Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Đại Lục
[ChanhKien.org]
Sư phụ giảng trong Giảng Pháp tại Pháp hội quốc tế Washington DC năm 2009:
“Là người tu luyện, ‘tìm bên trong’ là một Pháp bảo”.
Vậy làm thế nào để vận dụng Pháp bảo này để có thể hướng nội tìm và tu sửa bản thân? Chắc hẳn mỗi đệ tử Đại Pháp đều có trải nghiệm riêng của mình.
1. Hướng nội tìm không đồng nghĩa với buông bỏ chính niệm
Hướng nội tìm không chỉ là một câu nói đơn giản, mà đây chính là con đường căn bản để đệ tử Đại Pháp có thể tinh tấn thực tu. Nó cũng không chỉ đơn giản là nhìn vào việc mình làm đúng hay sai, mà là tìm ra những vấn đề trong tâm tính của bản thân và buông bỏ chấp trước đó. Chỉ bằng cách trợ Sư chính Pháp, chúng ta mới có thể củng cố tín niệm kiên định vào Sư phụ và Pháp, từ đó bước đi ngay chính trên con đường Chính Pháp và tu luyện của bản thân.
Năm 2002, khi tôi bị giam giữ trong trại lao động, có hai nhóm học viên bị tà ngộ đến để “chuyển hóa” tôi, trong đó có một số người thuộc “đoàn trợ giáo” của Phòng 610. Lúc đó, tôi đã phát ra một ý niệm rằng sau khi ra ngoài, nhất định tôi phải thức tỉnh những học viên bị tà ngộ này. Sau khi ra khỏi trại lao động, tôi đã thuyết phục một số đồng tu cùng tôi đi tìm những học viên bị tà ngộ để trò chuyện. Không lâu sau, trong các đồng tu lại lan truyền rằng tôi là kẻ phản bội; có người nói tôi rất độc đoán, không cho người khác nói, và đủ loại lời đồn đại khác.
Sau khi nghe những lời đồn đại đó vào thời điểm ấy, tôi thật sự không vui và bắt đầu nghĩ rằng đó là can nhiễu. Rồi tôi lại suy ngẫm: khi một người tu luyện gặp vấn đề, thì phải hướng nội mà tìm. Tại sao lại xuất hiện những lời đồn này? Sư phụ đã giảng trong Giảng Pháp tại Pháp hội Los Angeles:
“Tu luyện chính là hướng nội mà tìm, dù đúng hay sai cũng đều tìm trong bản thân mình; tu chính là tu bỏ cái tâm con người”.
và
“Cần tìm bên trong mình hơn nữa, cứ tìm trong tâm bản thân mình”.
Nguyện ý của tôi trong việc đưa các đồng tu tu lâu quay trở lại không phải là sai. Việc cố gắng không để họ nói hoặc hạn chế lời họ trong cuộc trò chuyện, đó là một nguyên tắc mà tôi đã đề ra khi bắt đầu làm việc này. Bởi vì những gì họ nói ra đều là tà thuyết, lệch lạc tà ngộ, nên chúng tôi cần phải nói nhiều hơn về những nguyên lý chân chính của Đại Pháp, để những điều ngay chính lấp đầy tâm trí họ, điều này không có gì là sai cả. Đây cũng chính là kinh nghiệm mà tôi đã có khi tiếp xúc với họ.
Không lâu sau khi cuộc bức hại bắt đầu, một đồng tu mà trước đây chúng tôi cùng nhau làm tài liệu giảng chân tướng Đại Pháp đã bị bức hại vì chị ấy đến Bắc Kinh thỉnh nguyện. Khi vợ chồng tôi phải rời nhà lẩn trốn và bị công an truy nã, chúng tôi đã mạo hiểm nguy cơ bị bắt cóc để tìm gặp chị ấy khi nghe tin chị đã bị “chuyển hóa”. Chúng tôi đã trò chuyện suốt cả đêm, khuyên chị hãy trân quý Đại Pháp, đừng dễ dàng buông bỏ, và nói rõ hậu quả của việc “chuyển hóa”… Ngày hôm sau, chị đã nói chuyện với những người tu luyện bị tà ngộ và chia sẻ lại những gì chúng tôi đã nói. Chị nói: “Điều mà người nào đó nói cũng có lý, có lẽ việc chúng ta chuyển hóa là sai rồi”. Thế nhưng khi một người tà ngộ kia trách chị là hồ đồ, rồi tiếp tục nhồi nhét vào đầu chị một loạt tà thuyết lệch lạc, thì chị lại tin theo những điều tà ác đó, thậm chí suýt nữa còn bán đứng chúng tôi, còn nói rằng đó là “vì tốt cho chúng tôi”. Nhờ sự điểm hóa của Sư phụ, ngày hôm sau chúng tôi đã rời khỏi nhà chị ấy. Bởi vì những gì họ nói với nhau đều là tà thuyết, dị giáo, lệch khỏi Đại Pháp, và họ lại củng cố lẫn nhau, nên thực sự là vì muốn tốt cho họ mà không để họ nói nhiều hoặc ít nói đi, hoàn toàn không có gì là sai.
Vậy thì chấp trước của tôi trong việc này là gì? Nếu xét từ suy nghĩ và hành vi, dường như tôi không có sai sót lớn. Nhưng nếu xét từ tâm tính trong tu luyện, thì tôi đã để lộ ra tâm tranh đấu, tâm hiển thị, và mong muốn thay đổi người khác. Đây đều là những quan niệm và chấp trước của con người. Khi trò chuyện với họ, tôi đã không đối đãi với tâm từ bi và thiện tâm, mà trong thâm tâm vẫn còn ẩn chứa sự oán hận đối với họ vì đã phỉ báng Sư phụ và Đại Pháp.
Sau khi nhận ra vấn đề, tôi đã chỉnh đốn lại tư tưởng của mình, thay đổi ngữ điệu khi nói chuyện, và thẳng thắn giải thích nguyên nhân vì sao không để họ nói quá nhiều. Ban đầu chúng tôi cùng nhau trò chuyện, nhưng khi đến lúc phát chính niệm, họ liền bỏ đi hoặc chỉ đứng nhìn chúng tôi phát chính niệm. Thậm chí có người còn buông lời châm chọc, nhưng trong tâm chúng tôi không bị ảnh hưởng, cũng không ép buộc họ phải làm theo. Chúng tôi cũng phát chính niệm để thanh trừ các nhân tố tà ác phía sau họ. Khi chúng tôi kiên trì giữ tâm thái an hòa để trao đổi với nhau, dần dần họ cũng dễ dàng tiếp nhận. Có người bắt đầu đọc Chuyển Pháp Luân, có thể từ Pháp mà nhận thức về Pháp; có người cũng bắt đầu cùng chúng tôi phát chính niệm. Thậm chí có người còn khởi xướng đến nhà họ để xin được giao lưu với chúng tôi. Lúc này, tôi và vợ thường phối hợp với nhau; đối với những vấn đề mà họ nêu ra, chúng tôi sẽ tìm trong Pháp của Sư phụ, từ đó cùng nhau nhận thức dựa trên Pháp.
Sau một thời gian giao lưu chia sẻ, ngoại trừ một vài người vẫn khăng khăng đi theo con đường tà ác, đại đa số các học viên đã lần lượt quay trở lại tu luyện Đại Pháp. Có lần, khi họp với các thành viên của Phòng 610, mọi người đã công khai bày tỏ ý nguyện tiếp tục tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, gương mặt của giám đốc Phòng 610 liền biến sắc, ông ta không thốt nên lời nào. Từ đó, “đoàn trợ giáo” của Phòng 610 đã hoàn toàn giải tán.
2. Tìm ra vấn đề của chính mình khi bị bức hại
Khi đối diện với sự bức hại tà ác, chúng ta thường chỉ nghĩ đến sự ghê tởm của tà ác. Hoặc là vì sợ hãi mà thỏa hiệp, hoặc dùng những cách bất thiện để đối đãi, từ đó tà ác lại càng bức hại chúng ta nghiêm trọng hơn. Mục đích của cái gọi là “khảo nghiệm” mà cựu thế lực an bài cho đệ tử Đại Pháp chính là để ngăn cản đệ tử Đại Pháp tu luyện viên mãn. Sư phụ không thừa nhận cuộc bức hại tà ác này, thậm chí còn phủ nhận toàn bộ sự bức hại. Sư phụ chỉ đang lợi dụng sự tồn tại của cựu thế lực, dùng cuộc bức hại này để thành tựu uy đức vĩ đại cho đệ tử Đại Pháp, đồng thời an bài vị trí cho chúng sinh. Do đó, khi đối diện với bức hại, chúng ta không chỉ cần phát chính niệm để trừ bỏ nhân tố tà ác đứng sau kẻ bức hại, mà còn phải hướng nội tìm xem trong bản thân mình có sơ hở và chấp trước nào bị cựu thế lực lợi dụng. Đây mới là đi trên con đường tu luyện do Sư phụ an bài, và Sư phụ sẽ hóa giải mọi ma nạn cho chúng ta.
Năm 2005, khi tôi bị bắt cóc và bị kết án tù, có một năm, công an địa phương đã phối hợp với Phòng 610 tiến hành cuộc “chuyển hóa” tà ác trong nhà tù. Họ đe dọa rằng nếu không đạt được mục đích thì sẽ không từ bỏ, và tôi cũng bị đưa vào danh sách “chuyển hóa”. Ban đầu, tôi nghĩ: “Phòng 610 thật quá tà ác. Khi họ vào tận nhà tù để ‘chuyển hóa’, làm sao mình có thể ‘đối phó’ với họ đây?” Tôi đã nói với những người của Phòng 610: “‘610’ là tổ chức gì? Hành vi của các người dựa trên cơ sở nào?” Sau đó, tôi nói với những người của đơn vị công tác đến gặp tôi: “Chúng ta có duyên mới gặp nhau, tôi hy vọng các anh đừng bảo tôi có chuyển hóa hay không, nếu không thì mối duyên này sẽ bị cắt đứt, điều đó không tốt cho các anh và cả gia đình các anh”. Những người từ nơi làm việc của tôi quả thực đã im lặng, không nói gì thêm.
Sau đó, một phó giám đốc của Cục Công an Thành phố đã đến. Tôi nói với ông ta: “Nếu ông đến để làm việc ‘chuyển hóa’, thì đừng nói gì cả”. Ông ta giải thích: “Không, tôi muốn có một cuộc trò chuyện chân thành với anh”. Tôi nói: “Nói chuyện thì được thôi! Nhưng ông là phó giám đốc Cục Công an, nhiệm vụ của ông lẽ ra là phải bảo vệ sự an toàn cho xã hội, vì sao ông lại đến tận nhà tù để tâm sự với tôi?” Cuối cùng, ông ta chỉ nói được vài câu rồi lấy cớ bận việc và lẳng lặng bỏ đi. Ngày đầu tiên, tất cả những người đến để làm công tác “chuyển hóa” đều lần lượt bị tôi từ chối. Trong lòng tôi cảm thấy vô cùng vui mừng! Khi các phạm nhân hỏi tôi tình hình sau khi tôi trở về, tôi còn kể lại rất sinh động. Sau khi nghe xong, người đứng đầu phạm nhân khen ngợi: “Chỉ có mấy người Pháp Luân Công các anh mới dám nói chuyện với họ như vậy”. Nghe xong, trong lòng tôi lại cảm thấy hoan hỷ.
Có lẽ các nhân tố tà ác đã bị kích động. Ngày hôm sau, cai ngục phụ trách các học viên Pháp Luân Công đã đưa tôi đến “trại huấn luyện tập trung” và tìm cách dùng hình phạt thể xác để buộc tôi phải “chuyển hóa”. Trên đường đến “trại tập huấn”, tôi tự hỏi: tại sao họ lại đối xử với tôi như thế này? Vấn đề của tôi nằm ở đâu? Sau khi suy nghĩ kỹ, tôi hiểu ra: một mặt, tôi che giấu tâm hiển thị, muốn thể hiện sự kiên định của mình; mặt khác, tôi coi tất cả những người đến tham gia “chuyển hóa” đều là “tà ác”, mà không phân biệt được phương diện con người của họ và những nhân tố tà ác đứng đằng sau họ. Tôi đã phân chia rạch ròi và không đối đãi với họ bằng tâm từ bi, vì thế các nhân tố tà ác phía sau đã lợi dụng sơ hở để bức hại tôi nhiều hơn. Đồng thời, tôi cũng nghĩ: cái gọi là “chuyển hóa” mà tôi đang trải qua lần này không chỉ là khảo nghiệm niềm tin của tôi vào Pháp, mà còn là để giúp tôi loại bỏ những chấp trước của con người. Những người đến để “chuyển hóa” tôi cũng đồng thời nghe chân tướng theo cách này. Hãy nghĩ xem, những người ấy cũng đều là sinh mệnh đến vì Đại Pháp, nhưng hiện nay lại mê muội mà đi theo tà đảng làm việc xấu. Họ thật sự đáng thương. Nếu đệ tử Đại Pháp không cứu họ, thì họ sẽ hoàn toàn không còn hy vọng. Nghĩ đến đây, trong tôi tự nhiên dâng lên một tấm lòng từ bi, và tôi muốn nhân cơ hội này để giảng rõ chân tướng cho họ, cứu những người có thể được cứu.
Khi tôi tìm ra được những chấp trước của mình, toàn bộ tình hình lập tức thay đổi. Các phạm nhân phụ trách trong trại huấn luyện công khai chống đối lại cai ngục. Lúc này, bác sĩ nhà tù cũng đến nói với cai ngục rằng tôi bị cao huyết áp, không thể làm những việc nặng nhọc, nếu làm vậy sẽ dễ xảy ra tai nạn; người phụ trách trại huấn luyện cũng đi cùng và nói: “Anh ta đã từng ngất xỉu rồi” (tất cả đều là bịa ra). Sau khi nghe vậy, cai ngục hoảng sợ. Tôi nhân cơ hội ấy, bình tĩnh giảng rõ chân tướng cho cai ngục, nói với anh ta rằng đối xử với đệ tử Đại Pháp như vậy là không tốt. Con người cần có thiện niệm, cần phân biệt đúng sai, thiện ác, và phải có trách nhiệm với bản thân và gia đình mình. Đồng thời, tôi còn nói với anh ta: “Từ đơn vị công tác cho đến tỉnh, từ đồn công an cho đến trại lao động, tất cả các hình thức tra tấn và bức hại đều không có tác dụng đối với tôi, trừ phi anh đánh chết tôi. Còn nếu không, thì muốn đạt bất cứ ‘thành tích chính trị’ gì ở chỗ tôi đều sẽ trở thành vô ích. Tôi cũng tin rằng bản thân anh không thật sự muốn đối xử với tôi như vậy”. Tôi nghiêm túc nói với anh ta: “Anh nên từ bỏ ý định ‘chuyển hóa’ tôi. Anh không thể làm loại việc này, nếu không có thể sẽ gặp báo ứng mà mất đi bộ cảnh phục (tức là mất việc)”. Chẳng bao lâu sau, anh ta đã chấm dứt cái gọi là “tập huấn” đối với tôi.
Để phản kháng sự bức hại của tà ác, tôi đã bắt đầu tuyệt thực. Trước khi tuyệt thực, với một tấm lòng thiện, tôi đã tìm đến hướng dẫn viên khu vực giam giữ và hai đội trưởng cải huấn để giải thích lý do vì sao tôi tuyệt thực. Tôi hy vọng họ có thể hiểu và đừng ngăn cản tôi. Người huấn luyện viên đã rơi nước mắt, còn một đội trưởng cải huấn nói với tôi: “Tôi tôn trọng lựa chọn của anh, nếu anh thấy không ổn thì có thể ăn chút gì đó, chúng tôi sẽ không báo cáo”. Tôi nói: “Đệ tử Đại Pháp tu luyện Chân–Thiện–Nhẫn, sao có thể tự dối mình được!” Sau đó, tôi đã viết thư gửi giám thị nhà tù, vạch trần cái gọi là “chuyển hóa” trong nhà tù do Phòng 610 chỉ đạo là hành vi phi pháp. Cuộc tuyệt thực của tôi không nhắm vào nhà tù, mà nhắm vào sự bức hại Pháp Luân Công. Không có sự hỗ trợ pháp lý, tôi chỉ có thể dùng sinh mệnh quý giá của mình để bảo vệ Pháp Luân Công. Đồng thời, tôi cũng viết thư gửi Phòng 610, vạch trần những hành vi phạm pháp và tội ác của họ trong việc tước đoạt quyền tín ngưỡng của công dân, vi phạm Hiến pháp và Luật Nhà tù. Sau khi tôi tuyệt thực ba ngày, cái gọi là cuộc bức hại “chuyển hóa” đã được dỡ bỏ.
3. Hướng nội tìm chính là buông bỏ cái tôi vị tư
Khi tôi giao lưu với các đồng tu, có đồng tu nói với vẻ ngưỡng mộ rằng: thật tốt khi cả gia đình anh đều tu luyện Đại Pháp, như vậy sẽ không có mâu thuẫn gì. Tôi nói: “Mỗi người đều có những chấp trước khác nhau, những khảo nghiệm họ vượt qua cũng khác nhau, biểu hiện cũng không giống nhau”. Khi ở bên ngoài gặp mâu thuẫn, ví như có người đá bạn một cái, mắng bạn, bạn sẽ chỉ cười cho qua, vì bạn nghĩ rằng mình là người tu luyện, sẽ không so đo với người thường. Nhưng khi đối diện với đồng tu và người thân trong gia đình thì lại khác. Lúc đó bạn sẽ không nghĩ như vậy, bạn sẽ coi họ vừa là người thân vừa là người tu luyện, và khi xảy ra mâu thuẫn, bạn sẽ tìm ra những điều trong Pháp để phù hợp với chấp trước của bản thân nhằm bảo vệ chính mình. Khi trách móc đối phương rằng việc họ làm không phù hợp với Đại Pháp, thì lúc ấy tôi chỉ nghĩ cho bản thân mình, mà không nghĩ đến cảm nhận của người khác. Nếu có thể buông bỏ cái tôi và hướng nội nhìn lại chính mình, thì mâu thuẫn ấy có lẽ sẽ được hóa giải.
Từ nhỏ tôi đã rất cố chấp, luôn bám chặt vào những việc mà mình cho là đúng, lại có lòng tự tôn rất mạnh. Trước đây bận rộn với công việc và sự nghiệp, mọi chuyện trong ngoài gia đình đều do vợ tôi đảm đương, cô ấy nói là quyết định, và tôi cũng cảm thấy rất vui vẻ. Sau khi tu luyện Đại Pháp thì lại ngược lại. Tôi tự cho rằng mình học Pháp nhiều hơn cô ấy, ngộ tính cũng tốt hơn, làm việc nhanh nhẹn hơn, nên trong các việc của Đại Pháp thì phải do tôi quyết định. Mặc dù sau khi tu luyện Đại Pháp tôi đã thay đổi rất nhiều, khi đối diện với người ngoài tôi luôn tự nhắc nhở mình, nên ít khi xảy ra mâu thuẫn với người khác. Nhưng ở nhà, tôi và vợ lại thường tranh cãi vì những chuyện nhỏ nhặt. Ban đầu tôi không coi trọng, nghĩ rằng vợ chồng cãi nhau một chút cũng không có gì. Nhưng sau khi hướng nội tìm, tôi nhận ra rằng thực chất đó chính là chấp trước vào bản ngã, và đó là nhân tâm mà tôi cần phải loại bỏ.
Một lần, tôi và vợ ra ngoại ô thành phố để thăm một đồng tu đang chịu nghiệp bệnh. Chúng tôi đã tranh cãi về việc đi xe buýt. Khi đổi xe, cô ấy nói sẽ đi chuyến xe buýt này, vì mỗi lần đến nhà đồng tu đều đi xe đó. Nhưng tôi thì khăng khăng cho rằng xe buýt đó là để đi ra ngoại thành, lượng khách ít, nên đi tuyến khác rồi chuyển sang một xe buýt nhất định sẽ nhanh hơn. Trong lúc tranh luận, cô ấy tức giận nói: “Vậy thì mỗi người đi đường của mình”. Đột nhiên, lời Sư phụ trong Hồng Ngâm III “Thùy Thị Thùy Phi”hiện lên trong tâm tôi:
“Đối đích thị tha
Thác đích thị ngã
Tranh thậm ma”Tạm dịch:
“Cái đúng là họ
Cái sai là mình
Còn tranh gì nữa”
Tôi liền nói: “Là anh sai, cứ theo ý em đi”. Kết quả là chúng tôi mất gần hai tiếng mới đến được nhà đồng tu. Khi quay về, lúc chờ xe buýt, tôi đã chờ rất lâu nhưng vẫn không thấy chuyến xe mà vợ tôi nói sẽ đi. Thấy cô ấy sốt ruột, tôi nói: “Hay là chúng ta đi tuyến này một trạm, rồi chuyển sang tuyến kia đến một bến nhất định, sau đó lại chuyển sang tuyến khác thì đều có thể vào nội thành, sẽ nhanh hơn”. Cô ấy đồng ý. Kết quả là thời gian quay về đã ngắn hơn nửa tiếng so với lúc đi. Sau sự việc này, cả tôi và vợ đều hướng nội và buông bỏ quan niệm của bản thân. Về sau, chúng tôi phối hợp ăn ý hơn trong các việc Đại Pháp. Khi có vấn đề, cả hai đều tự nói về vấn đề của bản thân, không trách móc lẫn nhau nữa, mà chỉ khích lệ nhau.
Một ngày nọ, vài đồng tu đột nhiên đến nhà tôi và nói: “Có một đồng tu đã đánh một đồng tu khác (có người thì nói chỉ giả vờ làm vậy chứ chưa thật sự đánh)”. Tôi nói: “Đánh như vậy là tốt”. Các đồng tu liền đồng thanh nói: “Sao anh có thể nói vậy? Sao một người tu luyện lại có thể đánh người khác?” Tôi nói rằng: vì tất cả chúng ta đều là người tu luyện, khi nhìn thấy điều gì đó vốn không nên xảy ra, chẳng phải chúng ta nên tìm xem vấn đề nằm ở bản thân mình sao? Sau khi trao đổi, mọi người đều đồng ý rằng chúng ta cần hướng nội tìm ra vấn đề của chính mình.
Ngày hôm sau, đồng tu kia đột nhiên mời tôi và vợ đến nhà chị ấy. Trên đường đi, tôi nói với vợ: “Hôm nay đồng tu này sẽ giúp ta trừ bỏ chấp trước của mình”. Quả nhiên, vừa bước vào nhà, đồng tu liền với giọng trách móc nói: “Anh tu luyện uổng phí rồi. Anh không phân biệt được đúng sai. Người kia hành xử không giống người tu luyện, tại sao anh còn muốn bảo vệ anh ta?” Thấy chị ấy nổi giận như vậy, tôi và vợ chỉ lặng lẽ lắng nghe, không nói lời nào, cũng không muốn giải thích gì cả. Chúng tôi nghe chị ấy nói suốt gần một tiếng đồng hồ, đến khi dừng lại. Tôi liền hỏi: “Còn gì nữa không?” Chị ấy nói: “Thế thôi”. Tôi nói: “Cảm ơn sự phê bình của chị”. Sau đó, tôi và vợ chào tạm biệt rồi ra về. Trên đường về, tôi nói với vợ rằng: “Những lời chị ấy nói hôm nay rất khó nghe, nhưng anh hoàn toàn không bị dao động. Anh cảm thấy như có một tảng đá lớn được dỡ bỏ khỏi thân thể, cả người thấy rất nhẹ nhõm”.
Trong quá trình thực hành, tôi nhận ra rằng lời Sư phụ giảng trong Hồng Ngâm III “Thùy Thị Thùy Phi”:
“Cái đúng là họ
Cái sai là mình
Còn tranh gì nữa”
không phải là một khẩu hiệu, mà là thước đo cảnh giới của người tu luyện, và chúng ta phải không ngừng thực hành điều đó. Nếu khi gặp bất cứ việc gì cũng có thể nghĩ rằng đó là lỗi của mình, và dùng tâm thái bình hòa để đối đãi, thì mâu thuẫn sẽ được hóa giải kịp thời. Khi đó, bạn sẽ thật sự cảm nhận được rằng:
“Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn”.
4. Hướng nội tìm phải hình thành một cơ chế trong tu luyện
Sư phụ giảng trong Chuyển Pháp Luân:
“[Tôi] nói rõ cho chư vị một chân lý: toàn bộ quá trình tu luyện của người ta chính là quá trình liên tục tống khứ tâm chấp trước của con người”.
Tôi nhận ra rằng, để vứt bỏ nhân tâm và chấp trước, thì cũng giống như trong bài thơ “Thùy Thị Thùy Phi” trong Hồng Ngâm III của Sư phụ:
“Cái đúng là họ
Cái sai là mình
Còn tranh gì nữa”
Hướng nội vô điều kiện để tìm ra chấp trước có thể hình thành một cơ chế trong tu luyện. Nói cách khác, trong cuộc sống, khi cùng người khác chung sống mà phát sinh mâu thuẫn, khi gặp phải các ma nạn khác nhau, hoặc gặp bất cứ việc lớn nhỏ nào, thậm chí là vấp ngã, đá phải hòn đá, hay nhìn thấy người khác xảy ra mâu thuẫn v.v., thì đừng coi đó là ngẫu nhiên, mà hãy hướng nội tìm trong bản thân mình và buông bỏ mọi chấp trước.
Một đồng tu nói: “Tôi cũng muốn hướng nội, nhưng tìm mãi mà không thấy chấp trước nào!” Tôi nhận ra rằng, cho dù có tìm thấy hay không, thì chúng ta cũng phải hướng nội. Hướng nội không có nghĩa là nhất định phải tìm ra được một chấp trước cụ thể nào đó. Sư phụ giảng trong Chuyển Pháp Luân:
“Tu tại tự kỷ, công tại sư phụ”.
Nếu không có Sư phụ, chúng ta khó mà tiến bước. Điều Sư phụ nhìn vào chính là cái tâm hướng thượng của chúng ta. Còn cuối cùng, Sư phụ sẽ giúp chúng ta loại bỏ những vật chất xấu bám trên thân. Tất nhiên, nếu trong một thời gian nào đó mà không tìm thấy, thì cũng đừng chấp trước vào việc ấy. Chỉ cần học Pháp, học Pháp nhiều hơn nữa. Đôi khi Sư phụ sẽ điểm hóa bằng nhiều cách khác nhau, hoặc những vấn đề bạn gặp phải sẽ được giải quyết một cách âm thầm.
Có một thời gian tôi bị triệu chứng chảy máu cam, ban đầu mỗi ngày một lần, sau đó tăng lên nhiều lần trong ngày, như khi đang ngủ, đang tĩnh tọa luyện công, đi bộ, v.v. Khi tôi bịt mũi lại thì máu đôi khi chảy xuống miệng. Nếu bịt một bên mũi thì nó lại chảy sang bên kia. Tôi liên tục phát chính niệm để tiêu trừ can nhiễu của tà ác, học Pháp, và không ngừng hướng nội tìm vấn đề. Nhưng hiệu quả rất ít, thậm chí máu còn chảy nhiều hơn. Sau đó tôi nghĩ: cứ để nó chảy thôi! Sư phụ đã giảng trong Giảng Pháp tại Pháp hội Sydney:
“Có Sư phụ ở đây, có Pháp ở đây, sợ cái gì?”
Tôi không còn bận tâm nữa, tiếp tục học Pháp, luyện công, phát chính niệm, và làm những gì mà một đệ tử Đại Pháp nên làm như thường lệ.
Một ngày nọ, tôi mở máy tính để xem chương trình “Tin tức bị phong tỏa tại Trung Quốc” của NTDTV, thì đột nhiên cảm thấy đau nhói ở đầu. Lúc ấy, tôi chợt nhận ra nguyên nhân khiến mình bị chảy máu cam là vì tôi đã quá chấp trước vào sự biến đổi của tình hình xã hội người thường. Từ khi cuộc bức hại bắt đầu, tôi gần như không xem TV nữa, và ngày càng ít quan tâm đến những chuyện của người thường. Tôi bận rộn suốt ngày với việc làm tài liệu giảng chân tướng, về cơ bản chỉ lên trang Minh Huệ để tải lên và tải xuống tài liệu. Những năm gần đây, chúng tôi không còn in tài liệu giảng chân tướng nữa mà chuyển sang làm USB giảng chân tướng, tìm kiếm và tải tài liệu giảng chân tướng trên mạng. Từ đó dần dần tôi bắt đầu chú ý đến những thay đổi trong tình hình quốc tế và trong nước, đặc biệt là bầu cử ở Mỹ. Tôi ngày càng khó khống chế bản thân, nó chiếm dụng càng nhiều thời gian của tôi và trở thành một chấp trước mạnh mẽ. Tôi còn tự an ủi mình: tất cả những gì tôi xem đều là truyền thông do đệ tử Đại Pháp điều hành, như vậy thì có gì sai đâu! Nhưng tôi đã không nhận ra rằng việc này không phải nhằm mục đích giảng chân tướng cho người thường, mà thực ra lại là sa vào những vấn đề mà người thường quan tâm!
Cơn đau đầu cũng dịu xuống khi tôi nghĩ rằng đây có thể là nguyên nhân khiến mình bị chảy máu cam. Từ ngày hôm sau, tôi không còn bị chảy máu cam nữa. Về sau, ngoài việc xem một số video cần thiết và một số tin tức lớn, tôi hầu như không xem thêm gì khác, và tâm trí tôi cũng tĩnh lại.
Mục đích của việc hướng nội là không ngừng tu luyện bản thân, buông bỏ sự ích kỷ, không ngừng đồng hóa với Đại Pháp, và cuối cùng trở thành một bậc Giác Giả — vô tư vô ngã, tất cả vì người khác.
Dịch từ: