Tác giả: Quý Đại biên soạn
[ChanhKien.org]
Lễ trị
Từ xưa đến nay, lễ và nhạc luôn được nhắc đến cùng nhau. Lễ, nhạc, hình phạt và chính trị có mối quan hệ nhân quả lẫn nhau, chính trị của quốc gia hưng thịnh thì lễ, nhạc tất sẽ phát triển; còn lễ, nhạc suy tàn thì chính sự chắc chắn suy đồi. Đúng như trong “Lễ Ký – Nhạc Ký” đã nói: “Âm nhạc của thời trị thì yên bình vui vẻ, chính sự hòa thuận; âm nhạc của thời loạn thì ai oán phẫn nộ, chính sự rối ren; âm nhạc của nước sắp diệt vong thì bi thương u sầu, dân chúng khốn khổ”. Quý Trát xem nhạc mà hiểu lễ, Khổng Tử cũng cho rằng: “Khởi đầu từ thi, đứng vững nhờ lễ, thành tựu bởi nhạc”. Có thể thấy, lễ và nhạc vốn là cùng một thể.
Người xưa xem lễ là nền tảng cho việc trị loạn, phân ra quý tiện. Lớn nhỏ có thứ tự; việc thiết lập luân thường chính là mỗi người giữ đúng chừng mực, tận sức làm tròn bổn phận của mình. Vua nhân từ, thần tử trung thành; cha từ ái, con hiếu thảo; anh em hòa thuận; vợ chồng, bạn bè thì kính trọng và yêu thương lẫn nhau, đó gọi là “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”. Trong mọi việc như tiến lui, đối đáp, đối nhân xử thế, mỗi người đều có chừng mực, giữ đúng lễ tiết; các nghi thức như cưới hỏi, tang lễ, tế tự, lễ trưởng thành, lễ đón tiếp sứ thần, v.v. đều tuân theo lễ nghi, tuân thủ trật tự. Nhờ vậy mà xã hội yên bình hòa thuận, không sinh ra biến loạn, đó gọi là lễ trị. Tiếp đến là từ bản thân mà suy nghĩ đến người khác, yêu kính người già trong nhà mình, rồi mở rộng ra là yêu kính người già trong thiên hạ; yêu thương con trẻ trong nhà mình, rồi mở rộng ra là yêu thương con trẻ trong thiên hạ, đó chính là trạng thái của xã hội đại đồng.
Nguồn gốc của Lễ
Lễ vốn bắt nguồn từ thời thượng cổ, khi con người sơ khai cử hành nghi lễ tế Trời. Trong “Thuyết văn giải tự” có nói: “Lễ, nghĩa là việc làm đúng mực; là phương thức để thờ phụng Thần linh và cầu phúc lành”. Vì vậy chữ lễ “禮” gồm bộ thị “示”, chỉ sự thờ cúng, tế tự và bộ phương “匚”, tượng hình của lễ khí, tức là công cụ dùng để tế lễ. Khi Ai Công hỏi về lễ, Khổng Tử đáp: “Lễ là điều lớn lao mà người dân dựa vào để sinh sống. Không có lễ thì không thể thực hiện thỏa đáng việc thờ cúng Trời Đất và Thần linh”. Nói về Thần “神”, trong “Thuyết Uyển – Tu Văn” có chép: “Thần là gốc của trời đất, là khởi đầu của vạn vật”. Trong “Kinh Dịch”, Hệ Từ có câu: “Âm dương biến hóa khôn lường, gọi là Thần”. Mạnh Tử nói: “Lớn lao mà sinh hóa vạn vật, gọi là Thánh; Thánh mà người ta không thể biết đến, gọi là Thần”. Do đó, Thần là chỉ đấng chủ tể của vạn vật trong cõi u minh, là cội nguồn của trời đất, là quy luật tự nhiên, thần thánh mà huyền bí khó lường, hoặc cũng có thể gọi đó là Trời “天”. Từ đó mà hình thành nên tư tưởng và các lễ nghi tôn kính Trời và Thần.
Trong “Hán Thư – Giao Tế Chí” có chép: “Việc của đế vương không gì to lớn bằng thuận theo Trời, mà để thuận theo Trời thì không gì to lớn bằng việc tế Trời tại vùng ngoại thành”. “Bạch Hổ Thông” viết: “Người xưa, từ thiên tử cho đến thứ dân, đều có thể đắp đất lập đàn để tế Trời và cầu phúc”. Chữ xã “社” nghĩa là đắp đất lập đàn để tế Trời; còn xã hội “社会” là chỉ ngày tế lễ mà mọi người cùng tụ hội lại. Trong “Trung Dung” có câu: “Lễ tế xã ở vùng ngoại ô là nghi lễ dùng để phụng sự Thượng Đế”. Trong “Luận Ngữ” có chép: “Phạm tội với Trời thì không còn nơi nào có thể cầu xin được nữa”. Tư tưởng tôn kính Trời và Thần, khi kết hợp với đời sống người dân, đã ăn sâu vào lòng dân, từ đó diễn dịch thành những quan niệm và ý thức như: Thiên lý (lẽ trời), thiên mệnh (mệnh trời), thiên sinh (bản tính trời sinh), Thiên đạo (đạo trời). Những tư tưởng này sau đó còn trở thành các chuẩn tắc trong đời sống xã hội giữa người với người.
“Thi Kinh – Chu Tụng” viết: “Thượng Đế lâm nhữ, vô nhị nhĩ tâm” (Thượng Đế giáng lâm nơi ngươi, ngươi chớ hai lòng), cho thấy Thượng Đế đã trở thành Thiên lý và chủ tể tồn tại trong nội tâm con người. Trời tồn tại trong người là lương tri và lý tính; Trời tồn tại trong chính trị là nhân đức và vương đạo; Trời biểu hiện nơi vạn vật là quy luật tự nhiên; Trời ứng với sự việc là nghĩa lý và pháp tắc. Người ở địa vị trên thì phải thuận theo Trời mà thi hành nền chính trị nhân từ; người ở địa vị dưới cũng phải thuận theo Trời mà giữ gìn nghĩa lý.
Không giữ lễ nghi, tức là vi phạm tình lý; vi phạm tình lý, tức là phản nghịch với Trời! Cho nên từ xưa đến nay, những kẻ vô pháp vô thiên, thương thiên hại lý, làm những việc trái nghịch đạo lý, đều bị xem là cùng một loại. Vì thế, từ đại sự như quốc gia pháp điển, cho đến việc nhỏ như chuẩn tắc nhân luân, phân biệt giữa người với ta, phân biệt giữa nghĩa và lợi, lựa chọn giữa phải và trái, ứng xử lúc tiến thoái, không gì là không phải lấy lễ làm căn bản; cũng không gì là không có lễ. Chính là nhờ đó mà “đất nước lễ nghi” (chỉ Trung Quốc cổ) khác biệt với tứ di vậy.
Sách “Lễ Ký” chép: “Lễ, vốn bắt nguồn từ Trời, hợp với Đất, bày tỏ với quỷ thần, thông đạt trong các lễ nghi tang lễ, mai táng, bắn cung, cưỡi xe, hôn lễ, lễ đội mũ trưởng thành, lễ lâm triều, thăm hỏi. Vì vậy, bậc thánh nhân dùng lễ để giáo hóa, thì thiên hạ nhờ đó mà quy chính”. Thế nên, lễ bắt đầu từ việc tôn kính Trời, tôn kính Thần, rồi mở rộng đến các xã hội nhân luân, quy phạm trong đời sống tam cương ngũ thường. Nền văn hóa Thần truyền Trung Hoa nhờ sự tôn kính Trời, kính ngưỡng Thần linh mà tôn sùng lễ nghĩa. Khi dung hợp tư tưởng kính Trời vào trong luân lý con người, thì Trời và người có thể tương ứng, Trời và người có thể hợp nhất, tức là Thiên đạo tồn tại trong đạo người. Đây chính là tinh túy của văn hóa Thần truyền Trung Hoa.
Thế nào là Tam Lễ
Từ sau đời Tây Hán, người ta gọi Chu Lễ, Nghi Lễ, Lễ Ký là Tam Lễ. Nay xin lần lượt trình bày như sau:
Chu Lễ
Sách “Hán Ký” của Tuân Duyệt chép: “Lưu Hâm dâng tấu xin lấy sáu thiên ‘Chu Quan’ liệt vào kinh điển, gọi là ‘Chu Lễ’”. Sách “Thích Văn” lại ghi: “Thời Vương Mãng, Lưu Hâm làm quốc sư, bắt đầu lập sách ‘Chu Quan Kinh’, gọi là ‘Chu Lễ’”. “Thông Chí Nghệ Văn Lược” viết: “Thời Hán gọi là ‘Chu Quan’, thời Giang Tả gọi là ‘Chu Quan Lễ’, thời Đường đổi thành ‘Chu Lễ’”. Như vậy có thể thấy Chu Lễ nguyên chỉ gọi là “Chu Quan” hoặc “Chu Quan Kinh”, ban đầu không nằm trong Ngũ Kinh. Đến thời Vương Mãng mới được liệt vào kinh điển. Thời Hán, các học giả như Mã Dung, Trịnh Huyền đều xem Chu Quan là đứng đầu trong Tam Lễ, và chú giải cho bộ này. Khi Kỷ Vân đời Thanh biên soạn Tứ Khố Toàn Thư, khảo cứu cổ sử Xuân Thu, Thượng Thư, quả thực cũng có ghi chép về Chu Quan. Đến cuối đời Thanh, khi phát hiện văn tự trên giáp cốt và kim văn, người ta thấy đã có ghi chép về hệ thống sáu quan, phù hợp với sách Chu Quan.
Căn cứ theo Chu Quan, tức là chế độ quan lại thời nhà Chu, gồm tổng cộng sáu thiên, mỗi thiên một loại quan, tương đương với sáu bộ thời Minh Thanh:
Thiên Quan (Đại Trủng Tể): tương đương với Tể tướng thời Tống – Nguyên, hoặc Bộ Lại thời Minh – Thanh.
Địa Quan (Đại Tư Đồ): quản chính sự và giáo hóa, tương đương với Bộ Hộ.
Xuân Quan (Đại Tông Bá): quản lễ nghi, tương đương với Bộ Lễ.
Thu Quan (Đại Tư Khấu): quản hình luật, tương đương với Bộ Hình.
Hạ Quan (Đại Tư Mã): quản quân đội, tương đương với Bộ Binh.
Đông Quan (Đại Tư Không): quản công trình, tài vụ, vật tư, tương đương với Bộ Công (công nghiệp).
Thiên Quan đứng đầu trong sáu quan, tổng quản mọi việc của sáu quan, gọi là Đại Trủng Tể hoặc Thái Tể. Địa Quan Đại Tư Đồ, chuyên về giáo hóa, đồng thời kiêm quản dân chính. Thu Quan Đại Tư Khấu, phụ trách hình luật, pháp điển liên quan đến hình sự và dân sự. Hạ Quan Đại Tư Mã, quản lý quốc phòng toàn quốc, lo chống ngoại xâm, dẹp phản loạn, bảo vệ dân chúng, giữ gìn bờ cõi quốc gia. Đông Quan Đại Tư Không, chủ quản tất cả công trình kinh tế xây dựng, kiêm quản các đại công trình, tài chính sản xuất, bảo đảm quốc gia có đủ của dùng, quan lại yên ổn làm việc, dân chúng no đủ, kho tàng sung túc, tài vật dồi dào, dân sinh an lạc. Vào khoảng năm 1122 TCN, khi toàn thế giới các nước còn đang ở vào thời kỳ ăn lông ở lỗ, sống trong hang hốc trú ngụ, thì nền chế độ văn quan của Trung Hoa đã có quy mô tổ chức phân công nhiệm vụ rõ ràng như thế, chia quan lập chức, mỗi người phụ trách một việc. Lẽ nào đó không phải là nền văn hóa huy hoàng mà Trời cao hữu ý bồi đắp và truyền bá cho nhân gian hay sao? Là con dân của Thần Châu, không đáng để cảm thấy tự hào hay sao?
Nghi Lễ
Ngày xưa, khi nhắc đến chữ “Lễ”, tức chính là chỉ “Nghi Lễ” vậy. Tương truyền là do Chu Công tập hợp các chế độ lễ nghi thời cổ mà biên soạn thành. Trong “Hán Thư Nghệ Văn Chí”, cũng chỉ gọi là “Lễ Kinh” hoặc “Cổ Lễ”. Mãi đến thời Đông Tấn Nguyên Đế, Tuân Tung tâu xin lập chức “nghi lễ bác sĩ”, thì danh xưng “Nghi Lễ” mới xuất hiện. Người đời sau vì để phân biệt với Lễ Ký và Chu Lễ mới gọi Cổ Lễ Kinh là “Nghi Lễ”, nhằm tiện cho việc phân biệt. Câu: “Bất học lễ, vô dĩ lập” (không học lễ thì không thể lập thân) của Khổng Tử, hay trong Kinh Thi viết rằng: “Nhân nhi vô lễ, hồ bất tuyên tử” (Người mà không lễ, thì sao chẳng chết đi cho rồi), đều là nói về những nghi lễ thời bấy giờ. Các đệ tử của Khổng Tử khi truyền dạy về lễ nghi cổ, hẳn cũng lấy “Nghi Lễ” làm nền tảng, rồi sau đó mới dựa vào đó mà giải thích thêm mà thôi.
Nghi Lễ vốn có mười bảy thiên (chương mục), do người đất Lỗ thời Tây Hán là Cao Đường Sinh và Hậu Thương truyền lại, nhưng thứ tự có đôi chỗ khác nhau. Sau này, Hà Gian Hiến Vương thu được bộ Cổ Lễ Kinh gồm năm mươi sáu thiên, toàn viết bằng chữ triện cổ, gọi là Cổ Lễ Kinh. So với bản Nghi Lễ mười bảy thiên đang lưu truyền thì nhiều hơn ba mươi chín thiên. Cổ xưa có năm loại lễ chính: cát lễ (lễ lành), hung lễ (lễ tang chế), tân lễ (lễ tiếp đãi khách), quân lễ (lễ quân sự), gia lễ (lễ vui mừng trong nhà). Thế nhưng trong mười bảy thiên Nghi Lễ hiện còn lưu lại thì đã thiếu mất quân lễ, chứng tỏ bản mười bảy thiên này chưa thật hoàn chỉnh. Đến thời hậu thế, đã từng có tranh luận giữa Cổ Văn Kinh và Kim Văn Kinh. Từ sau nhà Tây Hán, nhiều học giả không công nhận Cổ Văn Kinh, cho là ngụy tạo, cuối cùng dẫn đến thất truyền. Chỉ có Trịnh Huyền là người từng chú giải Nghi Lễ, và tương truyền rằng ông cũng tham khảo thêm tinh thần của Cổ Văn Lễ Kinh, chúng ta từ đó cũng có thể thấy được đôi phần.
Nghi Lễ chính là các quy định về hình thức, nghi thức của tám loại nghi lễ quan trọng trong đời sống người xưa, gồm: tang lễ, tế lễ, xạ lễ (lễ bắn cung), hương lễ (lễ làng), hôn lễ, quán lễ (lễ đội mũ – lễ trưởng thành), triều lễ (lễ triều kiến) và tân lễ (lễ tiếp sứ thần nước ngoài). Tuy xã hội xưa và nay khác nhau, nhiều điều trong đó không còn hoàn toàn phù hợp, nhưng từ trong đó, vẫn có thể cảm nhận được giá trị học thuật và tinh thần văn hóa của Trung Hoa, cũng như hình thái xã hội nhân văn của thời cổ đại. Ví dụ, quy định ngũ phục (năm cấp độ tang phục) trong tang lễ, đến nay vẫn còn được xã hội sử dụng phổ biến. Nay xin lần lượt trình bày tám lễ như sau:
Quán lễ: khi nam tử đến tuổi hai mươi sẽ cử hành quán lễ (lễ đội mũ). Sau lễ này, người ấy không còn là trẻ nhỏ, mà chính thức trở thành người trưởng thành. “Luận Ngữ” có câu: “Thấy lợi phải nghĩ đến nghĩa, thấy nguy hiểm phải biết hiến thân, việc kết giao lâu dài chớ quên lời hứa thuở ban đầu. Như thế mới có thể làm người trưởng thành vậy”. Có thể thấy người xưa coi trọng việc giao phó cho người trưởng thành đến mức nào. Từ đây phải đứng vững lập thân trong xã hội, tận hết trách nhiệm đối với quốc gia, xã hội, gia đình; lập nên sự nghiệp, thực hiện nghĩa vụ mà bản thân phải gánh vác. Việc tổ chức lễ trang trọng đối với người được tổ chức là một sự nhắc nhở và khích lệ, đối với cả xã hội thì là một loại dẫn dắt và giáo dục. Ngày nay, nghi lễ này cũng dần được phục hồi và coi trọng trở lại.
Hôn lễ (chữ hôn “昏” thông với chữ hôn “婚”): hôn nhân không giống với sự dâm loạn phóng túng, chính là ở chỗ có “lễ”. Vì vậy, việc cưới gả phải được coi trọng, phải có mai mối đàng hoàng, cưới hỏi chính thức, thông báo rộng rãi với họ hàng thân tộc, từ đó mới lập nên cương thường luân lý giữa người với người. Xã hội nông nghiệp thời xưa vốn nhàn rỗi về thời gian, nên lễ cưới có sáu nghi lễ gọi là “lục lễ”, gồm: “nạp thái” (nhà trai mang sính lễ sang hỏi), “vấn danh” (hỏi tên tuổi cô gái, để xem tuổi hợp hôn), “nạp cát” (nhà gái trả lời thuận hôn, báo điềm lành), “nạp chinh” (trao sính lễ chính thức), “thỉnh kỳ” (bàn ngày cưới), và “thân nghênh” (nhà trai sang đón dâu). Hai bên gia đình thường xuyên qua lại, quan sát lẫn nhau trong thời gian dài, rồi mới cử hành lễ thành hôn, chính thức thành vợ thành chồng. Ngày xưa, trong sáu lễ ấy đều dùng ngỗng trời làm lễ vật, nên còn gọi là “nhạn lễ”, lấy ý chim nhạn một đời chỉ kết đôi một lần, biểu trưng cho sự trinh khiết không hai lòng và vợ chồng hòa hợp sánh đôi. Về sau, ngỗng trời khó kiếm, người ta thay bằng ngỗng nhà, gà vịt, nhưng làm vậy đã mất đi ý nghĩa đẹp đẽ ban đầu.
Tang lễ: mục đích của tang lễ xưa không phải để phô trương hình thức mà cốt ở chỗ giữ tang trọn đạo hiếu. Có quy định ngũ phục (năm mức độ để tang), gồm: trảm thôi ba năm, tề thôi một năm, đại công chín tháng, tiểu công sáu tháng, tư ma ba tháng. Tùy theo mức độ quan hệ thân sơ mà định tang phục và thời gian thương tiếc. Theo quy định trong ngũ phục, thì khi cha mẹ qua đời, con trai phải chịu tang trảm thôi trong ba năm, mặc áo tang may bằng vải gai thô, không viền mép, biểu thị nỗi đau buồn tột độ trong lòng, và tâm trạng chẳng màng đến việc chỉnh đốn trang phục. Còn con gái đã xuất giá thì đã là dâu con nhà người, phải phụng dưỡng cha mẹ chồng và chồng, nên không cần phải để tang cha mẹ ruột theo nghi lễ trảm thôi.
Khổng Tử cho rằng việc cử hành lễ tang “dữ kỳ bất tốn nhi ninh cố” (thà thiếu thốn tiết kiệm còn hơn xa hoa quá mức). “Bất tốn” tức là quá phô trương, vượt quá yêu cầu, còn “cố” (固) là tiết kiệm đến mức thiếu sót. Khổng Tử cho rằng thà thiếu còn hơn dư, chính là ý này. Trong Luận Ngữ, Khổng Tử dạy Tể Ngã rằng: “Kẻ quân tử giữ tang, thì ăn chẳng thấy ngon, nghe nhạc chẳng vui tai, ngồi đứng đều không yên, bởi thế mới không làm. Còn nay trò đã yên lòng, thì cứ việc làm đi”. Như vậy, việc giữ tang cốt ở chỗ thuận theo sự đau buồn trong lòng, không thể cưỡng ép miễn cưỡng hình thức, bằng không thì còn có nghĩa lý gì? Khổng Tử từng bảo các đệ tử: “Ta thà chết dưới tay các trò, còn hơn chết dưới tay bọn quan lại. Huống hồ, dù ta không được mai táng long trọng, lẽ nào ta lại phải lo chết bơ vơ giữa đường sá hay sao?” Qua đó đủ thấy, Khổng Tử tuyệt đối không tán thành những lễ tang chỉ có hình thức mà không thực chất, cũng không chủ trương nhất thiết phải đại táng, hậu táng cho bằng được. Lúc cha mẹ còn sống phải nuôi dưỡng cha mẹ, lúc cha mẹ chết phải đưa tiễn chu tất, cốt giữ lấy điều phải lẽ, không trái đạo lý là đủ.
Tế lễ: Trung Dung có chép: “Lễ tế Trời Đất ở ngoài thành, cốt là để thờ thượng đế”. Lễ Ký – Tế Thống cũng viết: “Việc tế tự, vốn không phải là thứ gì từ bên ngoài mang đến, mà phải xuất phát từ nội tâm, sinh khởi trong lòng. Khi trong lòng kính trọng mà đem lễ vật dâng cúng, đó mới là đúng lễ. Bởi vậy, chỉ người hiền đức mới có thể làm trọn vẹn được ý nghĩa của việc tế lễ”. Trong Luận Ngữ, Khổng Tử nói: “Tế Thần như thể Thần có mặt tại đó”. Sách Tế Nghĩa lại bàn: “Việc tế lễ không nên làm quá nhiều, nhiều thì sinh phiền, mà phiền thì sẽ không còn cung kính. Cũng không nên quá ít, ít thì sinh lười, mà lười thì sẽ quên mất”. Có thể thấy việc tế Trời, tế Thần, trọng ở thành kính trong nội tâm, chứ không phải dựa vào hình thức lễ nghi bên ngoài. Nếu chỉ có nghi thức mà thiếu lòng thành kính, ấy là trái với nguyên tắc “tế như Thần tại”. Tế không cốt ở nhiều, phiền nhiễu tất sẽ bất kính; nhưng cũng không thể quá thưa, bằng không sẽ quên lãng, và lễ nghi ấy rồi cũng diệt mất.
Nếu không có Trời, không còn Thần, thì những điều như Thiên lý, thiên tính, thiên mệnh, Thiên đạo cũng không còn chỗ nương tựa, và cũng không còn căn nguyên để mà tồn tại. Thời Hậu Hán có câu chuyện “bốn biết” của Dương Chấn (dù chỉ có hai người nhưng Trời biết, Đất biết, ngươi biết, ta biết), chính là vì vẫn tồn tại quan niệm tin rằng trên cao có Trời nghe, Trời thấy, và “quân tử không làm việc khuất tất dù ở nơi không có ai”. Nếu không có Thiên lý báo ứng, thì pháp luật cũng có giới hạn, dục vọng của con người lại không có điểm dừng. Trí tuệ càng tinh xảo, mưu mẹo càng cao, quyền thế càng lớn, thì tội ác gây họa cho thiên hạ càng sâu nặng. Một khi Thiên lý không còn, thì sinh mạng dân chúng cũng chẳng khác gì cỏ rác. Đến lúc dục vọng con người dâng lên như sóng dữ phá tan đê điều, mà muốn dùng giới hạn hữu hạn để kiềm chế sự vô hạn ấy, thì cuối cùng cũng đi đến chỗ cùng quẫn và diệt vong. Vì thế, những lễ nghi cổ xưa như kính Trời, tế Trời, không thể xem là mê tín.
Hương lễ (lễ uống rượu ở hương thôn): là nghi lễ tôn kính người già và người có đức hạnh trong làng quê. Khổng Tử nói: “Ta quan sát ở làng quê, mà biết vương đạo dễ được thiết lập”. Sự đôn hậu của tình cảm và phong tục dân gian là ở chỗ thương người nghèo, kính người già, tôn trọng người hiền đức. Điều đó cũng liên quan mật thiết đến chính sự và dân phong.
Xạ lễ (lễ bắn cung): không chú trọng vào việc so tài kỹ thuật hay sức mạnh, mà mục đích nhằm rèn luyện võ nghệ và tu dưỡng bản thân. Vì vậy Khổng Tử nói: “Việc bắn cung giống như đạo của quân tử, nếu tên không trúng đích, thì phải tự xét lỗi nơi mình”. Lại nói: “Quân tử không tranh đoạt, nếu có thì chỉ là trong lễ bắn cung mà thôi; trước khi bắn thì khiêm nhường mời nhau lên đài, sau khi bắn thì cùng nhau uống rượu, đó mới là tranh đua của bậc quân tử”. Nói cách khác, đây chính là tinh thần của các vận động viên ngày nay. Việc cổ nhân đề cao lễ bắn cung cũng có đạo lý sâu xa: nếu trong lúc thi đấu mà đôi bên đều biết nhún nhường, lễ phép mà bước lên đài bắn, thì trong giao tiếp thường ngày há chẳng phải cũng sẽ hòa nhã, êm đẹp cả sao? Thật ra, đây chính là nét phong nhã của cổ phong Trung Hoa xưa, trong mọi cuộc so tài võ nghệ, mỗi người tham gia đều phải khiêm cung, nhã nhặn, cung kính cúi chào, giữ trọn lễ nghi quân tử vậy.
Lễ triều kiến: là nghi lễ các chư hầu, đại thần, hoặc sứ giả nước ngoài đến triều kiến vua chúa.
Lễ tiếp sứ: là nghi lễ giữa các quốc gia, khi sứ giả hoặc đại phu qua lại thăm hỏi, báo cáo tin tức và trao đổi công việc.
Lễ triều kiến và lễ tiếp sứ, cốt là để giữ cho quan hệ giữa quân vương và thần tử không đến mức buông thả, khinh suất, phóng túng, nên mới đặt ra lễ triều kiến. Giữa các nước với nhau, để thể hiện sự tôn trọng và tín nhiệm lẫn nhau, nên mới có lễ tiếp sứ. Tuy là những lễ tiết nhỏ nhặt, nhưng thực chất lại là then chốt trọng yếu trong việc cai trị quốc gia. Nếu quân vương sủng tín kẻ gian thần, buông thả cho bọn tiểu nhân lộng quyền làm loạn triều chính, thì nhất định sẽ bắt đầu từ việc coi nhẹ, phế bỏ lễ triều kiến, rồi dần dà thân mật bừa bãi với kẻ tiểu nhân mà thành họa. Giữa các nước với nhau khi để xảy ra hiềm khích, hiểu lầm, thì nếu muốn hóa giải chiến tranh thành hòa bình, biến oán thù thành hữu hảo, cũng đều phải dựa vào những lễ bang giao thường nhật, cùng với sự tôn trọng và tín nhiệm lẫn nhau mà thành. Tuyệt đối không thể xem nhẹ những điều ấy.
Lễ là lý, là nghĩa, là sự thích đáng. Nếu đi ngược lý, trái nghĩa, không phù hợp, thì làm sao có thể gọi là lễ được!
Lễ Ký
Đường Thái Tông ban chiếu chỉ biên soạn “Ngũ Kinh Chính Nghĩa”, trong phần “Lễ” chỉ có “Lễ Ký Chính Nghĩa”, mà không có Chu Lễ và Nghi Lễ, điều này cho thấy Lễ Ký chiếm vị trí quan trọng nhất trong ba bộ Lễ Kinh. Cũng có thể thấy rằng vào đầu thời Hán, trong Ngũ Kinh vốn không bao gồm Chu Lễ và Nghi Lễ. Về sau, ba truyện của Xuân Thu là Tả Truyện, Công Dương, Cốc Lương, cùng ba Lễ là Chu Lễ, Nghi Lễ, Lễ Ký, đều được xếp vào Ngũ Kinh, hợp lại thành Cửu Kinh. Lúc đó, Chu Lễ và Nghi Lễ mới được chính thức xem là kinh điển. Đến niên hiệu Khai Thành (836-841) thời Đường Văn Tông, khi Quốc Tử Giám khắc văn bản lên bia đá, thì thêm vào Luận Ngữ, Hiếu Kinh, Nhĩ Nhã thành Thập Nhị Kinh, đến đời Tống lại thêm Mạnh Tử, thành Thập Tam Kinh.
“Lễ Ký”, theo như ý nghĩa tên gọi của nó, vốn là bản ghi chép những lời giảng và thảo luận của các môn đệ Khổng Tử về “lễ”. Nguyên có đến 130 thiên (chương). Đây là những ghi chép được truyền lại bởi các đệ tử của Khổng Tử và cả các học giả đời sau. “Ký” không chỉ do một người viết, “truyền” cũng không phải từ một nguồn duy nhất; mà là một tập hợp biên tuyển các bài tản văn rời rạc được chỉnh lý lại thành một tập hợp văn tập tổng hợp. Vào thời Hán, những người giảng truyền Lễ Ký ban đầu có hai nhà là Thúc Tôn Thông và Lưu Hướng. Về sau, hai chú cháu Đới Đức (tự Diên Quân, làm Thái phó của Tín Đô Vương) và Đới Thánh (tự Thứ Quân, làm Thái thú Cửu Giang), đều là môn hạ của Hậu Thương, cùng theo Hậu Thương nghiên cứu Nghi Lễ trong nhiều năm, hai người dựa theo kiến giải của bản thân, cho rằng Lễ Ký với 130 thiên là quá rườm rà, lại không hoàn toàn đáng tin. Vì vậy, họ lập chí muốn tự mình biên tập lại, lược bỏ và chỉnh lý để có những thiên chọn lọc tinh gọn hơn. Về sau, mỗi người chuyên tâm nghiên cứu tại vị trí nơi mình cai quản, không có sự liên hệ qua lại. Đới Đức biên soạn được 85 thiên, đời sau gọi là “Đại Đới Lễ Ký”, nhưng đời sau đã thất truyền, hiện nay chỉ còn lại 39 thiên. Còn Đới Thánh biên tập lại thành 49 thiên, được gọi là “Tiểu Đới Lễ Ký”. Vào cuối thời Hán, sách này được Mã Dung truyền dạy và phổ biến rộng khắp trong thiên hạ. Tấm bia khắc đá thời Nam Tống liệt Lễ Ký vào Thập Nhị Kinh, tức là sử dụng “Tiểu Đới Lễ Ký” chứ không dùng Đại Đới. Trong các triều đại Minh và Thanh, kỳ thi khoa cử đều lấy “Tiểu Đới Lễ Ký” làm chuẩn. Từ đó trở đi, khi nói đến “Lễ Ký”, thì đều chỉ riêng “Tiểu Đới Lễ Ký” mà thôi.
Lễ Ký gồm 49 thiên, về mặt học thuật có thể chia thành bốn loại chính:
Thông luận nghĩa “Lễ”, gồm 11 thiên, như: Lễ Vận, Học Ký, Nhạc Ký, Đại Học, Trung Dung, Nho Hành, v.v..
Ghi chép về chế độ “Lễ”, gồm 25 thiên, như: Khúc Lễ (thượng, hạ), Vương Chế, Lễ Khí, v.v..
Giải thích về nghi thức “Lễ” (tức là giảng giải “Nghi Lễ”), gồm tám quyển, như: Quán Nghĩa, Hôn Nghĩa, Tế Nghĩa, Xạ Nghĩa, v.v..
Bổ sung các phần hỏi đáp về “Lễ”, gồm năm quyển, như: Ai Công Vấn, Tăng Tử Vấn, Vấn Tang, v.v..
Còn Lưu Hướng lại phân chia thành tám loại là: Chế Độ, Thông Luận, Minh Đường, Âm Dương, Tang Phục, Tử Pháp, Cát Sự, Tế Tự, Nhạc Ký. Đây là phân loại của các học giả nghiên cứu, không liên quan nhiều đến nội dung nguyên bản của Lễ Ký. Việc phân loại này là do các học giả sau này tự đặt ra, thực chất không có mối liên hệ chặt chẽ với nội dung của Lễ Ký. Về sau, có người tranh luận rằng ba thiên Nguyệt Lệnh, Danh Đường Vị, và Nhạc Ký là do Mã Dung thêm vào. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng trong bản mục lục Lễ Ký do Trịnh Huyền truyền dạy ban đầu, đã có tên ba thiên này, nên không phải do Mã Dung thêm vào.
Dưới đây là phần tóm lược nội dung của mười một thiên chính thường được học trong Lễ Ký:
Đại Học: là cửa ngõ dẫn vào Bát Đức, được Trình Tử đặc biệt đề cao, và đã được Chu Hy liệt vào một trong Tứ Thư.
Trung Dung: là tâm pháp chính thống của Nho gia, cũng được Chu Tử biên vào một trong Tứ Thư.
Lễ Vận: trình bày lý tưởng cao nhất về xã hội đại đồng của Khổng Tử.
Học Ký: giải thích rằng quốc gia nên dùng giáo dục là nền tảng lập quốc, gọi là “giáo hóa dân chúng tạo thành phong tục, nhất định phải thông qua việc học”. Đồng thời bàn đến nguyên tắc và phương pháp giảng dạy, nhấn mạnh việc gợi mở tư duy và sự lĩnh hội thay vì học thuộc lòng.
Kinh Giải: là phần giảng giải kinh và thuyết giáo về sáu kinh gồm Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc và Xuân Thu.
Ai Công Vấn: là thiên làm sáng tỏ cội nguồn của lễ, nêu rõ quan điểm như: “Không có lễ thì không thể điều hòa việc tế tự Thần linh của trời đất”, hay câu: “Không có lễ thì không thể phân biệt ngôi vị quân thần, trên dưới, lớn nhỏ”, và chủ trương trị quốc phải lấy lễ làm gốc, như câu: “Trị quốc phải lấy lễ làm đầu, lễ là cội rễ của chính sự vậy”.
Biểu Ký: trình bày đạo Nhân Nghĩa, phân biệt giữa quân tử và tiểu nhân, ví dụ như: “Nhân là người vậy, Đạo là nghĩa vậy”. “Người nhân là hình mẫu của thiên hạ, người nghĩa là chuẩn mực của thiên hạ”. Và “Quân tử kết giao nhạt như nước, tiểu nhân kết giao ngọt như rượu nồng; quân tử tuy nhạt mà thành (chân thành), tiểu nhân tuy ngọt mà hoại (xấu xa)”.
Đàn Cung: lấy tên từ người đất Sơn Dương nước Lỗ là Đàn Cung, thiên này tập hợp nhiều quy tắc và điển cố về việc giữ lễ và thực hành lễ. Văn chương trôi chảy, hàm súc thú vị, là một trong những bài tản văn cổ được người đời sau khen ngợi. Ví dụ như trường hợp người thiếu niên Uông Thưởng chết vì nước, thì có thể không cần câu nệ theo lễ tang dành cho người chết trẻ, mà được áp dụng lễ tang dành cho người trưởng thành.
Tri Y: trình bày vai trò và cách vận dụng của lễ, ví dụ như: “Dân xem quân vương là trái tim, quân vương lấy dân làm thân thể, … trái tim yêu thích điều gì, thân thể ắt sẽ chiểu theo đó”. “Tâm toàn nhờ vào thân, cũng bị tổn thương vì thân; quân vương tồn tại nhờ vào dân, cũng sẽ mất vì dân”. Lại nói: “Dân chúng, nếu được giáo hóa bằng đức và chỉnh tề bằng lễ thì lòng dân sẽ cảm hóa; nếu dạy bằng chính sách và chỉnh tề bằng hình phạt thì lòng dân sẽ hoảng sợ”. Chính là từ lời của Khổng Tử trong Luận Ngữ: “Dẫn dắt dân bằng chính trị, chỉnh tề họ bằng hình phạt, thì dân chỉ biết tránh tội mà không biết xấu hổ; dẫn dắt họ bằng đức, chỉnh tề họ bằng lễ, thì dân biết xấu hổ và có thể cảm hóa được”. Chỉ bằng một câu nói, chính là ranh giới giữa tư tưởng trị quốc của Nho gia và Pháp gia.
Phường Ký: trình bày công dụng lớn nhất của Lễ, phường đồng âm với phòng (phòng ngừa). Như câu: “Quân tử dùng lễ để phòng đức, dùng hình pháp để phòng dâm, dùng mệnh lệnh để ngăn dục vọng”. “Lễ là lấy tình cảm con người mà lập nên quy phạm, nhằm làm hàng rào ngăn giữ cho dân. Vì thế, thánh nhân dùng lễ để điều tiết sự phú quý, khiến cho người giàu không đến mức kiêu căng, người nghèo không đến mức thiếu thốn, người địa vị cao không bất mãn với bề trên; nhờ vậy, loạn lạc càng ngày càng biến mất”. Nếu xã hội có thể thực sự thực hành theo đúng như vậy, khiến cho giàu nghèo không cách biệt quá lớn, người giàu không kiêu căng, người nghèo không túng thiếu, thì đời sống nhân dân sẽ an vui, xã hội hài hòa, yên ổn, từ đó sẽ không còn loạn lạc, xung đột nữa.
Nho Hành (儒行): chỉ về căn bản tu dưỡng và đức hạnh của Nho gia. Ví dụ: “Nho gia không quý vàng bạc châu báu, mà lấy trung thành và tín nghĩa làm báu vật”. “Nho gia lấy trung thành tín nghĩa làm giáp trụ, lễ nghĩa làm khiên mộc”. Nếu người cầm quyền làm việc trái đạo trời, vi phạm đạo lý, thì “Nho gia có quy định trên không thần phục thiên tử, dưới không làm việc cho các chư hầu”. Tinh thần nghĩa khí hiên ngang, sự trinh khiết cảm động lòng người! Cũng chính là tinh thần nhất quán xuyên suốt thành nhân thủ nghĩa của Khổng Tử, Mạnh Tử, phú quý bất dâm, bần tiện bất di, uy vũ bất khuất vậy (khi phú quý không thể làm rối loạn phóng túng, nghèo khó không thể làm tiết tháo thay đổi, quyền thế không thể khuất phục được ý chí).
Lời kết
Nhạc Ký có câu: “Lễ là lý không thể thay đổi”. Lễ Vận nói: “Lễ là hiện thực của nghĩa”. Vì vậy, lễ chính là nơi tồn tại của nghĩa lý, là nơi nghĩa lý hiện diện! Dựa vào những luận điểm ngắn gọn trên, ta có thể hiểu được ý nghĩa chân thực của tam lễ (Chu Lễ, Nghi Lễ, Lễ Ký), cũng chính là tinh túy của nền văn hóa Thần truyền Trung Hoa, một quốc gia trọng lễ nghĩa. Dân tộc Trung Hoa và con cháu Hoa Hạ khác với các bộ tộc man di bốn phương, người để tóc xõa, mặc áo ngược, xăm mình và sống hoang dã; và cũng chính nhờ điều này mà trong suốt năm nghìn năm, họ vẫn có thể trở thành một quốc gia hùng cường, sừng sững giữa trời đất.
Giữa con người với nhau có thể tôn trọng lẫn nhau và tuân thủ lễ nghĩa luân thường; thì trong xã hội có thể giữ tín nghĩa và duy trì hòa thuận, mỗi người an ổn với bổn phận của mình. Trong chính quyền, lấy dân làm gốc, người khỏe mạnh được trọng dụng, người già trẻ đều được nuôi dưỡng. Trên trường quốc tế thì coi trọng nghĩa hơn lợi, tiếp nối những giá trị tốt đẹp bị mai một, phục hưng đất nước đã mất. Không dựa dẫm vào cường quốc, không bắt nạt kẻ yếu. Đạo trung tín khoan dung, tấm lòng nhân ái, tất cả đều dựa vào lễ, phát sinh từ lễ và thành tựu nhờ lễ.
Nếu mọi người đều coi trọng lễ, mọi quốc gia đều tôn sùng lễ, biết kính già như kính cha mẹ mình, thương trẻ như con cháu mình, biết đặt mình vào hoàn cảnh người khác, đề cao lễ nghi và coi trọng nghĩa lý, thì thế giới hôm nay sẽ hoàn toàn đổi thay! Lúc đó, nhân loại sẽ không còn lo âu, không còn tai họa, chiến tranh và bất hạnh!
Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/70301