Dịch Đạo và ngũ hành (6): Quẻ dịch và Thiên tượng



Tác giả: Chiếu Viễn

[ChanhKien.org]

8. Quẻ dịch và thiên tượng

Thiên tượng là thể hiện của Thiên ý, từ rất sớm Trung Quốc cổ đại đã phát hiện được mối quan hệ đối ứng giữa sự biến hóa của thiên tượng và các việc nơi con người, do vậy trong “Chu Dịch – Hệ Từ” có viết: “Tại Thiên thành tượng, tại Địa thành hình, biến hóa hiện hĩ.” Còn nói: “Thiên thùy tượng, kiến cát hung, thánh nhân tượng chi.” Cách nói đó cũng là có căn cứ lý luận. Chúng ta biết, trong Bát quái thì quẻ Càn là dương, là Trời, quẻ Khôn là Đất, là âm, lại nói “Càn, Kiện dã; Khôn, Thuân dã.” Trong bài trước chúng ta có nói, quẻ Khôn có thể dùng để biểu thị cho toàn thể không gian vũ trụ do ngũ hành cấu thành này, còn quẻ Càn chính là Thiên Đạo cao hơn so với ngũ hành, cũng đại biểu cho Đại giác giả, Đại Đạo. Từ góc độ này mà nói thì quẻ Càn là Thể, quẻ Khôn là Dụng. Có nghĩa là mọi thứ tồn tại trong Khôn Đạo đều là thể hiện của ý chí của Càn Đạo. Bởi vì Khôn Đạo là hoàn toàn thuận theo Càn Đạo, ý chí của Càn Đạo là bất khả kháng cự, do vậy tất cả sự vận động của thiên thể cũng như sự phát triển và biến hóa của sinh mệnh và vật chất ở trong Khôn Đạo đều là thể hiện của Càn Đạo, nghĩa là đều là thể hiện của Thiên Ý. Vậy thì, đối với con người sống ở trong ngũ hành, tất cả những biến hóa của thiên tượng ở trên Trái Đất mà họ nhìn thấy được kỳ thực chính là thượng Thiên có ý dùng để cảnh báo cho con người. Hình thức Thiên – Nhân cảm ứng ấy cũng là thể hiện của việc Đạo không ở xa con người. Trong “Dịch Truyện” có giảng: “Thiên Địa chi đại đức viết sinh”, ở cảnh giới cao mà nhìn, nội hàm chân chính của chữ “sinh” chính là cứu độ, cũng chỉ việc cho con người một con đường sống. Lại vì mỗi bước thiên tượng biến hóa đều là an bài có trật tự, do vậy nếu chúng ta dùng nguyên tắc của Dịch đạo để nhìn kiểu an bài này, thì mỗi bước biến hóa đều có thể dùng quẻ tượng tương ứng với nó để biểu thị; những người, việc, vật mà quẻ tượng đó tượng trưng chính là nội dung chủ yếu của bước thiên tượng biến hóa đó, đây chính là quan hệ đối ứng giữa quẻ trong dịch học và thiên tượng.

Thiên tượng biến hóa từ thời cận đại, nếu nhìn từ góc độ Đại Đạo, thì toàn bộ vũ trụ ở vào trạng thái âm dương phản bối, âm thịnh dương suy, nếu dùng khái niệm của Phật gia mà nói, thì chính là đã bước vào thời kỳ mạt Pháp. Cái gọi là âm dương phản bối chính là hai chủng vật chất âm dương trong Thái Cực không còn dung hợp hài hòa, không còn đồng tâm đồng đức, dựa vào nhau mà sinh tồn nữa, mà là đi ngược lại nhau, cái nào lo việc riêng của cái đó. Âm thịnh dương suy chính là chỉ đến việc vật chất và sinh mệnh thuộc về âm tính ngày càng lớn mạnh, vật chất và sinh mệnh thuộc về dương tính ngày càng suy yếu. Mà hai chủng vật chất âm dương lại lần lượt đối ứng với vật chất và tinh thần trong Thái Cực, từ tầng thứ cực cao mà nhìn, mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần nên là: tinh thần là thể, vật chất là dụng, còn ở trong trạng thái âm thịnh dương suy, thì tinh thần ở vào thế yếu, vật chất ở vào thế mạnh, vật chất không còn là để cho tinh thần dùng nữa, ngược lại tinh thần lại bị vật chất nô dịch. Ở trong ngũ hành, trong xã hội nhân loại, hình thế xã hội đối ứng trước tiên với loại thiên tượng này chính là toàn bộ đạo đức bại hoại, thói đời suy bại. Con người tín phụng khoa học duy vật, không còn tín phụng Thần Phật và Chân Đạo nữa, coi tiền tài và lợi ích là quan trọng nhất, không còn truy cầu đạo đức lương tri nữa. Nam giới thiếu mất khí dương cường, mạnh mẽ; nữ giới thì lại ngày một cường thế ngang ngược, tự tư làm gì tùy thích. Bởi vì “âm” (阴) đồng âm với dâm (淫), ẩn (瘾)… trong tiếng Hán, nên các việc hút hít, dâm loạn ngày càng nhiều. Tiêu chuẩn làm người cơ bản của con người trong ngũ hành chính là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, trong bối cảnh thiên tượng âm dương phản bối, âm thịnh dương suy, cũng bị biến dị thành những người bất nhân, bất nghĩa, bất lễ, bất trí, bất tín. Dùng dịch đạo mà xét, thì quẻ tượng đối ứng với thiên tượng này chính là quẻ “Thiên Địa Bĩ”, kết cấu của quẻ Bĩ là quẻ Càn ở trên (☰), quẻ Khôn ở dưới (☷), quẻ Càn là Dương, là Trời, quẻ Khôn là âm là Đất, bởi vì khí dương đi lên, khí âm đi xuống, hai khí âm dương đi ngược lại nhau, không hòa hợp vào nhau, cho nên âm thịnh dương suy. Lại vì quẻ Càn ở trên là ngoại quái, quẻ Khôn ở dưới là nội quái, khí dương rời xa mà khí âm tiến vào chiếm giữ, do vậy âm thịnh dương suy. Quẻ Càn là dương đại biểu cho nam nhân, quẻ Khôn là âm đại biểu cho nữ nhân, bởi vì âm dương phản bối, do vậy số nam nữ lớn tuổi mà độc thân ngày càng nhiều, âm dương không giao hòa thì vạn vật không sinh, do vậy tỷ lệ sinh giảm trong nhiều năm liền. Ở tầng diện quốc gia thì hành vi điển hình nhất đối ứng với loại thiên tượng này chính là Trung Cộng thi hành chính sách kế hoạch hóa sinh sản suốt hơn 40 năm, lấy đi hàng chục triệu cho đến hơn trăm triệu sinh mệnh. Kỳ thực khi con người không muốn có con nữa, thì lịch sử của nhân loại kỳ này cũng đã đi đến đầu chót rồi, không còn tương lai nữa. Quẻ Càn đại biểu cho tính dương mạnh mẽ của quân tử và tinh thần long mã, quẻ Khôn đại biểu cho âm nhu, nhu nhược, không nghĩ đến chuyện bứt lên mạnh dạn, quẻ Khôn cũng đại biểu cho vật chất. Càn ở ngoài Khôn ở trong, do vậy thế nhân đại đa số là ở ngoài thì quân tử mà ở trong thì là tiểu nhân, vẻ ngoài thì nghiêm nghị mà ở trong thì yếu đuối, bên ngoài thì ngăn nắp gọn gàng mà nội tâm thì xấu xí, chỉ truy cầu hưởng thụ vật chất, không truy cầu sự hồi thăng của đạo đức tinh thần. Lại nói quẻ Càn đại biểu cho kẻ thống trị, quẻ Khôn đại biểu cho lê dân trăm họ, bởi vì âm dương phản bối, do vậy người thống trị căn bản không quan tâm đến sự sống chết của người dân, người dân cũng mong nó (Trung Cộng) sớm ngày diệt vong. Quẻ Càn còn đại biểu cho các nhân sỹ tinh anh, người có tiền và quan chức v.v., đồng thời quẻ Càn cũng đại biểu cho tiền tài, mà quẻ Khôn lại đại biểu cho các nhân vật nhỏ, người bình thường và người khốn khó, cũng đại biểu cho kẻ tiểu nhân âm hiểm. Vì quẻ Càn là ngoại quái, quẻ Khôn là nội quái, nên quẻ từ của nó là: “Bĩ chi phỉ nhân, bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai.” (Bĩ chi phỉ nhân: thời Bĩ khí âm ở dưới, chẳng chịu thượng giao với dương, khí dương ở trên chẳng chịu hạ tiếp với âm, âm dương cách tuyệt nhau như thế, tất nhiên vạn vật chẳng sinh thành, còn gì là đạo người nữa, phỉ nhân nghĩa là chẳng phải đạo người; Bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai: Ở thời Bĩ, âm tà đắc chí, tiểu nhân hoành hành, rất không lợi với đạo chính của quân tử. Đại vãng là dương cương qua ra ở ngoài; tiểu lai là âm nhu lại vào ở trong, đó là thiên tượng quân tử thất vị tại ngoại, tiểu nhân đắc thế tại nội. Vậy nên đạo trinh chính của quân tử gặp hồi này chỉ nên tiềm tàng, thối ẩn, chẳng làm thì thuận lợi được). Do vậy người có tiền, nhân sĩ tinh anh và quan viên đua nhau di dân sang nước khác, kẻ thống trị cũng không ngừng rải tiền ra nước ngoài để mua chuộc đồng minh, nhưng những kẻ kết giao lại đều chỉ là vì lợi, và thấy lợi quên nghĩa; những người đi mất là các nhân sĩ tinh anh, những người chiêu mộ đến lại đa số là tiểu nhân không có đạo đức quy phạm, chăm ăn lười làm lại tham hưởng thụ, điều này cũng ứng với câu “đại vãng tiểu lai”. Chữ bĩ (否-bĩ cực) đồng âm với chữ bĩ (痞-du côn), do vậy trong thiên tượng của quẻ bĩ, các ngành nghề đều là kẻ không ra gì nắm quyền, quân tử khó làm gì được. Chữ bĩ (否-bĩ cực) cũng đồng âm với chữ bì (疲-mệt mỏi), cho nên chúng sinh trong thế gian đa số đều là thân tâm đều mệt mỏi, khổ đến mức không nói nên lời. Quẻ bĩ còn có một tầng hàm nghĩa là bế tắc không thông, sự sa đọa và bại hoại của thế nhân đã khiến bản thân họ rơi vào đường cùng, do vậy ai cũng không nhìn thấy được đường ra là ở đâu, đại đa số đều mê man bất lực, được ngày nào hay ngày đó.

Trong thiên tượng âm thịnh dương suy, càng là âm tà tiểu nhân thì lại càng như cá gặp nước. Người viết còn phát hiện thấy một hiện tượng, tuyệt đại đa số “những người như cá gặp nước” trên thế gian đều là chúng sinh ở âm giới chuyển sinh thành người, ví dụ như yêu ma quỷ quái, các loại động vật và các loại sinh mệnh thuộc loại thủy tộc là rất nhiều, những người này đại đa số đều là những kẻ chủ nghĩa vật chất điển hình, tham tài túng dục, dùng các loại ngôn hành bại hoại dẫn dắt và làm bại hoại quan niệm của thế nhân, không có chút giới hạn đạo đức nào hết, đương nhiên có một số người cực ít là biểu hiện cũng còn được. Còn có một hiện tượng xuất hiện vào khoảng hai mươi năm gần đây đó là hiện tượng người “vỏ rỗng”, những người này chỉ có nhục thân không có nguyên thần, già trẻ trai gái đều có, trong người thường đa số họ đều là những người đạo đức bại hoại, không có chút chính niệm nào, điều này cũng có quan hệ trực tiếp với thiên tượng âm thịnh dương suy.

Một biểu hiện khác của âm thịnh dương suy chính là bắt đầu từ mười mấy năm trước đây có lưu hành kiểu “nhảy quảng trường” lưu hành trên một diện rộng, và kiểu phát sóng trực tiếp trên mạng v.v, hấp dẫn một lượng lớn người với độ tuổi và giới tính khác nhau tham gia vào đó, những người này dường như hoàn toàn chỉ là trưng ra và phô bày cơ thể của bản thân mình, đã quên mất rằng con người là anh linh của vạn vật nên cần phải có ý nghĩa sinh mệnh cao quý ưu nhã, trí huệ khoan dung và cầu chân hướng thiện. Những thứ kia khiến cho người ta mê vào trong đó, mơ mơ màng màng mê mờ trong mộng cảnh.

Ở cảnh giới rất cao mà nhìn, ít nhất bắt đầu từ năm 1992, xã hội nhân loại đã tiến nhập vào thời kỳ mạt kiếp của thời kỳ mạt pháp, cũng có nghĩa là, nền văn minh của nhân loại thời kỳ này đã đi đến điểm cuối cùng rồi, cần phải kết thúc rồi. Thời kỳ này ứng với hào Thượng Cửu của quẻ Bĩ (hào dương ở vị trí thứ 6 tính từ dưới lên), hào từ của nó là: “khuynh bĩ, tiên bĩ hậu hỉ.” Tượng của nó viết: “Bĩ chung tắc khuynh, hà khả trường dã!” cũng có nghĩa là bế tắc đến cực điểm thì tất nhiên sẽ phát sinh sự nghiêng đổ, rất nhanh chóng sẽ vật cực tất phản, bĩ cực thái lai. Nếu dùng sáu hào này để biểu thị bộ vị (bộ phận cơ thể) của con người, thì hào sơ là chân, hào nhị là cẳng chân, hào tam là đùi, hào tứ là bụng, hào ngũ là ngực, hào thượng là đầu, cũng có nghĩa là, tất cả những thứ ấy đã đi đến “đầu” rồi, đi đến điểm cuối rồi. Đồng thời chúng ta thấy chữ “bĩ” (否) trong quẻ bĩ, trên chữ khẩu có chữ “bất” (不), chữ bất và chữ 布 (bố – tấm vải) trong tiếng Hán là đồng âm, trên miệng có bịt tấm vải, nên từ mùa đông năm 2019 sau khi bệnh dịch xuất hiện, đến hiện tại dường như người dân toàn cầu ra khỏi cửa đều đeo khẩu trang, điều này cũng là có liên quan đến quẻ tượng của quẻ bĩ. Chữ 否 có kết cấu là chữ “bất” (不) thêm chữ “khẩu” (口), còn cho thấy rằng hiện tại từ người dân bình thường đến thủ tướng, ai cũng không có tự do ngôn luận, ai cũng không được nói lời thật, bởi vì những việc vạ miệng có ở khắp nơi. Còn có một tầng ý nghĩa khác, chính là ai cũng không nói nó là tốt, đều là đang phủ định nó, tất cả những điều này đều phù hợp với quẻ tượng của quẻ bĩ (否).

Thiên tượng biến hóa ở các tầng khứ khác nhau có các biểu hiện khác nhau, căn cứ theo lý luận “tam nguyên cửu vận”, vận khí của thế gian con người biến hóa, lấy 540 năm làm một chu kỳ lớn, gọi là “đại nguyên”, mỗi 180 năm làm chu kỳ nhỏ, gọi là “chính nguyên”, mỗi chính nguyên lại được phân thành 3 đơn nguyên 60 năm, lần lượt là thượng nguyên, trung nguyên, hạ nguyên, mỗi đơn nguyên lại có thể phân thành 3 vận, mỗi vận 20 năm, trong đó thượng nguyên bao hàm nhất vận, nhị vận, tam vận, trung nguyên bao hàm tứ vận, ngũ vận, lục vận, hạ nguyên bao hàm thất vật, bát vận, cửu vận, rồi lại lần lượt phối với hậu thiên bát quái (cửu cung) số và Bắc Đẩu cửu tinh (thất tinh và thêm vào đó là Tả Phụ tinh và Thạch Bật tinh), để dự đoán biến hóa của vận khí thế gian.

Cửu vận lại theo màu sắc được gọi là: 1 – bạch vận, 2 – hắc vận, 3 – bích vận, 4 – lục vận, 5 – hoàng vận, 6 – bạch vận, 7 – xích vận, 8- bạch vận, 9 – tử vận. Năm Giáp Tý trong thượng nguyên gần nhất là năm 1864, do vậy trong 60 năm đầu của thượng nguyên, nhất vận là từ năm 1864 đế năm 1883, do quẻ Khảm chủ sự. Nhị vận là từ năm 1884 đến năm 1903, do quẻ Khôn chủ sự. Tam vận là từ năm 1904 đến năm 1923, do quẻ Chấn chủ sự. Năm giáp tý của trung nguyên là năm 1924, trong đó tứ vận là từ năm 1924 đến năm 1943, do quẻ Tốn chủ sự. Ngũ vận là từ năm 1944 đến năm 1963, nằm ở vị trí trung cung. Lục vận là từ năm 1964 đến năm 1983, do quẻ Càn chủ sự. Năm Giáp Tý của hạ nguyên là năm 1984, trong đó thất vận là từ năm 1984 đến năm 2003, do quẻ Đoài chủ sự. Bát vận là từ năm 2004 đến năm 2023, do quẻ Cấn chủ sự. Cửu vận là từ năm 2024 đến năm 2043, do quẻ Ly chủ sự.

Chúng ta bắt đầu nói từ năm hạ nguyên Giáp Tý 1984, từ năm 1984 đến năm 2003 là hạ nguyên thất vận, do quẻ Đoài chủ sự. Quẻ Đoài (兑) là khẩu, phương hướng là chính Tây, là duyệt (说 – vui mừng), là ngôn luận, phát sóng v.v., do vậy từ năm 1984, các hình thức vui chơi giải trí như âm nhạc, tương thanh, bình thư, tiểu phẩm, hí khúc, khúc nghệ… bắt đầu lưu hành rộng rãi. Quẻ Đoài là hướng chính Tây, là ngôn luận, là miệng lưỡi, là biện luận, do vậy trong phạm toàn Trung Quốc bắt đầu phổ cập học tiếng Anh, ngày càng nhiều người trẻ tuổi rất chú trọng đến diễn giảng và biện luận, trong vận khí này ngôn luận tương đối tự do. Quẻ Đoài cũng đại biểu cho tiêu hủy bẻ gãy, đấu tranh, do vậy trong vận khí của quẻ Đoài, các phim hành động, võ thuật được chào đón nồng nhiệt, thời kỳ hoàng kim nhất của điện ảnh Hồng Kông chính là 20 năm này. Quẻ Đoài đại biểu cho thiếu nữ, do vậy xuất hiện rất nhiều nữ ca sĩ trẻ, nữ minh tinh được quần chúng yêu thích. Trong ngũ hành quẻ Đoài thuộc Kim, đại biểu cho kinh tế, kim tiền, cũng đại biểu cho phương Tây, do vậy thuận theo khai mở cải cách, Trung Quốc và phương Tây qua lại thường xuyên, kinh tế được phát triển ổn định. Đặc biệt nhất là trong thời kỳ đó còn xuất hiện cao trào khí công mà trong lịch sử chưa từng có. Hoạt động khí công bắt đầu từ thời kỳ những năm 70, đến những năm 80, nhất là đến vận khí của quẻ Đoài, thì số người học và luyện khí công ngày càng nhiều, người học có trong các giai tầng xã hội, các môn phái khí công cũng ngày càng nhiều, theo tư liệu thống kê thời đó, trong cao trào khí công ước chừng có khoảng hơn 2000 môn phái khí công khác nhau, các nơi trên toàn quốc dường như mỗi ngày đều có các khí công sư ở các môn phái khác nhau mở các lớp khí công, bởi vì quẻ Đoài là khẩu, là diễn giảng, do vậy cao trào khí công cũng là sự kiện lớn ứng theo vận đó mà sinh. Trong thời gian này, công pháp được đại chúng hoan nghênh nhất chính là Đại Pháp đức cao do Ông Lý Hồng Chí truyền ra – Pháp Luân Đại Pháp, bởi vì nội hàm cao thâm và hiệu quả chữa bệnh khỏe người kỳ diệu của môn này, mà trong thời gian 7 năm ngắn ngủi từ tháng 5 năm 1992 đến tháng 7 năm 1999 đã có hơn 100 triệu học viên tu luyện Pháp Luân Công. Pháp Luân Đại Pháp là chiểu theo nguyên tắc tối cao của vũ trụ, “Chân, Thiện, Nhẫn” để chỉ đạo học viên tu luyện, dùng khái niệm của Đạo gia mà nói, Pháp Luân Đại Pháp chính là Đại Đạo cuối cùng nhất của vô lượng vũ trụ, cũng chính là Thiên Đạo, tất cả nội hàm của Thiên Đạo đều là Thiên ý, vì thiên tượng là thể hiện của Thiên ý, do vậy trong vận khí của quẻ Đoài, Thiên ý thực sự chính là Pháp Luân Đại Pháp được truyền xuất ra ở thế gian để cứu độ chúng sinh, đây cũng là mục đích căn bản của việc cao trào khí công xuất hiện ở thế gian.

Tổng bí thư của Trung Cộng lúc đó là Giang Trạch Dân đố kỵ điên cuồng, từ 20/7/1999 bất chấp sự phản đối của nhiều người, ngang nhiên phát động cuộc trấn áp tàn khốc đối với những người tu luyện Pháp Luân Công, hơn nữa còn khởi động bộ máy tuyên truyền trên toàn quốc, tiến hành bội nhọ và vu khống Pháp Luân Công và người sáng lập Pháp Luân Công. Theo thống kê không đầy đủ, từ tháng 7 năm 1999 đến cuối năm 2001, có đến hơn 300 nghìn bài viết đăng trên Tân Hoa Xã để bôi nhọ và vu khống Pháp Luân Công, hơn nữa các đài truyền hình, đài phát thanh dường như mỗi ngày đều có các chương trình ác độc công kích Pháp Luân Công. Mà tất cả những điều này, vừa là kết quả do thiên tượng dẫn dắt, cũng là một thể hiện trong vận khí của quẻ Đoài. Bởi vì trong vũ trụ có một lý là tương sinh tương khắc, nhất là đến ngũ hành, thì lý này lại là ở khắp mọi nơi. Bất kể một sự việc gì, có người ủng hộ thì có người phản đối, có tin thì có không tin, do vậy xuất hiện sự việc như vậy.

Từ năm 2004 đến năm 2023, thời gian 20 năm này là bát vận của hạ nguyên, do quẻ Cấn chủ sự. Quẻ Cấn trong ngũ hành thuộc Thổ, phương vị là Đông Bắc, cũng đại biểu cho cửa, cổng, nhà ở, đường xá v.v., trong thời gian này, từ năm 2004, giá nhà ở tại các nơi trong Trung Quốc tăng trưởng lượng lớn, ngành bất động sản phát triển lên đến cực điểm. Toàn Trung Quốc đều phát triển mạnh không ngừng nghỉ các công trình xây dựng, xây cầu, xây đường, xây đập ngăn nước, xây nhà ở v.v. Quẻ Cấn là thiếu nam, cũng là hướng Đông Bắc, do vậy trong giới nghệ sĩ xuất hiện rất nhiều minh tinh là nam thanh niên, từ “miếng thịt tươi nhỏ” (Little Fresh Meat) cũng là sản vật của thời kỳ này. Đã xuất hiện rất nhiều minh tinh đến từ vùng Đông Bắc, hơn nữa các minh tinh đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản cũng rất được hoan nghênh. Trong cung Cấn có địa chi Sửu và Dần, quẻ Cấn cũng đại biểu cho Cẩu, cho nên trong 20 năm vừa qua những người nuôi thú cưng ngày càng nhiều, đủ các loại chó nhỏ mèo nhỏ đều rất được ưa chuộng. Quẻ Cấn là Sơn, cũng đại biểu cho mô đất, cũng là mộ phần, do vậy trong thời kỳ này có không ít các tỉnh và địa khu tại Trung Quốc còn xuất hiện các cuộc “vận động san mộ” di dời mộ trên diện tích lớn. Những gì nói trên đây là phản ánh bề mặt nhất của vận khí của quẻ Cấn tại thế gian con người.

Ngoài đó ra, quẻ Cấn còn có hàm nghĩa là đình chỉ, cho thấy sự dừng lại ngưng lại của một loại trạng thái nào đó và sự bắt đầu của một loại trạng thái khác. Vì sao có hàm nghĩa dừng lại? Bởi vì bản ý của chữ Cấn chính là cực hạn, biên giới, có nghĩa là, sự việc phát triển đã đạt đến cực hạn rồi, đi đến tận đầu rồi, không tiến tiếp được nữa, do vậy nên phải kết thúc. Nếu vẫn muốn tiếp tục vận động, tiếp tục phát triển, thì chỉ có cách lùi lại, do vậy chúng ta thấy trong chữ hạn (限)trong hạn chế, chữ thoái (退)trong thoái lui đều có chữ Cấn. Vậy trong vận khí của quẻ Cấn, Thiên ý căn bản nhất là gì? Chính là chữ Thoái, “Tam thoái” đại trào.

Bắt đầu từ năm 2004 là tiến nhập vào trong vận khí của bát vận trong hạ nguyên, bắt đầu từ cuối năm 2004 cuốn sách “Cửu bình cộng sản đảng” được ra mắt, thế gian con người chính thức bắt đầu mở màn cho Tam thoái đại trào, ngày càng nhiều người thông qua sự truyền bá của “Cửu Bình” và việc các học viên Pháp Luân Công giảng chân tướng, đều đã dần dần minh bạch ra chân tướng về Đại Pháp và sự tà ác, tàn bạo của ác đảng Trung Cộng, từ đó lựa chọn thoái xuất các tổ chức Đảng, Đoàn, Đội tà ác của nó, đặt định cơ sở cho bản thân mình có thể tiến nhập vào tương lai. Bởi vì Pháp Luân Đại Pháp là Đại Pháp vũ trụ, là Đại Pháp cao đức lấy tiêu chuẩn tối cao của vũ trụ “Chân, Thiện, Nhẫn” làm nguyên tắc tu luyện, Đại Pháp là căn bản tạo ra và thành tựu vũ trụ thời không và vạn sự vạn vật, tất cả những người mà trong tư tưởng có niệm đầu chống đối Đại Pháp hoặc bị tà đảng nhồi nhét độc tố lừa dối và những người gia nhập các tổ chức tà đảng, tuyên thệ vì nó mà phó xuất cả sinh mệnh đều sẽ bị lịch sử của vũ trụ đào thải. Và mục đích căn bản của sự biến hoá của thiên tượng chính là vì tương lai của chúng sinh vũ trụ, chỉ có những người minh bạch chân tướng, thoái xuất khỏi các tổ chức của Trung Cộng mới có thể bước vào tương lai, do vậy trong vận khí của quẻ Cấn, các hiện tượng xã hội khác đều là hiện tượng bề mặt và giả tượng, chỉ có “tam thoái” mới là chân tướng. Hiện nay (thời điểm viết bài này) đã là nửa cuối năm 2020, đã có hơn 360 triệu người lên tiếng thoái xuất khỏi Trung Cộng. Nói một cách đơn thuần từ góc độ của vận khí mà nói, thì thời gian lưu lại cho con người thế gian nhiều nhất cũng chỉ là 3 năm, thậm chí còn ít hơn, bởi vì sự xuất hiện của dịch bệnh chính là đã cho chúng sinh một cảnh cáo nghiêm trọng rồi, do vậy thế nhân nhất định phải biết quý tiếc cơ duyên, đừng bỏ lỡ, nếu không sẽ bị vạn kiếp bất phục, có hối cũng không kịp!

Bắt đầu từ năm 2024 là bắt đầu bước vào cửu vận của hạ nguyên, do quẻ Ly chủ sự. Quẻ Ly trong ngũ hành là thuộc hỏa, quẻ tượng của nó là Nhật, là văn, là lễ, là lệ (mỹ lệ) v.v. hoả chủ minh, còn văn, lễ chính là chỉ văn hoá, văn minh, hoả là dương, đại biểu cho tinh thần của con người. Lệ chính là chỉ những điều mỹ hảo, do vậy vận khí trong giai đoạn này chính là lịch sử của xã hội nhân loại tiến nhập vào kỷ nguyên mới, bắt đầu một thời kỳ văn minh hoàn toàn mới, văn hoá Thần truyền truyền thống được phục hưng, văn hóa mới mà đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp lưu lại cho tương lai cũng sẽ được phổ cập rộng rãi, tất cả những gì những sinh mệnh và vật chất cũ, không đủ tốt, đều không còn tồn tại, những truy cầu của thế nhân sẽ trở về với tầng diện tinh thần. Bởi vì chữ Ly còn có hàm nghĩa là phân ly, ly khai, thoát ly và phi thăng, do vậy đây cũng là một thời kỳ mà Thần tích xuất hiện và văn minh đại hiển.

Các phân tích ở trên là kết quả đạt được căn cứ vào lý luận tam nguyên cửu vận, ngoài đó ra, nếu như góc độ địa chi ngũ hành mà nói, thì Hợi, Tý, Sửu là ở phương Bắc, thuộc về tam hội thủy cục, thủy vị của Tý là hướng chính Bắc, quẻ Khảm cũng là ở hướng chính Bắc. Nếu đặt trong thời gian mà nói, cũng là như vậy, có nghĩa là, năm Tý Thủy cũng là thuộc quẻ Khảm, do quẻ Khảm chủ sự. Năm 2020 là năm Canh Tý trong Hoàng lịch, do vậy vận khí của năm này cũng là thể hiện nằm trong nội hàm của quẻ Khảm.

Quẻ Khảm(☵)đại biểu cho thủy, cách viết của chữ thủy trong dạng chữ triện chính là giống như quẻ tượng của quẻ Khảm. Quẻ tượng của nó là một hào dương ở trung tâm, trên dưới đều có một hào âm, quẻ Khảm lấy dương làm thể, lấy âm làm dụng. Hào dương bị hào âm bao vây, do vậy hàm nghĩa của quẻ Khảm là hiểm, là hãm. Quẻ Khảm còn đại biểu cho các đàn ông trung niên, hoặc đại biểu cho những người con trai thứ hai trong gia đình. Ngoài ra nó có hình dạng của chuột, cũng giống cá, giống xe, cũng đại biểu cho tiểu nhân, gian tặc âm hiểm v.v.

Nói một cách khách quan, bất kỳ một quẻ nào trong Chu Dịch cũng đều có hàm nghĩa của hai mặt chính phụ, bởi vì đều là ở trong ngũ hành, do vậy có cát có hung. Nhưng bởi vì thời kỳ này thuộc về thời kỳ mạt Pháp âm thịnh dương suy, âm dương phản bối, đã không còn thuộc về một thời kỳ bình thường nữa, cũng là tất cả đều đã tiếp cận gần vĩ thanh, đi đến tận cùng rồi, do vậy quẻ Khảm đối với con người mà nói là tượng trưng cho nạn diệt vong.

Năm 2020 là năm Canh Tý trong Hoàng lịch, thiên can là Canh kim, sinh địa chi là Tý thủy, lại có quẻ Khảm chủ sự, do vậy năm này có thủy tai nghiêm trọng, diện tích chịu tai họa là lớn, duy trì trong thời gian dài. Quẻ Khảm cũng là Tửu, là độc. Đối với con người mà nói, loại độc cao cấp nhất chính là loại virus trong lần dịch bệnh này. Quẻ Khảm vượng vào mùa đông, nhất là tháng Giêng, do vậy trong nước Trung Quốc hiện giờ bề mặt dường như là bình ổn, nhưng khi bước vào mùa đông, nhất là sau tháng 11 thì hẳn là sẽ còn mãnh liệt hơn. Ngoài ra, chúng ta thấy trong kết cấu của hai chữ pháp (法) và trị (治)đều có thủy, do vậy quẻ Khảm còn đại biểu cho pháp luật, quẻ Khảm cũng đại biểu cho âm hiểm, do vậy sẽ có kẻ tiểu nhân âm hiểm đưa ra cái gọi là “Luật an ninh quốc gia” với tai tiếng ai ai cũng biết. Trong ngũ hành thì thủy khắc hỏa, các ngành nghề có liên quan đến hỏa như truyền thông, điện ảnh và truyền hình, internet, thông ấn v.v, cũng đại biểu cho tự do ngôn luận, thủy vượng khắc hỏa, do vậy tất cả các phương diện có liên quan đến điều này đều sẽ bị xung kích ở các mức độ khác nhau trong năm nay. Ngoài ra Canh thuộc Kim cũng đại biểu cho hoàng kim, các cơ quan tài chính, tư pháp v.v, Tý thuộc thủy cũng đại biểu cho dầu lửa, nghề đánh cá, làm muối v.v., do vậy những ngành nghề liên quan với nó đều có biến động lớn.

Ngoài đó ra, trong ngũ hành, Mộc chủ phương Đông, Kim chủ phương Tây, mà hình thức sinh mệnh của ác đảng Trung Cộng ở không gian tầng thấp khác là con ác long màu đỏ, màu sắc đại biểu cho nó trong không gian này chính là màu đỏ, màu đỏ trong ngũ hành thuộc hỏa, bởi vì thủy khắc hỏa, thiên can Canh thuộc kim sinh địa chi Tý thuộc Thủy, Canh Kim đại biểu cho các quốc gia phương Tây, do vậy năm Canh Tý 2020, còn có một thiên tượng trọng yếu nhất, đó chính là “Trời diệt Trung Cộng” đã được mở màn toàn diện trên toàn cầu, các quốc gia chính nghĩa và lực lượng chính nghĩa trên toàn cầu với đại biểu là nước Mỹ, và cả những con người có tinh thần chính nghĩa trên thế giới đều đã toàn diện nhận rõ ra bản chất tà ác của ác đảng Trung Cộng, bắt đầu bao vây và tiêu trừ Trung Cộng một cách toàn diện từ các góc độ khác nhau. Năm Tân Sửu 2021, Nhâm Dần 2022 hai thiên can Kim Thủy liền nhau, lại do hai năm này có thiên can là Sửu, Dần nằm ở cung Cấn, quẻ Cấn đại biểu cho việc một trạng thái kết thúc và một trạng thái khác bắt đầu, lần lượt đối ứng với hai năm Sửu, Dần. Do vậy có thể thấy, ngày mạt của tà đảng đã đến gần trước mắt rồi.

Ở trên chúng ta còn nói, ở góc độ cao hơn mà nhìn, thì nhân loại hiện nay, đang thuộc về thời kỳ mạt Pháp, có nghĩa là, sẽ đối diện với đại đào thải, do vậy trong năm Canh Tý, đối với bất kỳ người nào trên thế gian thì sẽ đều là một đạo Khảm, là một quan, bởi vì bản thân quẻ Khảm cũng có hàm ý tai họa. Nhưng ông Trời có đức hiếu sinh, Đại Pháp cứu thế – Pháp Luân Đại Pháp đã truyền ra, do vậy đối với thế nhân mà nói, chỉ cần chân tâm niệm 9 chữ “Pháp Luân Đại Pháp hảo, Chân Thiện Nhẫn hảo”, và tuyên bố thoái xuất khỏi các tổ chức của Trung Cộng, thì có thể bình an qua được đại kiếp, tiến nhập vào tương lai.

(Còn nữa)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/262186



Ngày đăng: 02-11-2022

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.