Nhân vật anh hùng thiên cổ Trung Quốc – Tần Thủy Hoàng (4): Thống nhất chế độ và pháp luật



Tổ nghiên cứu nhân vật anh hùng thiên cổ của văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm (Epochtimes)

[ChanhKien.org]

5. Thống nhất tiền tệ, thống nhất đo lường

Thời Chiến Quốc, chữ viết, tiền tệ, đo lường của các nước đều khác nhau. Các nước như Tề, Yên phát hành tiền dao (tiền xu đúc hình con dao), các nước Triệu, Ngụy, Hàn thì thông dụng tiền cuốc (tiền xu đúc hình cái cuốc). Nước Tần và Đông Chu lưu thông tiền xu tròn lỗ vuông. Nước Sở thì dùng tiền vỏ sò. Tần Thủy Hoàng ban bố quy định: Trên toàn quốc thống nhất phát hành tiền xu tròn lỗ vuông, nghiêm cấm sử dụng các loại tiền bằng mai rùa, vỏ sò, ngọc… của sáu nước. Ông lại quy định toàn quốc thống nhất dùng hai loại tiền xu tròn lỗ vuông bằng vàng và đồng, trong đó tiền bằng vàng gọi là Thượng tệ, tiền bằng đồng gọi là Hạ tệ. Loại tiền bằng đồng này được dùng suốt hơn 2000 năm, mãi cho đến tận triều Thanh.

Độ (度) là đo lường chiều dài, lượng (量) là đo dung tích, hành (衡) là đo trọng lượng. Độ, lượng, hành là để đo lường trao đổi thương phẩm, có liên quan đến thuế khóa quốc gia, nhưng các nước dùng các chế độ đo lường khác nhau khiến việc đo lường khi ấy mỗi nhà một kiểu. Tiêu chuẩn đo lường chiều dài của các nước khác nhau dẫn đến các nước sử dụng các loại thước to nhỏ khác nhau, tiêu chuẩn đo lường dung tích khác nhau dẫn đến công cụ đo dung tích cũng lớn nhỏ khác nhau, ở các nơi cũng sử dụng đơn vị đo khác nhau.

Để giải quyết các vấn đề về tiền tệ và đơn vị đo không thống nhất, Tần Thủy Hoàng sau khi nhất thống thiên hạ lập tức ban bố chiếu lệnh thống nhất tiêu chuẩn đo lường, lấy chế độ đo lường nước Tần làm chuẩn. Đơn vị đo lường sửa thành hệ thập phân, định kỳ tiến hành kiểm tra công cụ đo lường. Đồng thời, ông còn cho cải tiến hoặc tạo mới các dụng cụ đo lường và giao cho quan phủ giám sát chế tạo, ban bố toàn quốc thực hiện, trong đó bao gồm cả thống nhất trục xe, khoảng cách hai bánh của trục xe, tức “xe đồng trục”.

6. Thống nhất văn tự, tạo phúc muôn đời

Văn tự được sử dụng cho mục đích “văn dĩ tải Đạo”, là mối liên hệ giữa con người và Thần. Chữ Hán dưới dạng chữ giáp cốt truyền đến đời Thương đã là khá thành thục. Đến thời Chiến Quốc, do liệt quốc phân lập trong thời gian dài và “ngôn ngữ dị thanh” (một chữ nhưng đọc khác nhau)… đã ảnh hưởng đến sự thống nhất của văn tự, xuất hiện hiện tượng “văn tự dị hình” (một chữ nhưng viết khác nhau), gây ra nhiều bất tiện và hiểu lầm khi giao lưu văn hóa giữa người với người, cũng ảnh hưởng sự chính xác của ghi chép lịch sử, văn hóa.

Chữ Tiểu triện khắc trên quả cân của nước Tần, người đời sau cho rằng chữ Tiểu triện là do Lý Tư tạo ra (nguồn internet)

Sau khi tiêu diệt sáu nước, đồng thời với việc thống nhất về đo lường, Tần Thủy Hoàng hạ lệnh bãi bỏ văn tự cũ của sáu nước, lệnh Đình úy Lý Tư chủ trì việc thống nhất văn tự. Lý Tư lấy văn tự nước Tần trước đây làm cơ sở để sáng chế ra chữ Tiểu triện (còn gọi Tần triện) có hình chữ cố định, nét bút giản hóa, viết thuận tiện, làm văn tự tiêu chuẩn hóa, thúc đẩy sử dụng trên toàn quốc, tức “Thư đồng văn”. Tiểu triện tiếp thu, kế thừa những nhân tố hợp lý trong văn tự của sáu nước, đồng thời nét bút đơn giản, rành mạch, dễ thúc đẩy rộng rãi. Ngoài ra, trong dân gian còn lưu hành một loại văn tự Lệ thư (chữ Lệ), đơn giản dễ viết hơn cả Tiểu triện. Đó chính là tiền thân của Hán tự ngày nay.

Thống nhất văn tự khiến văn hóa, lịch sử được bảo tồn chính xác, có lợi cho người đời sau trong việc lý giải đúng đắn đối với văn hóa Thần truyền, chính pháp, chính lý, việc làm này đã tạo phúc cho muôn đời sau. Để đến sau này, khi “vạn Phật lâm phàm, vạn Pháp quy nhất”, người đời sau có thể chuẩn xác không sai sót đắc Đại Pháp, đắc Đại Đạo, phản bổn quy chân, hoàn thành sứ mệnh cuối cùng của nhân loại.

7. Xây cung lăng, dựng đài thiên văn

Để sáng tạo lịch sử nhân loại, mở ra thời kỳ huy hoàng cho văn hóa Trung Hoa, Tần Thủy Hoàng đã đem cung khuyết thiên thượng đến nhân gian, xây dựng cung A Phòng nổi tiếng. Nhưng do chiến hỏa và sự hủy hoại của người đời sau, cung điện này đến cùng vẫn không thể được hoàn thành và lưu truyền cho hậu thế được.

Tranh “Cung A Phòng” của Viên Diệu đời Thanh (Nguồn internet)

Bức tranh Cung A Phòng đồ vẽ trên 12 tấm lụa của Viên Giang đời Thanh, đây là bức tranh lụa thiết sắc, dài 194.5cm, cao 60.5cm, hiện lưu giữ tại bảo tàng cố cung Bắc Kinh (Nguồn internet)

Một triều Thiên tử, một triều dân chúng, một triều văn hóa, một triều trang phục, một triều phong thổ nhân tình, một triều đặc điểm nội hàm. Do đó các cung điện, lăng mộ, địa cung do những thánh hoàng, minh chủ xây dựng thường là tập hợp đầy đủ những nghệ thuật tinh xảo, mỹ diệu nhất, sau đó chôn vùi chúng vào trong lòng đất, để lưu giữ những thành tựu văn hóa của triều đại đó, qua đó bảo tồn những đặc điểm văn hóa của Thiên quốc đối ứng với các vương triều đó.

Binh mã dũng đời Tần (Nguồn internet)

Năm 1974, phía Đông mộ Tần Thủy Hoàng ở núi Ly Sơn phát hiện ra các hố tượng binh mã đời Tần, tổng diện tích hơn hai vạn mét vuông, với 7000 tượng gốm các binh sĩ cao khoảng 1.8 mét được bày thành trận, trên 700 con ngựa gốm kích thước bằng ngựa thật, 130 chiến xa. Những bảo vật của văn minh nhân loại, những tinh túy trong các lĩnh vực văn hóa, văn nghệ đều được bảo vệ an toàn dưới lòng đất hơn 2000 năm. Khi con người ngày nay khi bước vào phần lăng mộ đặt tượng các binh mã này, mới cảm thán và cảm tạ Tần Thủy Hoàng hơn 2000 năm trước đây đã để lại cho hậu thế và thế giới tài sản quý báu nhường này!

Xe ngựa bằng gốm bồi táng trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng(Ảnh: Traumrune/Wikipedia)

Quan sát trời, các vì sao, thể ngộ Thần hiển thị là con đường tốt đẹp nhất của một nhân loại tín Thần, kính Thần khi mong muốn nhận được khai thị của Thần linh. Thư tịch cổ thường có ghi chép về việc cổ nhân quan sát trời, các vì sao, chiêm tinh, để thông hiểu sự biến hóa của nhân loại và hung cát họa phúc, lấy đó làm chỉ đạo cho các hành vi và hoạt động của mình. Trong thời Tam Đại Hạ, Chu, Thương, đài quan sát sao trời có ở khắp nơi. Rất nhiều đài quan sát được xây dựng đối ứng với các chòm sao, tinh tú trên thiên thượng, nhằm đạt đến cảnh giới cao hơn: Thiên nhân hợp nhất. Xung quanh rất nhiều đài quan sát cũng có các đài lễ tế, dùng để tế lễ Thần linh.

Sau khi kiến lập Đại Tần, Thủy Hoàng Đế cho xây dựng các đài thiên văn khắp Đại Tần. Hán thư – Địa lý chí có gọi Du Lâm (Thiểm Tây) là “Trinh Lâm”, “Trinh” tức là “bói toán”, “chiêm tinh”, địa danh “Trinh Lâm” ngụ ý là các đài thiên văn nhiều như rừng. Trong thời đế quốc Đại Tần, việc xây dựng các đài thiên văn đã đạt đến đỉnh cao, Thủy Hoàng Đế đem tất cả 332 chòm sao có thể quan sát, có thể gọi tên trên khắp bầu trời (1424 ngôi sao), phỏng chiếu vị trí trên mặt đất để xây dựng thành các đài đất hình tròn hoặc hình ô-van, tổng cộng đã xây dựng 1424 đài chiêm tinh, diện tích phân bố 2.8 vạn km2. Về phạm vi phân bố các đài thiên văn, phía Đông đến Hoàng Hà, phía Tây đến Trường Thành Đại Biên, phía Nam đến hạ du sông Tú Diên, phía Bắc đến vùng Đông Bắc cao nguyên Ordos, chiếm quá nửa các quận thời Tần, là công trình to lớn.

Năm 2008, di chỉ đài thiên văn toàn thiên Đại Tần được phát hiện ở Du Lâm (Thiểm Tây), hình dáng tổng thể là hình Nữ Oa vá trời. Nữ Oa đầu phía Bắc, chân phía Nam, nghiêng người, ngẩng đầu, tay co giơ lên bằng nhau, đang vá trời. Nữ Oa cao 809 dặm Tần (khoảng 337 km), hông rộng 365 dặm Tần (khoảng 152 km). Thân cao như núi Côn Luân, hông rộng như vĩ độ Chu Thiên. Kết hợp số cuối của thân cao (809) và hông rộng (365) ta được con số cửu ngũ chi tôn (chú thích: trong Kinh dịch, Cửu được dùng để chỉ hào dương, Ngũ chỉ hào thứ năm từ dưới lên, hào Cửu Ngũ trong quẻ Càn của Kinh Dịch là “Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân”, có hình tượng con rồng bay trên trời, tức là khí tượng của bậc quân vương tôn kính), con số này đã biểu thị đầy đủ sự tôn kính đối với Nữ Oa.

Đài thiên văn hình Nữ Oa phân bố từ phía dưới (Nam) lên trên (Bắc), gồm chín phần, mỗi phần đều có chứa một số tinh tú hoặc tinh quan, lần lượt đại diện cho chín tầng trời, ấn chứng cho thuyết “Trời có chín tầng”. Bên cạnh một số đài thiên văn trọng yếu có xây dựng đài tế sao. Trong đó đài tế sao trọng yếu phải kể đến như đài tế sao quan sát Đế Tinh (tục gọi Sao Tử Vi, tức sao Bê-ta chòm Sao Tiểu Hùng), hình ô-van, trục dài là một dặm Tần (khoảng 0.42 km), dùng cho Tần Thủy Hoàng tế sao. Đài thiên văn toàn thiên Đại Tần so với thời Tam Đại và Xuân Thu Chiến Quốc lớn hơn mấy trăm lần, xứng danh là kiệt tác đỉnh cao.

Tần Thủy Hoàng quả thực đã làm được những việc chưa từng có, hoàn thành nhiều cải cách về thể chế và văn hóa, lại xây dựng rất nhiều công trình kiến thiết to lớn mà tinh tế, thực sự vĩ đại phi phàm! Vạn Lý Trường Thành, cung A Phòng, mộ Ly Sơn và Đài thiên văn toàn thiên Đại Tần… đó đều là những công trình kiến trúc, văn hóa mang đặc sắc thiên triều Đại Tần được Tần Thủy Hoàng đem đến nhân gian. Quá trình từ khi Tần Thủy Hoàng thôn tính sáu nước đến khi ngài khuất thế chỉ vỏn vẹn 11 năm ngắn ngủi, nhưng Tần Thủy Hoàng đã hoàn thành các công trình vĩ đại này với tốc độ khó mà tưởng tượng nổi, đặt nền móng cho hậu thế mấy nghìn năm sau, mở ra khởi đầu tốt đẹp, được người đời sau ca ngợi là “Thiên cổ nhất đế” (Hoàng Đế đệ nhất thiên cổ).

8. Lấy quan lại làm thầy, lấy pháp luật để giáo hóa

Tần Thủy Hoàng tỏ tường lý luận Đạo gia và Âm Dương, biết rõ sự thay đổi các triều đại trong lịch sử là biến đổi theo quy luật vận chuyển của các thiên thể lớn hơn. Sử ký – Tần Thủy Hoàng bản kỷ có chép: “Tần Thủy Hoàng bắt đầu suy diễn thứ tự, lần lượt tính chu kỳ của đức tính ngũ hành, cho rằng triều Chu được Hỏa đức mà thống trị thiên hạ; Tần thay thế Hỏa đức của Chu mà được thiên hạ, vì thế nhất định phải dùng đức tính mà Chu đức không thể vượt qua được. Vậy nay, bắt đầu dùng Thủy đức, vì thế đổi tháng khởi đầu năm, quần thần vào triều chúc mừng định vào ngày sóc tháng 10 (ngày 1 tháng 10 âm lịch) mỗi năm. Y phục, tinh kỳ, cờ tiết đều dùng màu đen. Số lấy sáu là đơn vị, phù hiệu, pháp quán (mũ của quan ngự sử) đều dài sáu tấc, trục xe sáu thước, sáu thước làm một bộ, mỗi xe có sáu ngựa kéo. Đổi tên sông Hoàng Hà thành Đức Thủy, để thể hiện nơi khởi đầu của Thủy đức”.

Âm Dương gia Trâu Diễn cũng tiên đoán rằng, người thay Hỏa sẽ là Thủy, đức nhà Chu đã suy, Trời ắt sẽ để vị đế vương hợp với Thủy đức nhất thống thiên hạ. Hơn 500 năm trước khi Đại Tần lập nên, họ Trâu cũng đã đoán: “Ngoài ra, khi Tần Văn Công đi săn bắn đã săn được một con rồng đen, là điềm tượng trưng cho Thủy đức” (Sử ký – Phong Thiện Thư), tức là đã tiết lộ nước Tần sẽ ứng với Thủy đức thay nhà Chu (Hỏa). Do ngũ hành tương ứng với ngũ sắc, mà thủy đối ứng với màu đen. Cũng vì thủy của ngũ hành đối ứng với số sáu trong số thuật, do đó các khí cụ triều Tần đa phần lấy độ chia là sáu.

Trong quản lý hành chính quốc gia, Tần Thủy Hoàng lấy pháp luật để giáo hóa, dùng pháp lý để quản lý quốc gia. Chú trọng “lấy lại làm thầy” (Sử ký – Tần Thủy Hoàng bản kỷ). Tần Thủy Hoàng đích thân đặt ra pháp luật, và tự mình giảng pháp. “Hoàng đế đăng vị, định ra chế độ pháp luật sáng suốt” (Khắc đá Thái Sơn), “Đặt ra pháp luật chế độ ngay thẳng, công bằng, vạn vật đều có kỷ cương” (Khắc đá Lang Nha), “Thực hiện pháp luật nghiêm minh khắp nơi, trị lý thiên hạ, trở thành chuẩn tắc cho nhân gian đời đời” (Khắc đá Chi Phù). Tần Thủy Hoàng còn xây dựng chế độ pháp luật và hệ thống giám sát nghiêm minh chặt chẽ để dân chúng hiểu được pháp luật, hiểu rõ chế độ. “Lấy lại làm thầy”, “lại” không chỉ là quan lại hiểu rõ pháp luật, mà còn gồm cả quan tư pháp do đích thân Tần Thủy Hoàng đặt ra.

Thời thượng cổ, đạo đức nhân loại cao thượng, không cần đặt ra nhiều pháp luật để quản lý quốc gia và nhân dân. Đặc biệt là thời con người và Thần cùng tồn tại, như hình quan của vua Nghiêu là Cao Dao có nuôi con Giải Trãi (dê thần) trợ giúp phân biệt kẻ tội, Giải Trãi còn được gọi là Pháp thần thú. Khi thẩm án, thần thú dùng sừng húc về phía không có lý, thậm chí húc chết những kẻ phạm tội đáng chết vạn lần, làm những kẻ phạm tội khiếp sợ. Nhưng “lịch sử phát triển” của nhân loại lại là một bộ “lịch sử lùi”. Khi đạo đức con người ngày một thấp, càng ngày càng rời xa Thần, không thể dùng tâm pháp để ước thúc bản thân, thì chỉ có thể dựa vào pháp luật, dựa vào các điều lệ bên ngoài để ước thúc con người.

Đến thời Xuân Thu Chiến Quốc, Đại Tần kiến lập, đạo đức nhân loại đã không thể nào sánh với đạo đức nhân loại thượng cổ được. Tần Thủy Hoàng kiến lập thể chế quốc gia đại nhất thống, tiếp tục giáo hóa con người tu luyện tín Thần, nên đã đặt ra hệ thống pháp luật quản lý quốc gia.

Một phần điều khoản của “Hiệu luật” trên thẻ tre đời Tần (Ảnh: Vân Mộng Tần Giản)

Thẻ tre Vân Mộng Tần Giản khai quật tháng 12 năm 1975, trên có viết chữ Tần triện được xác định viết vào khoảng cuối thời Chiến Quốc đến thời Tần Thủy Hoàng. Nội dung bao gồm chế độ pháp luật, pháp quy hành chính triều Tần… Tổng cộng 1155 thẻ tre, trong đó hỏng 80 cái, phân loại chỉnh lý thành 10 bộ nội dung, bao gồm: “18 loại Tần luật”, “Hiệu luật”, “Chép lẻ Tần luật”, “Hỏi đáp pháp luật”, “Phương thức phong chẩn”, “Biên niên kỷ”, “Ngữ thư”, “Đạo làm quan lại”…

Trong đó, một bộ phận pháp luật đã chép nguyên văn hơn 20 đạo luật được thực thi đời Tần, tổng cộng chép 600 điều khoản pháp luật, chủ yếu ghi chép điều khoản pháp luật đời Tần, gồm: Luật; Lệnh (gồm chế và chiếu), chế là phê quyết định của Hoàng đế đối với một việc; Thức là văn bản, trình tự, hình thức pháp luật, trình tự cụ thể thẩm định văn bản pháp luật, chế độ quản lý hành chính nhân viên chấp pháp; như “Đạo làm quan lại”, “Hỏi đáp pháp luật”… Trong đó có ghi chép 18 loại luật Tần: luật ruộng đất, luật quản lý nuôi gia súc, luật kho tàng, luật tiền tệ, luật thị trường, điều động lao động, định mức sản xuất công, luật lao dịch, quan tước, luật quân tước, luật bố trí quan lại, hiệu, luật cung cấp ăn ở, hành, nội sử, úy tạp, thuộc bang.

Từ thẻ tre Vân Mộng Tần Giản có thể thấy phạm vi luật triều Tần phủ khắp hết sức chi tiết tường tận đầy đủ các lĩnh vực quốc gia, xã hội và gia đình. Việc tìm thấy được Tần luật đã mang đến cho chúng ta một nhận thức mới về chế độ đời Tần hoàn toàn không phải chế độ hà khắc như người đời vẫn truyền lại. Thời Tần Thủy Hoàng trị nước lấy pháp luật làm căn cứ, chấp pháp nghiêm khắc, công bằng. Pháp luật đời Tần có quyền lực tuyệt đối đối với quan lại và dân chúng.

“Đạo làm quan lại, phải tinh thông liêm khiết chính trực, cẩn thận kiên định, thẩm xét phải vô tư, tra xét từng chi tiết nhỏ, yên định không được hà khắc, thưởng phạt thích đáng”, thực hiện phương châm “Minh chủ trị quan lại không trị dân”, cho rằng quan lại làm giềng mối cho dân. Yêu cầu rất nghiêm khắc đối với quan lại.

“Đạo làm quan lại” yêu cầu quan lại phải có Ngũ thiện: Trung tín kính trên; Thanh liêm không phỉ báng; Mọi việc phải thẩm tra thỏa đáng; Vui làm việc tốt; Cung kính nhường nhịn. Ngũ thất là: Nói xằng; Tự đại; Lạm quyền; Tùy tiện phạm thượng; Trọng tiền tài, khinh nhân tài. Đề xướng “Khoan dung trung tín; bình hòa không oán hận; Hối lỗi không tái phạm; Nhân từ với người dưới không lăng nhục; Kính trên không phạm thượng; Nghe can gián chớ bỏ qua; Thẩm xét khả năng của dân; Khéo sử dụng sức dân; Có công thì thưởng; Làm đúng thì khen”.

Quan lại làm tốt “Ngũ thiện”, phải được thưởng lớn. Làm việc trái pháp lệnh, lơ là chức phận, quan lại tham lam làm sai pháp luật, đưa nhận hối lộ, phải phạt tiền, nặng thì phải lưu đày (Sách Ngữ thư). Từ đó có thể thấy, tại sao Tần Thủy Hoàng dùng sách lược “Lấy quan lại làm thầy” lại có hiệu lực như thế.

“Phong chẩn thức” trong Tần luật là nội dung liên quan đến nguyên tắc xét xử, và những quy định và án lệ đối với các công việc điều tra, thẩm vấn, tra xét… Ví dụ trong “Tấn ngục” (Tra án) có chép: “Việc thẩm vấn, trước tiên phải nghe họ nói mà ghi lại, người nào nói lời cung khai của người đó, tuy đã biết là khai gian dối, cũng không được tự ý hỏi vặn. Khi họ nói hết, chép lại mà không giải án được, thì người thẩm vấn sẽ thẩm vấn họ. Thẩm vấn cũng phải nghe cho hết rồi chép lại, sau đó mới giải án, thấy chỗ khác chưa giải được, thì lại thẩm vấn lại”. Ở đây, bảo đảm quyền lợi được nói của kẻ nghi phạm, bị cáo và nguyên cáo mỗi bên đều được nói ý kiến của mình, đối chứng ghi chép nhiều lần. Tần Thủy Hoàng thực thi chính sách này đã đi trước cả phương Tây mấy nghìn năm.

Cho dù dùng hình, cũng có quy định nghiêm khắc. “Cật vấn mà vẫn khai gian dối, càng nói càng bất hợp lý, thì luật nên đánh roi, đánh gậy. Đánh bằng roi, gậy thì phải chép: đã khai gian dối bao nhiêu lần, không chịu giải thích đúng sự tình, đánh roi thẩm vấn”. Tức là khi nghi phạm cự tuyệt không nói rõ sự tình, xảo ngôn dối trá, liên tiếp thay đổi lời khai, có quy định pháp luật những tình tiết có thể dùng hình, còn phải ghi chép lại (viên thư), rồi mới được đánh roi.

“Hỏi đáp pháp luật” dùng hình thức hỏi đáp để giải thích mục đích của các điều khoản, thuật ngữ và luật văn của Tần luật, tương đương với giải thích pháp luật ngày nay. Chủ yếu là giải thích bộ phận chính của Tần luật (tức tương đương Luật hình sự ngày nay), ngoài ra còn một số giải thích trình tự tố tụng.

Thông qua việc chế định ra các pháp luật và các biện pháp thực thi pháp luật này, Tần Thủy Hoàng đã trị sửa phong tục của dân chúng, giáo hóa thiên hạ, “Nghiêm cấm dâm dật, nam nữ trong sạch thành thật” (Bia đá Cối Kê), không chỉ chấn hưng phong tục dân chúng đương thời, còn mở đầu nền chính thống cho hậu thế, tức “tục đồng luân” hoặc “hành đồng luân” (tức là phong tục thống nhất, hành vi thống nhất).

Tần luật được hoàn thành, ban bố và thực hiện, chính là cột mốc đánh dấu cho những nỗ lực vĩ đại sau khi thống nhất. Vương triều Tần thống nhất là sự thống nhất toàn diện trên mọi phương diện, ngoài thống nhất pháp luật, còn thống nhất kinh tế và văn hóa. Triều Tần tuy chỉ tồn tại ngắn ngủi 15 năm, nhưng thể chế hoàng quyền, pháp luật, kinh tế, văn tự đã được các triều đại sau này áp dụng, kéo dài trên 2000 năm.

(Còn tiếp)



Ngày đăng: 12-12-2022

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.