Trang chủ Right arrow Văn hóa Right arrow Văn hóa truyền thống

Thập nhị kinh giản lược (Phần 7): Tóm lược về "Nhĩ Nhã"

30-09-2025

Tác giả: Quý Đại biên soạn

[ChanhKien.org]

Nhĩ Nhã là gì?

Trong thiên “Thuật Nhi” của Luận Ngữ có câu: “Tử sở nhã ngôn, thi thư chấp lễ, giai nhã ngôn dã”. Lời nhã mà Khổng Tử sử dụng chính là khi thông đọc hoặc giảng dạy Kinh Thi, Kinh Thư và thực hành lễ. Thi thư chấp lễ đều là lời nhã vậy. Trịnh Huyền chú thích: “Khi đọc điển pháp của các bậc tiên vương, ắt phải chỉnh đốn âm thanh cho đúng, sau đó nghĩa mới trọn vẹn, do đó không thể lơ là hay qua loa được”. Ở đây, “điển pháp của tiên vương” tức là chỉ ba thứ Kinh Thi, Kinh Thư và Lễ Nghi như đã nói trên mà thôi. Vì vậy, nhã ngôn chính là lời nói dùng để truyền đạt chính nghĩa của Lục Kinh vậy.

Trong sách “Kinh Điển Thích Văn” của Lục Đức Minh đời Đường chép rằng: “‘Nhĩ’ nghĩa là gần, ‘Nhã’ nghĩa là chính. Ý nói lời nói gần gũi mà giữ được sự chuẩn mực”. Có thuyết lại cho rằng “Nhĩ” là phụ, tức là phụ thuộc vào Lục Kinh, dùng để chú giải Lục Kinh. Vì thế, trong tác phẩm Luận Hành Vương Sung coi “Nhĩ Nhã” là “chú giải từ ngữ của Ngũ Kinh”, còn trong “Phương Ngôn” thì Dương Hùng xem Nhĩ Nhã là “sách giải thích Lục Kinh” của môn đệ Khổng Tử, chuyên dùng để diễn giải nghĩa chữ và ý tứ trong Lục Kinh.

Quách Phác đời Tấn nói: “Nhĩ Nhã là công cụ dùng để thông hiểu cổ huấn”. Lục Đức Minh đời Đường nói: “Đây quả là con đường để thông suốt Cửu Kinh, là kim chỉ nam của trăm họ”. Hình Bỉnh đời Tống lại nói: “Đây quả thật là khởi nguồn của việc chú giải, là chỗ then chốt của kinh điển vậy”. Đối chiếu lời bàn của các học giả qua các thời kỳ có thể thấy, Nhĩ Nhã thực chất là một cuốn sách công cụ dùng để chú giải Lục Kinh, giống như từ điển ngôn ngữ ngày nay vậy. Bản thân nó không có nội dung chủ đạo riêng, nên trong lịch sử không có sự truyền thừa qua các thế hệ hay học phái gia nào.

Được xếp vào kinh điển

Các bậc chư tử thời Tiên Tần dường như không mấy coi trọng “Nhĩ Nhã”, về sau người đời cũng xếp nó vào loại tiểu học. Tương truyền, vào thời Hán Vũ Đế cử hành lễ Giao Xạ, có người săn được một con chuột lớn có vằn như da báo, nhưng không ai biết tên gọi là gì. Khi ấy có một vị quan hiếu liêm lang (tên một chức quan, thời Hán có chế độ các quận, huyện phải tiến cử người có hiếu và liêm để triều đình bổ nhiệm làm quan hoặc cho vào cung học) tên là Chung Quân liền tâu rằng đó là “báo văn dứu thử” (chồn da báo). Vũ Đế hỏi ông căn cứ vào đâu, Chung Quân thưa rằng có ghi chép trong “Nhĩ Nhã”. Nhân đó, Hán Vũ Đế rất khen ngợi sự uyên bác của ông, ban thưởng hậu hĩnh. Từ đó trở đi, các học giả đua nhau đọc và chú thích Nhĩ Nhã.

Sau thời Hán Vũ Đế, các đời về sau có rất nhiều học giả chú giải và khảo chú Nhĩ Nhã. Ngoài việc nhằm nghiên cứu nghĩa chính xác của Lục Kinh, ngoài việc nghiên cứu sâu về Nhĩ Nhã, thì việc nghiên cứu nó và dùng để đối chiếu, hiệu đính văn bản cũng là không thể bỏ qua. Từ xưa đã có các học giả như Lưu Hâm, Phàn Quang, Lý Tuần, Tôn Viêm, Thẩm Toàn, Tạ Kiều, Quách Phác nối tiếp nhau soạn chú giải cho Nhĩ Nhã. Nổi tiếng nhất là Quách Cảnh Thuần đời Đông Tấn, người đã dốc công suốt hai mươi năm nghiên cứu sách này. Mà chú giải của Quách Phác đời Tấn và Hình Bỉnh đời Tống cũng đều được hậu thế ca ngợi. Đến đời Thanh, có tác phẩm “Nhĩ Nhã Chính Nghĩa” của Thiệu Tấn Hàm và “Nhĩ Nhã Nghĩa Sơ” của Hách Ý Hành, đều là những tác phẩm hiếm có, có giá trị lớn về mặt học thuật.

Từ thời Hán trở đi, năm kinh gồm Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân Thu được đặt làm kinh điển trong học quan (học vấn đề làm quan), đồng thời cũng thành lập chức vị Ngũ Kinh bác sĩ (vì Nhạc Kinh thất truyền nên không có Lục Kinh). Đến thời Đường, Lễ Kinh được phân chia thành ba phần gọi là Tam Lễ, còn Xuân Thu thì ba truyện cùng đứng ngang hàng. Do đó, ba kinh lễ (Chu Lễ, Nghi Lễ, Lễ Ký), ba truyện (Tả truyện, Công Dương truyện, Cốc Lương truyện), thêm vào đó là ba kinh Thi, Thư, Dịch, hợp lại thành Cửu Kinh. Đến thời Đường Văn Tông trong những năm niên hiệu Khai Thành, Quốc Tử học lại thêm vào ba quyển nữa là Hiếu Kinh, Luận Ngữ, Nhĩ Nhã, hợp thành Thập Nhị Kinh. Đến thời Tống lại bổ sung thêm Mạnh Tử, tạo thành Thập Tam Kinh. Vì vậy, Nhĩ Nhã chính thức được xếp vào một trong mười ba kinh điển của các bậc thánh hiền Nho gia.

Nguồn gốc

Trong sách Đại Đới Lễ Ký phần “Tam triều ký” có ghi lại đoạn chuyện Lỗ Ai Công muốn học Tiểu Biện để xem xét chính sự có được không, nên đã hỏi Khổng Tử, có đoạn sau: “Khổng Tử nói: ‘Không cần phải vậy, Nhĩ Nhã dùng để xem xét chuyện cổ xưa, đủ để phân biệt lời nói rồi.’” Qua đó có thể thấy “Nhĩ Nhã” đã tồn tại từ trước thời Khổng Tử. Còn Trương Diệp thời nước Ngụy dâng “Quảng Nhã Biểu” có nói rằng: “Ngày xưa vào thời Chu Công… đã chế định lễ nghi để chỉ dẫn thiên hạ, đồng thời biên soạn một quyển Nhĩ Nhã để giải thích nghĩa lý trong đó”. Điều này rõ ràng cho rằng Nhĩ Nhã là do Chu Công soạn ra.

Về sau, có người cho rằng Nhĩ Nhã là do Khổng Tử thêm vào, cũng có người nói là Tử Hạ bổ sung, hoặc nói là Thúc Tôn Thông thêm thắt, nhưng ý kiến không thống nhất. Trên thực tế, nội dung của “Nhĩ Nhã” gồm các phần giải nghĩa từ ngữ, tên gọi sự vật, so với ngày nay có chỗ tương đồng, có chỗ khác biệt, chủ yếu chỉ nhằm mở rộng kiến thức, tăng thêm hiểu biết mà thôi. Những danh xưng, từ ngữ về sự vật mà sách dẫn ra sớm đã vượt ra ngoài phạm vi Lục Kinh, không còn giới hạn trong Lục Kinh nữa. Theo ghi chép trong “Tứ Khố Đề Yếu”: “Nói chung, các học giả tiểu học chỉ là gom góp văn cũ, đời sau lần lượt thêm thắt vào, còn chuyện gán cho Chu Công và Khổng Tử, đều chỉ là lời mượn danh mà thôi”. Lời này xem ra là đáng tin cậy. Như vậy, “Nhĩ Nhã” vốn đã tồn tại từ trước thời Lục Kinh, đó là sự thật, và việc các thế hệ học giả đời sau thêm bớt, sửa chữa, bổ sung cũng là điều có thật. Do đó, “Nhĩ Nhã” từ lâu đã trở thành một kho từ ngữ, kiến thức thông dụng, bổ trợ cho việc mở rộng tri thức, chứ không còn chỉ giới hạn trong việc chú giải Lục Kinh nữa.

Sự phát triển

Sách Hán Thư từng ghi rõ rằng “Nhĩ Nhã” có ba quyển gồm hai mươi thiên. Nhưng đến đời Đường, bản khắc kinh văn trên bia đá lưu truyền lại chỉ còn ba quyển mười chín thiên. Từ đời Tống trở đi, tuy vẫn giữ số thiên là mười chín, nhưng về tựa đề các thiên đã có sự khuyết thiếu hoặc sai khác so với trước.

Quyển thứ nhất, nội dung giải thích nghĩa từ, lời nói, giáo huấn, quan hệ thân thích, tổng cộng bốn thiên, nội dung giải thích các cách nói khác nhau giữa xưa và nay, cùng các cách xưng hô trong quan hệ họ hàng, tôn ti lễ giáo giữa người với người.

Quyển thứ hai, nội dung giải thích cung điện, dụng cụ, âm nhạc, trời, đất, đồi, núi, sông nước, tổng cộng tám thiên, giải thích tên gọi các sự vật như thiên địa, núi non, sông ngòi, cung điện, đồ dùng.

Quyển thứ ba, gồm các phần Thích Thảo, Mộc, Trùng, Ngư, Điểu, Thú, Súc, cộng tất cả bảy thiên. Nội dung giải thích tên gọi các loài thực vật và sinh vật trong tự nhiên, như cỏ cây, côn trùng, cá, chim, thú và gia súc.

Lời kết

Từ khi “Nhĩ Nhã” được xếp vào hàng Thập Nhị Kinh, mới bắt đầu được các đệ tử môn sinh Nho học coi trọng. Thế nhưng, nội dung của sách lại quá đỗi đơn giản, phần giải nghĩa cũng quá sơ lược, chưa đủ sức khai mở những nghĩa lý sâu xa và tinh vi trong Lục Kinh. “Tứ Khố Đề Yếu” nhận xét: “Những chữ trong kinh văn Nhĩ Nhã nếu không khớp với kinh điển khác, là do quá trình sao chép lâu ngày sinh ra dị bản. Còn nếu không khớp với Thuyết Văn Giải Tự, là bởi Thuyết Văn chuyên tra nghĩa gốc của chữ theo hình thể và bản nghĩa, còn Nhĩ Nhã giải thích kinh điển thì phần nhiều dùng chữ giả tá (1), mà ít khi giữ đúng bản nghĩa”. Vì vậy, về nội dung, Nhĩ Nhã cũng khác với Thuyết Văn Giải Tự, lại dễ rơi vào sự nông cạn và sai lệch. Tuy nhiên, nếu coi đây là một sách chuyên về tiểu học chú giải thì với việc khảo cứu từ ngữ, nghĩa lý của thời Tiên Tần, mở rộng tri thức, hiệu chỉnh nguyên nghĩa của Lục Kinh, tuy chưa thể dùng để phát huy đại nghĩa sâu xa, nhưng cũng có giá trị tham khảo không thể thiếu vậy.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/70304

Chú thích

(1) Giả tá: Theo Từ điển Nguyễn Quốc Hùng, giả tá là một lối trong Lục thư của Trung Hoa, tức là mượn chữ này mà dùng với nghĩa khác — Vay mượn

Ban Biên Tập Chánh Kiến

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.

Loạt bài