Túc mệnh thông và tu luyện



Tác giả: Đạm Nhiên

[ChanhKien.org]

Tóm lược

Qua những câu chuyện về nhiều lần luân hồi chuyển thế, kiếp trước và hiện tại, nguồn gốc của tu luyện và những điều nhìn thấy qua thiên mục, bài viết này bàn về nhân duyên quả báo và sự “trở về” của sinh mệnh. Sự trở về này không phải là trở về ngôi nhà ban đầu, mà là quay về nơi hồng vi (ngôi nhà của bản nguyên sinh mệnh trong vũ trụ mới).

Tôi từng bị chủ nghĩa duy vật đầu độc nặng nề, sau khi bước vào Đại Pháp, tôi cũng viết một số bài viết, nhìn lại tôi thấy những bài viết đó được viết dưới ảnh hưởng của quan niệm, đầy những điều hoang đường. Trong quá trình tẩy tịnh liên tục, mỗi lần đề cao lên một tầng thứ, tôi lại thấy nhận thức trước đây của mình đều rất thấp. Cùng với việc học Pháp và tu tâm sâu sắc hơn, thiên mụccông năng túc mệnh thông của tôi liên tục hiển hiện, nên tôi muốn nói cho những người hữu duyên biết về những hình ảnh tương đối “chân thật” mà tôi đã nhìn thấy được ở tầng thứ sở tại của mình. Mong rằng những người hữu duyên đều có thể vứt bỏ đi “trăng trong nước” “hoa trong gương” (ý nói vứt bỏ những điều huyễn tượng), không phụ sự chờ đợi ngàn năm mà trở về ngôi nhà thực sự của mình.

1. Duyên thầy trò

Sư phụ trong giảng Pháp đã đề cập đến nguồn gốc của ba nhóm đệ tử của Ngài, cùng với tiến trình Chính Pháp, tôi đã nhìn thấy nguồn gốc của bản thân và Sư phụ. Sư phụ trải qua vô số kiếp nơi trần thế mà tìm đến chúng ta và kết nên mối duyên trong thời kỳ Chính Pháp.

Cách đây rất lâu, tôi đã từng là một võ sĩ, trên bãi triều mênh mông ven biển, nhiều người đang tranh luận xem có nên theo tiểu hoàng đế ra biển lánh nạn hay không, những người có thể đến bãi triều rộng lớn này đều không hề dễ dàng (cũng giống như những người trong chúng ta may mắn được tiếp xúc với Pháp Luân Đại Pháp ngày hôm nay), sự cám dỗ của lợi ích ở đời này khiến nhiều người ở lại. Tôi may mắn được lên thuyền cùng tiểu hoàng đế, có rất nhiều thuyền, nhưng tôi chỉ lên một chiếc trong số đó chứ không phải chiếc mà tiểu hoàng đế đi. Tiểu hoàng đế chính là hóa thân của Sư phụ ở kiếp đó.

Ở một kiếp khác, trải qua bao thăng trầm và đến tuổi trung niên, tôi thường xuyên được nhìn thấy Sư phụ nhưng lại không biết rằng ông là Sư phụ. Trong vô số ma nạn, ông lão luôn thầm lặng “giúp đỡ” tôi, đôi tay khỏe mạnh rắn chắc đã trở thành chỗ dựa mà tôi luôn mong tìm kiếm. Cho đến một ngày, một nhóm người hung hãn đuổi theo và đánh đập một cậu thiếu niên, cậu ta chạy đến nương tựa vào ông lão, ông hét lên: “Còn không mau mặc áo cà sa vào” thế là những kẻ truy đuổi cậu ấy liền giải tán. Tôi biết ông là một Phật tử, nên tôi đã phát nguyện làm đệ tử của ông và sớm kết thúc cuộc đời kiếp đó.

Tiếp đến kiếp sau gặp lại Sư tôn, tôi là một đứa trẻ hồ đồ không hiểu biết, một mình phiêu bạt trên thế gian. Sư phụ đã tìm thấy tôi, giúp tôi tìm lại cái “tâm” đã thất lạc từ nơi sâu thẳm, đặt nó trong “chiếc mũ” và dạy tôi “giữ” nó để nó luôn hướng về “trời”, hy vọng tôi không bao giờ bị mất phương hướng. Cuối cùng tôi đã trở thành đệ tử của Sư phụ. Sư huynh chính là cậu thiếu nên trước kia, lúc này đã trưởng thành.

Trong luân hồi và trong những đấu đá ở nhân gian, tôi đã hết lần này đến lần khác đánh mất cái “tâm” của mình, nhưng Sư phụ đã nhiều lần giúp tôi tìm lại nó, cho phép tôi giữ nó mãi mãi, giúp tôi ở đời này có thể dùng nó để đến gần với Pháp mà Sư phụ giảng, cảm giác gặp lại sau bao ngày xa cách cứ theo đuổi đời đời kiếp kiếp. Vì vậy, sau ngày 20/07/1999, tôi đã nói với những người lãnh đạo quan tâm đến tôi: “Tôi thật may mắn khi có các vị là lãnh đạo của mình; tôi đúng là ba đời may mắn, kiếp này tôi có thể gặp được Sư phụ, đến được với Pháp và hiểu được Pháp, đây là may mắn cả trăm kiếp ngàn kiếp vạn kiếp mới gặp, tôi quyết không bao giờ từ bỏ”.

2. Duyên tu luyện

Nhà tôi kiếp này đã tập trung được bốn vị La Hán ở kiếp trước, trong mê hoặc đời đời kiếp kiếp, chúng tôi đã kết được duyên sâu đậm cho sự trở về cuối cùng.

“Hành Nhẫn Từ” là cô của tôi, đời này cô vẫn khổ tu như xưa, khi trẻ cô đã quy y chứ không lập gia đình, đến tuổi trung niên cô vẫn khẩn thiết kiên trì trong kiếp nạn của tín ngưỡng, khi gặp được Đại Pháp cô đã ở độ tuổi xế chiều. Cô tôi không được học hành nhiều, sau khi đọc hết “Chuyển Pháp Luân” cô liền nói với tôi: “Đây là cuốn sách về tu Phật và tu Đạo, tiếc là cô đã già rồi, không thể tu luyện được nữa”. Niệm này khiến cô bỏ lỡ dịp may đến với Pháp và qua đời vào năm 1998. Một hôm trước ngày đầu thất tuần thứ hai, chúng tôi đi vào không gian bên trong Tam giới, cao hơn chúng tôi một tầng (tầng Đao Lợi Thiên: ở Trái Đất, nằm trên núi Tu Di). Tôi biết cô vẫn đang tu luyện trong mê muội, dù lúc gần lúc xa, tôi vẫn có thể dùng Pháp lý câu thông với cô. Cô từng là đảng viên ĐCSTQ, sau khi tôi giúp cô thoái đảng ở không gian này, cô đã lập tức đáp lại và bày tỏ sự vui mừng sau khi được giải thoát khỏi sự ràng buộc và dấu vết của nó. Tôi biết rằng cô sẽ bước vào vũ trụ mới và sẽ có cơ hội tu luyện Đại Pháp. Khi còn sống, nói chuyện với cô tôi thường ngạc nhiên trước khả năng hiểu biết phi thường của cô về Phật Pháp, nó không tương xứng với trình độ văn hóa của cô.

“Quan Vô Biên” là con trai của tôi, từ nhỏ nó đã không thích đọc văn chương thời nay, trong môi trường hiện nay, cháu không phải là một học sinh giỏi, nhưng đối với Pháp lý lại có thể hiểu ngay lập tức mà không cần tốn nhiều lời giải thích. Trong những ngày Pháp Luân Công bị bức hại, cháu đã khôn ngoan hướng dẫn tất cả các bạn cùng lớp đều trả lời “sai” những câu hỏi liên quan đến “vấn đề chính trị”; cháu đã thành công trong việc đưa âm nhạc Đại Pháp vào các buổi diễn thuyết của thế nhân, cháu đã giúp tôi tiếp cận Internet; cháu là người ủng hộ tôi kiên định nhất khi tôi gặp ma nạn ở thế gian con người; trong trào lưu tam thoái, cháu đã dùng một câu “tìm đến cái chết à!” để xua tan ý nghĩ của những người khác muốn gia nhập tà đảng. Ngày nay tuy cháu chưa trở thành đệ tử Đại Pháp nhưng biết rất rõ ràng rằng nước chảy thành sông, sớm hay muộn cháu cũng sẽ bước vào con đường tu luyện Đại Pháp.

“Vô Thắng” là chồng của tôi, Vô Thắng không chỉ là sự miêu tả về cuộc đời anh ấy mà còn là cách anh ấy đạt được chứng quả trong tiền kiếp. Trong sự mê hoặc của vô minh, anh đã từng quên mất Phật Pháp và bỏ rơi tôi (kiếp trước), trong thế nhân, anh luôn là một CON NGƯỜI. Kể từ ngày 20 tháng 7 đến nay, những cuộc bức hại ngày càng gia tăng đã khiến anh từng bước hồi quy và thuận theo trào lưu của vũ trụ mà thay đổi. Anh là một trong những người không sợ cường bạo, anh cũng có mặt trong những người giảng chân tướng, và tình cảm “đằm thắm” trong nghịch cảnh của anh được người đời ca ngợi, cảnh sát cũng khâm phục sự can đảm dám đứng ra làm mọi việc của anh. Tôi đã thấy: anh ấy sẽ tìm lại được thiên cơ đã mất và hoàn thành cuộc tìm kiếm vạn năm của mình.

Tôi đã từng được phong danh hiệu là “Siêu Tuyệt Luân”, tôi không muốn nói về quả vị trong quá khứ của mình, tôi biết rằng “Pháp của La Hán không phải là Phật Pháp”. Thệ ước của chúng tôi là không trở lại nhân gian để tu thành A La Hán; mà việc trở thành A La Hán chỉ là một trong những “ghi nhớ” mà chúng tôi đã nhận được ở thế gian và không đánh mất nó suốt 2500 năm. “Duyên phận” cao quý từ 2500 năm trước đã đưa chúng tôi đến với nhau, “hai người nối tiếp nhau”, do chúng tôi từ “tầng thứ cực thấp (nói theo lý giải của sinh mệnh trong cựu vũ trụ về Pháp lý Chân Thiện Nhẫn)” trong khổ nạn của chuyển thế luân hồi, đã thể nghiệm và quan sát thấy được “xã hội đang phát triển, tư tưởng của con người cũng đang biến đổi và con đường của sinh mệnh cũng trở nên càng ngày càng phức tạp”; hãy quan sát toàn bộ quá trình của sinh mệnh từ khi sinh ra cho đến khi sa đọa hủ bại; quan sát sự trân quý của đặc tính vũ trụ; khiến cho chúng tôi biết rằng nếu không có “Con đường duy nhất lên núi Hoa Sơn” (con đường khó khăn nguy hiểm) này thì không thể thoát khỏi đường cùng trong luân hồi của sinh mệnh. Sự trở về của chúng tôi nhất định sẽ đến cảnh giới cao nhất của sinh mệnh, một thiên thể trong không gian bao la bất sinh bất diệt vĩnh viễn không bao giờ rơi xuống, nhờ việc chúng tôi tịnh tẩy bản thân nên mới đạt được tiêu chuẩn vô tư vô ngã.

Dưới sự dẫn dắt của Sư tôn “Nhất phàm thăng khởi ức phàm dương” (Một buồm căng, trăm triệu thuyền theo), chúng ta đã cho thế nhân (kể cả những người trong gia đình chúng tôi) nhìn thấy tu luyện là gì ở những mức độ khác nhau, thế nào là chính tín chính tu; để lưu lại những kinh nghiệm cá nhân của chúng ta cho nhiều chúng sinh hữu duyên hơn nữa, đặt nền tảng cho sự tu luyện trong tương lai của chính họ, khiến cho sự chính ngộ và thăng hoa trở thành tất yếu, đồng thời khai thông con đường để con người trở thành Thần; trong quá trình liên tục giảng chân tướng đã giúp cho nhiều sinh mệnh hữu duyên bước vào thế kỷ mới.

3. Duyên vợ chồng

Một ngày đầu năm 1999, là ngày sinh nhật của tôi, để giải tỏa sự lo âu cho một đồng nghiệp trong đơn vị, người đã làm điều rất có lỗi với tôi khiến người nhà tôi rất tức giận, chồng tôi đã bỏ nhà ra đi mấy ngày không về, anh thực sự muốn ly hôn. Tôi ôm sách “Chuyển Pháp Luân” đọc nhiều đêm, buông bỏ tự ngã, lo thay cho anh ấy, tôi viết cho anh một lá thư và nói với anh rằng: “Anh không nên tùy tiện nói chia tay, tất cả những điều không vui vẻ rồi sẽ trở thành quá khứ, mọi nỗi vất vả anh đã làm cho gia đình này sẽ không uổng phí, em và con trai sẽ là niềm tự hào của anh… Em không còn sự lựa chọn nào khác, em sẽ chăm sóc con trai thật tốt, bất luận ngày nào anh muốn về nhà, nhà vẫn luôn là của anh, cả đời này em chỉ có một người chồng và một đứa con trai, kiếp này sẽ không bao giờ thay đổi”. Tôi cũng nói với anh rằng người thực sự tốt phải đối xử tốt với mọi người chứ không chỉ với người thân của mình, trong oán thù luôn có báo ứng chứ không có niềm vui, tôi không oán trách những người đã đối xử tệ với tôi, bởi vì trong lòng tôi không có hận thù. Viết xong bức thư này, sáng hôm sau, Sư phụ cho tôi thấy ân oán và nhân duyên giữa tôi và anh ấy ở kiếp trước.

Cách đây rất lâu, anh là con của một gia đình quan lại và rất thông minh. Vì sự ưu ái của thượng cấp, cha anh bị áp lực nên anh phải cưới cô con gái ngốc nghếch của thượng cấp làm vợ, cô ấy có danh làm vợ nhưng không có phận. Nhưng anh ấy là một con người trung hậu và lương thiện, sống với cô “vợ” không biết gì, anh vẫn chăm sóc cô ấy không chút oán hận; sau này anh ấy lấy tôi và chúng tôi cùng nhau chăm sóc cô ấy, chúng tôi sống rất hòa thuận và hạnh phúc, nhưng tôi đã có phận mà không có danh.

Ở một kiếp khác, chúng tôi có danh phận làm vợ chồng, nhưng lại bất đồng quan điểm, ở kiếp đó chúng tôi chia tay nhau trong đau khổ.

Lại một kiếp nữa, tôi làm vợ lẽ của người khác, trong đau khổ tôi hét lên từ nơi sâu thẳm của sinh mệnh rằng anh ở đâu?

Cuối cùng chúng tôi đã đến với nhau một lần nữa. Những người xung quanh chúng tôi đã sống gắn bó chặt chẽ với nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác, anh anh em em, ân ân oán oán. Xây dựng đủ mọi danh xưng như: cha mẹ, anh em trai, chị em gái, anh em đồng hao, chị em dâu, bạn bè và kẻ thù… Mỗi cuộc đời đều thay đổi nhưng mối liên hệ vợ chồng không hề đứt đoạn…

Tôi từng tranh giành tình yêu nên đương nhiên phải chịu cảnh chia tay mấy ngày nay, anh và cô ấy có duyên mà không có phận nên kết hôn rồi cũng không thể ly hôn; những thứ ấy của anh không thể vứt bỏ được, những thứ không phải của anh thì cầu cũng khó. Điều thế nhân ưu sầu là điều không buông bỏ được trong tâm, người tu luyện – “Xả là sự thăng hoa của tu luyện” “xả tận mới là vô lậu”.

Anh đã đọc lá thư của tôi và không bao giờ rời khỏi nhà nữa. Sau ngày 20 tháng 7, trước sự đàn áp, anh đã bênh vực lẽ phải thẳng thắn nói: “Ở nhà cô ấy là một người vợ, người mẹ tốt, cha tôi nói cô ấy là một người con dâu tốt, ở đơn vị công tác cô ấy tốt hay xấu thì các vị hiểu rõ nhất, làm sao có thể che dấu lương tâm mà đánh người tốt được?” Đối mặt với cảnh sát, anh hiên ngang lẫm liệt nói: “Là tôi bảo cô ấy luyện công đấy”. Tôi bị bắt và bị đối xử tàn bạo, anh ấy đã nhiều lần viết thư kháng nghị; trong nhiều biến cố, khi đối mặt với tà ác, anh tỏ ra oai phong lẫm liệt, quả thực là một vị Thần hộ Pháp ở thế gian.

Khi tâm tính đã đạt đúng vị trí, Sư phụ sẽ cho phép bạn từ nhận thức lý tính đối với Pháp lên cao đến mức “thấy được” bằng công năng túc mệnh thông, đồng thời thấy được kết quả của các sự kiện, “tiếp xúc được” với sự thật này.

“Thần cũng đang nhìn xem con người là kiên định hay không; vì [nguyên] nhân khởi [ra] niệm đầu tư tưởng của con người là rất phức tạp; thế nên hành vi con người mới là biểu thị chuẩn xác nhất của con người” (Giảng Pháp tại Pháp hội quốc tế miền Tây Mỹ quốc [2005]).

Nếu không nhảy ra khỏi con người, sẽ không thể nhìn thấy được Phật Pháp ở tầng này. Càng nhìn không thấy và càng không tin thì sẽ dễ dàng hình thành một tuần hoàn ác tính, từ trong mê mà sa đọa và bị hủy diệt.

4. Quả báo

Trong quá trình tu luyện, chúng ta gặp phải nhiều khổ nạn. Sư phụ giảng:

“Nếu việc này xảy ra không phải trong thời kỳ Chính Pháp, và bị bức hại là người thường, vậy thì sau khi cảnh sát tà ác kia chết và chuyển sinh, gặp được thời kỳ này và đắc Pháp trở thành đệ tử Đại Pháp, thế thì tới lúc đó người bị đánh chết kia chẳng phải sẽ muốn họ hoàn trả lại mệnh?” (Giảng Pháp vào Tết Nguyên Tiêu năm 2003).

Đầu năm 1999, tôi thấy một đồng tu bị vây quanh bởi những bộ xương, đồng thời lặp đi lặp lại câu “Nhất nhân công thành, vạn cốt khô” (Một người thành công, nhưng vạn người chết phơi xương), nhiều người đòi mạng anh ta; tôi khoác áo khoác cho anh ấy và nói: “Chúng ta hãy chạy trốn mai danh ẩn tích nhé”. Lúc đó tôi thực sự không tin, làm sao một người tu luyện Đại Pháp ở kiếp này lại có thể mắc nợ mạng sống của mình được? Cũng không thể lý giải được. Vào ngày đầu năm mới năm 2000, tôi kể cho anh ấy nghe câu chuyện này, nhưng lúc đó anh ấy chưa hiểu ra. Cùng năm đó, anh bị truy nã toàn quốc vì đi Bắc Kinh khiếu tố, và sau đó bị kết án bất hợp pháp bảy năm tù. Tôi biết rằng Sư phụ đã mượn miệng tôi để kể cho anh ấy nghe về trải nghiệm tu luyện ma quỷ của anh ấy ở kiếp trước, và anh ấy nợ một mạng sống. Kiếp này anh cũng đã luyện rất nhiều công pháp và tìm gặp được nhiều khí công sư nổi tiếng lúc bấy giờ; trước khi anh tu luyện Đại Pháp, đan điền của anh luôn nóng 24 giờ một ngày. Khi đó anh từng phát khí ra để chữa bệnh đau răng cho người ta, khí vào thì hết đau, anh đã từng xuất gia đi tu, thậm chí còn muốn gửi con của mình đến chùa, chỉ khi gặp được Đại Pháp anh mới chấm dứt việc theo đuổi trước đây của mình. Bản thân anh ấy nói rằng anh không nhìn thấy gì mà chỉ muốn làm theo yêu cầu của Sư phụ đến cùng, chúng tôi biết anh là một đệ tử có một nền tảng rất lớn. Tôi biết anh sẽ nhớ câu chuyện này, sẽ hiểu được quá trình sinh mệnh của mình và sẽ tu luyện tốt trong bất kỳ môi trường nào.

Nợ thì phải hoàn trả, điều đó cũng đã xảy ra với tôi. Tôi bị bắt, bị đối xử tàn bạo, bị còng tay và bị thẩm vấn, nhưng ngược lại tôi lại thấy thương hại cho những cảnh sát đã ngược đãi tôi, tự tôi còn không hiểu bản thân mình đã bị làm sao? Sau này Sư phụ đã cho tôi nhìn thấy: Ở kiếp nào đó tôi là huyện lệnh, người chỉ huy kiếp này là phạm nhân ở trong tay tôi ở kiếp đó, tôi cũng không cho hắn cơ hội nói chuyện, đã ném xuống mảnh giấy “thẳng tay tra tấn nhục hình”.

“…. Những sự việc nơi người thường, chiểu theo Phật gia [tuyên] giảng, đều có quan hệ nhân duyên”;

“ Chịu tội [khổ] chính là hoàn trả nợ nghiệp; vậy nên, không ai có thể tuỳ tiện thay đổi nó; thay đổi [nó] cũng tương đương với mắc nợ không phải trả; cũng không được tuỳ ý mà làm thế, nếu không thì cũng tương đương với làm điều xấu” (“Chuyển Pháp Luân”– Bài giảng thứ nhất).

Chấp trước của tôi (có sai sót “không cho người ta nói”, mà lại bỏ qua) đã khiến cho cựu thế lực nắm lấy chỗ sơ hở đó và đẩy tôi vào ma nạn, Sư phụ không còn gì để nói đành phải nhìn tôi trả nợ. Trong khi trả nợ, chấp trước vẫn không buông, tôi chỉ ra vết thương trên cánh tay của mình cho đội trưởng đội cảnh sát hình sự chỉ huy bạo lực biết, kết quả là số kiếp 21 ngày (được nhìn thấy trong lúc luyện tĩnh công) đã kéo dài đến 31 ngày. (Để biết chi tiết, xem bài “Thể hội của cá nhân tôi với Pháp vô định Pháp”).

Suy ngẫm về vô số hình ảnh vụn vặn qua công năng túc mệnh thông, rồi những phát triển biến hóa tình thế trong thực tế và sự tái hiện hình ảnh của túc mệnh thông đã khiến tôi có thể suy luận chính xác về những ân oán tình thù của kiếp trước giữa tôi và những người xung quanh. Vì vậy có thể chứng minh rằng: luân hồi quả báo tồn tại khách quan. Một cái cau mày, một nụ cười, một sự phẫn nộ, một nỗi oán hận của bạn đều có căn nguyên của nó, bạn yêu ai đó là vì bạn đã mắc nợ họ; bạn oán trách ai đó là vì họ đã nợ bạn (người ta thường oán trách khi gặp phải việc xung đột với lợi ích của họ, không phải là cái “oán” này, mà ám chỉ cái “oán” không có lý do, nó là thứ gì đó sâu xa trong sinh mệnh của bạn); thiện giải mọi nhân duyên mới là bạn đang tu. Muốn phủ định những an bài đã có trong vũ trụ, quả thực không dễ, đã biết được Pháp lý, đã nhìn thấy trước được kết quả, tôi thường vẫn không thể vượt qua được sức kéo của nghiệp lực, nhưng tôi biết rằng đây là tu luyện, nếu 99 lần làm không được, nhất định phải làm 100 lần, bởi vì đây là điều bạn muốn.

“Chư vị mong gì thì không ai can thiệp, đó là một [Pháp] lý trong vũ trụ” (“Chuyển Pháp Luân”– Bài giảng thứ nhất).

Sư phụ chỉ cần nhìn vào cái tâm này của bạn, là có thể sắp xếp lại những an bài trong quá khứ, xóa hết những món nợ. Vì tương lai tốt đẹp của bạn, là một con người, xin các bạn hãy cân nhắc từng ngôn hành của mình.

Sau đó tôi bảo cho người cảnh sát chỉ huy tra tấn biết về nhân quả và hỏi anh ta: “Tôi có báo ứng, anh có không?” Viên cảnh sát trả lời: “Có, có, cô thấy đấy chúng tôi gây nợ máu chồng chất”. Tôi nói: “Anh nhìn thấy thì làm thế nào để sửa chữa? Lập danh sách nêu tên những kẻ hành ác là để cứu các anh, không phải để hại các anh, chính là xem anh có nhận ra sai lầm và có tâm cải chính hay không”. Họ đều sợ nằm trong “danh sách kẻ hành ác” nên không dám khai danh tính. Từ đây chúng ta cũng có thể thấy được uy lực của “danh sách kẻ hành ác” trong việc cứu độ chúng sinh. Người ác trở thành người tốt chẳng phải là điều tốt sao!

Mục đích của phản bức hại là khơi dậy lương tri của tất cả chúng sinh – sự đồng cảm và chính nghĩa – những sinh mệnh ở cao tầng sẽ dựa vào điều này để đánh giá xem người đó có đáp ứng tiêu chuẩn để họ có thể lưu lại ở tầng thứ đó hay không, để họ có hy vọng bước vào thiên thể to lớn mới, chứ không phải là cuộc chống đối tranh giành giữa con người với nhau. Họ có hy vọng hay không là sự an bài của cựu thế lực, đó cũng là sự lựa chọn của chính họ. Mặc dù người tu luyện thể hiện thất tình của con người (vui mừng, tức giận, lo lắng, nhớ nhung, đau buồn, lo sợ, kinh hãi), nhưng không có sự phân biệt giữa thích và ghét. Nếu có duyên và có thể lắng nghe thì hiển nhiên là điều tốt, ngược lại cũng là bình thường, ai ai cũng có thể đi thì cũng chính là không ai có thể đi, cứ để tùy duyên. Gọt bỏ đi một nửa quả táo thối sẽ không còn lại phần thịt xấu. Người ta chẳng ai để ý đến sự sống chết của con kiến “đó” (ý nói không ai quan tậm sự việc quá nhỏ nhặt đó). Toàn bộ mọi thứ trong “Cửu Bình”, “Phán quyết” và “Triển lãm tra tấn cực hình” đều xoay quanh chủ đề “cứu người”, còn ĐCSTQ chỉ là một quá trình trong lịch sử nhân loại, nó đang hướng tới quá trình “hoại”, ý chí con người cũng không ngăn nổi kết cục “hoại” của nó. Các sinh mệnh cao tầng chỉ mượn quá trình này để chính lại Pháp của vũ trụ, mỗi sinh mệnh đều có vị trí riêng của mình trong đó, muốn đi con đường nào là do bản thân sinh mệnh, không thể trách người khác được. Không cần phải lo lắng người khác gây rối loạn, nếu sinh mệnh cao tầng không để người ta gây rối loạn thì làm sao có thể loạn được? Sợ mất đi lợi ích hiện thực của bản thân, không dám nói, không dám làm, đây chính là điều mà sinh mệnh cao tầng không muốn nhìn thấy nhất. Hãy dùng “Chân, Thiện, Nhẫn” để phán xét chính mình! Bạn có xứng đáng được lưu lại hay không?

5. Thiên mục

Bắt đầu từ những sự việc tôi có thể nhớ, tránh khai mở thị lực trung tâm (thị lực vùng điểm vàng), hay thường được gọi là nhìn “chăm chú”, tôi có thể nhìn thấy một không gian của vi sinh vật, nổi bật rõ nét hơn trên nền trắng với ánh sáng thích hợp. Vô số các tiểu sinh mệnh có hình xoáy ốc, vòng cung, đoạn thẳng và chấm nhỏ có mật độ chỗ dày chỗ thưa, trong không gian đó chúng di chuyển tự do và nhanh chóng theo quy luật nhất định, dường như không cần chịu trách nhiệm với đồng loại, và sự phân bố của chúng rất hài hòa cân đối. Trong ánh sáng, chúng hiện lên màu đen, trong quá trình vận động thì nhìn thấy phản quang. Tôi không chắc lắm về những màu sắc này, có thể chúng hoàn toàn vô sắc, đó chỉ là “chiêu trò” do sự khúc xạ ánh sáng tạo thành khi chuyển động. Những người đã nhìn qua kính hiển vi đều có thể hiểu được không gian này, nên nói rằng nó là một không gian dưới kính hiển vi có độ phóng đại thấp, chỉ bất quá vi khuẩn chết dưới kính hiển vi được nhuộm màu trên các phiến kính, là cảnh tượng sau khi đã cố định ở một khu vực, còn những gì tôi nhìn thấy là những thứ ở khắp mọi nơi trong không gian, là những thứ nhỏ bé đang lay động và chuyển động với tốc độ không đổi. Lúc đó tôi lại không biết rằng những người khác không nhìn thấy.

Sau khi tiếp xúc với khí công, tôi mới biết rằng đây chính là thứ được nhìn bằng con mắt thứ ba của con người – như con mắt mà chúng ta thấy giữa trán của Nhị Lang Thần trong phim hoạt hình; tôi cũng đã thực sự nhìn thấy con mắt này nhìn vào không gian vi quan. Thậm chí vị trí của một sợi lông mi bị thiếu ở khe hở giữa mí mắt và lông mi cũng được thể hiện rất rõ ràng. Tôi đã dùng đặc trưng này để đối chiếu với hai mắt thường của mình, nó là một trong số đó – con mắt của chính tôi. “Một con mắt to như thế đang chớp chớp nhìn….” tiếp theo là hai, ba con mắt…. xuyên qua thấu kính có thể phản chiếu trong con ngươi, không ngừng lao vào và lao ra trong đường thông đạo của nó… Tôi không biết phải diễn tả thế nào. Sau khi cầm cuốn “Chuyển Pháp Luân” lên và đọc bài giảng thứ hai về thiên mục, tôi giật nảy mình, có ai có trải nghiệm thị giác giống tôi không? Tôi vội vã đọc tiếp, nó quá chính xác, tôi quá ngu muội, tôi thật may mắn! Tôi chắc chắn rằng cuối cùng tôi đã tìm được công phu thực sự của mình!

Tôi đã từng nghĩ thật tuyệt biết bao nếu có một chiếc máy ảnh sinh học thì tôi có thể chụp lại những cảnh tượng mà tôi nhìn thấy, không cần nói lời vô ích, mọi người sẽ tin rằng mọi điều Sư phụ nói đều là sự thật. Chẳng phải sẽ tốt hơn nếu Sư phụ ngồi trên không trung và giảng Pháp sao? Nhưng Phật Pháp yêu cầu mọi người phải dùng chân tâm mà nhận thức, trong mê mà ngộ được thì mới là chân tu. Điều Phật mong muốn chính là chân tâm của con người! Nhìn thấy chân tâm trong giả tượng.

“Có nhiều người đang tu trong ngộ, chư vị hiển hiện [công năng] cho họ, người ta thấy điều ấy là sự thật, tất cả đều đến tu; [cả] những kẻ thập ác bất xá cũng đến tu; điều này không được” (“Chuyển Pháp Luân”– Bài giảng thứ nhất).

Chấp trước vào “nhìn thấy” khiến con người không thể thoát ra khỏi nhân tâm.

“Thấy mới tin, không thấy không tin, vậy đó là cái thấy của kẻ ‘hạ sỹ’. Người ở trong mê, tạo nghiệp nhiều lắm, bản tính bị mê đâu thể nào thấy được. Ngộ trước thấy sau, tu tâm trừ nghiệp, bản tính hễ xuất liền có thể thấy” (“Tinh tấn yếu chỉ – Vì sao không được thấy”).

Trước khi bước vào Đại Pháp, tôi đã trải qua “ánh sáng trắng chiếu [lên thân] thể” (“Giảng Pháp tại Pháp hội Sydney 1996”), “hoa nở” và “khai mở đường thông”, thường thấy được “Thái Cực”; trong một thời gian ngắn đã xuất hiện một số công năng như nhục nhãn thông, thiên nhãn thông như “thấu thị biểu bì”, “thấu thị nhân thể” và “dao thị”. Sau khi bước vào Đại Pháp thì từ huệ nhãn thông trở xuống không xuất hiện nữa, nhưng khả năng “nhìn thấy” không gian vi quan vẫn tiếp tục diễn tiến.

Tôi đã từng nói về các lạp tử vi quan và dòng lạp tử mà tôi nhìn thấy trong bài “Những bước nhảy vọt trong nhận thức luận”; trong lớp tẩy não phi pháp, tôi đã dùng sự hình thành “thủy triều hình lưỡi kéo” trên sông Tiền Đường để giải thích cho các chuyên gia về trạng thái vận hành dạng chữ vạn của dòng lạp tử trong các tinh hệ – quy luật của vũ trụ từ hồng quan đến vi quan (lạp tử lớn, lạp tử nhỏ) đều tương thông với nhau. Tôi nói với họ rằng thật vô cùng nực cười khi dùng bộ phim khoa giáo “Vũ trụ và con người” để chỉ trích Pháp Luân Công, dùng sự thật để nói với họ về những chỗ đầy rẫy sơ hở của bộ phim khoa giáo này. Tôi nói với họ rằng “gió mặt trời” mà giới khoa học kỹ thuật nói đến chỉ phản ánh một khía cạnh của gió điện tử mà tôi nhìn thấy, gió điện tử của Mặt Trời không hẳn chỉ phát ra hướng về Trái Đất mà nó còn phát ra mọi hướng, không chỉ phát phóng ra mà còn đồng thời tiếp nhận, tại tầng thứ đặc định dùng thiên mục có thể nhìn thấy được, cũng chỉ có thể dùng cụm từ “lóa mắt” để mô tả, nhưng chúng quả thực đang vận hành một cách có quy luật. Khi đó, trong chương trình “Bách gia luận đàn” trên TV, tiến sĩ Lý Chính Đạo đang nói về chuyển động cong của chùm ánh sáng, tôi nói với họ rằng tôi không suy luận mà thực sự nhìn thấy trạng thái xoáy của dòng lạp tử trong chùm ánh sáng. Lúc đó tình cờ có bài báo đề cập đến “dòng nước rắn bắn ra” và “dòng chất lỏng” nên tôi đã mô tả cho họ loại nước giống như chất rắn mà tôi nhìn thấy và hiểu là nguồn gốc của tầng phân tử: dòng chất lỏng trong chất rắn, cấu trúc được sắp xếp có quy luật, dường như có sức căng bề mặt, có hình dạng có kiểu dáng. Những nghiên cứu của Nhật Bản về ý niệm đối với sự kết tinh của nước ở điểm đóng băng có thể dùng để so sánh. Trong việc giảng chân tướng, tôi thực sự cảm nhận được sự trợ giúp của Thần, vạn sự vạn vật đều trong tầm tay của tôi và tôi cảm thấy rất thoải mái. Sư phụ giảng:

“[Khi] thiên mục khai [mở], thì có thể phóng đại những thứ ấy mà nhìn; nguyên nó chính là bản năng của con người, hiện nay lại gọi là công năng đặc dị. Nếu chư vị muốn xuất hiện công năng đặc dị, thì phải phản bổn quy chân, vãng hồi tu” (“Chuyển Pháp Luân”– Bài giảng thứ nhất).

Những điều này vô cùng chính xác!

Khi tu luyện thâm sâu hơn, tôi thường xuyên trải nghiệm “các tầng thứ khác nhau” của thiên mục được kể ra trong “Chuyển Pháp Luân”: đường thông chính, đường thông phụ, “một con mắt để nhìn bên kia và một con mắt [khác] để nhìn bên này”, phức nhãn, không gian theo chiều dọc, chiều ngang của tầng thứ khác nhau “liếc mắt một cái” để nhìn xuyên qua nhiều không gian tồn tại ở cùng một nơi cùng một lúc. Vấn đề “dưới mắt bên phải không có đường thông phụ” khiến tôi mê muội một thời gian, bởi vì tôi lại có. Về sau Sư phụ đã đề cập đến vấn đề này trong giảng Pháp:

“Khi tu luyện ở tầng thứ rất thấp, nguyên nhân là không có đường thông ở đây, chẳng hạn khi người ta nổ súng sát nhân thì cũng dùng con mắt này, bắn tên cũng dùng con mắt này, nói chung là cứ hay dùng con mắt này làm điều không tốt” (Giảng Pháp tại Pháp hội Canada [1999]).

Lúc đó tôi mới hiểu rằng không có gì là ngẫu nhiên cả, khi không hiểu thì phải xem tâm tính của mình, điều mà mình không nhận thức được thì chúng ta có tin hay không? Trong quá trình chính tín, chúng ta dần dần nhìn thấy Pháp lý được triển hiện từng tầng. Chúng ta càng ngày càng nhìn thấy được những khung cảnh tuyệt vời, sẽ khiến chúng ta càng ngày càng nhận ra rằng

“Tu luyện có đường tâm là tắt, Đại Pháp vô biên khổ làm thuyền” (“Hồng Ngâm”).

6. Trở về

“Toàn bộ quá trình tu luyện của người ta chính là quá trình liên tục tống khứ tâm chấp trước của con người” (Chuyển Pháp Luân) Vì sự tồn tại của tâm chấp trước khiến con người ôm chặt vào cái “hiện thực giả” nhìn thấy bằng mắt thịt mà không buông, cả đời truy cầu “danh, lợi, tình” vốn sẽ chôn vùi hủy diệt sinh mệnh của bạn, vì thế mà đắm chìm trong “thất tình lục dục” và đau khổ không lời nào tả xiết – hối tiếc những gì đã mất, những gì truy cầu mà không được, không nắm bắt được những gì ở trước mắt, không buông bỏ được những gì đã có trong tay. Con người trong khi truy cầu không có điểm dừng mà hướng tới lão, bệnh, tử. Cuối cùng tất cả đều là hư không – vứt bỏ cái thân xác – hoàn trả hết nợ, luân hồi báo ứng là chính xác!

Tại sao những gì chúng ta nhìn thấy bằng mắt thường lại là “hiện thực giả”?

Nói nó là “giả” vì thời không của nó quá ngắn ngủi. Sinh mệnh của quả chuối ngắn hơn quả táo; thọ mệnh của một cơ thể kim cương bất hoại không thể dùng nhục thể mà đo lường. Vừa rồi nó là một đồ vật, giờ đã biến thành tro bụi, bạn có nghĩ nó đã từng tồn tại không? Thứ có được trong tay đã mất, có cũng như không, thế thì bạn muốn nó để làm gì? Coi cả đời báo ứng (giống như một giấc mơ) là thật, sinh mệnh đời đời kiếp kiếp luân hồi lại cho là giả, cả đời tranh đấu mà tiêu hủy đi quá trình dài lâu của sinh mệnh, đó chẳng phải nhận thức đảo ngược rồi sao? Vì sinh mệnh của mình mà nắm lấy “giấc mơ” mới là đúng đắn. Tại sao lại coi cái “giả” là thật?

Tại sao phải quay trở vào vi quan?

Ở một góc độ khác mà nói, chúng ta thấy rằng vật chất càng hồng quan thì chuyển động càng chậm. Mặt Trời không phải là một hằng tinh thực sự, chẳng qua tốc độ chuyển động của nó chậm đến mức con người không quan sát được mà thôi. Bản nguyên của vật chất càng hồng quan thì càng vi quan (từ tầng thứ không gian thẳng đứng mà nói). Ví dụ các lạp tử trong cơ thể con kiến và các lạp tử trong cơ thể con người, từ vi quan nhất đến hồng quan nhất, không thể coi như nhau được. Còn con người và chư Phật thì sao? Những thứ to lớn không thể so sánh được! Những tinh cầu ở trong cơ thể ông Phật, giống như các phân tử của cơ thể chúng ta. Lớp lớn nhất của cơ thể con người là tế bào, bên trong tế bào có tế bào chất và nhân tế bào, trong nhân có nhiễm sắc thể và trong nhiễm sắc thể có gen… có rất nhiều tầng thứ, đây chỉ là một phần nhỏ trong một tầng tế bào của tầng phân tử bên trong tầng phân tử; còn những nguyên tử nhỏ cho đến hạt quark và neutrino thì sao? Cho đến bản nguyên của sinh mệnh thì sao? “Kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội” (Phật Thích Ca Mâu Ni). Hồng quan có thêm một tầng thì vi quan cũng thêm một tầng. Chúng ta biết rằng thứ gì đó tốc độ vận hành càng chậm thì tuổi thọ của nó càng dài, ví dụ tuổi thọ của một hành tinh được ghi bằng hàng trăm triệu năm; sinh mệnh của núi sông được ghi lại trong hàng ngàn năm; còn bạn lớn lên ở giữa sông núi, không cảm nhận được sự thay đổi của nó, bạn đã dần dần già đi rồi! Cơ thể của bạn không phải là hồng quan hay vi quan như chúng. Tôi biết bạn cũng không muốn giống như núi, sông, tinh cầu, bạn cũng không thể lớn như vậy, tôi chỉ muốn mượn những cái này để nói với bạn rằng khi họ duỗi lưng thì bạn đã biến mất từ lâu rồi. Sư phụ đã dạy cho chúng ta bí quyết của sinh mệnh, hướng đến vi quan mà tu thì cơ thể sẽ lớn mạnh, (hướng đến hồng quan mà tu thì chư vị làm không được). (Đừng dùng mắt thường và đời người để suy xét, chúng không đáng nói đến).

Làm thế nào để quay trở về?

Vật chất càng vi quan thì khối lượng càng nhỏ, loại bỏ tạp chất thì sinh mệnh mới có thể thăng hoa – đi vào vi quan. Tu tâm tính loại bỏ tạp chất, làm cho sinh mệnh nặng nề nhơ bẩn của bạn trở nên nhẹ nhàng, diễn hóa công trở về nơi bạn đến. Hãy nghĩ về trước đây, vì cái “tư” tâm của mình, bạn từng bước rơi xuống phàm trần, thân thể ngày càng nhỏ hơn, các lạp tử ngày càng trở nên thô hơn, khối lượng ngày càng nặng hơn, đẳng cấp của sinh mệnh ngày càng thấp hơn, dùng phương pháp quan sát khắp mười phương từ hồng quan đến vi quan thì thấy rằng cuối cùng đã rơi xuống tầng thứ thấp nhất này của “con người” – “trung gian nhất, tầng ngoài nhất, bề mặt nhất” (Tinh tấn yếu chỉ). Theo hiểu biết của tôi: Kích thước của cơ thể con người nằm ở trung gian nhất của các lạp tử lớn và nhỏ, bề mặt nhất của toàn thể các lạp tử (toàn bộ các lạp tử to nhỏ của vô số tầng thứ), lớp ngoài cùng nhất của tổng thể sinh mệnh- lớp vỏ bên ngoài (trong vòng tròn có vô lượng vô tế sinh mệnh lớn nhỏ). Vẽ con người thành các “điểm”, cũng giống như một chiếc quạt lập thể, ở đầu xa của chiếc quạt, hai cực của độ “dày” (hoặc gọi là độ “cao”) một cực là “hồng” quan và một cực là “vi” quan.

Quay trở lại, cái lý của con người không thể sử dụng được. Trong quá khứ những lý luận Đạo gia của Hoàng Lão cũng vậy, lý luận của Phật gia cũng vậy, tôi đều đã học qua đời đời kiếp kiếp, chúng có thể giúp phó nguyên thần của chúng ta tu luyện đến một tầng thứ nhất định trong Tam giới, nhưng không bảo đảm ngăn chúng ta lại rơi xuống lần nữa. Chúng không thể cứu độ được chân thể của chúng ta ở tầng này khỏi sự luân hồi, Phật giáo thì ngay cả nhục thân cũng không độ được. Sư phụ đã chỉ rõ con đường này:

“Không biết Pháp tại cao tầng thì chẳng có cách nào tu; không hướng nội mà tu, không tu tâm tính [thì] chẳng thể tăng công” (“Chuyển Pháp Luân”– Bài giảng thứ nhất).

Pháp đã có sẵn, Sư phụ đã đặt Nó trước cổng nhà chúng ta, tùy xem chúng ta dụng “tâm” đến đâu, liệu chúng ta có thể vô lậu từ bỏ tự ngã hay không – vô tư vô ngã.

11 năm qua, tôi hổ thẹn với lòng tốt của Sư phụ, tôi kiệt sức mệt mỏi, tiến hai bước, lùi một bước, còn lại bao nhiêu thời gian cho chúng ta? Tiến trình Chính Pháp trong vũ trụ không chờ đợi ai, nếu không có Chính Pháp thì chúng ta không thể trở về tầng thứ cao như vậy, xuống không dễ mà lên lại càng khó hơn. Chúng ta đều là vì chính mình tu luyện, “cò kè mặc cả” không phải là chân tu, cũng không thể quay về một cách thật sự, bài này viết cho mọi người, cũng là viết cho chính tôi, để khích lệ chúng ta cùng nhau tinh tấn, cùng nhau trở về nhà!

Trên đây là một chút thể hội ở hiện tại, có gì thiếu sót mong các đồng tu từ bi góp ý.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/41243



Ngày đăng: 22-10-2024

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.