Văn hóa Thần truyền tạo nên Đôn Hoàng (Phần 5): Tượng Phật và các bức bích họa trong hang động



Tác giả: Lâm Khiết Tâm

[ChanhKien.org]

7. Trở về với nghệ thuật chân chính

7.1. Đại nạn của văn hóa truyền thống

Trung Quốc có một nền văn minh lâu đời 5000 năm. Tư tưởng thiên nhân hợp nhất và “phản bổn quy chân” (trở về với bản ngã) của Đạo giáo, thiên đường địa ngục, thiện ác báo ứng, sinh tử luân hồi của Phật giáo, và “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” của Nho giáo đã cùng nhau tạo nên cốt lõi của văn hóa truyền thống Trung Hoa. Lòng trung hiếu tiết nghĩa, sư đạo tôn nghiêm, tất cả đều là những giá trị đạo đức phổ quát được truyền từ đời này sang đời khác. Sức mạnh to lớn của văn hóa truyền thống đã duy trì sự tồn tại và thịnh vượng của dân tộc Trung Hoa qua hàng nghìn năm.

Tuy nhiên, một cuộc “Cách mạng Văn hóa” chưa từng có đã càn quét khắp đất nước, phá hủy nền tảng của văn hóa truyền thống. Tín ngưỡng tôn giáo bị coi là phong kiến mê tín, các danh nhân văn hóa bị coi là yêu ma quỷ quái, các di tích lịch sử và văn hóa bị phá hoại. Vô số bức thư pháp và tranh vẽ quý giá đã bị thiêu hủy, khẩu hiệu “tạo phản là chính đáng” lan rộng khắp cả nước, những kẻ tạo phản vô pháp vô thiên. “Thuyết vô thần” đã được tôn vinh thay thế cho tín ngưỡng lâu đời vào Thần. Lấy ví dụ về tượng Phật, trên đỉnh Vạn Thọ Sơn ở Di Hòa Viên, Bắc Kinh có 1.000 bức tượng Phật chạm nổi bằng men lưu ly. Sau phong trào “Phá Tứ cựu”, tất cả đều bị hư hại, không còn bức tượng nào nguyên vẹn. Ở huyện Đại, tỉnh Sơn Tây có chùa Thiên Thai được xây dựng vào thời Bắc Ngụy cách đây 1600 năm, với những bức tượng và bích họa rất quý giá. Mặc dù nằm sâu trong khe núi cách xa khu vực thị trấn, nhưng những kẻ “phá tứ cựu” vẫn không quản ngại khó khăn tìm đến phá hủy tất cả tượng Phật và bức bích họa.

Hang động Mạc Cao ở Đôn Hoàng nhờ được nhiều người bảo vệ nên chỉ gặp chút nguy hiểm nhỏ, một lần nữa thoát khỏi kiếp nạn. Tuy nhiên, các học giả Đôn Hoàng không được may mắn như vậy.

Thập niên tai họa

Trần Dần Khác, bậc thầy về văn hóa Trung Quốc, đã bị tra tấn dã man. Điều khiến ông đau lòng nhất là bộ sưu tập sách quý giá và bản thảo thơ văn mà ông đã gìn giữ bao nhiêu năm đã bị cướp đi và phá hủy. Ông qua đời trong uất hận tại Quảng Châu vào ngày 07 tháng 10 năm 1969.

Vương Trọng Dân, nhà nghiên cứu Đôn Hoàng vừa trở về từ Paris trong vinh quang đã bị liệt vào thành phần “cánh hữu” năm 1957, trở thành một trong năm “cánh hữu” nổi tiếng trong giới sử học. Ông đã treo cổ tự tử vào ngày 16 tháng 04 năm 1975.

Hướng Đạt, nhà sử học nổi tiếng đã ngã xuống trong làn sóng công kích đầu tiên của Cách mạng Văn hóa vào tháng 11 năm 1966, khi đó ông mới 66 tuổi.

Vương Khánh Thục, nhà nghiên cứu văn học cổ điển đầu tiên của Trung Quốc được tiếp cận toàn bộ kho tài liệu gốc về Đôn Hoàng do Anh quốc lưu giữ, đã bị gán cho nhiều tội danh chính trị trong Cách mạng Văn hóa, phải chịu đựng sự sỉ nhục và tra tấn.

Giang Lượng Phu, bậc thầy về văn hóa Trung Quốc, người cả đời cống hiến cho sự nghiệp nghiên cứu Đôn Hoàng, tác giả của bộ sách 24 tập “Doanh Nhai Đôn Hoàng vận tập” và “Đôn Hoàng – Kho báu văn hóa vĩ đại”, cũng phải chịu đựng sự sỉ nhục trong Cách mạng Văn hóa, bị ép buộc làm nghề quét dọn cầu thang.

Trong cuốn “Thường Thư Hồng thuật bình”, giáo viên về hưu Lý Xương Ngọc ở tỉnh Sơn Đông đã ghi lại một câu chuyện như sau: Cao Nhất Hàm, một người mà Thường Thư Hồng không bao giờ quên.

Vậy Cao Nhất Hàm là ai? Ông là một nhà văn hóa, một trong những người theo chủ nghĩa tư tưởng tự do nổi tiếng trong phong trào Ngũ Tứ. Ông từng giữ chức vụ giám sát ngũ tỉnh Thiểm, Cam, Ninh, Thanh, Tân và là Chủ tịch Ủy ban Trù bị cho Viện Nghiên cứu Nghệ thuật Quốc gia Đôn Hoàng. Ông từng tuyên bố: “Lấy lương tâm của chính chúng ta làm tiêu chuẩn, nhà nước không thể can thiệp vào thế giới tinh thần của chúng ta”. “Điều chúng ta coi trọng là pháp trị chứ không phải là nhân trị, điều chúng ta nghiên cứu là luật pháp chứ không phải là mệnh lệnh”.

Trong bài viết “Từ chuyện gần đây ở Đôn Hoàng nói đến nguy cơ của hang động Nghìn Phật”, Thường Thư Hồng đã viết đầy xúc động: “Chúng tôi cùng với ông Cao Nhất Hàm đến hang động Nghìn Phật vào ngày 24 tháng 03 năm 1943, đúng vào năm thứ bảy của cuộc kháng chiến chống Nhật của dân tộc Trung Hoa”. … “Khi chia tay, ông Cao Nhất Hàm đã nói với tôi: ‘Bây giờ các anh phải mang tinh thần tự lực tự cường, khai phá một thế giới mới trên hòn đảo cô độc của hang động Nghìn Phật!’”

Tuy nhiên, trong cuốn tự truyện “90 mùa xuân thu – 50 năm ở Đôn Hoàng” viết vào những năm cuối đời, Thường Thư Hồng lại không hề nhắc đến tên của Cao Nhất Hàm. Tại sao ông lại né tránh sự thật lịch sử này? Phải chăng là vì sợ hãi Đảng Cộng sản?

Lý Xương Ngọc còn viết: “Ông ta muốn xóa sạch mối quan hệ của mình với chính quyền Quốc Dân Đảng, có thể bịa đặt thì bịa đặt, có thể chửi rủa thì chửi rủa. Ông ta muốn thể hiện sự thân thiết của mình với Đảng Cộng sản, có thể tâng bốc thì tâng bốc, có thể nịnh nọt thì nịnh nọt”. “Thường Thư Hồng hoàn toàn không phải là người xấu, nhưng sống trong một chế độ ‘ép người lương thiện làm điều ác’ như vậy, ông ta không chỉ cố gắng tự bảo vệ mình mà còn ra sức truy cầu thăng tiến, vì vậy, cuối cùng điều đáng tiếc là ông ta đã bị bạn bè, đồng nghiệp, cấp dưới và học sinh bỏ rơi. Tuy nhiên, tôi vẫn cho rằng ông ta không phải là người xấu, nhưng cũng không phải là một phần tử trí thức có lương tâm”. Trước năm 1949, ông là “một họa sỹ, một vị giám đốc nho nhã, lịch sự, dễ gần gũi”, “Thường Thư Hồng không phải là thần thánh mà là một con người, một con người bị tha hóa bởi phong trào tẩy não”.

Số phận của Thường Thư Hồng chính là chân dung điển hình cho cả một thế hệ trí thức Trung Quốc dưới sự thống trị của chế độ cộng sản.

Cách mạng Văn hóa không chỉ tàn phá những di tích lịch sử hữu hình mà còn hủy hoại những giá trị luân lý đạo đức, tín ngưỡng và văn hóa đã được đúc kết qua hàng nghìn năm của người Trung Quốc. Tư tưởng của các nghệ sỹ, học giả bị kìm hãm, bóp méo. Trong sáng tác mỹ thuật, người ta từ bỏ việc thể hiện tính chính xác của hình ảnh, trong sáng tác văn học nghệ thuật, người ta phủ nhận văn hóa truyền thống. Từ đó, con người bắt đầu không tin vào Thần, đánh mất tự do tinh thần, nghệ thuật cũng phát triển một cách lệch lạc.

7.2. Nghệ thuật thuần chân, thuần thiện, thuần mỹ

Thế nào là nghệ thuật chân chính của nhân loại?

Nghệ thuật truyền thống Trung Quốc là sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật và lòng kính Thần.

Trong dòng chảy lịch sử 5000 năm văn minh Trung Hoa, vô số di sản văn hóa quý giá đã được lưu lại: đồ đồng, đồ sắt, đồ ngọc, đồ gốm, đồ sứ, tượng điêu khắc, tranh vẽ, các loại nhạc cụ, điệu múa và các hình thức biểu đạt nghệ thuật khác… Trong đó hầu hết các tác phẩm nghệ thuật này đều được tạo ra để thờ cúng Thần linh, hình thức nghệ thuật cũng trở thành một cách thức giao tiếp giữa con người và Thần. Chẳng hạn như cây Thần bằng đồng được khai quật tại di chỉ Tam Tinh Đôi, tỉnh Tứ Xuyên, gửi gắm khát vọng vươn tới thế giới Thiên quốc của con người. Người Thục cổ tin rằng thế giới được cấu thành bởi “cây Thần” là trụ cột trung tâm của vũ trụ, con người thờ cúng “cây Thần” thì có thể lên Thiên quốc.

Trong quá trình sáng tác tác phẩm, những bậc thầy nghệ thuật thời cổ đại cũng phải nâng tâm hồn mình lên tới cảnh giới thuần tịnh, dùng nghệ thuật để thể hiện cái thiện và cái đẹp, dùng nghệ thuật để ca ngợi Thần linh, tuân theo Thiên ý, nhờ đó mà được ban cho cảm hứng và năng lực từ Thần linh, sáng tạo nên những tác phẩm vĩ đại lưu danh muôn thuở.

Trương Ngạn Viễn trong “Lịch đại danh họa ký” viết: “Thư (văn tự) và họa là cùng một thể không phân tách, phương thức mô tả sự vật hiện tượng thời kỳ đầu còn rất đơn giản, không thể truyền đạt được ý tưởng, nên mới xuất hiện văn tự, không thể thể hiện được hình dạng của vật thể, nên mới xuất hiện hội họa … Đây đều là ý muốn của trời đất và Thánh nhân”.

Giorgio Vasari, nhà viết tiểu sử thời kỳ Phục Hưng – Ý đã ca ngợi Leonardo da Vinci, bậc thầy nghệ thuật nổi tiếng nhất như sau: “Đôi khi ông Trời ban cho một người vẻ đẹp, sự tao nhã và tài năng, khiến cho mọi việc anh ấy làm đều vượt trội hơn người khác, cho thấy rằng tài năng thiên bẩm của anh ấy là do trời ban chứ không phải từ sức người”.

Phật giáo ghi chép rằng con người đến từ cõi Trời Quang Âm, do ham muốn dục vọng khiến tâm phàm ngày càng tăng nên bị giáng xuống trần gian. Tuy nhiên, chỉ cần siêng năng tu luyện, từ bỏ dục vọng, thoát khỏi phàm tục, thì có thể tu thành chính quả và trở về Thiên thượng. Vì vậy, đối với những người thành tâm tín Phật, “Phật” không phải là điều gì quá bí ẩn, mà là do con người tu thành. Do đó, không có gì lạ khi vào thời cổ đại có rất nhiều họa sỹ đã lấy những câu chuyện cảm động trong kinh Phật làm đề tài sáng tác. Tào Bất Hưng, Cố Khải Chi, Trương Tăng Diêu, Triển Tử Kiền, Diêm Lập Bản, Ngô Đạo Tử… các danh họa nổi tiếng trong lịch sử với sở trường là những bức tranh Phật giáo lưu danh thiên cổ.

Nghệ thuật giáo đường của phương Tây, và các bức tượng thời kỳ đầu ở phương Đông hầu hết đều thể hiện Thần, những bức họa cổ xưa nhất, sớm nhất được lưu truyền lại ở Trung Quốc cũng đều vẽ Thần. Thần là hoàn mỹ, vĩ đại, tỏa ra ánh sáng rực rỡ, không thể tùy tiện vẽ. Muốn thể hiện được sự trang nghiêm thù thắng của Thần thì họa sỹ cần phải có thủ pháp thể hiện chính thống, kỹ thuật tinh xảo và đạo đức nhân cách cao thượng. Thần cũng từ bi với con người, người nghệ sỹ có tâm thành kính thì Thần sẽ ban cho họ thiện niệm và linh cảm, triển hiện cho họ cảnh giới thiên quốc Thần thánh, rực rỡ muôn màu, tráng lệ huy hoàng, khiến tác phẩm sáng tạo ra có ý cảnh rộng lớn sâu xa, màu sắc rực rỡ, tỏa ánh hào quang xán lạn vĩnh cửu, thể hiện cái thiện và cái đẹp thực sự mà người xưa theo đuổi.

Loại hình nghệ thuật truyền thống này là sự thống nhất giữa thế giới tinh thần và vật chất. Các tác phẩm thường ẩn chứa thần vận vô tận, những bậc thầy nghệ thuật cổ đại thường là những bậc hiền tài có đạo đức cao thượng. Họ rất coi trọng việc tu dưỡng văn hóa bản thân, trong đó rất nhiều người là những người tu Đạo, họ coi điêu khắc, hội họa cũng là một phần trong việc tu dưỡng bản thân. Những tác phẩm nghệ thuật ý nghĩa sâu sắc ấy có mối liên hệ mật thiết với tiêu chuẩn đạo đức của con người thời cổ đại.

Khổng Tử nói: “Chí ư Đạo, cứ ư đức, y ư nhân, du ư nghệ”, nghĩa là: “Lấy Đạo làm chí hướng, lấy đức làm nền tảng, lấy nhân làm chỗ dựa, sẽ thông thạo lục nghệ”. Do đó, nghệ thuật và đạo đức của con người là không thể tách rời.

Trương Ngạn Viễn lại nói: “Từ xưa đến nay, những người giỏi vẽ không phải là những người có địa vị cao sang, cao nhân ẩn sĩ, rung động kỳ tài một thời, truyền tiếng thơm muôn đời, càng không phải là những người tầm thường thấp kém”. Tức là một bức tranh đẳng cấp cao đòi hỏi trình độ tu dưỡng nhân cách của họa sỹ phải rất cao.

Sự coi trọng đạo đức còn được thể hiện trong việc theo đuổi tính chân thực trong sáng tác nghệ thuật. Nó đòi hỏi người nghệ sỹ phải thể hiện sự vật một cách chuẩn xác và chân thực. Điêu khắc và hội họa ở Trung Quốc cổ đại khá chú trọng thần vận, “dùng ý viết thần”, từ ý cảnh sâu xa của tác phẩm mà thể hiện ra thần thái, nhưng lại có nhược điểm là tỷ lệ không chính xác, kỹ thuật chưa thành thục. Bởi vì các bậc thầy nghệ thuật Trung Quốc cổ đại phần lớn là nghệ nhân, hoặc đơn truyền, hoặc người có thiên phú cá nhân, không có lý luận hệ thống, không có trường học, không có đào tạo chính quy. Không giống như nghệ thuật phái hàn lâm truyền thống của phương Tây, tập trung vào kỹ pháp chính xác, tinh tế, chân thực, có trường học, có lý thuyết, có đào tạo chính quy, tác phẩm từ hình dáng đến thần thái đều chính xác như người thật, vật thật, thể hiện vô cùng chính xác. Đây là hai phong cách nghệ thuật khác nhau, đều là nghệ thuật chính thống, nhưng đòi hỏi về kỹ năng, đạo đức của nghệ sỹ là như nhau.

Cùng với việc nền tảng đạo đức của con người không ngừng trượt dốc, nghệ thuật hiện đại ngày càng đi xa khỏi con đường của nghệ thuật chính thống. Người ta bắt đầu không tin vào Thần, nghệ sỹ tự đặt mình làm trung tâm, bỏ rơi nguyên tắc về tính chính xác của vật thể trong nghệ thuật chính thống, phóng túng ý thức, theo đuổi trào lưu tối tăm, kỳ dị. Đến nỗi nhà triết học, nhà phê bình nghệ thuật Arthur Danto phải nhận xét: “Bạn không thể nói điều gì là nghệ thuật, điều gì không phải là nghệ thuật nữa, thời đại đó sớm đã kết thúc rồi”.

Nghệ thuật cổ điển chính thống là món quà mà Thần linh ban tặng cho nhân loại, có lợi cho con người và hoàn cảnh sinh sống của con người. Chính vì thế, các nghệ sỹ thời cổ đại có thể dành cả cuộc đời, dùng cả trái tim thành kính để thể hiện sự vĩ đại của Thần linh. Những thành tựu rực rỡ trong hang động Mạc Cao ở Đôn Hoàng, hay những bức tượng, bức tranh được sáng tác theo thủ pháp truyền thống trong các nhà thờ, cung điện phương Tây, tất cả đều là nghệ thuật chân chính mà Thần đã truyền cho con người, giúp cho con người ngày nay thấy được những người tín Thần thời cổ đại làm cách nào dùng nghệ thuật để thể hiện cái thiện và cái đẹp, thể hiện quy phạm đạo đức và chân lý phổ quát mà Thần đã truyền dạy. Nghệ thuật chí thiện chí mỹ mới là nghệ thuật hoàn hảo và thiêng liêng. Sự kính Trời kính Thần mới là điều tốt đẹp mà con người nên theo đuổi.

Nghệ thuật Thần truyền chứa đựng ý cảnh vô cùng sâu xa. Những tác phẩm nghệ thuật quý giá được cổ nhân lưu truyền cho đến nay, ý nghĩa thực sự là để con người hiện tại một lần nữa được Thần cứu rỗi, đạo đức hồi sinh, đồng thời thông qua nghệ thuật thuần khiết, thuần mỹ mà cổ nhân để lại, giúp con người quay trở về với nghệ thuật chân chính mà Thần đã truyền cho nhân loại.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/53157



Ngày đăng: 27-02-2025

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.