Tác giả: Tần Chính
[ChanhKien.org]
Lời của Ban biên tập: Loạt bài này được viết dựa trên lý giải của tác giả đối với luận thuật trong “Kim Cương Kinh”. Chúng tôi cho rằng bài viết này có giá trị tham khảo nhất định đối với việc giảng chân tướng cho các nhân sĩ trong giới tôn giáo nên đã đăng lại tại đây. Đối với các đệ tử Đại Pháp không có liên quan đến việc giảng chân tướng cho các nhân sĩ tôn giáo thì không cần thiết phải đọc. Hy vọng mọi người dĩ Pháp vi Sư, làm tốt ba việc mà Sư phụ yêu cầu chúng ta làm.
(Theo Ban biên tập báo Nhân Dân: “Luận giải Kim Cương Kinh” là những tâm đắc thảo luận nghiên cứu Kinh Kim Cương giữa tiên sinh Tần Chính với bạn bè trong giới Phật giáo).
Đàm luận thứ 6
1. Chúng ta hãy xem “Đoạn thứ 12: Tôn trọng chính giáo”: “Phục thứ, Tu-bồ-đề, tùy thuyết thị kinh nãi chí tứ cú kệ đẳng, đương tri thử xứ, nhất thiết thế gian thiên nhân A-tu-la giai ưng cúng dường”. (Tạm dịch: “Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Tùy duyên mà truyền đạt Kinh, miễn là người ta giảng bộ Kim Cương Kinh này, ngay cả chỉ là bốn câu kệ trong Kinh thôi, tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la, v.v. đều phải đến cúng dường”). Phật Pháp viên dung, như bầu trời bao trùm vạn vật, như Trái Đất chứa đựng vạn vật, đây chính là điểm cốt lõi của Phật Pháp. Nhưng nó không cần có sự can thiệp của con người. “Tùy thuyết thị kinh” có nghĩa là tùy duyên mà truyền đạt kinh này, chứ không có nghĩa là nói một cách tùy tiện hoặc thiếu cung kính. Còn câu nói “tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la, v.v. đều phải đến cúng dường”, câu này không phải do Thích Ca Mâu Ni nói. Bởi vì lúc này Thích Ca Mâu Ni đã đạt đến cảnh giới Như Lai. Nếu nhìn vào bốn câu kệ ở phần sau: “Nhất thiết hữu vi Pháp, Như mộng, huyễn, bào, ảnh”, (Tạm dịch: “Hết thảy Pháp hữu vi như mộng, như huyễn, như bọt nước, như bóng”), ở đây lẽ nào có thể yêu cầu người ta cúng dường? Ông không phải đang tự mâu thuẫn sao? Đức Phật giảng Pháp có thể mâu thuẫn sao? A-Tu-La chính là đạo Tu La, một tầng thứ ma đạo trong Tam giới được Thích Ca Mâu Ni giảng ra khi Ngài giảng Pháp. Liệu Ngài có bắt đệ tử của mình cúng dường không? Còn nói việc cúng dường đối với người thế gian, đó là trách nhiệm mà người thế gian phải làm hết sức mình, như nuôi dưỡng, hỗ trợ, nhưng đó không phải là việc Phật giáo phải làm, việc cúng dường đối với Trời, người cũng do người thường làm, và đó cũng không phải là việc Phật tử phải làm. Đây đều là những lỗi do thế hệ sau thêm vào. Những câu cuối cùng ở đoạn 12 là: “Như Phật tháp miếu, hà huống hữu nhân tận năng thọ trì, độc tụng. Tu-bồ-đề! Đương tri thị nhân thành tựu tối thượng đệ nhất hy hữu chi pháp. Nhược thị kinh điển sở tại chi xứ tức vi hữu Phật, nhược tôn trọng đệ tử”. (Tạm dịch: Giống như (thờ) Phật và (xây) chùa chiền, đừng nói đến việc có người có thể thọ trì đọc tụng kinh. Này Tu-bồ-đề, nên biết người ấy thành tựu pháp tối thượng đệ nhất hy hữu. Nếu kinh này ở chỗ nào ắt là [ở đó] có Phật hoặc là những đại đệ tử của Phật). Ở đây có nhiều phần chưa đầy đủ. Có nhiều chỗ có lỗi. Ngoài những điều chúng tôi đã nói ở trên rằng một người tu luyện chân chính tự nhiên có lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh, nhưng ngoài việc không hữu ý cúng dường ra, làm sao có thể nói rằng bằng cách trì tụng kinh điển, người ta có thể đạt được Pháp quý báu và hiếm có nhất? Cũng giống như một người không có kiến thức vững chắc từ cấp hai hoặc cấp ba làm nền tảng, và yêu cầu anh ta từ sáng đến tối đọc thuộc lòng các công thức toán học bậc cao, rồi sau đó có thể được trao bằng tiến sĩ toán học sao? Đây thực sự là một trò đùa. Đây cũng là những gì mà người sau này cải biến Phật Pháp của Thích Ca Mâu Ni đã truyền ra và làm ra cái gọi là sự đối lập giữa “Đại thừa” và “Tiểu thừa” đã làm. Kỳ thực, “Đài cao chín tầng khởi đầu bằng một sọt đất, hành trình ngàn dặm khởi đầu bằng một bước chân” (Đạo Đức Kinh). Tuy rằng kinh sách ở đâu thì sau lưng có Phật đang quản, cho nên nói rằng kinh sách ở đâu thì ở đó có Phật, đây chính là trạng thái chân thật trong quá khứ.
Tuy nhiên, tâm có thể tương ứng hay không và có thể đạt đến cảnh giới và trạng thái tu hành hay không đòi hỏi phải tu luyện một cách vững chắc. Còn như nói Huệ Năng sau khi nghe “Kim Cương Kinh” một lần đã khai ngộ, chúng ta nói có bao nhiêu người đã thấy được nền tảng tu hành của Huệ Năng trong nhiều kiếp trước? Lúc đó ngài cũng chỉ đạt đến cảnh giới A La Hán, vì Bồ Đề Đạt Ma cũng chỉ là một vị A La Hán. Về sau đến thời kỳ cuối đời, Huệ Năng đã viết một bộ “Đàn Kinh”, kỳ thực Ngài gián tiếp nói với mọi người rằng sự ngộ Đạo của ngài cũng giống như cảnh giới trên đàn tế mà thôi. Những gì một mandala (Mạn-đồ-la) thành tựu và nhìn thấy không phải là chân tướng của vũ trụ lớn hơn, thành tựu rốt cuộc là có hạn, bởi vì con người ở chốn này đều phải có mê, đặc biệt là từ thời cận đại đến nay để tạo ra những mức độ khó khăn lớn hơn, và cũng vì sự bại hoại của chúng sinh, cho dù Huệ Năng biết điều đó cũng không dám nói rõ ràng rằng, “Trong một bông hoa nhìn thấy cả thế giới, nhưng thế giới không phải là bản thân bông hoa”. Con người nên minh bạch cái lý này.
2. Tiếp theo chúng ta sẽ nói về “Đoạn 13: Như Pháp thọ trì (Đúng Pháp thọ trì)”: “Nhĩ thời Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Đương hà danh thử kinh, ngã đẳng vân hà phụng trì? Phật cáo Tu-bồ-đề: “Thị kinh danh vi Kim Cang Bát-nhã ba-la-mật”. (Tạm dịch: Khi ấy Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, thế nào là tên của kinh này, chúng con làm sao phụng trì? Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: Kinh này tên là Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật). Kim Cương, con người làm sao mà hiểu được? Làm sao có thể lấy hữu hình để hiểu được trí tuệ vô hình bất biến này của tính không? Các đặc tính của đá kim cương cũng giúp ích cho sự lý giải này. Như chúng ta đều biết, kim cương cực kỳ hiếm và khai thác cũng vô cùng khó, kim cương thiên nhiên lớn thực sự rất khó tìm. Trước đây, việc tu luyện Đại Đạo yêu cầu rất cao đối với người tu luyện. Như thế tên của bộ kinh này là “Kim Cương Kinh”, vậy cũng gián tiếp ám chỉ rằng những người thực sự hiểu được ý nghĩa của bộ kinh này chắc chắn là những người đáng quý, ví dụ trong quá trình tu luyện, kỹ năng về giới, định, huệ của họ đã rất sâu và căn cơ của họ rất tốt. Cho nên, không giống như những người như thế sau này không hiểu, một người không biết một chút gì về Phật lý, cũng không biết tu luyện là gì, chỉ cần bảo anh ta từ sáng đến tối phải đọc thuộc “Kim Cương Kinh”, chưa cần nói đến thời mạt Pháp, các Pháp môn đều không có vị Phật nào quản, ngay cả trong thời bình thường, đó cũng không phải là phương pháp tu Phật, anh ta chẳng hiểu gì cả, chẳng biết gì cả, rốt cuộc chỉ học được một chút vẻ ngoài của những thuật ngữ, điều đó liệu có tác dụng gì? Như những gì chúng ta đã nói, nếu một người ngay cả bốn phép tính số học ở tiểu học còn chưa thành thạo, thậm chí một, hai, ba cũng không đếm được, lại được yêu cầu học thuộc lòng các công thức toán học nâng cao và xem các phương trình vi phân suốt cả ngày, thì việc đó rốt cuộc là gì nhỉ? Người dạy theo cách này không hiểu, người học theo cách này lại càng không hiểu. Người xưa nói: “Dĩ kỳ hôn hôn, sử nhân chiêu chiêu, khả đắc hồ?” Nghĩa là, nếu chính mình còn không hiểu, lại muốn dạy người khác hiểu, điều đó có thể được không?
Cưu-ma-la-thập là một người thực sự thành tựu trong lịch sử, vì vậy việc ông sử dụng ba chữ “Ba-la-mật” để dịch thành “Chính giác trí huệ”, có nội hàm rất sâu sắc. Ba la mật, nếu không tự nếm thử, thì quý vị có thể biết được hương vị của nó không? Bất kể miêu tả thế nào, thì vẫn có một lớp ngăn cách, cho nên, trí huệ ban đầu này của Phật là bất biến bất động và trống rỗng viên dung, là thực tại của cảnh giới này, nhưng cần phải tự mình nếm trải và ngộ được, chứ không chỉ là học thuộc lòng câu chữ. Khái niệm đạt tới và hiểu biết không phải là một. Bởi vì những người hiểu biết về vật lý hiện nay đều biết rằng kim cương tự nhiên tinh khiết là tốt nhất, giống như Huệ Năng, chỉ cần chạm khắc thêm một chút, tự nhiên sẽ có độ sáng bóng vô cùng. Còn trong tình huống bình thường, cần phải thăng hoa, đặc biệt là than chì than đá vốn không có giá trị, điều đó cũng không phải là không thể đạt được, nhưng cần phải trải qua nhiệt độ cao và áp suất cao không thể tưởng tượng được, và không thể có một chút sai sót, thì mới có thể biến thành kim cương. Vì vậy, ngay cả khi đó là một viên kim cương tự nhiên thượng hạng, thì vẫn phải tìm được người thợ chạm khắc giỏi nhất để dựa vào bản chất và đặc điểm của nó để chế tác hợp lý và kiểm soát chặt chẽ sự chính xác tinh tế trong quá trình chế tác, phàm là người hiểu biết về quy trình đánh bóng kim cương đều rất ngưỡng mộ và ngạc nhiên.
Kỳ thực để một người tu luyện chân chính có thể tu luyện, cần có hai điều kiện tiên quyết: một là phải tìm được bậc Giác Giả chân chính làm sư phụ của mình, hai là phải nghe được chân Pháp để tinh tấn thực tu. Nếu không có Phật quản chư vị thì dù chư vị có làm gì cũng uổng công vô ích. Bởi vì “tu tại tự kỷ, công tại sư phụ”. Công của chư vị cùng với tất cả những gì chư vị đã tu luyện được, đều là do sư phụ diễn hóa cho chư vị. Trình tự đó yêu cầu tỉ mỉ tinh vi hơn vô số lần so với việc đánh bóng kim cương tinh vi nhất thế gian, nó phức tạp hơn nhiều lần, với tư tưởng và cơ thể của một người thường chư vị không thể thực hiện được điều này. Điều thứ hai là phải đắc được chân Pháp và thực tu một cách vững vàng chắc chắn. Cần phải hiểu rõ rằng một mảnh thủy tinh được đánh bóng theo cách đánh bóng kim cương thoạt nhìn có thể sáng chói như kim cương, nhưng thực ra nó vô giá trị. Ngoài ra còn có loại đá zircon cực kỳ cứng, nó trông giống như đá kim cương, “Kim cương thủy tinh’’ chỉ là hàng giả rẻ tiền. Một thanh Thanh Giang kiếm (một trong hai thanh bảo kiếm của Tào Tháo) thượng hạng phải được mài đúng cách mới có thể càng mài càng sắc bén hơn, nếu mài quá mức có thể chỉ còn lại chuôi kiếm. Một miếng hỗn hợp bùn chì, cho dù chư vị dùng cách tốt nhất để mài nó, cũng chỉ là lưỡi dao chì đất sét và không có tác dụng gì. Nếu mài một cây gậy gỗ theo cách mài kim cương, thì cuối cùng thứ mài ra chỉ là một que tăm. Những sự thật này đáng để những người tu luyện chân chính phải dốc sức nghiền ngẫm. “Dĩ thị danh tự, nhữ đương phụng trì. Sở dĩ giả hà? Tu Bồ Đề! Phật thuyết Bát Nhã Ba La Mật (chính giác), tắc phi Bát Nhã Ba La Mật” (Tạm dịch: do danh tự ấy ông nên phụng trì. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, Phật nói Bát-nhã-ba-la-mật tức không phải Bát-nhã-ba-la-mật). Điều này có nghĩa là các vị nên lấy tên của Kinh này là “Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật” làm Pháp mà các vị nên kiên trì trong quá trình tu luyện. Tại sao lại gọi như vậy? Bởi vì một mặt là đo lường sự thăng trầm của một sinh mệnh, không phải là điều mà con người nghĩ rằng Đức Phật nói các vị thành công thì các vị thành công, mà là phù hợp với đặc tính của vũ trụ, Đức Phật cũng phải theo đó để hành sự, ông Phật đó nếu không phù hợp cũng phải rớt xuống. Mặt khác, bất kể Đức Phật thuyết giảng thế nào, điều quan trọng là phải tự mình tu luyện để đạt được trí huệ đó, thì sẽ tự nhiên thể nghiệm được. Cho nên, ý của Thích Ca Mâu Ni là trí huệ của viên mãn tự tính chính giác mà tôi đã nói, nhưng đó không phải là “trí huệ viên mãn chính giác” mà con người dùng tư tưởng quan niệm và sự vọng cầu của riêng mình để đạt được. Nhìn thấy Mặt Trăng trong nước và ngước nhìn Mặt Trăng trên bầu trời có vẻ giống như nhau, nhưng thực ra chúng không phải là một. Đây là lời tiên tri thông qua “Kim Cương Kinh”, bởi vì thân thể con người rất huyền bí, không phải là những gì mọi người biết trên bề mặt, ý thức của con người ở một tầng diện nhất định, khi vừa mới bắt đầu nhập Đạo, họ sẽ coi cái giả là hư ảo và vì những suy nghĩ sai lầm, vì vọng niệm mà nhầm lẫn ảo tưởng với thực tế, họ đã tự mình hủy hoại tương lai của chính họ, và họ thậm chí có thể trở nên phản nghịch và bất kính với thầy của mình, trở nên tự tâm sinh ma và tùy tâm nhi hóa.
Bởi vì ở tầng thứ cơ thể con người tồn tại một trường, trường này có một loại bản năng có thể phản chiếu những bóng ảnh chiếu vào từ vũ trụ, đây chính là công năng giao thị. Đây vốn là bản năng của con người, do con người ngày càng biến dị và suy đồi nên bản năng này bị khóa lại. Tuy nhiên vào thời của Thích Ca Mâu Ni, quan niệm đạo đức của con người vẫn bị chi phối bởi chính nghĩa và lòng tốt là chủ yếu. Trong quá trình con người nghe chính Pháp và tu Đạo, bản năng chân ngã này sẽ sớm xuất hiện, nhưng khi họ không thể giữ vững được tâm tính, họ sẽ tùy tâm nhi hóa, đặc biệt là khi họ tìm kiếm sự thay đổi bên ngoài, họ sẽ trở nên hoan hỷ cuồng loạn và tự hủy hoại bản thân. Con khỉ cố gắng mò trăng suốt cả cuộc đời, mặc dù có vẻ như nó đang cố gắng hết sức, nhưng thực ra nó đã nhầm rồi. Giống như một người nông dân trồng hoa màu, cho dù có kỹ thuật trồng trọt hạng nhất, quá trình trồng trọt vô cùng tận tâm, nhưng hạt giống lại là cỏ đuôi chồn, nên sẽ lãng phí cả đời lao động vất vả mà không có được thóc tốt. “Tu-bồ-đề! ư ý vân hà?” (Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao?) Khi Đức Phật giảng Pháp, Ngài hướng dẫn từng bước, vốn dĩ là giảng giải Pháp. Ý nghĩa là: này Tu-bồ-đề, ông hiểu ý nghĩa những gì ta nói như thế nào? (Ở đây xin nói thêm một chút ngoài lề: mọi tri thức, văn hóa và sự vật trong xã hội nhân loại đều có nguồn gốc và lý do của chúng. Gần đây, ở phương Tây xuất hiện các giáo trình “huấn luyện kỹ thuật”, kỳ thực kỹ thuật này (trí tuệ) không phải là phát minh của con người hiện đại. Trong thực tiễn thuyết Pháp của Thích Ca Mâu Ni, Chúa Jesus, Lão Tử và Khổng Tử, đặc biệt là trong các tập vấn đáp của các bậc Đại Nho trong các triều đại ở Trung Quốc, kỹ thuật này được sử dụng rộng rãi và nó cũng không được gọi là “huấn luyện” gì cả. Cho nên cái gọi là huấn luyện kỹ thuật có thể được xem như kết quả của sự giao thoa hiện đại giữa “tự nhận thức bản thân” của các vị Thánh Hy Lạp cổ đại và “hướng dẫn từng bước” của Khổng Tử. Nhưng bản thân sự tinh túy của nó đáng được nhân loại tập luyện và dùng để cải thiện suy nghĩ và hành vi của bản thân), “Đức Như Lai có thuyết Pháp không?” Việc tranh biện nhiều lần chính là để khiến Tu Bồ Đề minh bạch cái lý rằng “Pháp không thể dùng nhân tâm để tìm cầu, và càng không thể dùng nhân tâm để dò xét”. Tu-bồ-đề thưa với Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Như Lai không có nói Pháp.” Rõ ràng đang giảng, mà lại nói không giảng, chẳng phải mở mắt nói mò sao? Kỳ thực, ý nghĩa của Kinh đã bị thay đổi trong quá trình lưu truyền và phiên dịch. Ý nghĩa của câu này là Như Lai không giảng về Pháp chân chính của vũ trụ, mà chỉ giảng về sự mô tả Pháp đối với sinh mệnh tầng đó, chính là Pháp lý. Điều này giống như lời Lão Tử nói với các đệ tử của mình, “Tôi không biết tên của nó, nên miễn cưỡng gọi nó là Đạo”. “Pháp” và “Đạo” căn bản đó, bất luận tầng thứ và cách nhìn nhận của các sinh mệnh khác nhau như thế nào, họ phát hiện ra rằng họ chỉ có thể mô tả và chứng ngộ được phần mà họ có thể nhận ra được nhờ sự hiểu biết của chính họ, chứ không phải bản thân Pháp căn bản. Tuy nhiên Tu-bồ-đề không thể biểu đạt sự lĩnh ngộ của mình một cách hoàn hảo, rõ rằng, Khi Cưu-ma-la-thập dịch kinh, ông đã dịch thẳng theo nghĩa đen và thậm chí dịch ngắn gọn. “Như Lai vô sở thuyết” (“Như Lai không có nói”) giống như nói rằng Như Lai không giải thích nguyên do căn bản.
“Tu-bồ-đề! ư ý vân hà? Tam thiên đại thiên thế giới, sở hữu vi trần, thị vi đa phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Thậm đa, Thế Tôn! Tu-bồ-đề! Chư vi trần, Như Lai thuyết phi vi trần thị danh vi trần. Như Lai thuyết thế giới phi thế giới thị danh thế giới. Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Khả dĩ tam thập nhị tướng kiến Như Lai phủ? Phất dã Thế Tôn! Bất khả dĩ tam thập nhị tướng đắc kiến Như Lai. Hà dĩ cố? Như Lai thuyết tam thập nhị tướng, tức thị phi tướng, thị danh tam thập nhị tướng. Tu-bồ-đề, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ Hằng hà sa đẳng thân mạng bố thí, nhược phục hữu nhân ư thử kinh trung nãi chí thọ trì tứ cú kệ đẳng, vị tha nhân thuyết, kỳ phước thậm đa”. (Tạm dịch: “Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Tam thiên đại thiên thế giới có bao nhiêu vi trần, ấy là nhiều chăng? Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Này Tu-bồ-đề, các vi trần Như Lai nói không phải vi trần, ấy gọi là vi trần. Như Lai nói thế giới không phải thế giới ấy gọi là thế giới. Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Có thể do 32 tướng mà thấy Như Lai chăng? Bạch Thế Tôn không vậy! Không thể do 32 tướng được thấy Như Lai. Vì cớ sao? Như Lai nói 32 tướng tức không phải 32 tướng ấy gọi là 32 tướng. Này Tu-bồ-đề nếu có người thiện nam, người thiện nữ đem thân mạng nhiều như cát sông Hằng để bố thí, hoặc lại có người ở trong Kinh này cho đến thọ trì bốn câu kệ v.v… vì người khác nói thì phước này rất là nhiều”). Nếu các vị quan sát đoạn kinh này một cách cẩn thận tỉ mỉ, các vị sẽ thấy có nhiều đoạn trùng lặp và không theo thứ tự trước sau. Điều này cho thấy khi biên soạn lại những ký ức trong đoạn kinh này họ đã “tự thị nhi phi” và “mạc trung nhất thị” (tưởng đúng nhưng thực ra là sai và chưa ngã ngũ gì cả). Cho nên mới có câu nói vi trần (hạt bụi nhỏ bé) không phải là trần (hạt bụi), thế giới không phải là thế giới. Cần biết rằng năm đó khi Thích Ca Mâu Ni giảng Pháp này, mục đích là để các đệ tử hiểu rõ, để giải quyết những vấn đề họ gặp phải trong tu luyện, chứ không phải làm phức tạp thêm vấn đề và khiến chúng trở nên khó hiểu. Cho nên, xem ra là do khi sưu tập biên soạn đoạn kinh này, những người nhớ lại nó rõ ràng không thể nhớ rõ vì thời gian đã trôi qua quá lâu. Vậy nên đem nó viết ra cùng một chỗ, không phân rõ trước sau. Đức Phật nhấn mạnh tầm quan trọng của lần giảng Pháp này, nhưng không cần thiết phải quá lộn xộn rối rắm như thế, tóm lại có nghĩa là chúng ta không nên chấp trước vào những lời văn bề mặt hoặc dùng những khái niệm của con người để đo lường. Nếu không, những chấp trước vào tình cảm và cảm xúc của con người sẽ trở thành một trở ngại lớn cho tu luyện. Nếu có người có thể thọ trì bốn câu kệ trong kinh này và nói cho người khác biết thì phước của người đó sẽ rất nhiều. Những lời này được cho là Thích Ca Mâu Ni nói ra sau khi Ngài thuyết giảng xong kinh này, và sau đó các đệ tử của Ngài đã hỏi về tầm quan trọng của kinh này và công đức của việc truyền bá kinh này. Bởi vì “bốn câu kệ” này vào thời điểm đó vẫn chưa được giảng ra.
3. Hãy xem “Đệ thập tứ phẩm Ly tướng tịch diệt” (“Đoạn thứ 14: Lìa tướng tịch diệt”): “Nhĩ thời Tu-bồ-đề văn thuyết thị kinh, thâm giải nghĩa thú, thế lệ bi khấp” (Tạm dịch: Khi ấy ngài Tu-bồ-đề nghe Phật nói Kinh này, hiểu sâu được ý nghĩa đạo lý, rơi lệ đầm đìa). Tại sao Tu-bồ-đề khóc? Xưa nay điều này chưa bao giờ được chú ý nhiều. Vì để tốt cho người đời sau, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói về những thiên cơ lớn của thời kỳ mạt kiếp mạt Pháp, và báo với hậu nhân không nên coi Pháp của Ngài là thứ hoàn toàn bất biến, làm như vậy sẽ trói buộc người đời sau và họ không thể đột phá lên tầng cao hơn, cũng có thể can nhiễu vào sự kính tín của mọi người đối với vị Phật Chủ của vũ trụ trong tương lại tất yếu sẽ xuất hiện để truyền Đại Pháp. Nhưng giai đoạn đó trong lịch sử lại không thể giảng rõ ra được, thật là dụng ý sâu xa, Tu-bồ-đề đã khóc vì tình yêu thương vĩ đại của Đức Phật và vì ông hiểu được tấm lòng của Đức Phật. “Nhi bạch Phật ngôn: Hy hữu Thế Tôn! Phật thuyết như thị thậm thâm kinh điển, ngã tùng tích lai sở đắc tuệ nhãn, vị tằng đắc văn như thị chi kinh. Thế Tôn! Nhược phục hữu nhân đắc văn thị kinh, tín tâm thanh tịnh tắc sanh thực tướng. Thực tướng tức thị phi tướng” (Tạm dịch: bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Rất ít có. Phật nói kinh điển sâu xa như thế, con từ trước đến giờ đã được tuệ nhãn mà chưa từng được nghe kinh như thế. Bạch Thế Tôn! Nếu lại có người được nghe kinh này, lòng tin thanh tịnh ắt sinh thật tướng. Thật tướng ấy tức không phải tướng). Đó là cảnh giới thực của không chấp trước mà tự đắc. Điều này cũng giải thích tại sao đoạn trước có câu “Như Lai không có nói Pháp”. Không giống như một số người điên điên khùng khùng vẫn hiểu, thực ra nó là chân thực ở “bên kia”, các vị chỉ khi chân chính đạt được cảnh giới “bên kia” thì mới biết điều đó. Nên biết rằng người này đã đạt được công đức hiếm có bậc nhất.
“Thế Tôn! Thị thật tướng giả tức thị phi tướng, thị cố Như Lai thuyết danh thật tướng. Thế Tôn! Ngã kim đắc văn như thị kinh điển, tín giải thọ trì bất túc vi nan, nhược đương lai thế, hậu ngũ bách tuế” (Tạm dịch: Bạch Thế Tôn! Thật tướng ấy tức không phải tướng, thế nên Như Lai nói tên là thật tướng. Bạch Thế Tôn! Nay con được nghe kinh điển như thế, tin hiểu thọ trì không đủ làm khó, nếu đời sau, khoảng năm trăm năm về sau). Năm trăm năm sau, một vị hiền triết vĩ đại sẽ xuất hiện. Trung Quốc đã sớm có ứng nghiệm này, đó là vị chủ quản tại thế gian sẽ được thay thế sau mỗi 500 năm đối ứng với Thiên thượng, mà người đó phải tiếp nhận quyền lực, năng lực và cơ chế của người chủ quản tiền nhiệm, và trước đó phải hoàn thành thiên mệnh của mình ở thế gian. “Kỳ hữu chúng sanh, đắc văn thị kinh, tín giải thọ trì, thị nhân tắc vi đệ nhất hy hữu. Hà dĩ cố? Thử nhân vô ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Sở dĩ giả hà? Ngã tướng tức thị phi tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức thị phi tướng” (Tạm dịch: Lúc đó có những chúng sinh được nghe kinh này, tin hiểu thọ trì, người ấy ắt là hiếm có bậc nhất. Vì cớ sao? Vì người này không tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Vì cớ sao? Vì tướng ngã tức không phải tướng, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức không phải tướng). Không phải là không phải tướng mà là tướng thật giả. Là tướng đối lập nhau, có chấp tướng. Không tướng tức là không có chấp trước, không phải là trống rỗng hay điên rồ. “Hà dĩ cố? Ly nhất thiết chư tướng tức danh chư Phật” (Tạm dịch: Vì sao? Vì lìa tất cả tướng tức gọi là chư Phật).
Phật Chủ giảng:
“[Tôi] nói rõ cho chư vị một chân lý: toàn bộ quá trình tu luyện của người ta chính là quá trình liên tục tống khứ tâm chấp trước của con người” (Chuyển Pháp Luân).
Để đạt được quả vị Phật, người ta phải xả bỏ hết mọi chấp trước, khổ tận cam lai, giác ngộ trong chính Đạo và tự nhiên trở về cõi Phật.
“Phật cáo Tu-bồ-đề: Như thị, như thị! Nhược phục hữu nhân đắc văn thị kinh bất kinh, bất bố, bất úy, (Bởi vì khi Pháp chưa bị hủy hoại thì có một vị Phật ở đằng sau quản, với đức hạnh rất lớn), đương tri thị nhân, thậm vi hy hữu. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Như Lai thuyết đệ nhất ba-la-mật, phi đệ nhất ba-la-mật, thị danh đệ nhất ba-la-mật. Tu-bồ-đề! Nhẫn nhục ba-la-mật, Như Lai thuyết phi nhẫn nhục ba-la-mật thị danh nhẫn nhục ba-la-mật” (Tạm dịch: Phật bảo Tu-bồ-đề: Đúng thế, đúng thế! Nếu lại có người được nghe kinh này, không kinh, không hãi, không sợ (Bởi vì khi Pháp chưa bị hủy hoại thì có một vị Phật ở đằng sau quản, với đức hạnh rất lớn), nên biết người ấy rất là hiếm có. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề! Như Lai nói đệ nhất ba-la-mật tức không phải đệ nhất ba-la-mật ấy gọi là đệ nhất ba-la-mật). Kỳ thực, ở đây Cưu-ma-la-thập đã dịch kinh sách thành nhiều mật ngữ. Điều này đã gây ra cho các thế hệ sau “mạc trung nhất thị” (chưa ngã ngũ gì cả), nên đã ngang ngược giải thích sai, và không ai có thể hiểu được. Ý nghĩa ban đầu của Thích Ca Mâu Ni là muốn nói rằng kinh này là Pháp cao nhất và đầu tiên mà Ngài truyền ra trong môn phái của mình, nhưng nó không phải là Pháp căn bản của vũ trụ, cũng không có nghĩa là uy đức của Pháp của các môn phái khác không to lớn. Tuy nhiên, người tu luyện chân chính phải coi trọng “bất nhị pháp môn” và coi đây là điều quan trọng nhất, thiết yếu nhất khi bước vào cửa Phật giáo.
“Tu-bồ-đề! Nhẫn nhục ba-la-mật, Như Lai thuyết phi nhẫn nhục ba-la-mật” (Tạm dịch: “Tu-bồ-đề! Nhẫn nhục ba-la-mật, Như Lai nói không phải nhẫn nhục ba-la-mật”). Nhẫn chân chính không phải là người hèn nhát và trốn tránh, mà là một loại người khoan dung từ bi vô lượng. Không có khái niệm đối với nhẫn của con người, mà là sự viên mãn tính không. “Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Như ngã tích vi Ca-lợi vương cát tiệt thân thể, ngã ư nhĩ thời vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng” (Tạm dịch: Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề! Như thuở xưa ta bị vua Ca-lợi (Kali) cắt đứt thân thể, ta khi ấy không có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả). Để giải thích rõ cho cảnh giới này, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã kể một câu chuyện về việc tu hành trước đây của Ngài. Buông bỏ mọi chấp trước, kể cả chấp trước vào bản thể, thì đó chính là Thần, và cảnh giới này chính là một sự phán đoán, đồng thời cấu thành một khảo nghiệm, việc tu Phật của một người cũng giống như đi học, đến một thời điểm nhất định phải có kỳ thi tốt nghiệp. Đối với các kỳ thi về sắc dục, tiền bạc, v.v. giống như kỳ thi cuối năm, đối với các kỳ thi/khảo nghiệm sinh tử, giống như kỳ thi lên lớp. “Hà dĩ cố? Ngã ư vãng tích tiết tiết chi giải thời, nhược hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, ưng sinh sân hận. Tu-bồ-đề! Hựu niệm quá khứ, ư ngũ bách thế tác nhẫn nhục tiên nhân, ư nhĩ sở thế vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng. Thị cố, Tu-bồ-đề! Bồ-tát ưng ly nhất thiết tướng (chấp trước), phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam bồ-đề tâm” (Tạm dịch: Vì cớ sao? Ta thuở xưa khi thân thể bị cắt ra từng phần nếu còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, đáng lẽ nên sinh sân hận. Tu-bồ-đề! Lại nhớ thuở quá khứ năm trăm đời, ta làm tiên nhân nhẫn nhục, vào thuở ấy không có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Thế nên, Tu-bồ-đề! Bồ-tát nên lìa tất cả tướng (chấp trước) mà phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác). Đó là trong tình huống không còn chấp trước, từ bi với tất cả chúng sinh. Phát tâm cứu độ chúng sinh. Khi đối diện với những khảo nghiệm cực đoan, kỳ thực đã đến lúc buông bỏ những chấp trước căn bản, nếu vẫn còn “tướng ngã”, Trang Tử nói: “Những thứ tự tôi cho là quý giá thì người khác cho là rẻ mạt”, cho dù đó là một người ăn xin chỉ cần quá coi trọng tướng ngã, thì người ấy vẫn sẽ nặng nề với cái chết và bảo vệ thân thể mình khỏi bị tổn hại, và sẽ làm điều ác để trả thù những hành vi xúc phạm. Vì “tướng ngã”, người ta tất phải chấp trước vào “tướng nhân”. Trên đời này, người ta có thể chết vì người mình thích, nhưng lại rất khắc nghiệt với người mình không thích. Giống như lúc trời nắng thì ca hát vui vẻ, lúc trời mưa to thì chửi rủa vậy, làm sao có thể gọi đó là sinh mệnh có trí huệ được? Họ rõ ràng là những chúng sinh ngu si. Thiên đường chẳng phải chỉ có một sao? Chẳng phải Mặt Trời cũng chỉ có một sao? Điều này cho thấy nếu chất độc của sự ngu si không được loại bỏ thì tất sẽ sinh ra sân hận. Đối với chúng sinh và thọ giả, đó là những phân biệt tướng và vọng niệm phức tạp do tướng ngã tướng nhân kéo dài rồi mất đi, chư vị luôn cho rằng rằng mình là cao nhân bậc nhất, nhưng chư vị lại không biết rằng những “viên đá thô” này chính là do Thượng thiên an bài để “mài thành ngọc” trong quá trình tu luyện của chư vị.
Vì vậy Thích Ca Mâu Ni đã nhắc nhở Tu-bồ-đề phải lìa xa hết thảy mọi tướng, thế mới nói đạt được phát tâm chính giác. Làm thế nào để đạt được điều này? Phật giáo xưa nay giảng “chúng sinh bình đẳng”, kỳ thực chúng sinh bình đẳng là sự uy nghiêm bình đẳng của Phật tính. Tuy nhiên, do sự khác biệt về tâm tính và tầng thứ của chúng sinh, nên chúng sinh lại có nhiều đẳng cấp khác nhau, tuy nhiên từ góc độ toàn thể vũ trụ, từ tổng thể viên dung xét, điều đó không có nghĩa là thấp kém là không tốt, giống như chúng ta không dùng kem dưỡng da mặt để bôi lên da chân, nhưng điều đó không có nghĩa là chân của chúng ta không quan trọng. Nhưng nếu chư vị dùng chân để bắt tay khách, điều này sẽ bị coi là xúc phạm và sỉ nhục. Vì vậy, theo ý nghĩa này, việc hiểu học thuyết Khổng Tử “yêu thương mọi người và mọi vật” và lời dạy của Chúa Jesus “yêu người thân cận như chính mình”, vốn không phải là sự ép buộc, mà là cho chúng ta biết tướng thực sự của sinh mệnh. Nhận ra được điểm này chỉ là một bước tiến hữu hình, chúng ta cũng phải hiểu rõ cái lý của viên dung vô hình, và thực sự buông bỏ được tự ngã vào những thời điểm quan trọng. Hiện nay có rất nhiều người đã học được một chút kiến thức thường thức về Phật giáo, nhưng bản thân chưa đạt được chứng đắc, những người chưa đạt được giải thoát mà vẫn lớn tiếng nói chuyện độ nhân, kỳ thực, chúng ta nên suy nghĩ kỹ về điều này, đừng vì sự ngông cuồng của những người đó mà để tương lai sinh mệnh của chính mình bị hủy hoại. Bởi vì độ nhân là việc vô cùng khó, trong một thế giới mà chính phản cùng tồn tại tương sinh tương khắc lẫn nhau, thì vị Thần độ nhân phải gánh chịu rất nhiều đau khổ vì những người mình cứu độ, trước đây còn phải coi trọng đến thời cơ. “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng sanh vô sở trụ tâm” (Tạm dịch: chẳng nên trụ sắc sanh tâm, chẳng nên trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm, nên sanh tâm không chỗ trụ). Bậc giác ngộ chân chính độ nhân không nói điều kiện, cứu độ những người đáng được cứu độ mà không tính giá cả. Ở đây, Thích Ca Mâu Ni nói rằng nếu một vị Bồ Tát trụ sắc sanh tâm, thì vị ấy không phải là Bồ Tát. Ở tầng thứ tu luyện, vị ấy nếu chưa vượt qua được tu luyện thế gian pháp thì sẽ nhất định vì danh lợi mà hủy hoại chính mình. Cũng nhất định sẽ vì thanh, sắc, hương, vị, xúc mà sinh chấp trước. Ví dụ như ngày nay các nhà sư nào là xây chùa, cúng bái thần linh, phóng sinh, đó chỉ là những phương pháp tiện lợi thỉnh thoảng được các bậc đại đức trong lịch sử sử dụng, mục đích là để tiêu trừ cái tâm thời bấy giờ, khiến họ quy chính, để có thể nghe Phật Pháp và tu hành như Thích Ca Mâu Ni đã tu hành. Phàm là những thứ hữu hình, chư vị nên hiểu rõ nguyên do của chúng, chứ không được mù quáng bắt chước theo hay cố chấp vào chúng, những thứ như ảo ảnh trong mơ, liệu có hiệu quả nào không? Nếu như tâm trí chấp trước vào một điều gì đó, thì đó không phải là thanh tịnh thực sự.
“Thị cố Phật thuyết: Bồ-tát tâm bất ưng trụ (trước dã) sắc bố thí” (Tạm dịch: Thế nên Phật nói tâm Bồ-tát không nên trụ (cũng là chấp trước vào) sắc mà bố thí). Đây là chú thích được các thế hệ sau thêm vào và đã trở thành một phần của chính kinh văn. Ý nghĩa thực sự của lời giải thích này dường như đã bị các Phật tử Thiền tông sau này bóp méo, khiến cho ý nghĩa của kinh càng trở nên mơ hồ và khó hiểu hơn. Câu này cũng giống như câu nói: chư vị bị sốt cần uống thuốc, vậy thì chư vị nên uống penicillin. “Tu-bồ-đề! Bồ-tát vì lợi ích nhất thiết chúng sanh, ưng như thị bố thí. Như Lai thuyết nhất thiết chư tướng tức thị phi tướng”. Câu thoại này có nghĩa là Bồ Tát phải dùng tâm quang minh, dùng đại đức từ bi mà truyền bá chánh Pháp, cứu độ thế nhân. Đây chính là tâm Pháp của Bồ Tát. Nhưng tất cả các quả vị tướng mà Như Lai nói đến, kỳ thực đều là cách nhìn chân thực của Ngài, là chân thực tướng trong Pháp Giới. Nhưng nếu chúng ta dùng quan niệm của con người để suy xét Ngài, dùng tư duy đơn giản và suy xét bằng khả năng thấp kém của con người mà suy đoán Ngài, thì đó chỉ là giả tướng. Ví dụ, Như Lai có thể nói rằng Ngài là, cũng có thể nói rằng Ngài không là. “Hựu thuyết nhất thiết chúng sanh, tức phi chúng sanh. Tu-bồ-đề! Như Lai thị chân ngữ giả, thật ngữ giả, như ngữ giả, bất cuống ngữ giả, bất dị ngữ giả. Tu-bồ-đề! Như Lai sở đắc pháp, thử pháp vô thật vô hư” (Tạm dịch: lại nói tất cả chúng sanh tức không phải chúng sanh. Như Lai nói lời chân, lời thật, lời như, lời không dối, lời chẳng khác. Này Tu-bồ-đề! Như Lai đã đắc Pháp, Pháp này không thật, không hư”). Thích Ca Mâu Ni chỉ sợ rằng hậu nhân sẽ không hiểu được ý nghĩa thực sự của những lời Ngài nói, nên Ngài đặc biệt nhấn mạnh câu này. Hiển nhiên lúc đó Tu-bồ-đề cũng nghi hoặc không giải thích được vì chỉ hiểu biết được ở tầng thứ của ông, đó là lý do tại sao Thích Ca Mâu Ni mới nhấn mạnh điều này nhiều như vậy. Ý nghĩa của Pháp này không thật cũng không giả chính là Phật Pháp ở khắp mọi nơi, thực sự tồn tại, nhưng đó không phải là trạng thái tồn tại của điều gì đó mà con người có thể tưởng tượng hay hiểu được. Hết thảy đều vận hành theo ý Ngài. Điều này cũng giống như Đạo gia giảng: “Đạo thuận theo tự nhiên”. Bất chấp những vất vả tâm sức của Thích Ca Mâu Ni, các nhà truyền bá và dịch giả sau này đã dịch ý này một cách quá đơn giản và gấp khúc, khiến cho mọi người càng khó hiểu hơn, càng đọc càng thấy mơ hồ.
“Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát tâm (trước dã) trụ ư pháp nhi hành bố thí, như nhân nhập ám, tắc vô sở kiến” (Tạm dịch: Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát tâm (chấp trước) trụ nơi Pháp mà làm việc bố thí thì như người vào trong tối ắt không thể thấy). Câu này có nghĩa là gì? Câu này có nghĩa là “không có Pháp nào có thể dựa vào” sao? Vậy thì chư Phật, Bồ Tát cũng có thể tự mình truyền rộng khắp được không? Kỳ thực không phải ý nghĩa đó. Cưu Ma La Thập là một người rất thông tuệ, nhưng khi dịch kinh này, Ngài chắc chắn chịu ảnh hưởng của thời kỳ huyền học thịnh vượng ở Trung Quốc, hơn nữa bản dịch của Ngài rất đơn giản, đơn giản đến mức ý nghĩa nguyên thủy trở nên rất khó hiểu, giống như ban đầu có một cây cầu nối hai đỉnh núi, nhưng để thể hiện giá trị của nó, cây cầu đã bị phá hủy và chỉ dùng một khúc gỗ duy nhất bắc qua. Nếu “vô pháp khả tuân” (không có Pháp nào để theo), thế thì Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp trong bốn mươi chín năm để làm cái gì? Kỳ thực ý nghĩa ở đây là đệ tử không nên bị ràng buộc lại bởi Pháp mà Ngài đã giảng trước đó. Bởi vì khi đạt đến cảnh giới Bồ Tát, trí tuệ viên mãn như nước, nếu vẫn xem Pháp A La Hán đời trước là quy luật bất biến, cố chấp tuân theo, thì cũng giống như từ nơi sáng chói đi vào nơi tối tăm, tuy nơi tối tăm cũng không phải là không có ánh sáng, nhưng người ta cũng sẽ không thể thấy gì cả. Đó chỉ là sự vô minh thôi. “Nhược Bồ-tát tâm bất trụ pháp nhi hành bố thí, như nhân hữu mục, nhật quang minh chiếu, kiến chủng chủng sắc. Tu-bồ-đề! Đương lai chi thế, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, năng ư thử kinh thọ trì độc tụng, tức vi Như Lai dĩ Phật trí tuệ, tất tri thị nhân, tất kiến thị nhân, giai đắc thành tựu vô lượng vô biên công đức”. (Tạm dịch: “Nếu Bồ-tát tâm không trụ nơi Pháp mà thực hành bố thí thì giống như người có mắt lại thêm ánh sáng Mặt Trời chiếu soi, thấy các thứ hình sắc. Này Tu-bồ-đề! Ở đời sau nếu có người thiện nam, thiện nữ hay ở trong kinh này thọ trì đọc tụng thì ắt là Như Lai sẽ dùng trí tuệ Phật ắt sẽ biết người ấy, ắt sẽ thấy người ấy và họ đều được thành tựu vô lượng vô biên công đức”). Như Lai là chỉ tầng thứ của Phật, không phải chỉ riêng Thích Ca Mâu Ni, mà là nói đến tất cả các đại Giác Giả trên thế gian, tất cả đều được cộng đồng ở cao tầng công nhận và ủng hộ. Họ có thể dùng Pháp vô vi để phổ độ chúng sinh, đương nhiên sẽ thành tựu công đức vô hạn.
4. Chúng ta hãy xem “Đoạn 15: Công đức trì kinh”: “Tu-bồ-đề! Nhược hữu thiện nam tử thiện nữ nhân, sơ nhật phần, dĩ Hằng hà sa đẳng thân bố thí, trung nhật phần phục dĩ Hằng hà sa đẳng thân bố thí, hậu nhật phần diệc dĩ Hằng hà sa đẳng thân bố thí. Như thị vô lượng bách thiên vạn ức kiếp dĩ thân bố thí. Nhược phục hữu nhân văn thử kinh điển, tín tâm bất nghịch, kỳ phước thắng bỉ, hà huống thư tả, thọ trì độc tụng vị nhân giải thuyết. Tu-bồ-đề! Dĩ yếu ngôn chi, thị kinh hữu bất khả tư nghị, bất khả xứng lượng, vô biên công đức”, (Tạm dịch: Tu-bồ-đề! Nếu có người thiện nam thiện nữ, buổi sáng đem thân mạng bằng số cát sông Hằng ra bố thí, buổi trưa lại đem thân mạng bằng số cát sông Hằng ra bố thí, buổi chiều cũng đem thân mạng bằng số cát sông Hằng ra bố thí, như thế vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp đem thân mạng bố thí. Nếu lại có người nghe kinh điển này, lòng tin không nghịch, phước của người này hơn phước của người kia, huống là chép viết, thọ trì, đọc tụng, vì người giải nói. Này Tu-bồ-đề! Tóm tắt mà nói, kinh này có công đức vô biên không thể nghĩ bàn, không thể đo lường). Vì vậy, người muốn tu hành không nên truy cầu bất cứ điều gì, cũng không nên chấp trước vào việc gì, mà phải tĩnh tâm, đồng hóa với Pháp lý, đoạn trừ dục vọng của con người, chứng ngộ được thiên lý. “Như Lai vị phát Đại thừa giả thuyết, vị phát Tối thượng thừa giả thuyết” (Tạm dịch: Như Lai vì những người phát tâm Đại thừa mà nói, vì những người phát tâm Tối thượng thừa mà nói). Câu này đã nói rất rõ ràng rằng đây chính là Pháp mà Thích Ca Mâu Ni đã truyền dạy cho những ai muốn đạt đến quả vị Bồ Tát hay thậm chí là quả vị Phật. Đây tuyệt đối không phải là một khóa học phổ thông, mà là một khóa học cao cấp. Chúng tôi trước đây đã nhiều lần nhấn mạnh rằng Pháp trong quá khứ là tu luyện phó nguyên thần, nên cái được hiểu đúng đắn cũng chỉ là phó nguyên thần không nhập Tam giới, còn đối với chủ thể của con người, chỉ là truyền thừa một nền văn hóa và để nâng cao sức chịu đựng và kinh nghiệm sống của nó mà thôi. Vậy là có sự khác biệt, không nói như vậy với người Tiểu thừa, người Tiểu thừa là ám chỉ những người tiểu căn cơ, hay gọi là “tiểu học”. Đây là người ở giai đoạn sơ cấp. Tuy nhiên, đây không phải là Tiểu thừa như người đời sau định nghĩa. Kỳ thực dù là “Đại thừa” hay “Tiểu thừa”, trong Pháp môn Phật giáo này, đều phải lấy “Giới, Định, Huệ” mà tu luyện và quán xuyến cả quá trình. “Nhược hữu nhân năng thọ trì độc tụng, quảng vị nhân thuyết, Như Lai tất tri thị nhân, tất kiến thị nhân, giai đắc thành tựu bất khả lượng, bất khả xứng, vô hữu biên, bất khả tư nghị công đức. Như thị nhân đẳng tắc vi hà đảm Như Lai A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề” (Tạm dịch: Nếu có người có thể thọ trì đọc tụng, truyền rộng cho người khác, Như Lai ắt biết người ấy, ắt thấy người ấy và đều được thành tựu công đức không thể đo lường, không thể tính đếm, không có ranh giới, không thể nghĩ bàn. Những người như thế tức là gánh vác Pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Phật Như Lai). Có người truyền bá Phật Pháp từ thế hệ này sang thế hệ khác. Như đã đề cập ở trước, các vị Phật gần kề với Tam giới của con người cứ mười năm lại được thay thế một lần, thế còn một số vị Thần với chức vụ nào đó thì sao? Có rất nhiều phiên bản của Phật Bà Quan Âm được nhân gian biết đến, chuyện gì đang xảy ra vậy? Thần Tài và Thần Chung Quỳ bắt quỷ không phải là cùng một người, kỳ thực đây chính là nguyên nhân.
“Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược nhạo tiểu pháp giả, trước ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến, tức ư thử kinh bất năng thính thọ độc tụng, vị nhân giải thuyết”. (Tạm dịch: Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề! Bởi vì người thích Tiểu thừa Phật Pháp tức họ chấp ngã, chấp nhân, chấp chúng sanh, chấp thọ giả, nên tức là đối với kinh này họ không thể lắng nghe, thọ trì, đọc tụng và vì người khác mà giảng thuyết). Ngay cả Tiểu thừa Phật Pháp cũng không được phép nghe, đọc, tụng hay giải thích cho người khác, huống chi là những tà sư giảng Pháp vào thời kỳ mạt thế nhiều như cát sông Hằng? Tình cảnh thực sự của chúng sinh ngày nay thật đáng thương, cổ nhân đã nói: Chúng sinh đáng tiếc là không thể thấy được vẻ đẹp tuyệt vời của trời đất, và Đại Toàn (là khái niệm triết học của Đạo gia, vốn chỉ Đạo) của cổ kim. Tiên sinh Vương Dương Minh viết: “Học thuyết của các bậc Thánh nhân ngày càng xa vời và mơ hồ, trong khi thói quen theo đuổi công danh lợi lộc ngày càng nghiêm trọng. Mặc dù trong khi đó có những người từng bị giáo lý của Phật gia và Đạo gia mê hoặc, nhưng cuối cùng giáo lý của Phật giáo và Đạo giáo vẫn không thể chiến thắng được tâm danh lợi của thế nhân. Mặc dù một số người đã quay lại với quan điểm của nhóm Nho gia, nhưng luận thuyết của nhóm Nho gia cuối cùng vẫn không thể phá tan được mong muốn theo đuổi công danh lợi lộc của người ta. Cho đến ngày nay, chất độc của việc truy cầu công danh lợi lộc đã thấm sâu vào tâm can xương tủy con người và trở thành bản tính trong hàng ngàn năm nay rồi! Mọi người khoe khoang với nhau về kiến thức của mình, tranh giành quyền lực với nhau, cạnh tranh lợi ích với nhau, so sánh kỹ năng với nhau và đua tranh nhau về danh tiếng…..Với những thói quen xấu lâu đời như vậy, với một tâm thái như vậy, đồng thời với việc coi trọng học vấn như vậy, khi nghe lời giáo hóa của các Thánh nhân, họ tự nhiên coi đó là gánh nặng phiền phức; không thể tránh khỏi việc họ coi lương tri là không hoàn toàn tốt đẹp và học thuyết của các Thánh nhân là vô dụng!” Bởi vì tất cả mọi vật trong vũ trụ đều tương phụ tương thành với nhau, nếu trạng thái của một người bị bại hoại đến mức này, thì mọi thứ liên quan đến người đó cũng sẽ bại hoại tương tự như thế, chân tướng sẽ bị phong tỏa. Cho nên ông than thở: “Than ôi! Các nho sinh sinh ra trong thế giới như thế, làm sao có thể truy cầu học thuyết Nho giáo được nhỉ? Làm sao họ có thể đàm luận về học thuyết Nho giáo được? Trở thành một học giả trong thời đại như vậy chẳng phải quá gian khổ và nặng nề sao? Chẳng phải quá khó khăn và nguy hiểm sao?” Những lời này rất thích hợp để dùng ở đây để kiểm chứng lời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói, những lời này quả thực là lời cảnh báo. Hãy nghĩ đến những người vẫn còn chấp trước vào phiền não, chưa buông bỏ được danh lợi tình, thì việc đọc kinh này chẳng những vô ích mà còn tạo nghiệp vì nó đi ngược lại ý muốn của Đức Phật, hơn nữa, nếu họ mang chấp trước tâm lý hiển thị để thuyết giảng cho người khác, miệng nói vì nhân tâm hướng thiện đã quy y Phật Pháp, nhưng thực chất họ dùng điều này để nâng cao danh tiếng, đây chính là lời Khổng Tử đã nói: “Đạo bất viễn nhân, nhi nhân tự viễn Đạo”. (Tạm dịch: Đạo không xa người, mà người tự xa Đạo). Người xưa rất kính trọng Phật Pháp, chỉ mời các vị cao tăng đến tụng kinh, còn bản thân họ lại không dám tụng kinh, chính là vì thế. Chẳng lẽ họ không biết chữ sao? Khi một vị cao tăng đến tụng kinh, cũng là tụng những lời ấy.
Con người ngày nay cuồng loạn vô đạo, lợi dụng điều này để mua danh tranh tiếng, nhưng những nội hàm nguyên lý Phật giáo ẩn chứa đằng sau nó thì đã mất hết rồi, nếu không có nội hàm nào khác, thì có đọc đi đọc lại một vạn lần cũng vô ích. “Tu-bồ-đề! Tại tại xứ xứ, nhược hữu thử kinh, nhất thiết thế gian thiên, nhân, a-tu-la sở ưng cúng dường. Đương tri thử xứ tắc vi thị tháp, giai ưng cung kính tác lễ vi nhiễu, dĩ chư hoa hương nhi tán kỳ xứ”. (Tạm dịch: Này Tu-bồ-đề! Ở nơi nào nếu có kinh này thì tất cả thế gian trời, người, A-tu-la đều nên cúng dường, nên biết chỗ này tức là tháp, đều nên cung kính làm lễ vây quanh, dùng các thứ hương hoa mà rải cúng nơi ấy). Phần sau của câu này không ăn gắn với phần trước và thừa chữ tương tự như câu trước, nhưng do nghĩa của các từ khác nhau, như từ “cúng dường”, nên vấn đề tập trung ở chỗ này. Câu này có thể coi là bằng chứng cho sự thâm nhập trái phép các thứ của Bà La Môn giáo vào Pháp do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền dạy. Khi Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, Ngài chưa bao giờ dạy người ta tu loại Pháp hữu vi này, và A Tu La chính là “Đạo Tu La” mà Thích Ca Mâu Ni đã giảng là một trong những ma đạo, làm sao có thể cúng dường nó? Do đó, đây là một câu văn sai, đây chẳng phải là Pháp hữu vi sao? Thích Ca Mâu Ni tuyệt đối không thể nào tự mâu thuẫn với chính mình được.
5. Chúng ta hãy xem “Đoạn 16: Thanh lọc nghiệp chướng”: “Phục thứ Tu-bồ-đề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân, thọ trì, độc tụng thử kinh, nhược vi nhân khinh tiện, thị nhân tiên thế tội nghiệp, ưng đọa ác đạo, dĩ kim thế nhân khinh tiện cố, (thử xứ đu thất văn tự) tiên thế tội nghiệp tắc vi tiêu diệt, đương đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam bồ-đề. (tiêu nghiệp chuyển phúc dã)”. (Tạm dịch: Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Nếu có người thiện nam, thiện nữ thọ trì đọc tụng kinh này, nếu bị người coi khinh, người này do tội nghiệp đời trước lẽ ra phải đọa vào ba cõi ác, do đời này bị người coi khinh, (thiếu chữ ở đây) nên tội nghiệp đời trước ắt là được tiêu diệt, sẽ đắc được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. (Tiêu trừ nghiệp và chuyển thành phúc)”. Ở đây nói rằng những thiện nam thiện nữ nào tin tưởng, hiểu biết và trì giữ kinh này thì có thể tiêu giảm bớt nghiệp lực và được hưởng phúc báo. Chúng ta bị coi thường và khinh miệt trong đời này vì những tội lỗi mà tổ tiên chúng ta đã phạm phải. Nếu không nghe Phật Pháp và không tu chính Đạo, thì đời sau sẽ rơi vào ác đạo, cái gọi là đường ác chính là ma đạo, địa ngục đạo và súc sinh đạo mà Thích Ca Mâu Ni đã giảng năm đó, như thế, vì kính tín Phật Pháp, tu thiện hành đạo thì có thể có được sự thay đổi tốt đẹp. Tuy nhiên, điều này không phải là người ta sẽ đạt được Vô Thượng Chính đẳng Chính giác như bản dịch này đã nói, mà là sẽ gieo trồng cơ duyên cho tu luyện trong tương lai và thực sự có duyên đắc Đại Pháp đạt được sự khai ngộ viên mãn trong thời kỳ mạt Pháp. Không phải nói rằng đọc bộ kinh này thì đắc được. Đây là nguyên nhân mà nhiều người không hiểu lại điên rồ sai trái đến vậy. Nếu chư vị chỉ tụng niệm, chỉ tin mà không tu thì làm sao có thể đạt được chứng đắc? Chỉ bất quá là trong trí nhớ của họ chọn ra những điều dễ nhớ, và vì trong nhiều năm lịch sử, Phật giáo và Đạo giáo trong thời gian dài đã cạnh tranh nhau để giành quyền lãnh đạo tôn giáo, vì để lôi kéo tín đồ, họ đã không ngần ngại bóp méo ý nghĩa của kinh sách và tuyên dương “Pháp môn thuận tiện”, kỳ thực đối với Phật giáo, những điều này vừa là cải tiến vừa là phá hoại. Điều này chính là giống như cách các tôn giáo phương Tây xưa kia sử dụng “bùa xá tội”. Kỳ thực bản dịch ở đây không nghiêm cẩn.
“Tu-bồ-đề! Ngã niệm quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ-kiếp, ư Nhiên Đăng Phật tiền đắc trị bát bách tứ thiên vạn ức na-do-tha chư Phật (khả kiến Thích Ca lai lịch bất tiện/thiển), tất giai cúng dường thừa sự vô không quá giả. Nhược phục hữu nhân, ư hậu mạt thế, năng thọ trì độc tụng thử kinh, sở đắc công đức, ư ngã sở cúng dường chư Phật công đức, bách phần bất cập nhất, thiên vạn ức phần, nãi chí toán số thí dụ sở bất năng cập. Tu-bồ-đề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân, ư hậu mạt thế, hữu thọ trì độc tụng thử kinh, sở đắc công đức, ngã nhược cụ thuyết giả, hoặc hữu nhân văn tâm tắc cuồng loạn hồ nghi bất tín. Tu-bồ-đề! Đương tri thị kinh nghĩa bất khả tư nghị, quả báo diệc bất khả tư nghị”. (Tạm dịch: Này Tu-bồ-đề! Ta nhớ thuở quá khứ vô lượng a tăng-kỳ kiếp, ở trước Đức Phật Nhiên Đăng (Có thể thấy lai lịch của Thích Ca Mâu Ni không hề nông cạn), ta được gặp tám trăm bốn ngàn vạn ức na-do-tha các Đức Phật, ta đều cúng dường thờ phụng không sót một vị nào. Nếu lại có người ở đời mạt Pháp sau này hay thọ trì đọc tụng kinh này, được công đức, đối với công đức cúng dường chư Phật của ta, trăm phần chẳng bằng một, ngàn muôn ức phần cho đến toán số thí dụ đều không thể bằng. Này Tu-bồ-đề! Nếu người thiện nam thiện nữ ở đời mạt Pháp sau này, có người thọ trì đọc tụng kinh này, được công đức, nếu ta nói cho đủ hoặc có người nghe tâm tất cuồng loạn, hồ nghi, không tin. Này Tu-bồ-đề! Nên biết kinh nghĩa này không thể nghĩ bàn nên quả báo cũng không thể nghĩ bàn”. Bởi vì Bà La Môn giáo thời bấy giờ đã bại hoại rồi, rất coi trọng việc “cúng dường”, tin rằng nếu cúng dường tốt cho “Thần linh” thì có thể thành Phật, và điều này hoàn toàn mang tâm hướng ngoại. Đến thời kỳ mạt Pháp của Bà La Môn giáo, thậm chí còn xuất hiện tục giết người sống để cúng tế, điều này đã trở thành tà giáo. Chính nhân tâm đã biến dị và làm bại hoại tôn giáo, ở đây không phải nói đến Thần Bà La Môn. Vậy thì vào thời đó, tư tưởng của người Ấn Độ rất coi trọng khía cạnh này, Thích Ca Mâu Ni đã khẩn thiết khuyên răn họ một đạo lý rằng “thay vì cúng dường cho vô số bậc Thánh, hãy kiên trì dũng cảm cầu chính giác”. Ngài đã nói rõ sự trân quý của Pháp này và cũng giải thích rõ sự trân quý của Pháp mà Ngài đã truyền dạy. Hơn nữa, tôi muốn nói rõ rằng phương pháp “cúng dường” mà hiện nay các vị cho là cực kỳ quan trọng, thì tôi đã tu một cách vô lậu trong suốt chiều dài lịch sử, nhưng tu luyện chân chính không phải như vậy, và uy đức to lớn không thể đạt được bằng cách này. Uy đức của Phật Pháp chân chính là vô hạn, uy đức của việc đồng hóa và truyền bá Pháp này vô cùng to lớn, phúc báo vô cùng to lớn, bởi vì đó là thiên ý. Nhưng bản chất của nó lại đơn giản và dễ hiểu đến mức chưa bao giờ được nhắc đến. Bởi vì trước kia, mọi sự tu luyện đều nhắm vào phó nguyên thần. Trong Pháp hội này, Thích Ca Mâu Ni cũng đồng thời giảng Pháp cho phó nguyên thần, những điều họ nghe được là thực chất, còn người ta chỉ nghe được những đoạn chắp vá và đôi câu vài lời. Nhưng vẫn còn có một chút manh mối. Nhìn chung toàn bộ bài viết chưa luận về Phật Pháp chân chính là gì, mà chỉ bàn về việc không nên dùng quan niệm của con người để đo lường. Về thực chất, chính là để chủ nguyên thần của các vị không nghĩ ngợi gì cả, chỉ cần có tín niệm kiên định, sau đó phó nguyên thần mới có thể thuận lợi “mượn thân” để tu luyện. Đồng thời đặt định cho con người nền văn hóa cần thiết về việc khi truyền bá Đại Pháp trong tương lai. Trong hai nghìn năm qua, nó cũng tôi luyện ý thức và sức chịu đựng của cơ thể con người. Vì vậy, thật đáng buồn cho những người ngày nay vẫn còn mê mờ không hiểu và dùng cảm tình để đối đãi với Phật Giáo!
(Còn tiếp)
Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48483