác, B thì không so đo tị nạnh gì với A, anh có thể làm được bất động tâm, nhưng đồng thời cũng tránh xa A và hạng mục của anh, ở một phương diện nào đó, điều này cũng có thể nói là có thể “xả bỏ”. Nếu B không so đo với A đồng thời không từ bỏ A và hạng mục, chịu đựng sự xúc phạm và loại trừ của A hết lần này đến lần khác mà không oán không hận, từ từ bao dung A và hạng mục, cuối cùng có thể tự mình hạ thấp đến cùng, trở thành một viên đá làm bậc thang mà không ai biết đến, hóa giải hết mọi mâu thuẫn, giữ cho hạng mục không bị bất kỳ tổn thất nào, điều này được gọi là “hạ thấp”.

Từ một phương diện khác mà xét: trong quá trình này, từ bề ngoài mà xét thì A là người chịu trách nhiệm về hạng mục, lãnh đạo hạng mục, còn B chỉ là một viên đá lát bậc thang không dễ nhận thấy. Nhưng từ mức độ sâu hơn mà xét thì B mới là người chịu trách nhiệm cuối cùng thực sự, bởi vì anh ta gánh vác toàn bộ hạng mục, toàn bộ hạng mục nằm trong phạm vi của anh ta.

Cách đây nhiều năm, tôi đã từng thấy một câu thế này: “Đáy của sinh mệnh, đỉnh của vạn vật”. Cả hai chính là cái đồng bộ nhất thể.

Thời thượng cổ, vua còn được gọi là “hậu” (后 và 後 là hai từ đồng âm đều đọc là hậu, thời cổ cũng đã từng sử dụng thay thế nhau), là người cai trị một quốc gia hoặc dân tộc. Người dẫn đầu đi ở vị trí đầu tiên không nhất định phải là vua thực sự, cũng có thể là con chim dẫn đầu. Nhưng người ở phía sau điều khiển và gánh vác tổng thể và toàn cục nhất định phải là ông vua thực sự.

Bề ngoài Lão Tử dạy người ta làm vua thì phải thế nào, nhưng đồng thời lại dạy người ta tu Đạo để trở thành Tiên, đây là sự đồng bộ. Khi thực sự có thể trở thành một vị vua đạt tiêu chuẩn thì đồng thời cũng sẽ đắc Đạo thành Tiên, còn được gọi là “nội Thánh ngoại vương”.

Trong Lão Tử có nói: “Sở dĩ Giang Hải trở thành vương của trăm sông trong thiên hạ là vì nó ở dưới trăm sông nên tụ lại, dung nạp trăm sông mà thành vương”.

Trong tu luyện, không thể chỉ phấn đấu trở thành “con chim dẫn đầu”, “con dê dẫn đầu” (người dẫn đầu), “nổi bật giữa đám đông”, mà đồng thời phải học cách hạ mình xuống, làm một “viên đá lát bậc thang” không ai biết đến. Không cần phải làm nổi bật bản thân, một khi làm nổi bật bản thân, nó sẽ trở thành một chướng ngại vật, khiến các đồng tu và thậm chí cả các hạng mục bị vấp ngã. Cần phải đặt bản thân mình ở mức thấp nhất, để các đồng tu cùng hạng mục lên trên bản thân mình, từ đó hạng mục được nâng cao.

(4)

Trong quá trình diệt của vũ trụ, mọi thứ đều biến dị và bại hoại, đi về phía cực đoan. Đạo gia tu Chân, nhưng trong quá trình vũ trụ đến diệt vong, cái “Chân” này cũng sẽ trong quá trình tương sinh tương khắc mà đi đến cực đoan. Đạo gia chú trọng đến thanh tĩnh vô vi, thích tu đơn độc, làm một mình, siêu trần thoát tục. Khi điều này đi đến cực đoan, nó sẽ dần dần phát triển thành cao nhã, thanh cao, kiêu ngạo, thậm chí cuối cùng là kiêu căng và tự cao tự đại.

Từ xưa các văn nhân học giả trong người thường cũng đều mắc phải tật này, thích chia con người thành nhiều loại đẳng cấp, đối với những người mà mình không coi ra gì, thì tìm mọi cách để ghét bỏ coi thường, đây cũng là một nguồn gốc của tâm tật đố. Cá nhân tôi thấy rằng những người tu luyện với các đặc tính của Đạo gia hầu như ít nhiều đều mang theo một số thứ này bên mình.

Kỳ thực trong Đại Đạo chân chính, “Chân” phát triển triệt để lên trên sẽ sinh ra “thành”, sinh ra “lòng chân thành”: trong ngoài như một, trước sau như một, không bao giờ phản bội, không bao giờ thay đổi. Sau đó lại sinh ra “tín”, tín Sư tín Pháp, sinh ra “trung” và “trinh” v.v. Đồng thời lại sinh ra “kiền thành”, sinh ra “kính”, kính Sư kính Pháp, sinh ra “khiêm nhường” v.v. Đây đều là nội hàm của tầng thâm sâu thực sự.

Một trong những cốt lõi được nhấn mạnh trong tác phẩm Trung Dung của Nho gia là “lòng chân thành”, đây là nội hàm cơ bản nảy sinh khi “Chân” ở vị trí trung dung, không đi đến cực đoan. Đại Đạo chân chính là sự khiêm nhường.

Nếu không thể thực sự “hạ thấp” bản thân, sự tu luyện sẽ hời hợt bề mặt, tu không đến nơi đến chốn, vì vậy sẽ mơ mơ hồ hồ, kết cục có thể chỉ là công dã tràng.

Sự tu luyện của các đệ tử Đại Pháp không chỉ là “ngộ Không”, mà còn phải “cụ thể”. Phải biết gánh vác, phải hạ thấp. Cần phải vượt qua khoảng cách giữa “tri Đạo” và “đắc Đạo”, phải có chính ngộ đối với Pháp, đồng thời phải chứng thực Pháp.

(5)

Người thường có câu nói: “Nước trong thì không có cá”.

Có người thích quá rõ ràng nghiêm túc thành thật trong mọi việc, lấy “Chân” làm vỏ bọc che đậy, cho rằng mình đã tu lên cao, tỏ ra là “không thể nào để sót một hạt cát trong mắt”, lúc nào cũng tỏ ra tài năng sắc bén. Cuối cùng khuấy động tạo thành rất nhiều mâu thuẫn trong hoàn cảnh của bản thân, không thể hòa giải, để đến nỗi cuối cùng không thể hợp tác với người khác, không muốn tham gia vào bất kỳ hạng mục nào, dần dần tự cô lập mình, rất khó để mọi người lọt vào mắt mình, tiêu cực và thất vọng với mọi thứ, còn tự mình cảm thấy thanh cao.

Đây kỳ thực là sự nông cạn của sinh mệnh, là bởi vì không thể hạ thấp mình, không thể tu ở nơi thấp, cho nên sinh mệnh không có bề dày, không có dung lượng, đến nỗi khó có thể chịu đựng và bao dung. Cuối cùng, trong phạm vi của chính mình có thể trống rỗng, không thể bao bọc được bất kỳ chúng sinh nào, có thể thực sự là công dã tràng.

Tại nơi con người, thường không có đúng hay sai thực sự, có lúc “hồ đồ” ngược lại lại là sự khôn ngoan. Dù trong lòng đã hiểu rõ nhưng sự khôn ngoan nên giấu sâu trong tâm, không nên bộc lộ tài năng, dù biết rõ mọi chuyện trong lòng, nhưng về bề ngoài, khi nên “hồ đồ” thì “hồ đồ”, với cái vẻ vô tri vô thức và trong cái ngốc mà toát lên sự ngớ ngẩn, đây là cảnh giới của sự bao dung. Giống như mặt đất bao la, tuy ở nơi thấp nhưng hồn hậu, không ai thấp hơn nó, vì vậy nó không chọn vạn vật, mà gánh vác nâng đỡ vạn vật, cho dù là tốt, xấu, dơ bẩn, tinh khiết, nó bao dung tất cả. Nó có đầy đủ dung lượng chứa đựng mọi thứ, nên đồng thời có đủ năng lượng để hóa giải mọi thứ, mọi thứ không tốt đều bị tan chảy và hóa giải trong trường năng lượng khổng lồ của chính nó.

Có khi trong tâm trong như gương sáng, nhưng bề ngoài lại có vẻ như vũng nước đục, và trong lòng chứa đựng vạn vật, sức sống dâng trào. Đây là bậc đại trí huệ thực sự, gọi là “đại trí nhược ngu” (người có trí huệ có tài năng không khoe khoang mình nên trông bề ngoài có vẻ đần độn).

(6)

“Dù cho chư vị bất hảo đến đâu, những thứ xấu tệ đến đâu, những thứ giống như sắt thép thì trước uy lực từ bi của Phật Pháp đều sẽ bị tan chảy” (Giảng Pháp tại Pháp hội miền Tây Mỹ quốc [1999])

容、溶、熔 là ba chữ đồng âm, tiếng Trung đọc là “róng”, âm Hán Việt là “dung”. Cả 溶 (hòa tan) và 熔(nóng chảy) đều dựa trên cơ sở của 容 (dung nạp, chứa đựng).

Theo nhận thức cá nhân: 容 (dung nạp) là căn bản, chỉ sau khi bao dung thì mới có năng lượng để hóa giải; sau khi đã bao dung mọi thứ, mới có thể làm tan chảy mọi thứ không tốt, cho nên mới hóa giải được tất cả. Nếu không đạt đến bao dung một cách thực sự thì không nói đến hóa giải được, bởi vì đối phương không ở trong trường năng lượng của chính mình thì không thể động chạm đến được. Điều đó sẽ trở thành thủ đoạn và hành động cưỡng chế bề ngoài, cuối cùng cái gì cũng không thay đổi được.

Chỉ có buông bỏ tự ngã, lấy đi mọi thứ bên dưới đã nâng cao bản thân, buông bỏ một cách khiêm tốn đến cùng, âm thầm bao bọc tất cả chúng sinh, thì mới có thể đưa tất cả chúng sinh vào trong phạm vi của chính mình, vì vậy mọi thứ không tốt đều có thể tan biến trong trường từ bi hồng đại của mình, để mọi thứ được hóa giải và cải biến trong âm thầm lặng lẽ.

Chỉ khi 容 (dung nạp) thực sự thì mới hóa giải được.

(7)

Có đồng tu đã từng trao đổi với tôi về vấn đề ma và Đạo, anh ấy nói rằng trước đây anh ấy không bao giờ hiểu tại sao ma vĩnh viễn không cao hơn Đạo, sau này anh ấy hiểu rằng: nếu ma cao hơn Đạo, thì nó sẽ không thể dung hợp với Đạo, điều không phù hợp với nhận thức của nó, nó sẽ tiêu diệt hết. Như thế sẽ không có Đạo trong vũ trụ, chỉ còn lại ma, vũ trụ sẽ bị hủy diệt. Nếu Đạo cao hơn ma, thì Đạo có thể bao dung với sự tồn tại của ma, thậm chí khiến nó trở thành hộ Pháp, vũ trụ là muôn màu muôn vẻ.

(8)

Cá nhân tôi hiểu rằng: bao dung một cách thực sự không phải là từ trên xuống, không được đứng trên cao mà nhìn vạn vật sau đó mới bao dung vạn vật, đó là điều giả dối. Bởi vì khi chỗ thấp nhất của một người không đạt đến mức thấp hơn vạn vật, vậy thì vạn vật đều ở ngoài phạm vi của anh ta, thì không phải là sự bao dung và gánh vác nâng đỡ thực sự.

Lòng bao dung thực sự là “khiêm nhường”, là “chân thành”, là từ dưới lên trên, là hạ thấp mình xuống, làm cho chỗ thấp của mình thấp hơn vạn vật, chỗ cao của mình cao hơn vạn vật, vì vậy mà trở thành chứa đựng vạn vật, đem vạn vật dung nạp vào trong phạm vi của chính mình, đây là bao dung và hóa giải vạn vật một cách thực sự.

Chỉ khi đứng ở góc độ này mới có thể trân quý vạn vật, xem vạn vật như con cái của mình, sẵn sàng vì chúng mà phó xuất tất cả, nguyện dành mọi điều tốt đẹp nhất cho chúng. Đây không phải là điều được tạo ra trên bề mặt, không phải là điều cưỡng ép, đó là lòng từ bi thuần tịnh và hồng đại xuất phát từ tầng sâu thẳm, đó là sự bao dung thực sự.

(9)

Khi học kinh văn “Viên dung” và “Vô lậu” của Sư phụ, bản thân tôi đã ngộ được rằng: đầu tiên hãy tự mình từ trong tầng Pháp đó mà nhảy xuất ra, sau khi nhảy ra rồi, lại có thể tự mình lại quay trở lại, tức là đạt đến viên dung và quy chính Pháp ở tầng đó mới có thể ở trong tầng Pháp đó đạt được sự viên dung và vô lậu.

Nếu hoàn toàn không nhảy ra được, mà chỉ nói đến việc viên dung Pháp của tầng này, đây chỉ là sự cuồng vọng và chấp trước của con người, thậm chí sẽ vì điều này mà đi vào ma đạo. Nếu có thể nhảy ra được, nhưng không thể buông mình xuống để viên dung tầng Pháp này, thì tầng Pháp này sẽ vô tồn, cũng như là phiến diện và cực đoan.

Pháp lý là viên dung, là huyền diệu vô biên. Bất kỳ sự lý giải và cách làm phiến diện nào cũng có thể đi đến cực đoan và thậm chí dẫn đến đi sang ma đạo.

Trong tương sinh tương khắc, đang tồn tại lỗ hổng cự đại, càng cực đoan thì lỗ hổng càng lớn, đây là điều mà con người không nhìn thấy được, bởi vì con người đều trong quá trình tương sinh tương khắc mà hành động theo. Chỉ có cách ở trong Pháp mà thực hành trung dung, không đi đến cực đoan, mới có thể thoát ra khỏi tương sinh tương khắc, tu được vô lậu và viên dung bất phá.

Tầng thứ của cá nhân rất hữu hạn, lý giải cũng hữu hạn, chỉ là trong quá trình tu luyện, đem những điều tâm đắc nhỏ bé có được từ trong Đại Pháp để giao lưu với mọi người, để cùng nhau đề cao, xin mọi người hãy dĩ Pháp vi Sư.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/252835

The post Bút ký tu luyện (4): Tu luyện ở nơi thấp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bút ký tu luyện (3): Thần thoại của vũ trụ mới – Câu chuyện “Vá trời”https://chanhkien.org/2023/01/but-ky-tu-luyen-3-than-thoai-cua-vu-tru-moi-cau-chuyen-va-troi.htmlSat, 28 Jan 2023 03:11:56 +0000https://chanhkien.org/?p=29610Tác giả: Chân Ngu [ChanhKien.org] 1. Vá trời Cộng Công húc đổ núi Bất Chu, núi Bất Chu là một trong những cột trụ của trời đất. Do đó bầu trời bị thủng lỗ lớn, nên Nữ Oa đã luyện ra những viên đá ngũ sắc để vá trời. Người xưa đều lấy thiên can, […]

The post Bút ký tu luyện (3): Thần thoại của vũ trụ mới – Câu chuyện “Vá trời” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Chân Ngu

[ChanhKien.org]

1. Vá trời

Cộng Công húc đổ núi Bất Chu, núi Bất Chu là một trong những cột trụ của trời đất. Do đó bầu trời bị thủng lỗ lớn, nên Nữ Oa đã luyện ra những viên đá ngũ sắc để vá trời.

Người xưa đều lấy thiên can, địa chi để ghi lại thời gian, 10 Thiên can phối hợp với 12 Địa chi, làm thành một Giáp Tý( còn gọi là Hoa Giáp – 60 năm), gọi là một đại tuần hoàn.

Cả “can” và “chi” đều là mạch lạc, mạch lạc tuần hoàn giữa trời và đất. Can là mạch chính (mạch chủ), chi là mạch nhánh. 10 thiên can là 10 đại mạch chủ, ở trên trời; 12 địa chi là 12 nhánh, ở dưới đất, hay còn gọi là long mạch. Vòng tuần hoàn lớn của thiên can và địa chi là vòng tuần hoàn chu thiên của trời đất, vạn vật trên nhân gian đều luân hồi trong đó, đời đời không nghỉ, nếu tuần hoàn mà đứt vỡ, thì vạn vật trong trời đất sẽ bị hủy diệt.

Chu, là vòng tròn, là một chu kỳ tuần hoàn. Bất Chu Sơn, không thành vòng tròn, không thể là núi có tuần hoàn hoàn chỉnh. Núi Bất Chu vốn là núi Chu, là núi tương ứng hòa hợp với tuần hoàn của trời đất, sau khi đứt gãy, mới được gọi là núi Bất Chu.

Núi là vị trí quan trọng của long mạch mặt đất, núi Bất Chu là tiếp điểm quan trọng của vòng tuần hoàn đối ứng giữa địa mạch và thiên mạch, nó là vị trí huyệt vị quan trọng của vòng tuần hoàn đại chu thiên của trời đất, hay được mệnh danh là Tây Bắc Thiên Môn. Khi núi Bất Chu bị đứt vỡ, liền xuất hiện một vết rò rỉ lớn trong vòng tuần hoàn của trời đất, vạn vật trên nhân gian sắp bị hủy diệt, Nữ Oa vì đã tinh luyện ngũ hành để lấp chỗ rò rỉ, nên việc đó được gọi là “vá trời”, nghĩa là vá lại cái vòng chu thiên của trời đất.

Việc vá trời của Nữ Oa chỉ là để lưu lại một đoạn lịch sử, mở đường cho một nền văn hóa, Bà bất quá chỉ vá lại chỗ rò rỉ của vòng tiểu chu thiên ở tầng thấp nội trong tam giới mà thôi.

Việc vá trời thực sự là khi Sư tôn hạ thế Chính Pháp để vá lỗ thủng lớn cơ bản trong vũ trụ, cứu độ thương khung vào khoảnh khắc bị hủy diệt. Các đệ tử Đại Pháp trợ Sư Chính Pháp theo ý nghĩa chân chính cũng chính là vá lại những chỗ rò rỉ trong các đại khung thiên thể.

2. Cực tròn (hết sức tròn)

Các sinh mệnh trong vũ trụ cũ đều là lấy chính mình làm trung tâm, vẽ ra một vòng tròn của riêng mình, và rất hoàn hảo, gọi là sự chứng ngộ của chính mình.

Chỉ là sinh mệnh càng cao càng lớn thì vòng tròn được vẽ ra càng lớn, càng tròn hơn. Nhưng cho dù lớn hay tròn đến đâu thì suy cho cùng đều có ranh giới, nếu có ranh giới tức là có định số, có đầu cuối, thì không thoát khỏi số mệnh thành trụ hoại diệt, không trở thành “cực tròn”, không thể hình thành một vòng tuần hoàn lớn, trong đó bên trong tức là bên ngoài và bên ngoài tức là bên trong hoàn toàn thông thấu, do đó không thể đạt được sự viên dung bất phá.

Nếu hình thành không được “cực tròn”, thì không thể viên dung bất phá, nghĩa là vòng tròn này có “lậu”, đây chính là chỗ “lậu” cơ bản của vũ trụ cũ.

Một vòng tròn dù được vẽ lớn đến mức nào, thì không gian bên trong vòng tròn là hữu hạn và không gian bên ngoài vòng tròn là vô hạn.

Mỗi sinh mệnh đều vẽ ra một vòng tròn cho riêng mình, tự bảo vệ mình trong đó, đồng thời cũng bị mắc kẹt trong đó. Ranh giới của vòng tròn này chính là cái “tư”, nó là một sự bảo vệ, là bức thành che chở, là một ranh giới lớn, đồng thời nó cũng là một chướng ngại vật, một đại lậu không thể vượt qua. Nó là gốc rễ của sự tồn tại của sinh mệnh trong vũ trụ cũ.

Cũng chính vì ranh giới của vòng tròn này, khiến cho nó không thể trở thành “cực tròn” đến mức trong tức là ngoài và ngoài tức là trong, nó tự cách ly mình với Đại Pháp của vũ trụ, nên không thể tiếp xúc và câu thông với Đại Pháp của vũ trụ, không thể có được trí tuệ vô tận từ Đại Pháp để viên dung bất phá và tu bổ bản thân, cho nên không thể thoát khỏi số mệnh thành trụ hoại diệt, cuối cùng vũ trụ cũ đã đi đến bước hủy diệt.

Không ai dám xóa ranh giới của vòng tròn này, trong vũ trụ cũ đây là sự tự hủy diệt, một khi bị xóa sạch, sinh mệnh sẽ bị hủy diệt không tồn tại nữa, tất cả các lạp tử đều sẽ bị hủy diệt hết, nên cũng gọi là “hình thần toàn diệt”.

Kể từ khi giọng nói của Sư tôn vang lên trong thương khung vũ trụ, đây là lần đầu tiên Đại Pháp của vũ trụ được truyền giảng cho chúng sinh trong trời đất, thức tỉnh tâm linh của họ.

Có những sinh mệnh được đánh thức bởi âm thanh từ bi và hồng đại nhất từ khai thiên tịch địa, bị chấn động bởi trí tuệ vô biên này, muốn xóa bỏ vòng tròn của chính mình bằng cái giá là hình thần toàn diệt: “Sư phụ ơi, con nguyện đem toàn bộ sinh mệnh để tin tưởng ở Ngài, xả bỏ đến tận lạp tử cuối của mình trong Đại Pháp! Để làm một sinh mệnh mới trong lòng của Ngài”. Thế là trong vũ trụ có danh hiệu “đệ tử Đại Pháp”, họ gánh vác tất cả chúng sinh, ký thệ ước với Sáng Thế Chủ với cái giá phải trả là hình thần toàn diệt.

3. Khoảng cách

Lỗ thủng lớn cơ bản của vũ trụ cũ, khi nó tiến nhập vào vị trí thấp nhất và trung tâm nhất của tam giới, thì tương ứng với “tương sinh tương khắc”, trở thành khoảng cách không thể vượt qua giữa tương sinh và tương khắc.

Khi khoảng cách giữa tương sinh và tương khắc được tu bổ làm cho viên dung, thì chính lỗ thủng lớn trong vũ trụ cũng được tu bổ, đó cũng chính là vá trời.

Thiện ác tất báo, nhân quả tuần hoàn, đây là thiên lý của tam giới, là lý được sinh ra bởi tương sinh tương khắc.

Nhưng sự tương sinh tương khắc của vũ trụ cũ là điều tuyệt đối hóa, đây là điều được tạo thành tương ứng với lỗ thủng lớn cơ bản trong vũ trụ.

Điều đó được biểu hiện là: thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, thiện không thể ác báo, ác không thể thiện giải. Có một khoảng cách không thể vượt qua được giữa thiện và ác, khoảng cách thực sự của nó còn lớn hơn vũ trụ ở giờ phút cuối cùng. Hình dạng cực lớn thì trở nên vô hình, vì nó quá lớn, tất cả sinh mệnh đều ở trong đó nên không ai có thể nhìn thấy, cũng không biết đó là “lậu”.

Không ai có thể vượt qua khoảng cách giữa thiện và ác, khiến chúng tương hợp, làm cho chúng cân bằng. Không có sinh mệnh nào trong vũ trụ cũ có được trí huệ này, kể cả sinh mệnh cuối cùng. Bởi vì đây là hai loại vật chất hoàn toàn khác nhau, một khi vượt qua được khoảng cách nhưng lại không thể cân bằng được thì mọi thứ sẽ vì điều này mà biến dị, vật chất vũ trụ sẽ mất cân bằng trong vòng tuần hoàn, vòng tuần hoàn sẽ bị phá vỡ và hủy diệt.

Nói một cách đơn giản, ăn miếng trả miếng, đòn lại trả đòn, đây chính là cái lý tương sinh tương khắc tuyệt đối hóa của vũ trụ cũ, nó cân bằng vạn sự vạn vật, cân bằng mọi vật chất, để duy trì sự cân bằng tuyệt đối, không đến mức sụp đổ vì mất cân bằng. Đây cũng là tiêu chuẩn cân bằng được đặt ra bởi Thái cực của vũ trụ cũ.

Sư phụ sẵn sàng mang tất cả chúng sinh trong trời đất vượt qua khoảng cách này, sử dụng trí huệ vô biên của Đại Pháp để thiện giải, cân bằng tất cả những ân oán được mất trong vũ trụ, nhưng cựu thế lực lại nói “không”!

Một kẻ đã dùng dao giết người, liệu có thể bồi thường lại bằng cách cứu mạng người kia không? Kẻ ngỗ nghịch, không hiếu thuận với cha mẹ liệu có thể bù đắp bằng những giọt nước mắt hối hận và thiện đãi với cha mẹ cả đời không? Liệu ác có thể dùng thiện để hóa giải không? Liệu có thể giải quyết mọi chuyện theo hướng tích cực quang minh chứ không cần dùng phương thức tiêu cực được không? Như thế những gì lịch sử lưu lại cho sinh mệnh, đều sẽ là những bài học chính diện, chứ không có bài học phụ diện, tất cả chúng sinh trong vũ trụ đều sẽ được thiện giải vào giây phút cuối cùng, tận thiện tận mỹ, tất cả chúng sinh đều được hạnh phúc mỹ mãn, sẽ không có sinh mệnh nào bị đào thải. Đây là điều mà Sư phụ muốn.

Cũng giống như việc giáo dục một đứa trẻ, nếu chủ yếu sử dụng các phương thức tiêu cực, từ nhỏ bị chửi mắng đánh đập và làm nhục, thì khi lớn lên tâm lý của đứa trẻ chắc chắn sẽ trở nên tự ti, cực đoan và méo mó. Nếu từ nhỏ chỉ dùng những phương thức tích cực với nó, khích lệ, yêu thương và dạy dỗ nó thì khi lớn lên nó sẽ như ánh sáng mặt trời, thiện lương và độ lượng.

Cựu thế lực chỉ muốn nói không! Ai dùng dao giết người, sẽ phải chết bởi dao; kẻ nào bất hiếu với cha mẹ tất sẽ bị con cái bất hiếu lại; cái ác thì phải trả bằng cái ác, cái thiện chỉ có thể dùng cái thiện để báo đáp… Đây là “luật trời” không bao giờ thay đổi được! Những gì ông nói, chúng tôi không có trí huệ này!

Kỳ thực chỉ cần xóa bỏ được ranh giới này, thì sẽ có được trí huệ này.

4. Cạm bẫy

Dòng chảy thời gian đã tiến vào lịch sử của nhân loại, đang mở đường vì Chính Pháp vào thời khắc cuối cùng.

Sư phụ muốn hiện diện lịch sử một cách quang minh chính diện, vượt qua khoảng cách giữa thiện và ác, dùng cái thiện để dẫn dắt và hóa giải toàn bộ. Như thế đến thời khắc cuối cùng, mọi thứ của con người đều sẽ là chính diện, một khi Đại Pháp được khai truyền, mọi người sẽ tranh nhau để đắc Pháp, để quy chính và đồng hóa với Đại Pháp, vũ trụ cũng được thiện giải.

Cựu thế lực nói không, chúng muốn nhân gian vào giây phút cuối cùng biến thành một cái lò luyện lớn! Chúng nói rằng nếu không đạt đủ nhiệt độ cao và áp suất cao, thì không thể động chạm đến được các vật chất và nhân tố biến dị ở vi quan nhất của sinh mệnh, cũng không thể kiểm tra được liệu sinh mệnh có đủ độ tinh khiết hay không! Nếu không đạt tiêu chuẩn, chúng tôi thà tiêu hủy tất cả!

Vì vậy, trong những sự an bài của Sư tôn, hơn 80% lịch sử nhân loại đã bị cựu thế lực cưỡng chế bóp méo.

Trong lịch sử chúng liên tục lấy tương sinh tương khắc một cách tuyệt đối hóa để biến đổi hai cực, khiến mọi thứ đều đi đến cực đoan trong lịch sử, hình thành một sự khác biệt cực đại mà vật chất có thể chịu đựng được, để ở khoảnh khắc cuối cùng khiến cho lò luyện lớn tại nhân gian dưới sự khác biệt to lớn đó, đạt được nhiệt độ và áp lực một cách đầy đủ.

Dưới sự tương sinh tương khắc tuyệt đối hóa, chúng tích tụ các vật chất và nhân tố phụ diện đến cực điểm, làm cho cái phụ diện chủ đạo mọi thứ, những bài học phụ diện và kết cục không trọn vẹn (tàn khuyết, không có hậu) trong lịch sử được tích tụ trong tư tưởng nhân loại, hình thành từng tầng tư duy và khái niệm biến dị, hình thành cái bẫy khổng lồ đã bao vây chặt toàn bộ nhân loại.

Con người cũng giống như ếch ngồi đáy giếng, sinh ra trong cái bẫy, sẽ không bao giờ có thể nhảy ra khỏi cái bẫy này, coi cái bẫy của cựu thế lực là toàn bộ thế giới chân thực – bầu trời vĩnh viễn chỉ to bằng miệng giếng.

Tiếng chuông và đồ ăn ngon vốn là những sự vật không liên quan đến nhau, nếu rung chuông cho con chó, sau đó cho nó ăn một thứ ngon, sau một thời gian dài, hễ nghe thấy tiếng chuông, thì con chó sẽ tự động chảy nước dãi, điều này được con người gọi là phản xạ có điều kiện. Đây là kiến lập sự tương ứng giữa hai loại sự vật không liên quan với nhau là tiếng chuông và đồ ăn ngon, sau đó liên tục củng cố tăng cường nó, làm cho nó tạo thành một bộ cơ chế tư duy tự động, cũng có thể gọi đây là quan niệm, từ đó chi phối tư duy thực sự, để đến mức không cần phải suy nghĩ và phán xét, liền trực tiếp tạo ra kết quả mong muốn. Và kết quả này chỉ là những gì cựu thế lực mong muốn, chúng đã liên tục thử nghiệm với nhân loại trong suốt lịch sử để đạt được mục đích mong muốn cuối cùng của chúng.

Thiện ác ắt báo, nhân quả tuần hoàn là thiên lý, cho dù là cái lý của vũ trụ cũ, cựu thế lực cũng không dám phá cái lý này của vũ trụ cũ, nhưng chúng dám lợi dụng những sơ hở trong mê của con người để khiến chúng đặt sai vị trí.

Người này kiếp này làm vô số việc thiện, tích được đức lớn, nhưng kiếp sau lại bị an bài trở thành đại ác nhân, làm những điều xấu, nhưng là do tích đức lớn ở kiếp trước nên phúc báo nhiều vô kể. Người kia đã từng làm việc xấu, tích nghiệp lớn trong kiếp trước, nhưng kiếp này lại được yêu cầu đóng vai một người tốt lương thiện, nhất tâm hướng thiện, nhưng lại gặp ác báo liên tiếp.

“Lẽ nào ông trời mù mắt?” Khi con người ở trong mê, trong thống khổ của sự vô minh thì sẽ oán trách ông trời một cách vô tri. Nhưng họ không biết rằng đây chỉ là cái bẫy và thí nghiệm của cựu thế lực, chúng cảm thấy rằng chỉ khi mọi người bước đi dưới hình thức hoàn toàn đảo ngược này mới có thể đạt được tiêu chuẩn của chúng. Khi những thứ này xuất hiện với số lượng nhiều và trên diện tích rộng thì tư duy của con người sẽ tiếp tục phát sinh những lệch lạc và méo mó tương ứng. Vì thế mà nảy sinh nghi ngờ, không còn tin rằng thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, cũng dần dần không còn tin rằng có sự tồn tại của Thần.

Trong quá trình lịch sử bị xuyên tạc và bóp méo này, tư duy của con người không ngừng sản sinh lệch lạc và biến dạng, cuối cùng hoàn toàn lệch lạc và đảo ngược, đây chính là âm dương đổi chiều. Lúc này cái thiện không còn là cái thiện nữa mà là tà ác, nhưng lại mượn danh nghĩa cái thiện.

Đây chỉ là đứng từ góc độ của triết học phương Tây mà giải thích hiện tượng âm dương đảo chiều của Đạo gia phương Đông.

Kỳ thực triết học phương Tây tức là Đại Đạo của phương Đông, trong lịch sử Socrates đã để lại chìa khóa để khai mở. Nhân loại chưa bao giờ thiếu nhà tiên tri giả, nhưng một số nhà tiên tri chân chính đã để lại một số chìa khóa có thật trong lịch sử có thể giải khai lịch sử của nhân loại, tôi thấy rằng đây là những lần chuyển thế của Sư tôn, họ đã che giấu những chìa khóa này ngay dưới mí mắt của cựu thế lực, cất giấu trong những tầng sâu nhất của lịch sử, cựu thế lực không thể tìm thấy, bởi vì nơi cất giấu là những nơi mà cựu thế lực chưa hề xuất hiện. Có một loại con mắt có thể nhìn thấy những chìa khóa này, ở đây không cần giải thích rõ.

Văn hóa của con người là văn hóa Thần truyền, ngay từ ban đầu con người đã câu thông được với Thần. Khi tư duy của con người hoàn toàn lệch lạc và méo mó, thì họ không câu thông được với Thần nữa, con người và Thần đã cắt đứt mối liên hệ. Điều đáng sợ hơn nữa là trong quá trình này, dần dần dẫn đến những biến dị trong các nhân tố vật chất vi quan hơn, con người không thể quay trở lại được nữa, đây là điều mà cựu thế lực không thể tưởng tượng nổi và hoàn toàn không thể động chạm vào. Cho dù nhiệt độ và áp suất cao đến đâu, cũng không thể chạm vào được những biến dị vi quan như vậy, trong các thử nghiệm về nhiệt độ cao và áp suất cao sinh mệnh sẽ không chịu đựng được và bị tiêu hủy hết.

Cựu thế lực dứt khoát rằng đã sai rồi thì sai cho trót, đi một con đường thẳng vào bóng tối, lợi dụng những nhân tố phụ diện và lệch lạc to lớn tích lũy trong lịch sử, chúng đã tạo ra cái thứ tà linh cộng sản, trong nhân tố phụ diện, đang thống trị nhân loại, khảo nghiệm các học viên Đại Pháp.

Không có sinh mệnh nào có thể thoát ra khỏi cái lò luyện cực đoan này, không có sinh mệnh nào có thể chịu đựng được, tất sẽ bị hủy diệt. Sư phụ đã vì các sinh mệnh mà chịu đựng nhiệt độ và áp suất cao, nghĩ đến chúng sinh trong trời đất, dùng máu của chính mình mà mở ra một con đường lên trời cho các đệ tử Đại Pháp.

5. Hoàn mỹ

Hồi nhỏ tôi xem Hồng Lâu Mộng, đọc sơ qua một lượt nên chẳng để lại ấn tượng gì, chỉ có một câu đã khắc sâu vào trong tâm: “Thiên hạ không có bữa tiệc nào là không kết thúc”. Tôi không muốn tin vào điều đó, vì vậy tôi đã dành phần đời còn lại của mình để tìm kiếm một bữa tiệc không kết thúc.

Vẻ đẹp thê lương, vẻ đẹp tàn khuyết…

Đây đều là những từ được tạo ra sau khi tư duy của con người lệch lạc khỏi vị trí tương ứng. Không hoàn chỉnh thì làm sao có thể đẹp được? Sau đó tôi phát hiện ra rằng căn nguyên của tất cả những điều này đều là do sự tương sinh tương khắc một cách tuyệt đối hóa của vũ trụ cũ tạo ra, là một lỗ thủng lớn trong vũ trụ cũ.

Vật gì cứng thì giòn; vật gì mềm thì yếu. Người dịu hiền có tính cách yếu đuối; người kiên cường tất sẽ có tính cách dữ tợn. Muốn tận dụng được mặt tốt của nó thì cần phải gánh được mặt tiêu cực của nó. Đây là khoảng cách giữa sự tương sinh và tương khắc của vũ trụ cũ, không thể vượt qua, là lỗ thủng lớn cơ bản của vũ trụ cũ, nó không có trí huệ để bù đắp và cân bằng, vì vậy không tồn tại sự vật thực sự hoàn mỹ trong vũ trụ cũ, không tồn tại bữa tiệc kéo dài không kết thúc. Vậy mới có vẻ đẹp thê lương, vẻ đẹp không hoàn chỉnh.

Khi tôi thấy các đệ tử Đại Pháp đã tu luyện rồi thì tính cách vừa kiên cường vừa hiền dịu, vừa khiêm tốn vừa quả cảm, khi hai vẻ đẹp hoàn toàn đối lập và khác nhau, dung hợp thành nhất thể trong Đại Pháp, thì tôi đã thấy được sự hoàn mỹ, tôi biết rằng khoảng cách này đã được thu hẹp. Nước mắt tôi tuôn rơi.

Chỉ có Sư tôn và Đại Pháp mới có trí huệ này.

Trở thành một đệ tử Đại Pháp, sinh mệnh của tôi là vô cùng hạnh phúc, cuối cùng tôi đã tìm thấy, tôi đã thấy bữa tiệc không bao giờ kết thúc đó.

6. Quá trình

Nhiều năm trước, tôi nhớ một đồng tu đã hỏi tôi: “Sư phụ có khả năng hoàn toàn có thể không để cho cựu thế lực xuất hiện, như vậy sẽ không có sự đào thải, cũng sẽ không có cuộc bức hại tàn khốc mà các đệ tử Đại Pháp đang phải chịu đựng cho đến ngày hôm nay. Tại sao Sư phụ lại cho phép cựu thế lực xuất hiện?”

Lúc đó tôi cũng không thể trả lời được trong chốc lát, tôi chỉ nói rằng trí huệ của Sư phụ và Đại Pháp là vô hạn, chúng ta hiện nay không thể lý giải được rất nhiều thứ, nhất thiết không nên chấp trước, nghi ngờ, càng không được bất kính đối với Sư phụ, nếu không thì gốc rễ của sinh mệnh sẽ bị ô nhiễm! Hãy buông bỏ, đến một ngày nào đó, có thể sẽ tự nhiên minh bạch được.

Đến bây giờ tôi mới có thể đưa ra câu trả lời bằng trí huệ nhỏ bé của mình:

Đối với tất cả sinh mệnh trong vũ trụ cũ mà nói, thành trụ hoại diệt là một chu kỳ hoàn chỉnh.

Giống như một cái cây, nó mọc rễ, nảy mầm, trưởng thành, rồi đơm hoa, kết trái, cho đến khi quả chín, đây là một quá trình hoàn chỉnh. Chỉ sau khi quả chín, nó mới bao hàm quá trình hoàn chỉnh này, mới có thể nảy mầm và sinh ra sinh mệnh mới.

Nếu như cái cây này sau khi ra hoa kết trái và trái được hái trước khi chín, thế thì nó là thứ không hoàn chỉnh, nó sẽ không thể nảy mầm và không thể trở thành sinh mệnh mới.

Cá nhân tôi lý giải rằng: Không được can dự vào quá trình thành trụ hoại diệt của vũ trụ cũ, đương nhiên đến thời khắc cuối cùng, tất cả cơ hội mới có thể đạt tới mức chín muồi, Chính Pháp vào thời điểm này mới có thể tạo ra một vũ trụ mới hoàn mỹ, không bao giờ bị diệt vong.

Tôi tự hỏi mình: Khi trái chín, cây có thể bị héo. Dù sao thì thiệt hại do cựu thế lực tạo ra đã là không thể vãn hồi, lịch sử không thể viết lại.

Tôi đột nhiên nhớ ra một điều: Khi tôi còn nhỏ, lúc ấy Đại Pháp vẫn chưa được khai truyền, nhưng khi tôi đang xem một cuốn sách, thì đột nhiên nhìn thấy một đoạn trong cuốn Chuyển Pháp Luân, lời giảng Pháp của Sư phụ đã in sâu trong tâm trí tôi. Sau đó cuốn Chuyển Pháp Luân được xuất bản, khi học đến lời giảng Pháp của Sư phụ, tôi đã thực sự chấn động. Tôi đã từng có một dạo không hiểu được đến mức hoài nghi đó là nhận thức sai về ký ức của mình.

Tôi lại nhớ đến một điều: Vài năm trước tôi đã viết một câu chuyện, đó là chuyện mà mình đã suy nghĩ để viết ra, lúc đó tôi không thể hiểu hết được, nhưng cho rằng mình hiểu rõ nhất. Mãi đến bây giờ tôi mới có thể hiểu. Tôi bật cười.

Lịch sử là một quá trình, nhưng cũng là một thể toàn tức (một thể gồm các tín tức thông tin hoàn chỉnh). Nếu gia nhập vào thời gian, nó được gọi là quá trình, nếu ra khỏi thời gian thì nó là nhất thể đồng tại.

Vài năm trước, tôi đã bị một cú ngã trầm trọng, để lại khiếm khuyết rất đáng tiếc. Nhưng cho đến bây giờ, tôi nhận thấy rằng những khiếm khuyết đang dần biến mất, quá trình vượt qua đó đang tùy theo sự quy chính của tôi mà dần dần hoàn mỹ.

Màn mở đầu của Pháp Chính Nhân Gian đã bắt đầu, khi các đệ tử Đại Pháp thực thụ đã đi hết quá trình này, khi đi đến cuối cùng một cách đại viên mãn, họ có thể thấy rằng lịch sử đã tái hiện lại chính nó, có thể thấy rằng cựu thế lực từ trước đến nay chưa từng có…

Phật ân hạo đãng! Các đệ tử sẽ dùng toàn bộ sinh mệnh mãi mãi ca tụng Sư phụ!

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/250687

The post Bút ký tu luyện (3): Thần thoại của vũ trụ mới – Câu chuyện “Vá trời” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bút ký tu luyện (2)https://chanhkien.org/2023/01/but-ky-tu-luyen-2.htmlThu, 12 Jan 2023 07:43:36 +0000https://chanhkien.org/?p=29525Tác giả: Chân Ngu [ChanhKien.org] (6) Trước khi làm một sự việc, tôi thấy rằng trước tiên phải phân tích mục đích của mình: là vị tư hay là vị tha, vì Pháp vì chỉnh thể? Nếu hoàn toàn không có chút vị tư, thì mục đích này có thuần chính không, nền cơ điểm […]

The post Bút ký tu luyện (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Chân Ngu

[ChanhKien.org]

(6)

Trước khi làm một sự việc, tôi thấy rằng trước tiên phải phân tích mục đích của mình: là vị tư hay là vị tha, vì Pháp vì chỉnh thể? Nếu hoàn toàn không có chút vị tư, thì mục đích này có thuần chính không, nền cơ điểm của sự việc này có đúng không? Nếu có thành phần vị tư, dù chỉ một chút, thì việc này không thuần chính. Lúc này trước tiên hãy dừng lại, tìm kiếm kỹ càng, quy chính bản thân, thuần tịnh mục đích của bản thân, loại bỏ toàn bộ những nhân tố bất thuần để kiền tịnh, cho đến khi đạt được hoàn toàn vô tư vô ngã thì mới bắt đầu làm. Những gì được thực hiện theo cách này mới là điều thần thánh, sẽ không sinh ra tác dụng phụ diện, cho dù những việc xấu cũng sẽ biến thành việc tốt.

Sau khi mục đích thuần chính rồi, trước tiên phải nắm chắc mục đích (kết quả) như thế nào rồi mới làm, nắm thật chắc trong tay, như thế thì toàn bộ sự việc đều nằm trong tầm kiểm soát của mình, sẽ không đi chệch hướng. Nắm chắc được điểm này rồi sẽ có thể lấy bất động mà ức chế vạn động. Nhưng trong quá trình này chắc chắn sẽ có sự can nhiễu, bởi vì trong con người chúng ta đều có rất nhiều nghiệp lực cần phải loại bỏ, có rất nhiều nhân tâm cần phải buông bỏ, vì vậy nhất định phải đi qua quá trình này.

Trong quá trình này nhất định phải đặt cái “tự ngã” của mình xuống vị trí đủ thấp, một khi đặt xuống đến cùng, phải đạt được buông bỏ hoàn toàn không còn “tự ngã”, như thế mới có thể hoàn toàn ở trong Pháp, không ai có thể với tới hoặc động đến được. Trong quá trình này, chắc chắn sẽ liên quan đến rất nhiều thứ, động chạm đến rất nhiều nhân tố, bất cứ thứ gì không thể buông bỏ thì trong quá trình này sẽ bị các nhân tố ngoại lai nắm giữ, bị môi trường bên ngoài kiềm chế, trở thành sợi dây ràng buộc. Nếu có thể làm được việc hễ cái gì bị nắm giữ thì buông bỏ cái đó, như vậy chúng ta trong toàn bộ quá trình sẽ là “vô hình”, không có bất cứ điều gì có thể nắm giữ được chúng ta. Qua quá trình này, thì đã buông bỏ rất nhiều thứ và đồng hóa với Pháp. Cứ như thế, lặp đi lặp lại, trải qua nhiều lần, cuối cùng chúng ta đã buông bỏ hết mọi thứ, xả đến vô tư vô lậu, trở thành một lạp tử của Đại Pháp.

Nếu kết quả luôn luôn nằm chắc trong tay mình, trước khi bạn làm điều đó, thì con đường này kỳ thực đã thông rồi, việc còn lại chỉ là quá trình. Mặc dù quá trình này thiên biến vạn hóa, nhưng chỉ cần kiên định một bước không rời Đại Pháp, thì chúng ta sẽ có thể lấy bất biến mà ứng vạn biến, con đường chắc chắn sẽ thông suốt.

Trong quá trình này Đại Pháp sẽ khai mở trí huệ cho chúng ta, sẽ từ trong Pháp mà luyện được hỏa nhãn kim tinh (mắt lửa ngươi vàng), khiến nhiều sự việc chỉ cần liếc qua là thấy, trong nháy mắt có thể nắm được gốc rễ của nó, khiến mọi thứ hiển lộ chân tướng, không bị bất kỳ biểu tượng hoặc nhân tố bên ngoài nào mê hoặc. Toàn bộ quá trình giống như xem một vở kịch, thân ở trong vở kịch, nhưng tâm lại không nhập vào vở kịch.

(7)

“Biệt quản đương triều duyên trung sự

Viên mãn hồi gia vạn sự thông”

Tạm diễn nghĩa:

Chớ bận lo những việc duyên với triều đại bấy giờ

Viên mãn về nhà thì tất cả mọi việc đều thông tỏ

(“Đắc Đạo Minh”, Hồng Ngâm II)

Theo thể ngộ cá nhân, trong những năm tháng dài đằng đẵng, vũ trụ đã biến dị, tất cả chúng sinh đều sai lệch khỏi Pháp, vì lẽ đó mà Sư tôn mới đến Chính Pháp và cứu độ tất cả chúng sinh trong vũ trụ.

Mỗi đệ tử Đại Pháp chúng ta đều đại diện cho một thể hệ vũ trụ khổng lồ, hết thảy các nhân tố sinh mệnh trong thể hệ được đại diện này sẽ tương ứng với bản thân chúng ta. Các đặc tính của thể hệ mà chúng ta đại diện, cũng như các nhân tố thiên lệch, biến dị, đều sẽ được đối ứng thể hiện trên thân chúng ta.

Vì vậy từ tầng tầng đi xuống, trong quá trình luân hồi lịch sử ở thế gian con người, mọi thứ trong thể hệ này có thể tương ứng với chúng ta, chúng ta sẽ cùng nhau diễn tại nhân gian. Những nhân tố biến dị và thiên lệch đó đối ứng đến nhân gian thì sẽ hình thành nên những dục vọng chấp trước và tư tâm tà niệm. Dưới tác dụng của các nhân tố biến dị này, chúng ta sẽ tạo ra nghiệp lực rất lớn trong luân hồi lịch sử.

Tại đời này, trong quá trình trợ Sư Chính Pháp, chúng ta không ngừng đồng hóa với Đại Pháp, quy chính bản thân, thì sẽ giải quyết được mọi vấn đề của bản thân. Chúng ta trong quá trình giải quyết các vấn đề của chính mình, đồng thời chính là đang thoát ra khỏi tất cả các vấn đề đã hình thành trong lịch sử, vũ trụ đối ứng với chúng ta đang quy chính, giải khai tất cả các vấn đề của thể hệ mà chúng ta đại biểu. Khi chúng ta tu thành, trong suốt quá trình lịch sử luân hồi, tất cả được thiện giải ngọn nguồn, thể hệ vũ trụ và tất cả chúng sinh mà chúng ta đại biểu đều được quy chính, đồng hóa và được cứu độ.

Không được chấp trước vào những gì luân hồi chuyển thế, cho dù trong lịch sử mình đã từng diễn vai ai đó, càng không cần chấp trước vào những gì thiên mục đã nhìn thấy. Không ai trong chúng ta có thể nhìn thấy lịch sử chân thực, phần lớn đã bị cựu thế lực thay đổi và hủy hoại, tình huống chân thực là không cho phép các sinh mệnh ở trong mê nhìn thấy. Những điều mà chúng ta nhìn thấy phần lớn là giả tướng, phần nhiều chúng không có tác dụng gì ngoại trừ việc thỏa mãn những chấp trước bản thân và can nhiễu người khác. Không cần thiết phải đưa những yếu tố và nguồn gốc lịch sử phức tạp đó kéo lây đến hiện tại, can nhiễu đến hiện tại, điều mà chúng ta cần làm là tu tốt bản thân, còn lại mọi việc khác đều sẽ được giải quyết một cách phù hợp trong quá trình này, đừng để những thứ con người gây ra làm gia tăng ma nạn cho chính mình.

Việc tu luyện chỉ sẽ càng tu càng đơn giản, tu xuất được trí huệ chân chính, nhìn thấy được chân tướng của nó, nắm bắt được gốc rễ của nó, lấy bất động mà ức chế vạn động.

(8)

“Như mọi người đã biết, các đệ tử Đại Pháp có rất nhiều việc là để lưu lại cho tương lai. Không nhất định là lưu lại cho con người, có thể là trong vũ trụ; chư vị đang chứng thực Pháp, về một số phương diện cần [xét] xem có làm được hay không, tiến bước [tạo nên] con đường tương lai” (Giảng Pháp tại Pháp hội Chicago năm 2004)

“Chư vị hễ có một tư một niệm chạy sang cực đoan, không suy xét hậu quả, không còn cân nhắc Đại Pháp như thế nào, thì tôi bảo với mọi người, chư vị đều không đi được tốt con đường của mình. Vì con đường ấy là để lưu lại cho tương lai, nên chư vị nhất định phải khai sáng con đường ấy” (Giảng pháp tại Pháp hội quốc tế New York 2004)

Cá nhân tôi ngộ rằng: Những gì đã ngộ được từ trong Pháp, nhất định phải làm được, phải thay đổi hành động thực tế, đây mới là chứng thực Pháp. Làm theo những gì đã ngộ được trong Pháp để giải quyết các vấn đề, nếu con đường đi đã thông, đi đã chính, thì đó chính là chứng thực những Pháp lý đã ngộ được, Pháp lý này sẽ lưu lại và trở thành tham chiếu vĩnh viễn cho vũ trụ tương lai. Nếu con đường không thông suốt, thì không chứng thực được Pháp lý mà đã ngộ được, vậy thì không thể lưu lại cho vũ trụ tương lai.

Quá trình này được gọi là “chứng ngộ”, chứng trước, ngộ sau. Nhất thiết phải chứng thực trước, rồi mới có thể liên tục ngộ được Pháp lý của tầng cao hơn, nếu không chứng thực được Pháp, các Pháp lý của tầng cao hơn sẽ vĩnh viễn không cách nào triển hiện. Nếu không làm được những điều đã ngộ được, thì những gì đã ngộ được chính là “không lý” (lý vô dụng xa rời thực tế), sẽ không đi thông suốt con đường này thì không thể lưu lại, không phải là bản thân mình.

Nhớ thời kỳ đầu học Pháp, còn chưa hiểu được tu luyện là gì, tôi đã học Chuyển Pháp Luân vài lần nhưng đều vẫn không thể nhìn thấy Pháp lý của tầng cao hơn. Tôi nghe các đồng tu khác nói rằng mỗi lần họ đọc Pháp, ý nghĩa của những gì họ nhìn thấy lại khác nhau, lúc đó không thể nào lý giải được nên đã đào sâu từng chữ từng câu một, cũng không thể nhìn thấy những gì sâu hơn, bèn sinh ra hoài nghi những gì đồng tu nói.

Sau đó khi dần dần hiểu được tu luyện là thế nào, thực sự dùng những hành động thực tế để chứng thực Pháp, thực sự chân tu, đi thành con đường của chính mình, vô hình trung Pháp lý ở cao tầng liền triển hiện từng tầng ở trước mắt, khi đó mới ngộ ra được sự kỳ diệu của việc tu luyện.

Có người ba việc đều làm cả, thậm chí học Pháp, luyện công rất tích cực, thể hiện ra cũng rất kiên định, nhưng lại chưa từng chân tu, không dùng Pháp để đối chiếu với bản thân, không thực tu, không chứng thực Pháp, vì vậy tu luyện nhiều năm, nhưng không đạt được gì, chỉ tích được phúc đức của người thường, tôi nghĩ điều này chính là học Pháp mà không đắc Pháp, đây là điều đáng buồn nhất.

Pháp là hiện thành, cho dù chúng ta có ngộ ra hay không, Ông vẫn ở đó, vĩnh viễn sẽ không bao giờ thay đổi. Chúng ta ngộ được thì vẫn không phải là điều thuộc về bản thân chúng ta, mà phải dùng hành động thực tế của bản thân để chứng thực Pháp, chứng thực được rồi, đó mới là điều thuộc về bản thân, chỉ vậy Pháp ấy mới được tính, về sau mới có thể được dùng để làm tham chiếu. Chứng thực Pháp được bao nhiêu thì đắc được bấy nhiêu, đây chính là quá trình đắc Pháp. Trong Đại Pháp vô biên, những bộ phận mà không thể chứng thực được thì vĩnh viễn không thuộc về chúng ta.

Nếu không thể từng bước chứng thực Pháp, những Pháp lý ở tầng cao hơn sẽ không bao giờ triển hiện xuất lai, cho dù có ngộ, suy nghĩ và đào sâu như thế nào, cũng sẽ không thể tìm ra điều gì đó cao thâm hơn, sẽ chỉ đi lệch sang tà ngộ. Chỉ khi chứng thực được Pháp lý của một tầng rồi, thì mới có thể triển hiện Pháp lý ở tầng cao hơn, nếu không vĩnh viễn sẽ không bao giờ đắc được Pháp. Cá nhân tôi biết rằng nhiều người tu luyện bên ngoài thế gian hoặc những người mà con người thế gian gọi là Thần Tiên cũng đang học Đại Pháp, nhưng họ không thể nhìn thấy bất cứ nội hàm nào thâm sâu hơn, họ chỉ nhìn thấy bề mặt, họ không đắc được Pháp, họ tuyệt nhiên không tốt bằng chúng ta.

Chúng ta trong việc chứng thực Pháp, con đường mà đi thông, đi đúng, chính là sự chứng ngộ của chúng ta, là những đặc tính và Pháp tắc của thế giới thể hệ của chúng ta, cũng là tham chiếu cho sự trường tồn bất hoại của vũ trụ mới trong tương lai.

(9)

“Tĩnh nhi bất tư

Huyền diệu khả kiến”

Diễn nghĩa:

Tĩnh mà chẳng tư (nghĩ ngợi)

Có thể thấy/chứng được những điều huyền diệu

(“Đạo Trung“, Hồng Ngâm)

“Đến tu luyện tại cao tầng, đặc biệt là công pháp của chúng tôi [nó] là tự động, hoàn toàn là tu luyện tự động.” (“Bài giảng thứ ba“, Chuyển Pháp Luân)

Theo thể ngộ cá nhân, nội hàm của Pháp hoàn toàn là những điều tự động triển hiện, là vô cầu nhi tự đắc. Nếu tự mình chấp trước vào suy xét, đào sâu vào từ ngữ, thì đó không phải là triển hiện tự động của Pháp, đó chính là điều tự mình cầu đến, sẽ ngộ sai lệch, thậm chí đi sang tà ngộ. Rất nhiều người tà ngộ đều là những người từng bước từng bước đi lạc lối, nhưng tự họ không biết điều đó, lại còn tưởng rằng họ đang ở trong Pháp.

Cá nhân tôi cảm thấy rằng khi học Pháp nên làm được “tĩnh nhi bất tư”, thì Pháp lý mới tự động triển hiện. Nghĩa là trong đầu óc không có bất kỳ tạp niệm nào; tuyệt đối không được phân tâm, không đặt tâm hay mơ mơ màng màng; tư tưởng phải vô cùng thuần khiết và tập trung cao độ, không khởi bất cứ niệm nào, thì sẽ cảm thấy rằng mỗi một chữ trong Pháp đều có thể thâm nhập sâu vào trong tư tưởng. Ở trạng thái này, hoàn toàn không cần phải suy nghĩ, đến lúc cần phải ngộ được thì Pháp lý sẽ đột nhiên triển hiện lập thể trước mắt, đó có thể là khi đang học Pháp, cũng có thể là khi đang vượt quan trong cuộc sống hàng ngày, đột nhiên một vầng sáng xuất hiện, cơ thể chấn động nhẹ một cái, cảnh giới của một tầng vũ trụ sẽ triển hiện trước mắt… mỹ diệu vô cùng.

Đương nhiên, đây là trên cơ sở chân tu, trên cơ sở chứng thực Pháp bằng hành động thực tế của chính mình, thì mới có thể triển hiện ra từng tầng từng tầng một.

Làm thế nào để đạt được “tĩnh nhi bất tư”? Cá nhân tôi có một phương pháp, đó là: trong cuộc sống ngày thường, thời thời khắc khắc đều không bỏ qua nhất tư nhất niệm xuất hiện trong tư tưởng, hễ có niệm đầu nào xuất hiện liền lập tức nắm chặt lấy nó không buông, quyết không thể bỏ mặc nó, thuận theo nó để suy nghĩ vẩn vơ hoặc tùy ý để nó tự sinh tự diệt. Nhất định phải kịp thời nắm chặt nó, diệt nó. Chỉ diệt nó thôi chưa đủ, còn phải tìm hiểu cội nguồn, tìm được căn nguyên của nó. Niệm đầu này do chấp trước vào nhân tâm gì mà sinh ra? Tư tưởng biến dị nào hoặc dục vọng nào đã nuôi dưỡng những tà niệm này? Sau khi tìm được căn nguyên, hãy nhổ tận gốc, nhắm trực tiếp vào gốc rễ để diệt, tuy rằng nhất thời diệt không sạch hết, nhưng ít nhất có thể nhận ra bộ mặt thật của nó, có thể phân biệt rõ nó không phải là mình, có thể loại bỏ nó dần dần, qua một quá trình sẽ loại bỏ hết, thì tư tưởng sẽ trở nên thanh tịnh.

Mỗi lần sau khi nắm bắt được những tạp niệm này và loại bỏ chúng, tư tưởng sẽ thanh tịnh trong một lát, nhưng không bao lâu, khi tư tưởng hễ buông lơi, thì những thứ này lại sẽ tự động bật lên. Lúc này phải ngay lập tức cảnh giác, tiếp tục nắm bắt nó, diệt nó, đào tận gốc rễ của nó, cứ kiên trì tiếp tục như thế.

Nếu kiên trì làm tiếp như vậy, lúc đầu sẽ rất gian khổ, sẽ cảm thấy thời gian trôi qua rất lâu, trong lòng sẽ rất cay đắng, nhưng tư tưởng sẽ rất thanh tỉnh, phong phú, người cũng tràn đầy tinh lực, sẽ không cảm thấy mệt mỏi.

Cứ kiên trì làm như thế lần này qua lần khác, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, sẽ thấy tư tưởng càng ngày càng thanh tịnh, có thể duy trì được thanh tịnh trong một thời gian lâu dài, hễ một niệm không khởi lên, thì sẽ không trở lại cảm giác khổ trước kia, trong tâm tràn đầy sự yên tĩnh và an tường, ung dung tự tại vô cùng, dần dần hình thành một cơ chế và trạng thái tự động.

Sau khi đạt đến trạng thái này, sẽ thấy rằng trí huệ càng ngày càng lớn, không cần phải động niệm, liếc mắt là có thể nhìn thấy gốc rễ của nhiều thứ, các Pháp lý liên tục xuất hiện trong tư tưởng. Khi đạt đến trạng thái tốt nhất, mỗi khi đọc một câu Pháp, thì sẽ có Pháp lý ở một tầng cảnh giới triển hiện trước mắt, mỗi khi đọc một câu của một tầng Pháp lý, thì trạng thái vô cùng huyền diệu và chấn động, không thể diễn đạt bằng lời.

Tất nhiên khi làm việc và học tập thì không thể không suy nghĩ, nếu không, không có cách nào để làm việc và học tập được. Tuy nhiên trong mục “Tu khẩu” trong bài giảng thứ tám của Chuyển Pháp Luân, Sư tôn đã giảng về Pháp lý liên quan đến vấn đề này. Theo hiểu biết cá nhân là để tâm thái cho đúng đắn, vô sở cầu, ngoại trừ những vấn đề liên quan đến công việc và học tập, hãy bảo đảm không để một niệm đầu nào khác khởi lên, hễ khởi lên thì hãy nắm bắt nó và diệt nó, đừng mở rộng trí tưởng tượng, đừng phân tâm và đừng suy nghĩ vẩn vơ.

Trên đây chỉ là một chút thể ngộ trong quá trình tu luyện của cá nhân, xin chia sẻ với các đồng tu để chúng ta cùng tinh tấn và đề cao.

Những thể ngộ nhỏ bé của chúng ta trong Pháp lý vô biên giống như một vài đám bọt nước nhỏ thỉnh thoảng nổi lên trong đại dương vô tận. Tất cả mọi thứ đều khởi nguồn từ Pháp, chúng ta nhất định phải dĩ Pháp vi Sư, làm tốt ba việc để báo đáp ân huệ của Sư phụ.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/156867

The post Bút ký tu luyện (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bút ký tu luyện (1)https://chanhkien.org/2022/12/but-ky-tu-luyen-1.htmlSat, 31 Dec 2022 03:16:44 +0000https://chanhkien.org/?p=29447Tác giả: Chân Ngu [ChanhKien.org] Sau hơn 20 năm tu luyện, tôi từ một sinh mệnh nhỏ bé vô tri đã trở thành một đệ tử Đại Pháp đang đi trên con đường của Thần, trong quá trình từ từ giác ngộ của sinh mệnh, con xin khấu tạ sâu sắc hồng ân cứu độ […]

The post Bút ký tu luyện (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Chân Ngu

[ChanhKien.org]

Sau hơn 20 năm tu luyện, tôi từ một sinh mệnh nhỏ bé vô tri đã trở thành một đệ tử Đại Pháp đang đi trên con đường của Thần, trong quá trình từ từ giác ngộ của sinh mệnh, con xin khấu tạ sâu sắc hồng ân cứu độ của Sư tôn!

“Phật ân hạo đãng”, không lời nào tả xiết. Nhiều năm tu luyện như vậy, tôi đã thể ngộ được rất nhiều điều cảm khái, thể ngộ được sự triển hiện của tầng tầng Pháp lý, đó là những điều không thể diễn tả thành lời, giống như đại dương không thể được đổ đầy bởi bể cá. Nhìn lại con đường vừa đi qua, tôi bèn thu thập những gì đã thể ngộ được trong hai năm qua, sắp xếp ra một số phần để chia sẻ với các đồng tu.

Đây chỉ là những thể ngộ nhỏ bé ở tầng thứ hữu hạn của cá nhân, chia sẻ với mọi người để “Phao chuyên dẫn ngọc”, có gì chưa thỏa đáng mong các đồng tu từ bi chỉ rõ.

1

“Nhẫn là chìa khoá của đề cao tâm tính. Nhẫn mà uất hận, uỷ khuất, hay đẫm lệ là cái nhẫn của người thường với chấp trước vào tâm lo nghĩ, hoàn toàn không hề nảy sinh uất hận, không cảm thấy uỷ khuất thì mới là cái Nhẫn của người tu luyện.” (Thế nào là nhẫn, Tinh Tấn Yếu Chỉ)

Tôi ngộ ra rằng Nhẫn kỳ thực chính là lấy tâm can và dung lượng của mình để chịu đựng. Dung lượng càng lớn, sức chịu đựng càng lớn thì càng có thể nhẫn, khi dung lượng đã đầy thì không còn chịu được nữa, sẽ bùng nổ hoặc sụp đổ.

Cũng giống như cái ao, dung lượng của nó nhỏ, ném một viên đá nhỏ vào đó, thì nước cả ao có thể bị khuấy động; trong khi đó dung lượng của đại dương lớn, nên dù có thả một quả bom nguyên tử xuống đáy biển, thì cũng không có thay đổi trên bề mặt. Tu luyện là quá trình từng bước mở rộng dung lượng của bản thân, dung lượng càng lớn thì sức chịu đựng càng lớn, nội hàm càng lớn, cảnh giới và trí tuệ càng lớn.

Sau khi cố nhẫn một lần, dung lượng sẽ nở ra một chút, lần sau lại gặp khảo nghiệm, nếu lại cố nhẫn thì dung lượng sẽ lại mở rộng thêm một chút nữa, cứ như thế dung lượng sẽ nở ra thêm từng chút một, sẽ càng ngày càng có thể nhẫn được nhiều hơn, đây là một quá trình tu luyện. Nhưng quá trình này quá chậm, đây chỉ là con đường tu luyện theo tiểu Đạo tiểu Pháp trước đây. Tu luyện Đại Pháp là con đường lớn thông lên trời, trực chỉ nhân tâm, có thể một bước lên trời.

Nếu dung lượng ban đầu là cái bể cá, sau nhiều lần khảo nghiệm và cố nhẫn, dung lượng có thể mở rộng to như một cái ao, lại qua nhiều lần khảo nghiệm khác, lại nhiều lần cố nhẫn, thì lại từ từ mở rộng, sau vô số lần khảo nghiệm và cố nhẫn, cuối cùng dung lượng được mở rộng lớn ra như đại dương, nhưng nó vẫn còn hạn chế. Đại dương lớn đến đâu thì suy cho cùng vẫn có biên giới, rồi sẽ có ngày nó sẽ đầy. Nếu đi thẳng đến biên giới của nó để bắt đầu, thì đó có thể là Đại Đạo thông thiên, biên giới này chính là cái “tư”.

Nếu lúc đầu ta đâm thủng đáy của bể cá, khi đó dung lượng của nó sẽ là vô tận vô biên, có thể chứa toàn bộ nước của Trái Đất, vĩnh viễn không bao giờ đầy. Cá nhân tôi cho rằng đây là điểm khác biệt giữa tu luyện Đại Pháp và bất kỳ môn tu luyện nào khác trong lịch sử. Chúng ta cần phải tu thành đại giác ngộ vô tư vô ngã, trực tiếp bắt đầu từ ranh giới này, bắt đầu từ cái “tư”, trực chỉ nhân tâm. Nếu hoàn toàn buông bỏ bản thân, xả bỏ mọi thứ, vì tất cả chúng sinh và Đại Pháp mà xả bỏ tư ngã, thì sẽ không còn ranh giới nữa.

Vì vậy sau khi xả tận thì không phải là tan biến không còn tồn tại nữa, mà là hoàn toàn quay trở về với Đại Pháp, trở thành một lạp tử của Đại Pháp, có đầy đủ lực lượng của Đại Pháp, bất kỳ sinh mệnh nào trong vũ trụ đều không thể động chạm và lay chuyển được. Nếu trực tiếp xả tận chính mình, không còn tự ngã, thì cũng sẽ không còn tồn tại vấn đề nhẫn nữa, càng không còn tồn tại ủy khuất và oán hận nữa. Những cảm giác như ủy khuất, tức giận, v.v. là do bản thân mình đã bị động chạm đến, nếu không còn cái tư thì sẽ không có bất kỳ sinh mệnh nào có thể động đến được, đối với tất cả sinh mệnh mà nói, bạn là “vô”, không có cách nào động tới và đoán ra được. Điều này giống như đâm thủng một bể cá, nó không còn ranh giới, không còn dung lượng, đồng thời nó có thể chứa mọi thứ, là nhất thể với Đại Pháp, quy về trong Đại Pháp, dùng Đại Pháp mà chịu đựng, vật gì có thể lẩn tránh?

Đương nhiên điều này là cực kỳ khó thực hiện, bởi vì mọi thứ trong vũ trụ cũ đều được kiến lập trên cơ điểm của cái tư, người thường cũng đều lấy tự ngã làm trung tâm, cả đời đều là vị tư mà sống. Nhưng điều đó cũng không khó, bởi vì chúng ta có Sư phụ có Đại Pháp, kỳ thực đó chính là vấn đề của quan niệm và cơ điểm, một khi quan niệm này thay đổi, cơ điểm được đặt đúng, nó sẽ hoàn toàn khác. Đơn giản, nhưng cũng khó nhất, khoảng cách chỉ trong một niệm. Bạn có thể vì chúng sinh và Đại Pháp mà xả tận mọi thứ không?

2

“Gốc của tôi gắn trên vũ trụ, ai có thể động tới chư vị, người ấy có thể động đến tôi; nói thẳng ra, người ấy có thể động đến vũ trụ này.” (Bài giảng thứ nhất, Chuyển Pháp Luân).

Tôi ngộ ra rằng: năng lực của một sinh mệnh không phụ thuộc vào tầng thứ cao thấp hay kích cỡ lớn nhỏ, mà phụ thuộc vào việc liệu anh ta có hoàn toàn đồng hóa với Pháp, hoàn toàn đứng trong Pháp hay không. Nếu một sinh mệnh hoàn toàn đồng hóa với Pháp, hoàn toàn không có tự ngã, không có cái tư, thì người đó chính là một lạp tử của Đại Pháp, một bộ phận cấu thành của Đại Pháp, người đó có lực lượng của Đại Pháp, cho dù những sinh mệnh tầng thứ cao đến đâu trong vũ trụ đều không thể lay chuyển được, bởi vì nếu lay chuyển được anh ta thì tương đương với lay chuyển được Đại Pháp của vũ trụ, tương đương với lay chuyển toàn bộ vũ trụ, không một sinh mệnh nào có thể có khả năng này.

3

Khi vẽ một hình tròn, cho dù có vẽ lớn đến đâu thì không gian bên trong hình tròn cũng là hữu hạn, và không gian bên ngoài hình tròn là vô hạn.

Nếu chọn ở bên trong vòng tròn thì chính là tự ràng buộc mình trong một không gian hữu hạn, vĩnh viễn sẽ không vượt quá vòng tròn này; nếu chọn ở bên ngoài vòng tròn, thì sẽ nhảy ra khỏi sự trói buộc này, sẽ có không gian vô hạn.

Mỗi sinh mệnh đều vẽ ra một vòng tròn cho mình, sẽ bảo vệ mình trong đó, đồng thời cũng vây khốn mình ở trong đó, vòng tròn này chính là “tư”. Nhưng sinh mệnh chỉ chăm chăm “bảo hộ” của vòng tròn này, mà không biết rằng mình đang bị “vây khốn” trong đó, là vì sự sáng suốt của sinh mệnh cũng bị vây hãm bởi vòng tròn.

Trong vũ trụ cũ, mọi sinh mệnh ở tầng thứ cao đều từ trong Đại Pháp của vũ trụ mà chứng ngộ ra một bộ các thứ của mình. Nhưng vì cơ điểm đều là vị tư, nên những gì mỗi sinh mệnh chứng ngộ ra đều hình thành một “vòng tròn”. Thế là trong vũ trụ hình thành những “vòng tròn” lớn lớn nhỏ nhỏ khác nhau, có vòng tròn được bao bọc bởi vòng tròn, có vòng tròn được xếp chồng lên vòng tròn… chỉ là sinh mệnh tầng thứ càng cao thì vòng tròn này hình thành càng tròn và càng to, nhưng dù tròn bao nhiêu to bao nhiêu đều là có biên giới. Có ranh giới thì có định số và có điểm kết thúc, không thoát khỏi, tức là không thể viên dung bất phá.

Cũng chính vì vòng tròn này đã cách ly bản thân với Đại Pháp của vũ trụ, do đó cũng không thể tiếp xúc, câu thông với Đại Pháp của vũ trụ, không thể thu hoạch được trí huệ vô tận viên dung bất phá để tu sửa bản thân từ Đại Pháp được, vì vậy cũng không thể sửa chữa sự sai lệch xuất hiện giữa bản thân và vũ trụ, do đó không thể thoát khỏi túc mệnh (số mệnh) của thành -trụ – hoại – diệt, cuối cùng cựu vũ trụ sẽ đi đến hủy diệt.

4

Vô vô vô không vô đông tây

Vô thiện vô ác xuất liễu cực

Tiến tắc khả thành vạn vạn vật

Thoái khứ toàn vô vĩnh thị mê

Diễn nghĩa:

Không ‘vô’, không ‘không’, không gì cả

Không ‘thiện’ không ‘ác’, vượt khỏi [khái niệm] các cực

Tiến, có thể [diễn hoá] thành vạn vật

Lui, toàn bộ [tất cả] trở lại thành ‘vô’, vĩnh viễn là ‘mê’, là ẩn đố vĩnh viễn không giải được

(“Hồng Ngâm 2”)

Cá nhân tôi ngộ ra rằng trong vũ trụ mới trong tương lai, các đệ tử Đại Pháp của chúng ta là những sinh mệnh đặc biệt thù thắng nhất trong tất cả chúng sinh. Sư tôn đã ban cho chúng ta tất cả những năng lực mà chúng sinh trong vũ trụ không thể có được:

Chúng ta có thể biến mất không để lại dấu vết ở tất cả các tầng vũ trụ nơi bản thân đang ở, khiến tất cả các sinh mệnh trong vũ trụ đều không tìm thấy dấu vết của chúng ta; chúng ta cũng có thể từ không sinh ra trong tất cả các tầng thứ của vũ trụ, khiến tất cả sinh mệnh không thể nhìn thấy chúng ta từ đâu đến.

Đây là điều mà trong cựu vũ trụ, bất luận sinh mệnh tầng thứ cao bao nhiêu đều không dám tưởng tượng về năng lực vô hạn mà Sư tôn đã ban tặng cho chúng ta.

Nhưng những năng lực này là do Sư phụ tạo ra cho chúng ta trong quá trình trợ Sư Chính Pháp. Trong quá trình trợ Sư Chính Pháp hiện nay, nếu có thể vì chúng sinh mà xả tận tự ngã, vì Đại Pháp mà xả tận mọi thứ trong sinh mệnh, thì đó là sẵn sàng vô tư, vô lậu, sẽ hoàn toàn trở thành “vô”. Đã thu hoạch được năng lực do Sư tôn ban tặng. Sau khi xả tận trở thành “vô”, thì không hề biến mất trong vũ trụ. Sinh mệnh trong vũ trụ trong quá khứ bởi vì không biết Đại Pháp của vũ trụ nên không thể trở thành “vô”. Đệ tử Đại Pháp chúng ta sau khi xả bỏ để trở thành “vô”, chúng ta đều quy về trong Đại Pháp, bởi vì chúng ta là vì Đại Pháp, vì chúng sinh trong vũ trụ mà xả tận, nên sau khi xả tận mọi thứ, chúng ta sẽ quy về Đại Pháp, hoàn toàn hòa tan với Đại Pháp, trở thành một lạp tử của Đại Pháp, trở thành một phần của Đại Pháp. Chúng ta sẽ trở thành “cầu nối” câu thông giữa các sinh mệnh trong vũ trụ và Đại Pháp trong vũ trụ mới ở tương lai, duy trì sự viên dung bất hoại của vũ trụ mới trong tương lai, đây là một vinh dự đặc biệt mà không một sinh mệnh nào có thể tưởng tượng được.

“Vật chất và tinh thần chúng là nhất tính” (Bài giảng thứ nhất, Chuyển Pháp Luân).

Sau khi chúng ta vì chúng sinh và Đại Pháp xả tận mọi thứ trong sinh mệnh, chúng ta sẽ có được năng lực này, sẽ có thể biến mất không còn dấu vết trong tất cả các tầng thứ của vũ trụ, trở thành “vô”, trở thành “mê” của các sinh mệnh trong vũ trụ, lúc này chúng ta đã ra khỏi vũ trụ và vật chất, trở thành một lạp tử của Pháp, là một phần của Pháp. Đồng thời chúng ta cũng có thể từ hư không tạo thành mọi thực thể ở bất kỳ tầng thứ nào, vào bất kỳ lúc nào, bởi vì Pháp có tất cả các quyền năng và có thể tùy tâm nhi hóa. Chúng ta chính là những lạp tử của Pháp do Sư phụ tạo ra và thành tựu trong thời kỳ Chính Pháp, là cơ chế để duy hộ sự trường tồn bất hoại, viên dung bất phá của vũ trụ mới trong tương lai, là Thần bảo vệ của vũ trụ mới trong tương lai.

Sư tôn đã ban quá nhiều cho chúng ta, cho nên cựu thế lực mới tật đố với chúng ta như vậy, chúng sinh trong vũ trụ mới hâm mộ chúng ta như thế, họ đều muốn trở thành đệ tử Đại Pháp. Nhưng điều mà chúng ta gánh vác cũng to lớn như thế, muốn đạt được mức độ thù thắng như vậy, để đạt được những điều mà Sư tôn ban cho thì chúng ta phải hoàn toàn đồng hóa với Pháp trong quá trình trợ Sư Chính Pháp hiện nay, làm những gì mà Sư tôn bảo, cần phải đạt được yêu cầu và tiêu chuẩn cao như thế, kém một chút cũng không được. Bởi vì chúng ta không đạt được tiêu chuẩn cao như vậy, vũ trụ mới trong tương lai sẽ không đạt tiêu chuẩn, mọi thứ sẽ bị hủy hoại. Nếu có một điểm mà chúng ta không thể xả tận, thì điểm này không thể đồng hóa với Đại Pháp, nó sẽ trở thành sợi dây níu giữ chúng ta, trở thành nguồn ô nhiễm cho vũ trụ mới trong tương lai, sẽ không thể có được những năng lực thù thắng và vĩ đại này của Sư tôn ban tặng, cũng không thể trở thành đệ tử Đại Pháp.

Chúng ta đã trợ Sư chính Pháp, chúng ta đã xả tận cái tôi của mình trong quá trình này, chúng ta là những lạp tử Đại Pháp mà Sư tôn tạo ra và thành tựu. Đại Pháp bất hoại, thì chúng ta bất hoại, Đại Pháp bất hủy, thì chúng ta bất hủy. Đây là một vinh diệu mà không một sinh mệnh nào trong vũ trụ cũng không dám tưởng tượng. “Phật ân hạo đãng”, chúng ta vĩnh viễn không thể báo đáp được, chỉ có thể dũng mãnh tinh tấn, làm tốt ba việc, không phụ công ơn của Sư tôn!

5

Không nên tạo dựng hình ảnh của bạn trong lòng người khác, đó là việc của người khác, không liên can đến bạn. Bạn có một hình ảnh trong trường không gian của mọi người, tuy là hình ảnh của bạn, nhưng nó lại là thứ thuộc về người khác, “tùy tâm nhi hóa”, không liên quan gì đến bạn. Trong chiếc gương trong trường không gian của mọi người đều có thể phản ánh một hình ảnh, những gì bạn phải làm là tu bản thân trở nên kiền tịnh, vô tư, nếu soi gương thấy mặt bẩn, bạn chỉ cần lau sạch mặt là được, không nên đưa tay ra lau gương cho người khác, đó không phải là đồ của bạn, đừng làm những điều thừa, nó sẽ chỉ trở nên càng lau càng đen. Đối mặt với những lời vu cáo hãm hại và hiểu lầm, nó cũng giống như một cơn gió nhẹ thổi qua, bạn là người trong sạch thì sẽ đối mặt một cách thẳng thắn vô tư, trong gương của người khác dù có bẩn đến đâu thì gương bẩn đó vẫn là của người khác.

Đó là những gì tôi ngộ được trong quá trình vượt qua một ma nạn.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/156867

The post Bút ký tu luyện (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tu luyện bút ký: Lơ đễnh và buồn ngủhttps://chanhkien.org/2010/09/nhat-ky-tu-luyen-lo-denh-va-buon-ngu.htmlhttps://chanhkien.org/2010/09/nhat-ky-tu-luyen-lo-denh-va-buon-ngu.html#respondTue, 28 Sep 2010 11:14:59 +0000https://chanhkien.org/?p=6783Tác giả: Thiên Chân [Chanhkien.org] Dù là khi học Pháp, luyện công, hay phát chính niệm, tôi thường cảm thấy buồn ngủ hay mất tập trung. Quan niệm con người và đủ loại ý niệm sẽ dấy khởi lên. Tình trạng này giờ đã tốt hơn trước, nhưng nó vẫn can nhiễu tôi. Khi chia […]

The post Tu luyện bút ký: Lơ đễnh và buồn ngủ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiên Chân

[Chanhkien.org] Dù là khi học Pháp, luyện công, hay phát chính niệm, tôi thường cảm thấy buồn ngủ hay mất tập trung. Quan niệm con người và đủ loại ý niệm sẽ dấy khởi lên. Tình trạng này giờ đã tốt hơn trước, nhưng nó vẫn can nhiễu tôi. Khi chia sẻ điều này với các bạn đồng tu, tôi thấy rằng đại đa số học viên, ít nhiều cũng có vấn đề tương tự. Một số học viên đã bị can nhiễu nặng. Mặc dù họ đã cố gắng loại bỏ các ý niệm bất thuần khi học Pháp, điều ấy cũng vẫn không có tác dụng mấy. Đôi lúc họ bị can nhiễu nhiều tới mức họ không thể tiếp tục học Pháp.

Lý do khiến chúng ta không thể tĩnh tâm học Pháp là bởi vì tâm của chúng ta bất tịnh. Với đủ loại quan niệm con người và nghiệp tư tưởng, thật khó để bảo trì tâm thanh tịnh. Chỉ khi chúng ta đề cao tâm tính thì những can nhiễu này mới mất dần, nhưng chính sự đề cao tâm tính lại phụ thuộc vào học Pháp tốt. Do đó, trong tình huống này, chúng ta phải hoàn toàn loại bỏ những tư tưởng bất thuần trước khi học Pháp. Có như vậy chúng ta mới bài trừ hiệu quả can nhiễu và đảm bảo chất lượng học Pháp. Thực ra, học Pháp tốt tự bản thân nó đã là một quá trình loại bỏ tư tưởng bất thuần. Một số học viên đọc to khi họ học Pháp để loại trừ can nhiễu. Cách tiếp cận này khác nhau tùy người. Lấy ví dụ, tôi không thích đọc to khi học Pháp vì nó ngăn tôi hoàn toàn tập trung, và ảnh hưởng đến sự hiểu Pháp.

Ở đây, tôi sẽ chia sẻ một số hiểu biết về đọc Pháp với tốc độ nhanh. Nếu một người đọc quá nhanh, thật khó để đạt kết quả tốt. Tệ hơn nữa, chúng ta có thể đọc bỏ sót chữ, thêm chữ, hay đọc nhầm từ này sang từ khác. Mặt khác, tôi để ý rằng đọc quá chậm cũng không tốt. Đó là bởi vì khi đọc quá chậm, rất khó để tập trung và những ý niệm bất thuần có thể dấy khởi lên. Thực ra, nếu chúng ta đọc với tốc độ trung bình, ít khi những ý niệm bất thuần có thể khởi tác dụng. Do đó, rất quan trọng khi tập trung chú ý và tỉnh táo khi học Pháp. Bằng cách này, các ý niệm bất thuần sẽ không có cơ hội xuất ra. Sau đó, khi chúng ta đề cao trong học Pháp, rất nhiều can nhiễu sẽ bị loại trừ trước khi chúng có cơ hội nổi lên bề mặt.

Mặc dù đọc nhanh có thể giúp học Pháp, điều này không có nghĩa là chúng ta chỉ nhìn lướt qua chữ. Kinh nghiệm của tôi là đọc Pháp mà không mang theo quan niệm nào, như thể là đọc Pháp lần đầu vậy. Bằng cách nghĩ mình như chiếc thủng rỗng, chúng ta có thể chứa đầy Pháp. Với tâm đặt vào Pháp, sẽ không dễ xuất hiện lỗi nào (chẳng hạn bỏ sót chữ, thêm chữ, và đọc sai chữ), và chúng ta có thể tăng tốc độ đọc thêm một chút. Ngay bây giờ, tôi có thể đọc cùng một số trang Chuyển Pháp Luân nhưng chỉ mất 2/3 thời gian so với trước kia khi tôi đọc ở tốc độ trung bình. Đây không hẳn là nhanh so với một số đồng tu, nhưng cũng có thể là nhanh so với những người khác. Đó là để nói, chúng ta phải quyết định dựa trên tình huống của chính chúng ta. Tất nhiên, điều đảm bảo ở đây là phải đọc mà không bị lỗi; nếu không, sẽ là phí công. Ngoài ra, điều chỉnh tốc độ đọc cũng là một giải pháp bổ trợ cho sự tập trung; chúng ta không nên phụ thuộc vào một cách nào.

Khi học Pháp, do tôi đọc khá nhanh và rèn luyện được sự tập trung, tôi thường cảm thấy toàn cơ thể nóng lên và đôi lúc toát mồ hôi. Những ý niệm bất thuần không thể nổi lên, mặc dù đôi khi tôi cảm nhận được sự tồn tại của chúng. Do tôi đặt tâm mình vào Pháp, tôi không chú ý hay ít bị can nhiễu bởi hoàn cảnh xung quanh, và không cảm thấy buồn ngủ chút nào. Tôi có thể đọc liền một mạch một bài giảng Chuyển Pháp Luân, và mặc dù cảm thấy hơi mệt, tâm tôi rất thanh tịnh và có thể nhớ được nhiều đoạn Pháp đã đọc. Kết quả là tốt hơn nhiều so với trước kia – có lẽ các ý niệm bất thuần trong quá khứ đã can nhiễu được là do sự hiểu Pháp của tôi là khá loãng.

Có một bạn đồng tu không dành nhiều thời gian học Pháp và kết quả là rất hạn chế. Sự bê trễ này tạo ra lỗ hổng cho tà ác lợi dụng và cô ấy đã bị bắt giữ. Sau khi chia sẻ kinh nghiệm với các bạn đồng tu gần đây, cô ấy bắt đầu đặt nhiều nỗ lực hơn vào học Pháp. Tuy nhiên, việc học Pháp của cô vẫn yếu và can nhiễu xảy ra ngay khi cô bắt đầu học. Tôi hy vọng rằng những đồng tu này có thể kiên định và tăng cường phủ nhận can nhiễu của tà ác. Ngoài ra, chúng ta khó có thể đề cao nếu học Pháp kém, và kết quả là, rất khó để làm tốt ba việc. Điều này không chỉ tạo nguy hiểm trong tu luyện, mà còn lãng phí thời gian, dẫn tới mất mát khó có thể vãn hồi được.

Cảm thấy buồn ngủ, ở không gian này có thể là do thiếu nghỉ ngơi, hoặc luyện công hay học Pháp không đủ. Nếu một học viên cảm thấy buồn ngủ khi học Pháp, luyện công hay phát chính niệm, nhiều khả năng đó là do can nhiễu từ nghiệp tư tưởng hay cựu thế lực. Khi ấy, chúng ta nên loại bỏ chúng bằng chính niệm. Một số học viên thường cảm thấy buồn ngủ khi ngồi thiền, và họ thường cảm thấy hối hận sau khi để lỡ thời gian. Tôi đôi khi uống cà phê trước khi ngồi thiền, và nó có tác dụng đối với tôi. Để đảm bảo có đủ thời gian học Pháp và luyện công, trong một vài tháng, tôi đã không ngủ nhiều hơn 3 tiếng mỗi ngày. Tuy nhiên, tôi lại cảm thấy buồn ngủ khi luyện công, đặc biệt bài công pháp thứ hai, cho nên uống cà phê không phải luôn có ích. Do đó, chúng ta cần ngủ tương đối đủ, thêm vào đó là nghiêm khắc với bản thân để tinh tấn làm ba việc. Chỉ có vậy, chúng ta mới có thể cải biến căn bản trạng thái không mong muốn.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2010/8/20/68040.html
http://pureinsight.org/node/6032

The post Tu luyện bút ký: Lơ đễnh và buồn ngủ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/09/nhat-ky-tu-luyen-lo-denh-va-buon-ngu.html/feed0
Tu luyện bút ký: Khảo nghiệm sinh tửhttps://chanhkien.org/2009/11/ghi-chep-tu-luyen-khao-nghiem-sinh-tu.htmlhttps://chanhkien.org/2009/11/ghi-chep-tu-luyen-khao-nghiem-sinh-tu.html#respondMon, 16 Nov 2009 21:41:32 +0000https://chanhkien.org/?p=3949Tác giả: Thiên Chân [Chanhkien.org] Đây là chia sẻ kinh nghiệm của một đệ tử Đại Pháp kỳ cựu, người đã vượt qua khảo nghiệm sinh tử. Trong thời kỳ khẩn cấp cứu độ chúng sinh, mỗi lần xuất hiện trạng thái “nghiệp bệnh”, đó chính là tà ác đang cưỡng chế bức hại lên […]

The post Tu luyện bút ký: Khảo nghiệm sinh tử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiên Chân

[Chanhkien.org] Đây là chia sẻ kinh nghiệm của một đệ tử Đại Pháp kỳ cựu, người đã vượt qua khảo nghiệm sinh tử. Trong thời kỳ khẩn cấp cứu độ chúng sinh, mỗi lần xuất hiện trạng thái “nghiệp bệnh”, đó chính là tà ác đang cưỡng chế bức hại lên các đệ tử bằng cách lợi dụng những sở hở của chúng ta. Nhưng, những sơ hở loại nào các đệ tử Đại Pháp mang theo sẽ làm cho họ chịu đau đớn dưới dạng nghiệp bệnh. Tôi không minh bạch về chuyện này, và vì vậy, tôi sẽ không đưa ra bất cứ bình luận nào. Những gì tôi đề cập ở đây là những thứ trực tiếp liên hệ tới khảo nghiệm sinh tử cho các bạn đồng tu, tôi thấy rằng tôi đã ngộ được nhiều điều trong vấn đề này. Người bạn đồng tu đề cập trong bài viết này già hơn tôi nhiều, và tôi theo lẽ thường nên gọi họ như là “bác”, nhưng để cho thuận tiện, tôi sẽ gọi họ bằng tên hiệu.

Bà Jun, một đồng tu, đã luôn tinh tấn trong tu luyện Đại Pháp và luôn đặt tâm của mình vào làm ba việc. Nhưng, vào tháng 10 năm 2008, bà bỗng nhiên ngã xuống nền, biểu lộ ra trạng thái của nghiệp bệnh trầm trọng. Bà được đưa đến bệnh viện nơi con gái bà là bác sĩ ở đó và chẩn đoán bị ung thư ruột. Thực tế, là một đệ tử Đại Pháp, nếu chúng ta có thể xử sự với những can nhiễu như vậy bằng chính niệm, thì nó sẽ trở thành một huyễn tượng. Nhưng, khi nhân tâm thắng thế, mọi việc sẽ trở nên khác. Gia đình bà thuyết phục bà làm phẫu thuật, gồm cả chồng bà, cũng là một đệ tử. Khi đối mặt với sự thuyết phục từ gia đình, thật quá khó khăn cho bà để giữ được suy nghĩ là một đệ tử Đại Pháp về vấn đề sinh tử. Bà Jun cuối cùng đã làm phẫu thuật. Sau phẫu thuật, bà chia sẻ với bạn đồng tu tên là bà Ping, chính niệm của bà trở nên mạnh hơn và bà phản đối việc điều trị hóa trị liệu. Lúc đầu, vì không có chính niệm mạnh, bà đã không thể vượt qua được khảo nghiệm; nhưng, từ lúc niềm tin vào Đại Pháp trở nên mạnh mẽ, cựu thế lực đã không thể khởi tác dụng và đưa bệnh tật lên thân thể bà. Với sự bảo hộ của Sư Phụ, bà Jun đã hồi phục nhanh chóng, vượt xa sự mong đợi, kinh nghiệm và kiến thức của bác sĩ. Bệnh viện thậm chí còn chuẩn bị viết một câu chuyện về sự lành bệnh của bà và khoe khoang về những kỹ thuật chữa bệnh hữu hiệu của họ.

Sau một vài tháng, bà Jun hồi phục rất nhanh và lại có thể tập hết cả 5 bài công pháp. Chứng kiến sự kỳ diệu của Đại Pháp, con gái, con rể và cả người trông giữ nhà đều bắt đầu lần lượt luyện tập. Tất cả bạn bè tới thăm bà đều đồng ý thoái khỏi ĐCSTQ và các tổ chức liên quan. Bà Jun cuối cùng đã vượt qua khảo nghiệm. Mặc dù, quá trình này không hề suôn sẻ, bà đã có thể lấy lại sức khỏe của mình. Hơn nữa, nhờ việc này, những người xung quanh và bắt luyện tập và như vậy họ đã được cứu độ, từ họa đã chuyển thành phúc. Nếu bà không thể giữ lại thân thể người thường, những hậu quả sẽ vượt quá sự tưởng tượng: những người có tiền duyên tu luyện Đại Pháp sẽ bị ngăn cản và mất đi cơ hội của mình, và những người thường đáng lẽ được cứu sẽ không có cơ hội thông qua việc chứng kiến sự thay đổi của bà.

Đối với người thường, ung thư thường là một căn bệnh chết người, một cách để trả nghiệp trong tiến trình sinh, lão, bệnh, tử. Đối với người tu luyện đã tống khứ các chấp trước vào sinh tử, nó có thể là một can nhiễu nặng, một khảo nghiệm sinh tử. Nhưng, trong thời kỳ nguy cấp này, loại can nhiễu này là bức hại của cựu thế lực lên chúng ta. Thực sự, những người tu đã tống khứ tâm chấp trước vào sinh tử, thì trạng thái nghiệp bệnh gây ra bởi ung thư di căn cũng chỉ như nghiệp bệnh của một cơn đau đầu và sốt, chẳng thể làm chúng ta phiền toái. Tất nhiên, quay lại một bước, nếu chúng ta thực sự loại bỏ được chấp trước về vấn đề sinh tử, chúng ta sẽ không gặp phải khảo nghiệm loại này, bởi vì cựu thế lực không dám can nhiễu chúng ta nếu chúng không tìm thấy sơ hở. Hơn nữa, những cựu thế lực còn lại là vô cùng ghen tị với chúng ta vì chúng ta có một thân thể điều làm chúng liều lĩnh. Mỗi khi chúng ta có sơ hở, chúng sẽ cố gắng hủy hoại thân thể của người tu luyện. Vì thế, một điều quan trọng là chúng ta không được để bất cứ một sơ hở nào trong sự tu luyện của mình.

Bà Ping nói rằng bà Jun vượt qua được khảo nghiệm nhờ vào niềm tin kiên định vào Đại Pháp. Nhưng, tôi không nghĩ chính niệm của bà đủ mạnh mẽ và kiên định. Nếu không, bà sẽ nhận thức rất rõ ràng rằng bà là một đệ tử Đại Pháp vĩ đại khi bà đang đối mặt với can nhiễu của bệnh “ung thư ruột”. Thế thì Sư Phụ sẽ ban cho một sự an bài tốt nhất, và bà sẽ không bị rắc rối vì nhân tâm hay tìm kiếm sự trợ giúp từ người thường.

Bà Jun đã nhận thức được rằng bà đã vượt qua khảo nghiệm sinh tử, nhưng bà hiện tại vẫn chưa cảm thấy tốt và hi vọng bà sẽ phát hiện ra vấn đề của mình. Một lần, bà hỏi bà Ping, “Tôi biết rằng tôi có sơ hở khi tôi có nghiệp bệnh trầm trọng như vậy; nhưng tại sao tôi không thể nhận ra chúng?” Một lần khi bà thực sự nhìn vào trong, mọi thứ đã dẫn bà theo hướng tích cực hơn.

Bà Ping chia sẻ rằng can nhiễu của Jun có lẽ gây ra bởi vấn đề là bà đã quá chấp trước vào những thứ nhỏ nhặt. Chẳng hạn, tâm của bà sẽ náo động khi nghe thấy một điều gì đó không rõ ràng. Nếu một đệ tử chia sẻ một câu nói của Sư Phụ và bà Jun không có ấn tượng gì về nó, bà sẽ bắt đầu lo lắng và tìm kiếm câu đó ở mọi nơi, không ngừng lại cho tới tận khi tìm thấy nó trong các sách Đại Pháp. Nhưng, tôi nghĩ rằng vấn đề chính của bà đó là chấp trước vào sự thoải mái của cuộc sống gia đình. Chồng bà và các con tất cả đều đối xử với bà rất tốt. Chồng bà lo hầu hết công việc nhà. Sau cuộc phẫu thuật, chỉ có thể ăn một chút thức ăn mỗi bữa; vì vậy, bà phải ăn nhiều bữa. Chồng bà nấu cho bà 8 lần một ngày. Nếu bà không ngủ được vào đêm, thì không một ai nghĩ bà là gây phiền phức. Mặt khác, mọi người đều nhắc bà học Pháp. Con gái bà thậm chí đôi khi còn đọc Pháp cho bà nghe. Bà nói bà không gặp bất cứ can nhiễu nào với gia đình. Có thể thực sự là bà đã quá chấp trước vào cuộc sống gia đình thoải mái, và cựu thế lực đã có lý do để bức hại bà. Tất nhiên, đây chỉ là hiểu biết ở tầng thứ của tôi và một sự nhắc nhở tới bà. Bà vẫn cần nhìn vào trong. Nếu môi trường gia đình tốt đẹp, thì nó sẽ không phải là tình huống mà cựu thế lực lợi dụng sơ hở. Chúng ta cần xem xét tình huống cụ thể và có phải người tu luyện có chính niệm mạnh. Dù sao đi nữa, loại bức hại kiểu này không thể nhận biết được. Khi chúng ta nhìn vào trong, chúng ta không thể quên việc – một cách kiên quyết bài trừ những khảo nghiệm độc ác mà cựu thế lực áp chế lên chúng ta.

Một hôm, trong thời gian hồi phục, bà cảm thấy như ngạt thở và ho ra một chút máu. Bà bắt đầu lo lắng trở lại và nghi ngờ tế bào ung thư đã di căn đến phổi. Đối với người tu luyện Đại Pháp, lo lắng kiểu này là sử dụng nhân tâm để đối xử với khổ nạn. Chồng bà nói: “Dường như khảo nghiệm thứ hai đến từ khảo nghiệm thứ nhất chưa vượt qua được.” Ông ngay lập tức gọi điện cho bà Ping, là người học Pháp rất tốt. Những ý nghĩ của bà Ping luôn rất chính, và bà nói thẳng vào vấn đề khi bà thảo luận khó khăn của người khác. Bà Jun thích chia sẻ với bà Ping và cảm thấy hài lòng khi nghe bà Ping nói, mặc dù có đôi khi phần con người trong bà có một chút không thoải mái tiếp thu những lời của bà Ping.

Một lần gặp bà Ping, chồng của bà nói, “Bà có thể khuyên bà ấy nhập viện không? Bà ấy chỉ nghe lời bà thôi.” Khi bà Ping nghe như vậy, bà bắt đầu cảnh tỉnh, “Điều này có vẻ như một khảo nghiệm đối với tôi. Pháp là ở đây, tại sao mà bà ấy chỉ nghe lời tôi? Tu luyện không thể được thay thế bằng bất cứ ai khác. Tôi sẽ không quyết định thay bà. Nếu bà kiên định và tin vào Sư Phụ và Pháp, bà sẽ tuân theo những yêu cầu của Pháp. Nhưng, nếu bà coi chính bản thân mình là một người thường, tất nhiên bà nên đến bệnh viện khi bị ốm. Bà phải quyết định sẽ chọn con đường nào.” Bà Jun cảm thấy xấu hổ và nói: “Những gì bà nói  khó cho tôi để chọn lựa.” Bà Ping trả lời, “Sau khi tu luyện nhiều năm, ở tuổi này, tại sao bà không thể từ bỏ sinh tử? Suy nghĩ về nó, sinh hay tử, chúng ta là những vị thần ở trong Đại Pháp. Cách tốt nhất là để Sư Phụ an bài mọi việc. Bà còn lo lắng gì nữa đây?

Khúc mắc trong tâm của bà Jun cuối cùng đã được gỡ bỏ. Sau này, con gái bà đưa bà đến bệnh viện để kiểm tra. Kết quả là không có gì nguy hiểm cả, nhưng mao quản trong cuống phổi bị vỡ nhẹ. Cái gọi là khảo nghiệm chỉ là ảo tưởng. Nhưng, nếu như bà vẫn chấp trước vào nhân tâm, mọi việc có thể đã không đơn giản như vậy.

Sau này, bà Ping đề cập đến quá trình bà Jun vượt qua khảo nghiệm sinh tử với một người đồng tu khác – cô Xiu. Cô Xiu đã rất xúc động và nói: “Nếu tôi ở trong hoàn cảnh của chị, tôi có lẽ đã không nói với bà Jun thẳng thắn như vậy, mặc dù tôi có thể nhắc nhở bà nhìn vào trong, từ bỏ nhân tâm, và chấp trước vào sinh tử. Tôi sẽ nói với bà một cách gián tiếp và lịch sự. Cách đó có thể không được hiệu quả như những lời của chị.” Cô Xiu đã làm việc trong cơ quan hành chính một thời gian dài và không bỏ được thói quen hay che đậy của cô, thói quen đã hình thành trong các cán bộ công chức của Trung Quốc. Nhưng, cô Xiu biết rõ rằng những ý nghĩ đó là lệch lạc bởi nhân tâm.

Không có nghi ngờ gì về việc các đồng tu sẽ đối xử từ bi với người khác. Nhưng, điều này không có nghĩa rằng phải chỉ ra vấn đề một cách gián tiếp và nói một cách mơ hồ. Sẽ hoàn toàn không là từ bi nếu như bạn che đậy chính mình khi đối mặt với những người đồng tu. Nói thẳng thắn không có nghĩa là không có từ bi. Ngược lại, nói thẳng thắn bởi vì bạn làm nó vượt ra khỏi cả từ bi, bởi vì nó thực sự cần được xem xét đối với người khác. Người ta có thể thực sự xúc động khi nghe những lời nói thẳng thắn. Với cách này, những người khác có thể nhìn vào trong và nhận ra chấp trước. Tất nhiên, những lời nói thẳng thắn phải dựa vào Pháp. Một vài người có thể cảm thấy rằng sẽ dễ dàng hơn đối với người khác chấp nhận họ nếu họ trình bày một cách ẩn ý. Đúng là nó dễ dàng hơn để chấp nhận, nhưng thực sự là cái gì được chấp nhận? Liệu có những thứ ô uế bao gồm trong đó? Những điều như vậy làm sao có thể có hiệu quả tốt?

Càng mập mờ, ẩn ý, thì ý nghĩa thực càng bị che lấp, thông tin càng bị sai lệch, và càng ít hiệu quả. Vì vậy, sẽ không có sức ảnh hưởng trực tiếp đến người nghe. Việc nói một cách mập mờ bản thân nó có thể gây ra bởi nhân tâm. Nó chính là biểu hiện của sự ích kỷ, bảo vệ bản thân, vô tình làm người khác cảm thấy vừa ý, và sợ hãi bị mất những lợi ích cá nhân. Người tu luyện không được có bất cứ cái gì dựa trên lợi ích cá nhân. Nhưng, bởi vì một số người đã hình thành những quan niệm như vậy và kiểu bảo vệ bản thân trong số người thường, những quan niệm và hành vi này sẽ biểu hiện ra trong khi tác động với người đồng tu khác. Nếu người nghe có những chấp trước che đậy nhân tâm, và nói chuyện mập mờ sẽ tăng thêm tư tâm của mình. Tất nhiên, nói chuyện thẳng thắn không có nghĩa là  thô lỗ, không thiện chí hoặc giận dữ khi mà người nghe không biến chuyển. Khi nào bạn thực sự từ bi, những sự việc loại này sẽ không xảy ra.

Nói một cách mập mờ là rất phổ biến ở Trung Hoa Lục Địa. Rất ít người Trung Quốc có thể nói chuyện với nhau một cách thẳng thắn và trung thực.

Trong “Giảng Pháp tại Pháp hội quốc tế New York năm 2009”. Sư Phụ đã giảng:

Tại xã hội quốc tế, hai người gặp mặt thì các việc trong tâm đều có thể nói chuyện cởi mở, chưa từng biết nhau cũng cởi mở tấm lòng để nói chuyện; với người ở nội địa Trung Quốc đó là tuyệt đối không thể nào; do vậy các học viên từ Trung Quốc ra [hải ngoại] về phương thức làm việc và giao tiếp là khác với học viên quốc ngoại. Học viên ở ngoại quốc không hiểu được học viên đến từ Trung Quốc, không hiểu những gì [họ] nói và làm; ‘Làm việc là theo cách đó sao? Vị ấy sao kỳ quá vậy?’ Thực ra, qua các cuộc vận động, tà đảng khiến người ta đấu tranh với nhau, tố cáo lẫn nhau; người Trung Quốc từng trải qua loại bức hại này, đã quen với việc tự đóng kín mình lại, nhất là trong bức hại các đệ tử Đại Pháp.”

Sư Phụ cũng nhấn mạnh trong “Bài giảng cho các học viên Úc Châu.” Chúng ta không thể rời khỏi phòng chỉ vì những chất độc hại xuất phát ra từ văn hóa đồi bại của Trung Cộng trong đầu và hành vi của chúng ta.

Khảo nghiệm sinh tử đối với một người tu luyện  là vấn đề của bản thân họ, không phải là nói đến những tác động tà ác trong vũ trụ và những sinh mệnh trong các không gian khác. Thậm chí trong không gian này, các đệ tử Đại Pháp nên nghĩ xem làm thế nào để đối mặt với khảo nghiệm sinh tử, làm sao để đối mặt với khổ nạn mà cựu thế lực gây ra cho chúng ta, làm sao để đối xử với những người đồng tu đang phải ứng phó với nghiệp bệnh, làm sao để thực sự giúp họ, và những tác động tích cực chúng ta có thể có được khi cứu độ chúng sinh nhờ phá tan được khảo nghiệm sinh tử do những nhân tố tà ác gây ra cho chúng ta.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2009/7/15/60557.htm

http://pureinsight.org/node/5804

The post Tu luyện bút ký: Khảo nghiệm sinh tử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/11/ghi-chep-tu-luyen-khao-nghiem-sinh-tu.html/feed0
Tu luyện bút ký: Chia sẻ về việc học Pháphttps://chanhkien.org/2009/06/tu-luyen-but-ky-chia-se-ve-viec-hoc-phap.htmlhttps://chanhkien.org/2009/06/tu-luyen-but-ky-chia-se-ve-viec-hoc-phap.html#respondWed, 24 Jun 2009 16:48:32 +0000https://chanhkien.org/?p=2060Tác giả: Thiên Chân [Chanhkien.org] Sư Phụ đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học Pháp rất nhiều lần. Sư Phụ giảng: “Là đệ tử Đại Pháp, có thể làm tốt việc Chính Pháp, viên mãn tốt hết thảy những gì của mình, thì cần học Pháp cho nhiều. Bất kể bận rộn đến […]

The post Tu luyện bút ký: Chia sẻ về việc học Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiên Chân

[Chanhkien.org] Sư Phụ đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học Pháp rất nhiều lần. Sư Phụ giảng: “Là đệ tử Đại Pháp, có thể làm tốt việc Chính Pháp, viên mãn tốt hết thảy những gì của mình, thì cần học Pháp cho nhiều. Bất kể bận rộn đến mấy đều không thể không học Pháp. Đó là điều bảo chứng lớn nhất cho viên mãn.” ( “Thư gửi”, Tinh tấn yếu chỉ II )

Mọi thứ đều bắt nguồn từ Pháp. Trong quá trình tu luyện không ngừng, chúng ta có thể nhận thấy học Pháp tốt là căn bản cho sự thăng tiến trong tu luyện và quyết định chúng ta có thể làm tốt ba việc hay không. Do đó, chúng ta phải nỗ lực hết sức để học Pháp tốt. Trên bề mặt nó dường như dễ dàng và đơn giản để học Pháp tốt, bởi vì nó không hơn gì là đọc sách. Tuy nhiên thì thực tế chúng ta học Pháp hiệu quả bao nhiêu, gây ra sự khác biệt lớn trong việc mọi thứ tiến triển như thế nào. Khi tôi nhìn lại quãng đường tu luyện của tôi hơn mười năm qua và quan sát các bạn đồng tu học Pháp ra sao, tôi nhận thấy rằng quá trình chúng ta học Pháp ra sao chính là quá trình liên tục thăng tiến. Trong quá trình tu luyện chúng ta gặp phải rất nhiều vấn đề. Do vậy học Pháp là căn bản cho sự tu luyện và cứu độ chúng sinh, chúng ta học Pháp tốt là điều then chốt. Chúng ta phải chắc chắn rằng chúng ta cải thiện chất lượng của việc học Pháp để chúng ta có thể đảm bảo rằng sự học Pháp của chúng ta đạt đến một mức độ hiệu quả lý tưởng.

Giữ một tâm thái thanh tịnh

Một tâm thái thanh tịnh là điều kiện tiên quyết cho việc học Pháp tốt. Với một tư tưởng không yên tĩnh bạn không thể học Pháp tốt – đó là điều không phải nghi ngờ. Hiệu quả của việc học Pháp tùy thuộc vào tâm trí của chúng ta khi học Pháp. Nếu tâm trí chúng ta trong sạch không có những ý nghĩ ích kỷ và những mối quan tâm cá nhân, thì từng từ của Pháp sẽ vang lên trong tâm chúng ta. Lúc đó cơ thể của chúng ta trong không gian khác nhanh chóng hòa vào trong Pháp; trái lại, nếu tâm trí chúng ta không trong sạch và lạc vào trong tưởng tượng và suy đoán, thì khi đó học Pháp không hiệu quả vì chúng ta không biết chúng ta đang đọc gì. Thân thể chúng ta trong các không gian khác không biến đổi; khi đó không phải là chủ nguyên thần của chúng ta học Pháp, và hàm nghĩa cao tầng bên trong của Pháp sẽ không triển hiện cho chúng ta thấy.

Nó thường xảy ra cho tôi là khi tôi học Pháp cũng chính là khi tôi loại bỏ những ý tưởng ích kỷ và những mối quan tâm cá nhân. Trước khi đắc Pháp, nói chung là chấp trước và ham muốn của tôi ít hơn so với người bình thường khác. Tuy nhiên, tôi bị ô nhiễm bởi thùng thuốc nhuộm lớn của người thường và hơn nữa, tôi có những nhân tố mà đã mang theo từ nhiều lần chuyển sinh. Cũng có cựu thế lực can nhiễu. Do vậy, tâm trí của tôi không trong sạch. Tâm trí tôi hoàn toàn rối bời khi tôi học Pháp; bất kỳ ý nghĩ lộn xộn nào cũng có thể nhảy ra khỏi tư tưởng và biểu hiện như là âm thanh, hình ảnh hay từ ngữ. Ý nghĩ của tôi chuyển từ cảnh này sang cảnh khác và rối loạn, linh tinh một cách khó tin. Sau khi tư tưởng tôi trở lại cuốn sách, tôi nhận thấy tôi đã đọc xong một vài dòng, nhưng tôi không nhớ là mình vừa đọc gì. Ngay lập tức tôi tự nhắc mình rằng cần phải tập trung và ngăn cản sự can nhiễu. Nhưng tư tưởng trong sạch chỉ kéo dài được vài dòng trước khi những ý nghĩ linh tinh lại xuất hiện trở lại. Nếu tôi có việc gì đó để làm và gặp phải một số vấn đề, những ý nghĩ của tôi liên tục tuôn trào. Thực tế nó được gây ra bởi chấp trước và nghiệp tư tưởng. Nó giống như Sư Phụ giảng trong Chuyển Pháp Luân, bài giảng thứ chín: “Có người khi luyện công nói: ‘Tôi không tin, tôi tĩnh được ngay thôi, không nghĩ loạn nữa’. Vừa nói dứt, liền đảo lộn trở lại; cái tâm ấy của chư vị bất tịnh”. Khi tôi tiếp tục học Pháp và tiếp tục chống lại nghiệp tư tưởng và quan niệm con người, tầng tu luyện của tôi nâng lên. Giờ đây, hiếm khi tư tưởng tôi chạy loạn khi tôi học Pháp, và ngay cả khi nó chạy loạn, tôi nhận ra nó tức thời và vứt bỏ những ý nghĩ đó.

Tôi chỉ mất hơn vài ngày để đạt được một tâm thanh tịnh khi học Pháp; nó là một quá trình vứt bỏ chấp trước.

Vứt bỏ chấp trước vào từ ngữ bề mặt

Sư Phụ đã phá vỡ qui phạm của ngữ Pháp tiếng Trung hiện đại bằng cách sử dụng tùy ý ngôn ngữ tiếng Trung (“Tùy ý sử dụng” Tinh tấn yếu chỉ II”). Thực tế này được thấy khá rõ ràng trong Chuyển Pháp Luân. Đối với những đệ tử như tôi, người mà chú ý rất nhiều đến chuẩn mực của ngôn ngữ và nhạy cảm với ngôn từ, thì đó là một khảo nghiệm không lớn cũng không nhỏ. Sư phụ biết điều này và đó là tại sao Sư Phụ giúp đỡ đệ tử đột phá khỏi chấp trước bằng việc chỉ nó ra trong bài giảng. Dẫu điều này không ngăn cản việc tôi học Pháp, nhưng trong một khoảng thời thời gian, cứ đọc vài câu tôi lại dừng lại và có một vài sự nghi hoặc. Ví dụ, tôi nghĩ, “ Làm thế nào mà Sư Phụ lại sử dụng ‘năm ánh sáng’ như là một đơn vị thời gian? Cái này được coi như là một đơn vị khoảng cách”. Mỗi khi những ý nghĩ này nổi lên, tôi tự nhắc mình, “ Không được chấp trước vào nó! Không được dính mắc vào từ ngữ! Đây chẳng phải là cơ hội để vứt bỏ chấp trước của mình sao?” Những cuốn sách của người thường có ngữ pháp tiêu chuẩn và ngôn từ hoa mỹ. Nó có cái mà chúng ta gọi là “sở vị nhất vịnh tam thán , sở vị khí thế khôi hoành” nhưng như thế có là gì? Những thứ này chỉ là sản phẩm của xã hội con người. Không kể ngôn ngữ có chuẩn mực thế nào, nó chỉ chứa đựng một vài ý nghĩa ở bề mặt, cái đó không có tác dụng cho tu luyện.

Nó giống như một người đang trèo thang lên trời, tuy vậy anh ta nghĩ tại sao cái thang trông không giống như cách mà anh ra mong muốn. Đó có phải là một cái thang lên trời nữa không nếu nó phù hợp với sự mong muốn của anh ta?

Xin hãy lưu ý rằng tôi viết bài này vào 13 / 5. Tôi thay mặt đồng tu ở trong vùng của địa phương tôi nói lời : “ Chúc mừng sinh nhật Sư Phụ!”

Không có cách nào chúng ta có thể đền đáp ơn huệ vô biên của Sư Phụ. Chỉ bằng cách tu luyện tinh tấn và hỗ trợ Sư Phụ chính Pháp chúng ta mới xứng đáng với sự cứu độ từ bi của Sư Phụ.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2009/5/14/59516.html

http://www.pureinsight.org/node/5759

The post Tu luyện bút ký: Chia sẻ về việc học Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/06/tu-luyen-but-ky-chia-se-ve-viec-hoc-phap.html/feed0