Nhân vật anh hùng thiên cổ Trung Quốc – Tần Thủy Hoàng (3): Minh chủ trị quốc, đặt nền móng cho trăm đời sau



Tổ nghiên cứu nhân vật anh hùng thiên cổ của văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm (Epochtimes)

[ChanhKien.org]

1. Bình định thiên hạ, mở mang bờ cõi

Tần Thủy Hoàng là vị minh quân có hùng tâm tráng chí, đã dành cả cuộc đời chăm lo chính sự. Sử sách viết Tần Thủy Hoàng “ngày phán quyết án ngục, đêm xử lý văn kiện”, ngày qua ngày chăm lo chính sự như thế. Theo sử sách ghi chép, mỗi ngày ông phê duyệt các giản trát (đời xưa chưa có giấy, viết vào thẻ tre gọi là giản trát) tấu, thỉnh lên tới hơn 65kg.

Sau khi hoàn thành đại nghiệp thống nhất, bằng hùng tài đại lược phi phàm của mình ông lại mở mang bờ cõi, nhanh chóng soạn ra và ban bố một loạt các pháp lệnh mang tính khai sáng, từ đó lập ra và hoàn thiện hoàng triều thống nhất đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Thể chế hoàng triều mà ông kiến lập đã đặt nền móng vững chắc cho dân tộc Trung Hoa trong suốt 2000 năm sau đó, mở ra một chương mới trong lịch sử.

Trong lịch sử, ba vương triều Hạ, Thương, Chu trước triều Tần được tính là ba nước lớn. Các nước tầm trung gọi là phong quốc hoặc chư hầu; các nước nhỏ thì gọi theo tên bộ tộc, có số lượng nhiều la liệt như sao trời. Trạng thái giữa các nước vẫn luôn trong quá trình dung hợp và thôn tính lẫn nhau.

Cương vực triều Hạ trải dài đến hai phía Nam Bắc vùng trung du sông Hoàng Hà. Nhà Thương diệt triều Hạ, cương vực mở rộng đến hai bên hạ du sông Hoàng Hà nhưng đều không có biên giới rõ ràng. Sau khi nhà Tây Chu diệt nhà Thương, xưng là “Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ” (theo Kinh Thi – Tiểu Nhã – Bắc Phong), (tạm dịch: suốt cõi thiên hạ, không nơi nào không thuộc vua). Theo Đại phu vương thất nhà Chu Chiêm Hoàn Bá thời Xuân Thu ghi lại: “Từ triều đại nhà Hạ, nhờ công của Hậu Tắc mà các đất Ngụy, Đài, Nhuế, Kỳ và Tất mới thuộc về Tây Chu. Đến khi Vũ Vương diệt nhà Thương, thì các đất Bồ, Cô và Thương, Yểm thuộc về các vùng đất phía Đông của nhà Chu ta. Các đất Ba, Bộc, Sở, Đặng thuộc về các vùng đất phía Nam của nhà Chu. Các đất Tiêu, Thận, Yên, Bạc thuộc về các vùng đất phía Bắc của nhà Chu ta” (Tả truyện – Chiêu Công cửu niên). Nhưng vương triều Chu vẫn không thống nhất được các vùng đất trong phạm vi này, vương thất chỉ chiếm cứ vùng đất của kinh đô, các vùng khác đều là các phong quốc lớn nhỏ, đều ở trạng thái độc lập hoặc bán độc lập. Thời Xuân Thu, vương thất suy vi, nước lớn tranh bá; thời Chiến Quốc là thời kỳ chiến tranh giữa bảy nước lớn, thì càng chưa nói đến thống nhất. Duy đến thời Tần Thủy Hoàng mới thay đổi căn bản hình thế lãnh thổ của những thời kỳ trước đó.

Sau khi Tần Thủy Hoàng tiêu diệt sáu nước, không ngừng nhịp bước tiến lên, lệnh cho thống soái đội quân đã diệt nước Sở là Vương Tiễn tiếp tục tiến quân xuống phía Đông Nam. Nước Việt phía Đông đầu hàng. Thủy Hoàng đem cương thổ nước Việt đặt thành quận Cối Kê (Tô Châu, Giang Tô ngày nay). Nước Mân Việt đầu hàng, đặt thành quận Mân Trung (Phúc Châu, Phúc Kiến ngày nay). Thủy Hoàng lại lệnh cho Úy Đồ Tuy tiến quân xuống Lĩnh Nam, đặt khu vực phía Bắc Nam Việt làm ba quận gồm Nam Hải (Quảng Châu, Quảng Đông ngày nay), Quế Lâm (Quế Bình, Quảng Tây ngày nay) và Tượng (Sùng Tả ngày nay). Lại lệnh Thường Át tiến quân xuống phía Tây Nam, mở đường năm thước từ phía Nam Nghi Tân, Tứ Xuyên đến Khúc Tĩnh, Vân Nam ngày nay.

Từ năm 770 TCN đến 221 TCN là thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc, trong thời gian 549 năm, các nước chư hầu hỗn chiến không ngừng nghỉ, bách tính vì tránh họa chiến tranh phải lưu lạc không nhà cửa, nông nghiệp bị hủy hoại trầm trọng, đồng ruộng bỏ hoang rất nhiều. Trong khi các nước ở Trung Nguyên mải mê chinh phạt lẫn nhau, buông lỏng chú ý đến phía Bắc, thì Hung Nô thừa cơ xâm chiếm xuống phía Nam, đánh cướp vùng đất biên cương phía Bắc ba nước Tần, Triệu, Yên. Quân Hung Nô tiến xuống phía Nam quấy nhiễu nhân dân vùng biên giới gây muôn trùng tai nạn cho sản xuất và cuộc sống của con dân Hoa Hạ.

Tần Thủy Hoàng năm thứ 32 (tức năm 215 TCN), lệnh cho tướng quân Mông Điềm dẫn 30 vạn quân lính lên phía Bắc đánh đuổi Hung Nô, thu phục Hà Nam (Y Khắc Chiêu Minh, Nội Mông Cổ ngày nay) đặt làm 34 huyện. Lại vượt sông Hoàng Hà về phía Bắc chiếm Âm Sơn, nối liền các đoạn trường thành của các nước Tần, Triệu, Yên xưa thành một thể, đầu Tây bắt đầu từ Lâm Thao (Huyện Mân, Cam Túc ngày nay), đầu Đông đến sông Áp Lục, kéo dài vạn dặm, để ngăn Hung Nô phía Bắc. Đây chính là Vạn Lý Trường Thành nổi tiếng.

Sau khi tiêu trừ mối họa Hung Nô, Tần Thủy Hoàng lại lập tức điều chuyển hướng, quyết tâm khai phát khu vực Việt tộc. Ông di dời gần 50 vạn nhân khẩu đến khu vực Việt tộc để sinh sống cùng người Việt, đưa văn hóa Trung Quốc truyền đến các khu vực và người dân xung quanh.

Khi Tần Thủy Hoàng tại vị, đã mở rộng phạm vi lãnh thổ lên gấp đôi so với thời Chiến Quốc Thất hùng. Tần Thủy Hoàng còn thiết lập chế độ quận huyện (một cơ cấu hành chính hoàn toàn khác so với chế độ phân phong chư hầu trước đó), chú trọng quản lý và xây dựng chế độ ở những vùng đất chinh phục được, vì thế đã khiến cho những vùng đất đó trở nên ổn định. Người đời sau cho rằng: “Công không ai lớn hơn Tần Hoàng Hán Vũ“, ý nói Tần Thủy Hoàng và Hán Vũ Đế công cao vô lượng không ai sánh kịp.

Tần Thủy Hoàng là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc thống nhất được lãnh thổ Trung Nguyên từ Bắc đến Nam. Cương thổ nước Tần “Phía Đông đến biển, tới Triều Tiên; phía Tây đến Lâm Thao, Khương Trung; phía Nam đến khu vực Bắc Hướng Hộ (nay là miền Trung của Việt Nam), phía Bắc lấy sông Hoàng Hà làm biên giới, dựa vào Âm Sơn kéo dài đến Liêu Đông” (Sử ký – Tần Thủy Hoàng bản kỷ). So với cương thổ thời Tây Chu thì tăng ít nhất năm lần, đặt ra cơ sở lãnh thổ cho các vương triều sau này. Đồng thời truyền rộng văn hóa Trung Hoa đến nhiều chủng tộc và khu vực hơn.

2. Hoàng đế đứng đầu, sau là tam công cửu khanh

Thiết lập Hoàng đế là nguyên thủ quốc gia: Tần Thủy Hoàng phế “Vương” hiệu, xưng “Hoàng đế” là cột mốc lớn khai sáng lịch sử. Thời cổ chỉ có Tam Hoàng, Ngũ Đế, nhưng chưa từng có danh xưng Hoàng đế. Hoàng đế không còn là “dòng chính” trong họ tộc như theo chế độ xưa nữa, mà là quốc quân chí cao vô thượng. Tương ứng với điều đó, thì Hoàng hậu cũng không phải là chính thê của các quốc vương như theo chế độ xưa nữa, mà đã là nữ chủ cai quản lục cung, bậc mẫu nghi thiên hạ. Hoàng thái tử cũng không phải là “đích tôn” trong họ tộc theo chế độ xưa, mà đã là chư quân, là người kế vị Hoàng đế hợp pháp. Hoàng đế có địa vị ở trên các bậc quân, vương. Quân và vương là do Hoàng đế phong hoặc miễn. Quyền của Hoàng đế là do Thần trao cho, là chí cao vô thượng ở nhân gian. Tần Thủy Hoàng trên kế thừa cục diện hơn 2000 năm thời Tiên Tần, dưới mở ra tương lai hơn 2000 năm cho hậu thế, trở thành vị Hoàng đế đầu tiên trong lịch sử văn minh Trung Hoa.

Sử ký – Tần Thủy Hoàng bản kỷ viết:

Tần Vương vừa thôn tính xong thiên hạ, bèn lệnh Thừa tướng, Ngự sử rằng: “Xưa Hàn Vương dâng đất, giao ấn tỷ, xin làm phiên thần, sau đó bội ước, hợp tung với Triệu, Ngụy để chinh phạt nước Tần, vì thế hưng binh chinh phạt nước Hàn, bắt sống Hàn Vương. Quả nhân cho là rất tốt, có lẽ cũng dừng binh được rồi. Triệu Vương sai Tể tướng Lý Mục đến kết liên minh, quả nhân trả lại con tin nước Triệu. Không lâu sau, Triệu Vương vi phạm minh ước, phản lại quả nhân ở Thái Nguyên, vì thế, hưng binh thảo phạt, bắt sống Triệu Vương. Triệu công tử Gia tự lập làm Đại vương, do đó ta phát binh tiêu diệt. Ngụy Vương ban đầu thệ ước hàng phục Tần, sau đó lại cùng Hàn Triệu mưu đồ tập kích Tần, nước Tần lại hưng binh thảo phạt, tiêu diệt nước Ngụy. Sở Vương (còn gọi là Kinh Vương) dâng cho ta vùng đất từ Thanh Dương kéo dài về phía Tây, sau đó phản lại ước định, đánh Nam Quận của ta, vì thế ta phát binh tru diệt nước Sở, bắt được Sở Vương, bình định được đất Kinh Sở. Yên Vương hôn quân làm loạn, Thái tử Đan mật lệnh Kinh Kha thích sát ta, nên phái quân chinh phạt, diệt nước Yên. Tề Vương dùng kế của Vương Hậu Thắng, đoạn tuyệt bang giao với nước Tần, muốn làm loạn, nên phái binh chinh phạt nước Tề, bắt sống được Tề Vương, bình định nước Tề. Quả nhân dựa vào sức nhỏ bé không đáng kể của bản thân, hưng binh tru diệt bạo loạn, nhờ uy linh tông miếu, quân vương sáu nước đều thần phục nhận tội, vì thế mà bình định được thiên hạ. Nay nếu không thay đổi danh hiệu thì không lấy gì để ca tụng công tích của quả nhân, lưu truyền hậu thế. Các khanh hãy thảo luận một phen xưng hiệu của đế vương”.

Thừa tướng Vương Quán, Ngự sử đại phu Phùng Kiếp, Đình úy Lý Tư nói: “Xưa Ngũ Đế đất đai chỉ vuông ngàn dặm, bên ngoài lại có Hầu phục Di phục, chư hầu có kẻ xưng thần mà đến triều cống, lại có kẻ không thần phục, Thiên tử không thể chế ngự được họ. Nay bệ hạ hưng nghĩa binh, tru diệt tặc tử bạo loạn, bình định thiên hạ, thiết lập quận huyện trên toàn quốc, pháp luật chính lệnh thống nhất, đây là công tích từ thượng cổ đến nay chưa từng có, Ngũ Đế không thể sánh được. Chúng thần cẩn trọng nghị đàm với các bậc bác học rằng: “Xưa có Thiên hoàng, có Địa hoàng, có Thái hoàng, Thái hoàng là tôn quý nhất”. Chúng thần ngu muội trình tôn hiệu, vương xưng là “Thái hoàng”. Mệnh của Thiên tử gọi là “Chế”, lệnh của Thiên tử gọi là “Chiếu”, Thiên tử tự xưng là “Trẫm”. Tần Vương nói: “Bỏ chữ “Thái”, giữ lại chữ “Hoàng”, lại dùng danh hiệu “Đế” của thượng cổ, gọi là “Hoàng đế”. Những việc khác theo lời tấu của các khanh. Vì thế hạ chế viết: “Được”. Vua lại cho truy tôn Trang Tương Vương là Thái thượng hoàng. Lại ban bố chế mệnh: “Trẫm nghe thời thái cổ có hiệu không có thụy, thời trung cổ có hiệu, sau khi băng hà thì căn cứ sự tích bình sinh mà truy thêm một chữ thụy. Như vậy tức là con nghị luận cha, thần tử nghị luận quân chủ vậy, thật không có gì để nói, trẫm không áp dụng theo. Từ nay về sau, bỏ phép thụy. Trẫm là Thủy hoàng đế”.


Sử ký – Tần Thủy Hoàng bản kỷ: “Quả nhân dựa vào sức nhỏ bé không đáng kể của bản thân, hưng binh tru diệt bạo loạn, nhờ uy linh tông miếu, quân vương sáu nước đều thần phục nhận tội, vì thế mà bình định được thiên hạ”. (Tân Đường Nhân “Tiếu đàm phong vân” cung cấp).

Tần Thủy Hoàng là vị Hoàng đế đầu tiên của lần văn minh lần này của dân tộc Hoa Hạ, cái tên “Thủy Hoàng Đế” đã nói lên tất cả. Tần Thủy Hoàng còn đặt ra chức Thừa tướng, Tam công, Cửu khanh, phụ trách các bộ của triều đình. Các Thừa tướng sẽ tự chịu trách nhiệm trước Hoàng đế, tất cả nghe lệnh Hoàng đế. Thừa tướng cai quản chính sự, Ngự sử phụ trách giám sát, Đình úy thi hành tư pháp quốc gia, phân công rõ ràng, không giẫm chân lẫn nhau. Việc phân công này cũng tương tự như thể chế tam quyền phân lập ở phương Tây hiện nay. Ngoài ra, Hoàng đế còn bãi bỏ chế độ bổng lộc và chức tước truyền đời, quan chức từ trung ương đến địa phương đều do Hoàng để bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm, không được thế tập (nối dõi). Tuy rằng sau đó mỗi triều Thiên tử mỗi triều thần, mỗi triều chúng sinh mỗi triều văn hóa, nhưng thể chế hoàng quyền mà Tần Thủy Hoàng xây dựng thì luôn luôn được các triều đại kế thừa, cho đến tận triều Thanh mới kết thúc, tổng cộng thể chế này tồn tại hơn 2000 năm. Trên toàn thế giới chỉ có Trung Quốc có Hoàng đế, ngay cả quân, vương cũng là do Hoàng đế phong.

3. Hành chính địa phương, chế độ quận huyện

Tần Thủy Hoàng bãi bỏ chế độ phân phong, thiết lập kết cấu hành chính cơ sở các cấp quận, huyện, hương (xã), đình (thôn), lý (làng) do trung ương trực tiếp quản lý. Kết cấu quản lý này được kéo dài liên tục hơn 2000 năm, đến ngày nay vẫn còn sử dụng.

Về chế độ hành chính địa phương quận, huyện: Tần Thủy Hoàng ban đầu chia thiên hạ làm 36 quận, sau tăng lên 40 quận, quận trực thuộc trung ương, tại mỗi quận đặt ba chức quân đứng đầu là Thú, Úy, Giám, chia nhau nắm quyền hành chính (quận thú), quân sự (quận úy), giám sát (quận giám). Dưới quận thiết lập huyện, đặt ba chức đứng đầu là Lệnh, Thừa, Úy, chia nhau nắm quyền hành chính (huyện lệnh), văn ngục (huyện thừa), quân sự (huyện úy). Các quan đứng đầu quận và huyện nhậm mệnh triều định đảm nhiệm, do Hoàng đế bổ nhiệm, bãi miễn.

Chế độ quận huyện là cột mốc quan trọng trong lịch sử Trung Quốc. Theo Sử ký – Tần Thủy Hoàng bản kỷ, năm 221 TCN (tức Tần Thủy Hoàng năm thứ 26), nước Tần mới thống nhất thiên hạ, thừa tướng Vương Quán nói: “Chư hầu mới phá xong, Yên, Tề, Kinh (Sở) đều ở xa, không thiết lập vương hầu thì không lấy ai quản được. Xin cho các Hoàng tử tới làm vương, mong Hoàng thượng ân chuẩn”. Tần Thủy Hoàng cùng với các đại thần nghị luận, quần thần đều cho là như thế rất tốt. Riêng Đình úy Lý Tư bàn rằng: “Chu Văn Vương, Chu Võ Vương phân phong cho con cháu cũng như chư hầu cùng họ rất nhiều, nhưng sau này quan hệ xa dần, công phạt lẫn nhau, Chu Thiên tử không có cách nào ngăn cản. Nay khắp cõi nhờ thần linh bệ hạ mà được nhất thống, toàn quốc đã thiết lập quận huyện, các Hoàng tử và công thần thì lấy thuế khóa công mà trọng thưởng, như thế dễ bề khống chế. Thiên hạ không có lòng khác, đó là cách yên định thiên hạ vậy. Thiết lập chư hầu không thỏa đáng”. Thủy Hoàng nói: “Thiên hạ khốn khổ, chiến tranh không ngừng, là do các vương, hầu. Nhờ bảo phúc của tổ tông, thiên hạ mới yên định, nếu lại lập lại các nước, tức là gieo trồng mầm binh đao mà lại cầu yên ổn, há chẳng khó thay! Đình úy bàn rất đúng”. Tần Thủy Hoàng làm theo lời tấu của Lý Tư, bãi bỏ chế độ phong đất, thúc đẩy tiến hành chế độ quận huyện.

Tần Thủy Hoàng kiến lập hoàng triều Đại Tần. Từ đó đến gần 1700 năm về sau, chế độ quản lý của Trung Quốc luôn tiên tiến hơn các nước phương Tây. Đó chính là “Hán thừa Tần chế” (nghĩa là nhà Hán kế thừa và phát huy những chế độ chính sách do nhà Tần tạo ra) trích trong Hậu Hán thư – Ban Bưu truyện. Trung Quốc trong hơn 2000 năm các thời đại Hoàng quyền về cơ bản vẫn luôn sử dụng chế độ mà nhà Tần đã thiết lập.

Chế độ Hoàng triều này của Tần Thủy Hoàng là mẫu mực văn minh của chế độ cổ đại Trung Quốc, là Thần bảo hộ cho dân tộc Trung Hoa. Suốt hơn 2000 năm nay, cương thổ được gìn giữ, văn hóa Thần truyền được phong phú thêm đều là nhờ lợi ích từ một thể chế hoàng triều này.

4. Xây dựng đường xe ngựa, mở rộng Vạn Lý Trường Thành

Năm thứ hai sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất toàn quốc, ông hạ lệnh nối liền các đường cũ của nước Tần và sáu nước trước đây, đồng thời đẩy mạnh xây dựng các đường xe ngựa để Thiên tử tuần hành thiên hạ. Phần đường ở giữa đường xe ngựa gọi là “Ngự đạo” (đường của vua đi), hai bên gọi là “bàng đạo” (đường bên). Đường xe ngựa rộng rãi, bằng phẳng, xe đi trên đường này tốc độ cực nhanh. Theo ghi chép của người đời Hán, đi trên đường lớn nửa ngày có thể chạy được trên 200 dặm (tức khoảng 100km).

Tần Thủy Hoàng còn hạ lệnh xây dựng những tuyến đường xe ngựa hình mạng nhện với trung tâm là Hàm Dương. Con đường này phía Bắc đến quận Cửu Nguyên (Bao Đầu, Nội Mông Cổ ngày nay), phía Đông đến Thành Sơn Đầu (Vinh Thành, Sơn Đông ngày nay), phía Nam đến quận Nam Hải (Quảng Châu ngày nay), phía Tây Nam đến Điền (vùng Điền Trì, Vân Nam ngày nay), phía Tây đến quận Lũng Tây (huyện Mân, Cam Túc ngày nay). Đường xe ngựa rộng 10 đến 15 trượng (khoảng 33 – 50 mét), gặp núi mở núi, gặp sông bắc cầu, mặt đường toàn bộ dùng đá vôi và đất dính đầm nện thành. Những tuyến đường xe ngựa này, trải qua hơn 2000 năm mưa gió, đến nay nhiều đoạn vẫn có thể thấy hình dạng mặt đường năm xưa, chất lượng thực sự rất cao.

Để loại bỏ mối lo các dân tộc du mục phương Bắc nhiều lần xâm phạm, Tần Thủy Hoàng hạ lệnh tu sửa trường thành để chống ngoại xâm, đồng thời sai Mông Điềm xuất binh thảo phạt. Vốn giữa các nước trước đây đều có một số trường thành nhưng trường thành phía Bắc chưa hoàn thiện. Sau khi thống nhất, ông hạ lệnh phá dỡ trường thành cũ của các nước, rồi nối liền trường thành của ba nước Tần, Triệu, Yên để ngăn ngừa quân Hung Nô tiến xuống phía Nam. Tần Thủy Hoàng đã để lại cho hậu thế Vạn Lý Trường Thành nổi tiếng mà cả thế giới đều ngưỡng mộ.

Tần Thủy Hoàng hạ chỉ cho Phù Tô đến vùng biên giới để rèn luyện, giúp đỡ tướng quân Mông Điềm xây dựng trường thành, chống cự Hung Nô. Tranh vẽ Bát đạt lĩnh Trường Thành Bắc Kinh (nguồn Wikipedia)

Người đời sau vì để vu cáo Tần Thủy Hoàng “tàn bạo” như thế nào, đã lấy chiến tướng Kỷ Lương nước Tề thời Xuân Thu xuyên tạc thành Phạm Kỷ Lương, tạo nên câu chuyện nàng Mạnh Khương tìm chồng khóc đổ Trường Thành. Còn có người vì những người đó mà lập miếu dựng tượng, tốn rất nhiều công sức. Kỳ thực trường thành trong câu chuyện nàng Mạnh Khương, không phải Trường Thành thời Tần, mà là trường thành nước Tề. Đông Chu liệt quốc của tác giả Phùng Mộng Long đời Minh từ mấy trăm năm trước đã làm rõ vấn đề này. Đại tướng của Tề Trang Công là Kỷ Lương chết trận ở Thả Vu Môn. “Nàng Mạnh Khương rước linh cữu chồng để đem chôn ở ngoài thành, ngủ giữa trời ba đêm, ôm linh cữu mà khóc, đến nỗi hết cả nước mắt, máu tươi chảy ra. Bỗng thành nuớc Tề sụt lở mất mấy thước, người ta bảo rằng đó là vì nàng Mạnh Khương khóc lóc thảm thiết cảm động đến trời đất như vậy. Đời sau truyền chuyện Phạm Kỷ Lương người nước Tần vì bị sai đi xây dựng Trường Thành mà chết, vợ anh ta là Mạnh Khương Nữ đem áo rét đến dưới thành, nghe tin chồng chết khóc thống thiết, thành vì vậy đã nứt đổ. Vốn là sự việc của Kỷ Lương tướng nước Tề, mà truyền sai đi như vậy”.

Xây sửa Vạn Lý Trường Thành thực sự là một trong những công tích vĩ đại quan trọng nhất của Tần Thủy Hoàng. Sau này, tiên sinh Tôn Trung Sơn đã bình luận về Trường Thành: “Do đó các công trạng sự nghiệp của các đời từ Tần Hán về sau, không cái gì có thể so với Cửu Hà của Đại Vũ và Trường Thành của Tần Thủy Hoàng…”. “Công trình trên lục địa nổi tiếng nhất Trung Quốc chính là Vạn Lý Trường Thành”. “Đến nay nhìn xem, nếu không có Trường Thành bảo vệ thì Trung Quốc đã bị diệt vong bởi địch phương Bắc rồi, chẳng phải chờ đến đời Tống, Minh mà ngay đời Sở Hán đã bị diệt rồi”.

Trường Thành là một trong bảy đại kỳ quan thế giới hiện nay, bản thân nó không chỉ là văn hóa nhân loại, kỳ tích kỹ thuật được lưu truyền cho hậu thế, mà hơn hết chính bởi sự tồn tại của Vạn Lý Trường Thành, đã bài trừ tất cả nhiễu loạn đối với văn hóa Thần truyền trên vũ đài lớn Trung Hoa, khiến cho văn hóa chính thống được bảo vệ.

Đương thời, Tần Thủy Hoàng vì để đưa vùng đất Bách Việt, Lĩnh Nam nhập vào bản đồ Trung Quốc đã phái Đồ Tuy là chủ soái, dẫn 50 vạn quân Nam chinh Bách Việt. Nhưng đại quân triều Tần đã vấp phải sức kháng cự ngoan cường của Bách Việt, cộng thêm đường núi Lĩnh Nam gập ghềnh, vận chuyển lương thảo khó khăn, dẫn đến quân Tần bị tổn thương, ba năm không thể tiến quân được.

Lưu vực sông Trường Giang và lưu vực sông Châu Giang cách nhau bởi dãy núi Ngũ Lĩnh, vốn không có đường thủy thông qua. Nhưng ở thượng nguồn sông Tương Giang (một nhánh của Trường Giang) và thượng nguồn của nhánh sông Châu Giang, lại cùng bắt nguồn ở vùng Hưng An, Quảng Tây ngày nay, có chỗ chỉ cách nhau 1,5km. Chỉ cần nối thông hai con sông này, thì thuyền vận chuyển lương thảo từ vùng Trung Nguyên có thể theo đường thủy vượt qua Ngũ Lĩnh, tiến vào Lĩnh Nam. Tần Thủy Hoàng thấy điều kiện địa lý như vậy, đã khéo tận dụng. Vào năm Tần Thủy Hoàng thứ 29 (tức năm 218 TCN), ông lệnh cho Giám ngự sử Lộc, đốc suất binh sĩ huyện Hưng An, Quảng xây dựng một con sông đào để vận chuyển lương thảo. Trên ngọn núi Phân Thủy Lĩnh đục một dòng chảy, dẫn nước sông Tương vào sông Ly, tạo lên một truyền kỳ bất hủ trong lịch sử sông đào của nhân loại.

Năm Tần Thủy Hoàng thứ 30 (năm 214 TCN), sông đào đục xong, tức là sông đào Linh Cừ ngày nay. Nó nối liền hai dòng sông Tương – Ly, nối thông Trường Giang và Châu Giang, nối liền mạng lưới vận tải thủy của miền Nam Trung Quốc, khiến quân Tần có được nguồn cung cấp lương thảo và nguồn bổ sung binh lực đầy đủ không ngừng. Quân Tần nhanh chóng thống nhất Lĩnh Nam. Sông đào Linh Cừ cùng với đập Đô Giang Yển và sông đào Trịnh Quốc Cự cùng được ca ngợi là “Ba đại công trình thủy lợi đời Tần”, là một trong những con sông đào cổ xưa nhất thế giới, hơn nữa vẫn còn được sử dụng cho đến tận ngày nay.

(Còn tiếp)



Ngày đăng: 11-12-2022

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.