Trang chủ Right arrow Tu luyện Đại Pháp Right arrow Chia sẻ tu luyện

Bút ký tu luyện: “Được tẩy tịnh” (Phần 3)

18-10-2025

Nhìn lại hành trình tu luyện của tôi

Tác giả: Thiên Chân

[ChanhKien.org]

Thỉnh thoảng tôi suy nghĩ về quá trình tu luyện của mình, đặc biệt là khi học Pháp hoặc đọc các bài chia sẻ thể nghiệm của các đồng tu. Khi đọc những lời giảng Pháp về chính niệm chính hành, phủ định an bài của cựu thế lực, nắm bắt thời gian để cứu độ chúng sinh, cùng các chân lý khác trong Pháp, tôi thường liên hệ đến tâm tính, tư tưởng, hành vi hoặc một sự việc trong quá khứ của bản thân mình. So với tiêu chuẩn và yêu cầu của Pháp, và so với năng lực của một số đồng tu khi chứng thực Pháp, cứu độ chúng sinh trong lúc đối diện khổ nạn, tôi thấy tâm tính và hành vi của mình cách xa tiêu chuẩn nhường nào và đáng thất vọng biết bao khi bản thân đối diện với khổ nạn.

Đôi khi tôi nhìn lại hành trình tu luyện đã qua của mình, thường là một số đoạn nhất định chứ không phải toàn bộ con đường. Nhưng bất kể nhìn lại thế nào, tôi không thấy có nhiều điều khiến tôi hài lòng trong hành trình tu luyện hơn hai mươi năm của mình. Hầu như những gì nổi bật đều là thiếu sót, hối tiếc, sai lầm, và những lần vấp ngã lớn!

Điều này làm tôi ngày càng lo lắng hơn. Nó cũng thôi thúc tôi nhìn sâu hơn vào quá trình tu luyện trước đây của mình, tìm nguyên nhân tại sao tôi lại để lại nhiều thiếu sót và hối tiếc như vậy trên con đường tu luyện, để từ đó rút ra bài học và đi trên con đường tương lai tốt hơn. Tôi phát hiện nguyên nhân thật ra khá rõ ràng và đơn giản: tất cả thiếu sót và hối tiếc đều bắt nguồn từ tâm chấp trước của tôi, hay nói chính xác hơn, là do chủ thức của tôi không có đủ chính niệm và trí huệ từ Pháp để ức chế tư tưởng và tâm chấp trước của con người.

Ngay đầu Bài giảng thứ nhất trong Chuyển Pháp Luân, Sư phụ đã giảng rõ:

“[Tôi] nói rõ cho chư vị một chân lý: toàn bộ quá trình tu luyện của người ta chính là quá trình liên tục tống khứ tâm chấp trước của con người”.

Theo tôi thấy, câu Pháp này có vẻ đơn giản và dễ hiểu, nhưng lại tiết lộ một thiên cơ đích thực, chính là bản chất và cốt lõi của tu luyện, là chân lý của Pháp mà chúng ta nhất định phải liên tục và nghiêm khắc tuân thủ trên con đường tu luyện. Ở các tầng thứ khác nhau, tiêu chuẩn để tu bỏ những tâm chấp trước là khác nhau, và biểu hiện cũng khác nhau. Ngay cả sự am hiểu và nhận thức của người tu luyện về tâm chấp trước cũng khác nhau ở các tầng thứ khác nhau. Tuy nhiên, ở bất cứ tầng thứ nào, việc tu bỏ tâm chấp trước của con người đều cực kỳ trọng yếu và căn bản. Tôi đã có được nhận thức riêng về điểm này thông qua quá trình tu luyện cá nhân của mình.

Thể ngộ của tôi là: quá trình “liên tục tống khứ tâm chấp trước của con người” cũng là một phần của quá trình “được tẩy tịnh”, mà quá trình “được tẩy tịnh” bao gồm việc thanh lọc và tiêu nghiệp, cùng các phương diện khác, để cuối cùng đạt đến mục đích “thành tựu sinh mệnh” (Giảng Pháp tại Washington DC năm 2018). Về cơ bản, tất cả những điều này đều do Sư phụ thực hiện và chỉ có Sư phụ mới có thể làm được. Nhìn lại hành trình tu luyện của mình, tôi thấy bản thân đã từng bước được “tẩy tịnh” trong Pháp. Thế nhưng, những thiếu sót và hối tiếc đó, bất kể lớn hay nhỏ, bất kể tôi mong ước chúng chưa từng xảy ra đến mức nào, thì đều đã thành sự thực. Chúng cũng là một phần biểu hiện của thế gian con người trong quá trình sinh mệnh tôi được “tẩy tịnh”.

Trong môi trường Trung Quốc đại lục đã bị cựu thế lực làm cho phức tạp và bại hoại, so với những người bình thường khác, tôi đã gần như có một trái tim thuần khiết và ít ham muốn trước khi bước vào tu luyện Đại Pháp. Tôi xem nhẹ danh, lợi, tình, và không nghiện ngập hay có thói xấu. Vì vậy, trước khi cuộc bức hại diễn ra, tôi đã không gặp trở ngại trong nhiều phương diện tu luyện. Nói cách khác, tôi đã không sa vào những cám dỗ của xã hội có thể cản trở sự tu luyện của mình.

Tuy nhiên, cựu thế lực đã tuyệt đối hóa nguyên lý tương sinh tương khắc trong Tam giới. Họ đã an bài cho mỗi đệ tử Đại Pháp những điều mà Chính Pháp và tân vũ trụ không thừa nhận. Tôi cũng không ngoại lệ, nên trong quá trình tu luyện, tôi không tránh khỏi gặp phải những khó khăn do cựu thế lực an bài. Những khó khăn này chủ yếu liên quan đến hai tâm chấp trước cứng đầu của con người, một trong số đó là tâm sợ hãi. Những tâm chấp trước khác của tôi yếu hơn, và ít nhất theo nhận thức của tôi, chúng chỉ có tác động tiêu cực nhỏ đối với quá trình tu luyện của tôi. Tuy nhiên, hai chấp trước này lại là ngoại lệ và đã đóng một vai trò cản trở và phá hoại trên con đường tu luyện của tôi. Những khổ nạn mà tôi đã trải qua sau khi cuộc bức hại bắt đầu phần lớn liên quan trực tiếp đến hai tâm chấp trước này. Đây là những điều tôi nhận thấy sau khi nhìn lại và xem xét hành trình tu luyện của mình. Tôi biết rằng đó là sự an bài tà ác của cựu thế lực dưới danh nghĩa “khảo nghiệm” tôi, và tôi cũng minh bạch rằng sự an bài cao hơn của Sư phụ có thể phá vỡ được an bài của cựu thế lực.

Sợ hãi và hối tiếc

“Tâm sợ hãi sẽ khiến người ta làm điều sai lạc, tâm sợ hãi sẽ khiến người ta mất đi cơ duyên, tâm sợ hãi là một ‘cửa tử’ [trên con đường] từ người trở thành Thần” (“Vượt qua cửa tử”, Tinh Tấn Yếu Chỉ III).

Người ta không thể dễ dàng bước qua “cửa tử” này. Tâm sợ hãi càng lớn, cửa quan này dường như càng lớn. Nếu một người không có chính niệm mạnh mẽ và không thể buông bỏ sinh tử, thì làm sao người đó có thể dễ dàng bước qua “cửa tử” một cách đường đường chính chính? Một người tu luyện không sợ cái chết là bởi vì họ có chính niệm mạnh mẽ, phát xuất từ sự đồng hóa với Pháp và đề cao trong Pháp, chứ không phải là sự can đảm hay dũng khí của con người nơi thế gian. Chính niệm có thể áp chế và tiêu trừ tâm sợ hãi, giúp đệ tử Đại Pháp có thể đối kháng hiệu quả với bức hại, cứu người, và chứng thực Pháp. Nhưng khi thiếu chính niệm, tâm sợ hãi sẽ chiếm ưu thế, tư tưởng và tâm chấp trước của con người sẽ phát huy tác dụng tiêu cực, phá hoại nguyện vọng chứng thực Pháp của người tu luyện, có thể dẫn đến việc người tu luyện phạm sai lầm và rơi rớt. Do đó, việc một người có thể vượt qua tâm sợ hãi về “cửa tử” hay không, về cơ bản, chính là việc người đó có thể dùng chính niệm để chế ngự tâm chấp trước của con người hay không.

Tâm sợ hãi can nhiễu đến những người tu luyện khác nhau ở các mức độ khác nhau, đặc biệt là trong cuộc bức hại. Trong giai đoạn tu luyện cá nhân trước khi cuộc bức hại bắt đầu, tôi không nghĩ rằng mình có tâm sợ hãi, bởi khi ấy trong tu luyện chưa có nhân tố nào hiển lộ điều đó cho tôi. Điều này đã góp phần tạo nên quan niệm sai lầm rằng khảo nghiệm trong tu luyện không khó để vượt qua. Tuy nhiên, Sư phụ đã giảng trong bài “Kiến Chân Tính” (Hồng Ngâm II):

“Khảo nghiệm diện tiền kiến chân tính” (Tạm dịch: Đối mặt khảo nghiệm thấy chân tín).

Khi tà ác càn quét thế gian, giam cầm tôi, thao túng những kẻ tà ác cùng những người chưa hiểu chân tướng để đe dọa, bức hại và tra tấn tôi, thì tâm sợ hãi của tôi đã bị khơi dậy, phơi bày ra, và trực tiếp đóng vai trò phá hoại trong quá trình tu luyện của tôi.

Khi cuộc bức hại bắt đầu, tôi không có biểu hiện sợ hãi rõ ràng. Thay vào đó, tôi cảm thấy chán nản và kinh ngạc trước việc Đại Pháp bị chính quyền đàn áp tràn lan trên phạm vi toàn quốc, mà bản thân lại không biết phải làm gì. Ngày 01 tháng 10 năm 2000, tôi cùng một số học viên khác (tất cả đều có vẻ tin tưởng và kiên định trong Đại Pháp) đã đến Bắc Kinh với hy vọng đứng ra vì Pháp. Tôi giữ được trạng thái tinh thần vững vàng, không hề lo lắng hay sợ hãi. Tâm thái này vẫn tiếp tục ngay cả khi chúng tôi đến Quảng trường Thiên An Môn. Tại quảng trường, khắp nơi đều thấy các đệ tử Đại Pháp bị cảnh sát của ĐCSTQ đánh đập, bắt giữ và cưỡng chế đưa đi. Cả nơi đó bị bao trùm bởi một bầu không khí tà ác và hiểm trá. Chúng tôi làm theo lời khuyên của học viên dẫn đầu và bắt đầu đồng thanh hô lớn: “Pháp Luân Đại Pháp là chính Pháp! Pháp Luân Đại Pháp bị oan!”. Tôi nhận ra giọng mình không đủ lớn, và ngay lúc đó tôi bắt đầu cảm thấy thiếu dũng khí và tự tin vào bản thân, và rằng tôi không có chính niệm mạnh mẽ. Tôi không nghĩ gì cụ thể, nhưng tôi có thể cảm thấy nỗi sợ hãi bắt đầu cản trở mình. Ngay lập tức, chúng tôi bị bắt giữ bất hợp pháp, bị nhồi nhét lên một chiếc xe buýt và bị đưa đến đồn cảnh sát, nơi chúng tôi bị tách ra. Tôi bị thẩm vấn, tra tấn và giam giữ. Lúc đó tôi đã tu luyện được gần bốn năm, nhưng dù sao thì đây cũng là lần đầu tiên tôi bị tra tấn cả về thể xác lẫn tinh thần một cách tàn bạo như vậy. Khi ấy tôi cũng mới chỉ có nhận thức nông cạn về tu luyện Chính Pháp và cuộc bức hại do cựu thế lực phát động dưới danh nghĩa “khảo nghiệm” chúng tôi. Tôi cũng có chấp trước vào sợ hãi. Bởi vậy, tôi đã không đối đãi với cuộc bức hại bằng chính niệm. Thay vào đó, tôi lại thụ động chịu đựng nó, lo lắng rằng mình có thể bị tra tấn tàn khốc hơn và chịu đựng nhiều đau đớn hơn. Tôi thậm chí còn sợ mình có thể bị tra tấn đến chết ngay tại chỗ. Tôi liên tục đọc các bài thơ trong “Hồng Ngâm” với hy vọng tăng cường chính niệm, nhưng tâm sợ hãi đã lấn át. Cảm thấy sợ hãi và bất lực, tôi nói với Sư phụ: “Sư phụ! Con không thể chịu đựng được nữa!”. Tôi cảm thấy như mình đã bị đẩy đến giới hạn chịu đựng và không còn lựa chọn nào khác ngoài việc thỏa hiệp với tà ác.

“Tôi biết vô cùng rõ ràng, thân thể người ấy, khi bị bức hại thì năng lực chịu đựng thân xác thịt của họ là hữu hạn!” (Giảng Pháp tại Washington DC năm 2018).

Trong lúc bị tra tấn, sức chịu đựng về thể xác của tôi thực ra vẫn chưa chạm đến giới hạn, mặc dù tôi cảm thấy như đã đến giới hạn rồi vì một số lý do. Lý do đầu tiên là tôi phần nào bối rối và không biết phải làm gì vì chưa từng bị đối xử tàn nhẫn và bạo lực đến thế. Nhưng tôi chắc chắn rằng đây không phải là nguyên nhân căn bản và không nên lấy đó làm cái cớ. Nhiều đồng tu đã làm rất tốt ngay cả khi họ bị bức hại lần đầu tiên trong giai đoạn đầu của cuộc bức hại. Họ cũng chưa bao giờ có trải nghiệm tương tự, nhưng họ đã không thỏa hiệp với tà ác. Vậy tại sao tôi lại không làm được? Lý do thứ hai là nỗi sợ hãi do cựu thế lực gieo rắc đã đóng một vai trò phá hoại. Loại sợ hãi này chủ yếu là sợ hãi đau đớn về thể xác. Tâm lý sợ hãi đã biểu hiện ngay cả trước khi cuộc bức hại xảy ra, đặc biệt là trong khi luyện bài tĩnh công. Chỉ là tôi chưa ý thức rõ ràng mà thôi. Trước cuộc bức hại, tôi chưa bao giờ ngồi xếp bằng khi thiền định hết cả tiếng đồng hồ. Nhiều nhất tôi chỉ ngồi được khoảng bốn mươi phút rồi phải chuyển sang tư thế bán kiết già để bớt đau. Tôi không muốn chịu khổ, cũng không có chính niệm và ý chí kiên cường. Tôi cũng không đủ nghiêm khắc với bản thân. Tôi đặc biệt sợ hãi hình thức tra tấn thể xác khi bị bức hại. Sư phụ đã giảng:

“Có đệ tử bảo rằng “Sợ gì chứ, đầu dẫu bị chặt rớt xuống thì thân này vẫn ngồi đả toạ nơi đây”, [đem ra] so sánh, tu được thế nào thì nhìn một cái là hiểu rõ ngay” (“Phơi bày rõ”, Tinh Tấn Yếu Chỉ).

Cựu thế lực có cái cớ để an bài như vậy: Tu luyện trong một Pháp lớn như vậy, nếu không có khảo nghiệm và khổ nạn thì có được không? Nếu không có khó khăn thì có được không? Chẳng phải đã có Đại Pháp dẫn dắt sao? Chỉ khi nào dùng chính niệm từ trong Pháp để vượt qua tâm sợ hãi, thì họ mới thừa nhận người ấy. Điều này liên quan trực tiếp đến lý do thứ ba và cũng là lý do căn bản nhất: lúc bấy giờ tôi chưa đạt được chính niệm kiên định không thể lay chuyển trong tu luyện, do đó đã không thể chế ngự được các nhân tố con người của mình, đặc biệt là tâm sợ hãi.

Sư phụ đã giảng rõ ràng rằng:

“Nếu đệ tử Đại Pháp đều có thể chính niệm chính hành, bất kể ở tình huống nào đều dùng chính niệm suy xét vấn đề, mỗi từng đệ tử Đại Pháp đều không sẽ vì có bức hại trước mặt mà sinh xuất tâm sợ hãi, thử xem ai dám đến bức hại chư vị! Ai đã hoàn toàn ở trong Pháp thì không ai động đến được; đó chẳng phải đã có trang bị năng lực bảo hộ tự mình hay sao? Thực ra với những học viên lâu năm [từ thời] trước cuộc bức hại, là tôi đều đưa chư vị đến vị trí rồi; kể cả những học viên mới về sau, chỉ cần có chính niệm chính hành, hoàn toàn có thể bảo hộ bản thân rồi” (Giảng Pháp tại Pháp hội San-Francisco năm 2005).

Là một đệ tử đắc Pháp trước khi cuộc bức hại bắt đầu, không nghi ngờ gì, tôi cũng đã được Sư phụ đưa đến vị trí của mình, nhưng lúc đó tôi vẫn còn lâu mới thành thục được trong tu luyện ở phần bề mặt con người. Tâm chấp trước vào nỗi sợ hãi của tôi không bị loại bỏ thông qua tu luyện; thay vào đó, nó chỉ đơn giản là ẩn nấp xung quanh. Do chính niệm của tôi không đủ mạnh, nên các loại tâm lo lắng, đặc biệt là tâm sợ hãi, đã chiếm ưu thế. Kết quả là tôi phần lớn vẫn ở trong trạng thái người thường. Thay vì bảo vệ uy nghiêm của Đại Pháp, tôi lại nghĩ nhiều đến việc tránh bị tổn hại thêm và bị giết chết. Buông bỏ sinh tử là điều không thể, và việc trải qua khổ nạn cũng vậy. Tôi không thể làm được vì tâm tính và cảnh giới của tôi chưa đạt đến tiêu chuẩn cao như vậy. Trước khi trải qua khảo nghiệm, tôi không hề biết, cũng không tin rằng bản thân lại có tâm sợ hãi nghiêm trọng đến thế, rằng tôi chưa đạt đến cảnh giới buông bỏ sinh tử, rằng tôi chưa đặt được nền tảng tu luyện vững chắc, hoặc rằng tôi còn cách xa tiêu chuẩn của sự kiên định. Bởi vì tôi chưa đạt đến cảnh giới kiên định bất phá, nên khi khảo nghiệm phá hoại của cựu thế lực giáng thẳng vào tôi, tôi bị vỡ vụn hoàn toàn, rơi rớt không trụ nổi.

Tôi không thể tin rằng mình đã để lại một vết nhơ khủng khiếp như vậy trên con đường tu luyện của mình. Nhưng đó là sự thật, một sự thật không thể bị bỏ qua hay lãng quên! Trong suốt những năm qua, điều đó đã khiến trái tim tôi đau nhói, và tôi thấy khó có thể tha thứ cho bản thân. Sư phụ đã giảng rõ cho chúng ta:

“Trên con đường chư vị đi khi chứng thực Pháp cũng như giai đoạn thời kỳ chư vị gây dựng uy đức của mình, [chư vị] đừng để lưu lại bất kể chút dơ bẩn hay ân hận nào hết; nó vĩnh viễn không thể lau sạch được đâu” (Giảng Pháp tại Pháp hội vùng đô thị New York).

“Là một người tu luyện, nếu điểm ô nhục ấy mà không tẩy sạch cho được, thì hỏi ý nghĩa {ý vị} theo đó là gì, chư vị có tưởng tượng được chăng?” (“Lộ {Con đường}”, Tinh Tấn Yếu Chỉ II).

Sau một chặng đường dài như vậy, vào thời khắc cuối cùng và then chốt nhất, tôi đã chịu một thất bại thảm hại như vậy trong khảo nghiệm sinh tử đầu tiên, ngay sau khi tu luyện Chính Pháp bắt đầu. Các đệ tử Đại Pháp vốn dĩ phải trở thành những hộ Pháp của tân vũ trụ, thế nhưng tôi lại thỏa hiệp với tà ác trong cõi người này! Thật đáng xấu hổ! Thực ra còn hơn thế nữa. Đối mặt với khảo nghiệm, tôi lẽ ra phải chứng thực Pháp, vậy mà tôi đã không làm được. Trái lại, tôi còn làm ô uế Đại Pháp. Tội nghiệp và gánh nặng ấy lớn đến nhường nào? Tôi chưa từng dám nghĩ đến. Điều tôi cũng không dám nghĩ đến nữa là liệu chúng sinh trong vũ trụ có bị đào thải vì tôi đã thỏa hiệp với tà ác hay không. Nếu vậy thì đó sẽ là một mất mát to lớn biết bao!

“Nếu một người tu luyện thật sự có thể buông bỏ sinh tử, thì sinh tử sẽ vĩnh viễn rời xa người ấy. Nhưng đó không thể là cố ý biểu hiện ra, mà là chư vị ở trong Pháp mà tu được đến bước ấy, khiến chư vị trở thành sinh mệnh như thế. Nếu khi cuộc bức hại ở Trung Quốc Đại Lục bắt đầu, các đệ tử Đại Pháp đều có thể làm được khá là ngay chính như hiện nay, thì chúng không phát động được cuộc bức hại ấy, và tà ác sẽ bị tiêu huỷ trong nháy mắt, thế gian con người không phải là địa phương cho chúng làm những điều ác” (Giảng Pháp tại Pháp hội quốc tế New York 2004).

Tuy nhiên, cuộc bức hại đã xảy ra và vẫn tiếp diễn một cách tàn bạo. Là một đệ tử Đại Pháp, tôi cũng đã góp phần trong đó, đó là điều mà tôi không bao giờ có thể phủ nhận. Trường hợp của tôi cho thấy cựu thế lực đã “khảo nghiệm” các đệ tử Đại Pháp tàn bạo và dã man như thế nào, và sự phá hoại ấy khủng khiếp ra sao!

Trong suốt quá trình tu luyện gần bốn năm trước khi phải đối diện với khảo nghiệm ấy, tại sao tôi lại không có được chính niệm đầy đủ từ trong Đại Pháp để ức chế tư tưởng người thường trong bản thân, đặc biệt là tâm sợ hãi, để giúp tôi vượt qua được khảo nghiệm? Có phải vì khi ấy tôi không đủ tinh tấn chăng? Khi suy ngẫm lại, tôi có thể chắc chắn rằng lúc đó tôi không nằm số những người tu luyện tinh tấn nhất, nhưng tôi cũng không hề chểnh mảng. Tôi đã rất chú ý đến việc học Pháp và tu luyện tâm tính. Nhưng vì tôi không có được chính niệm đủ mạnh trong tu luyện, nên tôi vẫn chưa đủ tinh tấn. Thông qua việc học Pháp và thể ngộ sâu hơn, tôi dần minh bạch rằng cựu thế lực đã cố chấp quyết định từ lâu rằng khảo nghiệm ấy cùng với một phần quá trình tu luyện trước đó của tôi, nhất định phải triển khai theo “kịch bản” mà họ an bài. Tôi đã không phủ nhận được những an bài tà ác ấy.

Sư phụ đã giảng trong Giảng Pháp tại Pháp hội New York kỷ niệm 25 năm Đại Pháp hồng truyền:

“Nơi Trung Quốc Đại Lục — dùng lời cựu thế lực mà nói — chính là như lò luyện đan của Lão Quân, lửa ấy ắt phải mạnh thế, thì mới luyện ra vàng ròng”.

Nếu cuộc bức hại không được khởi phát, thì có nghĩa là chúng ta đã là “vàng ròng”. Tuy nhiên, vì chúng ta chưa đạt đến tiêu chuẩn “vàng ròng”, nên cuộc bức hại tất yếu diễn ra, ngọn lửa trong “lò” bắt đầu bùng cháy, và Sư phụ đã dùng nó để luyện “vàng ròng”. Lúc đó, tôi vẫn còn khá non nớt và chưa có đủ chính niệm để đạt đến trạng thái “nhất chính áp bách tà” (Chuyển Pháp Luân).

Hơn nữa, tâm sợ hãi vẫn âm thầm tiềm ẩn trong tôi mà tôi không nhận ra. Khi cái gọi là khảo nghiệm của cựu thế lực càn quét khắp mọi nơi, tôi đã không thể tránh khỏi những khổ nạn và khảo nghiệm đó.

Sau khi bị bức hại, tôi rơi vào trạng thái rất tồi tệ, cảm thấy suy sụp và chán nản. Người đồng tu giới thiệu Đại Pháp cho tôi đã không ở trong trạng thái tu luyện tốt ngay cả trước khi cuộc bức hại bắt đầu và rõ ràng đã bị can nhiễu bởi các tâm chấp trước của con người. Sau khi cuộc bức hại bắt đầu, trạng thái tu luyện của cô ấy càng trở nên tồi tệ hơn. Một số người mà tôi quen biết đã nảy sinh những suy nghĩ lệch lạc, trong đó có hai người cực đoan. Một người trong số họ nói với tôi rằng đã đến lúc phải gác lại tu luyện và sống một cuộc sống đời thường. Cô ấy đưa cho tôi một cuốn kinh văn giả mới. Khi đó, tôi chưa truy cập trang Minh Huệ nên không thể lập tức kiểm chứng tính xác thực, nhưng sau khi đọc qua thì tôi cảm thấy có điều gì đó không đúng. Một thời gian sau, tôi xác định được đó là giả. Sau này, tôi phát hiện ra rằng cô ấy đã dẫn cảnh sát lục soát nhà của một số đệ tử Đại Pháp dưới danh nghĩa giúp họ “chuyển hóa”. Người còn lại thì trở thành đồng phạm của tà ác, giúp chúng phỉ báng Đại Pháp, nhưng rồi đột ngột qua đời ở tuổi ba mươi mốt. Trước cuộc bức hại, tôi không bao giờ nghĩ rằng cựu thế lực đã an bài sẵn những người giả tu ngay trong những đồng tu tôi thường gặp và tiếp xúc. Họ tỏ ra vững vàng và tận tuỵ! Giữa bầu không khí “hỗn loạn” và hiểm ác do cựu thế lực tạo ra, hàng ngày đều có những khảo nghiệm đối với lòng tin vào Pháp, về việc có nên tiếp tục tu luyện hay không, thậm chí cả về sinh tử. Tuy nhiên, tôi thấy nhiều đồng tu xung quanh tôi vẫn giữ vững lòng tin vào Sư phụ và Đại Pháp. Họ liên tục chịu áp lực rất lớn từ gia đình, nơi làm việc, phòng 610 tà ác, hay các đồn cảnh sát địa phương. Họ đã trải qua những khảo nghiệm tâm tính vô cùng cay đắng về đức tin, thậm chí là sinh tử, nhưng họ đã cố gắng hết sức để kháng cự mọi can nhiễu, vượt qua sợ hãi và bước ra chứng thực Pháp. Dưới sự bảo hộ và dẫn dắt của Sư phụ, tôi đã không bị mê lạc bởi những người đi sai đường. Tôi đã nhận được sự giúp đỡ từ các đồng tu khác và nhanh chóng vực dậy tinh thần trong một thời gian ngắn.

Nhóm đi Bắc Kinh để chứng thực Pháp gồm tám hay chín người lớn, trong đó có tôi, một đứa trẻ và một em bé. Lúc ấy, tôi không để ý lắm đến việc có bao nhiêu người. Ngoài chàng trai trẻ dẫn nhóm cùng với vợ và con gái anh ấy, tôi không quen biết ai khác, và chỉ gặp họ lần đầu ngay trước khi đi Bắc Kinh. Mọi người trong nhóm đều bị bức hại trực tiếp. Thật bất ngờ, về sau tôi mới biết mình là người duy nhất trong nhóm ban đầu vẫn còn tu luyện Đại Pháp! Sau khi bị bắt giữ phi pháp tại Quảng trường Thiên An Môn, tôi đã mất liên lạc với họ trong nhiều năm. Khi tôi gặp lại một vài người trong số họ vài năm sau đó, thì họ đều đã ngừng tu luyện và tham gia vào những hoạt động đa cấp. Người dẫn đầu cũng chính là người từng dẫn nhóm đi Bắc Kinh. Anh ấy từng làm một công việc khá ổn định. Như anh ấy từng kể, trước khi đi Bắc Kinh lần đầu, anh ấy đã nộp đơn xin thôi việc. Vợ anh ấy nói với tôi rằng anh ấy đã từng đi Bắc Kinh trước khi chúng tôi cùng nhau đi. Hồi đó, anh ấy rất kiên định và tận tụy, và đã chịu đựng rất nhiều. Nhiều người đã cố gắng chuyển hóa anh ấy, nhưng đều vô ích. Sau đó, anh ấy đột nhiên tự “ngộ” ra (theo tôi thấy, anh ấy đã phát triển những nhận thức sai lệch và đi sai đường), cho rằng chúng ta nên ngừng tu luyện và thay vào đó là sống một cuộc sống đời thường. Sau đó, anh ấy bắt đầu một mô hình đa cấp cùng những người còn lại trong nhóm từng đi Bắc Kinh. Qua lời nói của họ, tôi có thể thấy rằng họ không tin Đại Pháp có thể chính lại nhân gian. Cặp đôi này ca ngợi mô hình đa cấp bằng những lời lẽ hoa mỹ và chỉ vào vài người xung quanh, nói rằng những người đó trước kia từng tu luyện Pháp Luân Công và nay cũng tham gia đa cấp. Rồi họ khuyên tôi gia nhập, và còn mời tôi nghe buổi thuyết giảng buổi tối của họ. Tôi nghĩ, được thôi, tôi sẽ nghe thử xem họ nói gì. Không có vấn đề gì. Họ sẽ không thể làm tôi dao động. Biết đâu sau khi nghe xong, tôi có thể tìm cách khuyên họ quay lại với Đại Pháp. Thế là tôi đi cùng họ. Nhiều người trong hội trường lắng nghe một cách rất nhiệt tình. Dường như cặp đôi này giữ một vị trí nào đó vì họ là diễn giả chính đang giới thiệu sản phẩm. Sau đó, vài người trong khán phòng lên bục phát biểu với lời lẽ đầy những ham muốn và chấp trước vào tiền tài, địa vị và danh vọng. Tôi cảm thấy rất khó chịu, không muốn nghe thêm nữa, và rời đi trong sự thất vọng. Lúc ở nhà họ trước buổi thuyết giảng, tôi đã gặp một trong những người phụ nữ từng đi Bắc Kinh với chúng tôi. Cô ấy trông chán nản và buông vài lời tiêu cực về tu luyện. Tôi có thể cảm nhận được điều gì đang ám ảnh cô ấy: sự hoang mang, cảm giác bất lực trước cuộc bức hại, và sự do dự giữa việc từ bỏ tu luyện hay không. Tôi biết rằng tâm sợ hãi là một trong những nguyên nhân chính khiến họ đi sai đường, nhưng lúc đó tôi không tìm được lời lẽ thích hợp để khuyên họ. Khi thấy họ đắm chìm vào đa cấp như vậy, lòng tôi trở nên nặng trĩu. Tôi nghĩ thật khó để thay đổi vì họ đã đi chệch hướng quá xa. Từ đó đến nay tôi chưa bao giờ gặp lại họ và không biết liệu họ có quay lại tu luyện hay không. Tôi cảm thấy thật may mắn vì mình đã không đi chệch hướng, nhưng tôi cũng cảm thấy buồn và không khỏi tự trách mình vì đã không đánh thức họ khi họ đang lạc lối. Đây là một điều hối tiếc lớn khác của tôi.

Trong mười năm sau khi vực dậy được bản thân, tôi đã đi trên con đường tu luyện khá vững vàng, thường xuyên làm ba việc, và luôn chú trọng học Pháp cũng như đề cao tâm tính. Tôi đã đề cao đáng kể trong tu luyện, và chính niệm cũng trở nên mạnh mẽ hơn rất nhiều. Tôi làm và phát tài liệu chân tướng, giảng chân tướng, giúp đỡ học sinh của tôi cùng những người khác thoái xuất khỏi ĐCSTQ, v.v. Thỉnh thoảng tôi cũng có những băn khoăn, nhưng không có gì nghiêm trọng đến mức cản trở tôi làm ba việc. Trong thời gian đó, tôi chưa bao giờ bị bắt phi pháp mặc dù đôi khi hoàn cảnh có vẻ nguy hiểm.

Khoảng mười năm sau, vào tháng 07 năm 2011, tôi được cấp thị thực du lịch Hoa Kỳ và chuẩn bị đến Hoa Kỳ cùng một số đồng tu. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, Cục Công an và Cục An ninh Nội địa của chế độ tà ác đã biết được lịch trình du lịch của chúng tôi bằng cách nghe lén một số cuộc gọi điện thoại. Do lo sợ một số người trong chúng tôi có thể đến Hoa Kỳ và tham gia vào các kênh truyền thông do đệ tử Đại Pháp điều hành, họ đã phi pháp chặn chúng tôi ngay khi làm thủ tục hải quan tại sân bay và sau đó giam giữ hầu hết chúng tôi trong mười ba ngày. Khi bị giam, tôi nhắc nhở bản thân phải phủ định sự bức hại, phải vô ngã và nghĩ cho các đồng tu liên quan. Tuy nhiên, tôi đã không làm được trọn vẹn những gì mình mong muốn. Trước khi thả tôi, vài cảnh sát đã lục soát nhà tôi và tịch thu Pháp tượng của Sư phụ, hai máy in và một máy tính xách tay. Tôi liên tục phát chính niệm mong rằng họ không đạt được mục đích, nhưng rõ ràng tôi chưa đạt tới trạng thái vô úy (không sợ hãi) và tâm chưa thực sự bình tĩnh với chính niệm đầy đủ. Làm sao chính niệm của tôi có thể phát huy hiệu quả được? Người chỉ huy cảnh sát lục soát nhà tôi đã từng bức hại các đồng tu khác rất tàn bạo. Sau đó ông ấy tìm cách uy hiếp tôi để moi ra cái gọi là “thông tin” mà họ muốn. Tôi đã từ chối trả lời các câu hỏi của ông ấy, và cuối cùng ông ấy không đạt được gì. Tuy nhiên, khi đó tôi chỉ tập trung vào việc chống lại áp lực của tà ác mà không đủ từ bi để giảng chân tướng cho ông ấy. Tôi cũng chưa có đủ uy đức để giải thể các nhân tố tà ác khống chế ông ấy. Trong mười ba ngày trực diện đối mặt với tà ác và những người bị nó khống chế, tôi đã gặp đủ loại cảnh sát: một số chỉ làm theo cấp trên để kiếm sống; một số dường như đã mất đi lý trí, không còn phân biệt được thiện ác đúng sai do bị tà đảng tẩy não; một số thì lảm nhảm đạo đức giả từ những nhận thức nông cạn về Phật giáo; một số thì toát ra sự tàn bạo và tà ác vì chấp trước quá sâu vào tiền tài quyền lực, hoặc bị tà ác trực tiếp khống chế. Khi đối mặt với họ, tâm sợ hãi vẫn can nhiễu tôi, và tôi đã không thể giảng chân tướng một cách đường hoàng để chấn nhiếp tà ác và cứu những người đáng được cứu độ.

Cựu thế lực có lẽ đã dự liệu rằng tôi sẽ không thể loại bỏ được tâm sợ hãi và các chấp trước khác, cũng như không thể đạt được chính niệm đầy đủ trong hơn mười ngày khổ nạn, nên họ đã an bài một khổ nạn còn lớn hơn. Đây có thể là nguyên nhân chính khiến tôi lại bị bức hại vào ba tháng sau đó. Vào tháng 10 năm 2011, tôi cùng ba đồng tu đến Bắc Kinh để gặp gỡ các đồng tu khác. Khi cửa mở, chúng tôi nhận ra rằng mình đã “vô tình” đụng phải một nhóm cảnh sát mặc thường phục trông như côn đồ, họ đã đột nhập vào căn hộ của các đồng tu đó và bắt giữ họ. Nhìn bề ngoài, sự việc diễn ra quá đột ngột và bất ngờ. Nhìn lại, chúng tôi nhận ra Sư phụ đã nhiều lần điểm hóa bằng nhiều cách khác nhau và thậm chí còn đưa ra những lời cảnh báo trực tiếp. Nhưng khi đó, cựu thế lực chỉ đơn giản là ngăn cản chúng tôi ngộ ra những điểm hóa và cảnh báo ấy, rồi vội vàng dồn chúng tôi vào khổ nạn mà họ đã sắp đặt. Sau đó, người đồng tu dẫn chúng tôi đến Bắc Kinh đã nhiều lần bày tỏ rằng anh ấy rất xin lỗi vì anh ấy tin rằng mình đã gây ra khổ nạn đó cho tôi. Thực ra, tôi nghĩ rằng điều đó hầu như không liên quan gì đến anh ấy. Nguyên nhân căn bản là cựu thế lực đã lợi dụng sơ hở của tôi để áp đặt kiếp nạn này lên tôi, nếu không thì chuyện đó đã không xảy ra.

Trong trại tạm giam, tôi cảm thấy mình đã trưởng thành hơn so với lần bị bức hại trước. Khi bị đưa vào phòng thẩm vấn, tôi không biết họ sẽ làm gì với mình. Tôi đoán rằng họ có thể sẽ tra tấn tôi dã man, nhưng tôi biết rõ ràng rằng vô số con mắt trong mọi không gian đang nhìn tôi. Sư phụ và các chính Thần đang quan sát xem tôi có vượt qua được hay không, trong khi những sinh mệnh tà ác thì chờ cơ hội để trút hận hoặc cười nhạo tôi. Tôi có cảm giác rất mạnh mẽ rằng đây là một thời khắc vô cùng then chốt nữa, nên trong tâm tôi hướng về các không gian khác mà nói: “Tất cả tà ác, đừng hòng nghĩ đến chuyện đó! Dẫu các ngươi có tra tấn ta đến chết, ta cũng tuyệt đối không thỏa hiệp! Ta đến đây để chứng thực Pháp, để cứu độ chúng sinh. Sao ta có thể làm hoen ố Đại Pháp thêm lần nữa? Ta sẽ không hủy hoại chúng sinh bằng cách để các ngươi làm theo ý mình!” Tôi không nghĩ gì khác, chỉ cảm thấy mình đang trực diện đối mặt với tà ác. Có thể cựu thế lực đã tìm được lý do nào đó để muốn lấy mạng tôi hoặc thao túng cảnh sát hung ác tra tấn tôi tàn bạo… Nhưng tất cả những điều đó đều không thể được thừa nhận, và cuối cùng chỉ có Sư phụ mới là người định đoạt hết thảy. Tà ác không thể muốn gì được nấy. Tôi ngừng suy nghĩ và tiếp tục phát chính niệm. Tôi từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào hoặc ký bất cứ thứ gì, và cũng không xem bất kỳ tài liệu nào, kể cả bản phán quyết. Trong suốt một tháng bị giam giữ, họ đã không tra tấn tôi lần nào.

Một tháng sau, tôi bị kết án hai năm tại trại lao động và bị chuyển đến Trại lao động Tân An, quận Đại Hưng, Bắc Kinh. Sau khi bị đưa đến đó, tôi bị ép buộc phải trải qua một loạt các cuộc kiểm tra sức khỏe. Bên ngoài phòng kiểm tra, một quản giáo trưởng trông lạnh lùng và hung tợn ngồi đó, bên cạnh là một cai ngục cấp dưới đứng chờ để đưa tôi về đơn vị của anh ta. Sau này tôi được biết và cũng tận mắt chứng kiến rằng quản giáo trưởng này là người tàn bạo nhất trong đơn vị đó và đã bức hại các đệ tử Đại Pháp một cách dã man. Khi nhìn thấy tôi, ông ấy nheo mắt hỏi: “Cô không sợ chết sao?” Rồi ông ấy nhìn tôi chằm chằm với vẻ mặt lạnh lùng và khiêu khích. Câu hỏi ấy khiến tôi bất ngờ nhưng không phải là vô cớ: trong hoàn cảnh đó, chẳng phải tôi đang phải đối mặt với khảo nghiệm sinh tử sao? Thậm chí trong trại giam tôi cũng luôn tự hỏi mình: “Mình đã đặt sinh tử sang một bên chưa?” Ngay khoảnh khắc đó, tôi lập tức minh bạch chuyện gì đang xảy ra: “Tà ác đang thao túng ông ấy để hỏi mình câu hỏi này. Chúng muốn cười nhạo mình sao? Mình sẽ không rơi vào bẫy của chúng!” Tôi nghĩ nếu chỉ nói “không” thì chưa đúng. Tôi biết bản thân vẫn còn tâm sợ hãi và vẫn chưa hoàn toàn buông bỏ sinh tử. Tôi chắc rằng cựu thế lực và các sinh mệnh tầng thấp bị họ khống chế cũng nhìn thấy rất rõ, vì thế mới mượn miệng của ông ấy để chất vấn tôi. Sẽ có một kẽ hở để tà ác lợi dụng nếu tôi buột miệng nói “không” với chút khí phách bề ngoài. Tuy nhiên, tôi cũng không muốn nói “có”. Tôi thực sự vẫn còn tâm sợ hãi, nhưng tại sao tôi phải “thú nhận” với tà ác? Chẳng phải như thế cũng giống như đang tự khinh miệt chính mình sao? Tôi cũng cảm thấy im lặng thì không thỏa đáng vì ông ấy có thể nghĩ tôi kỳ quặc hoặc sợ hãi. Vì vậy, tôi đã nói: “Tôi có lẽ vẫn chưa hoàn toàn buông bỏ sinh tử, nhưng tôi sẽ làm được tốt hơn trong tương lai”. Đây là câu trả lời của tôi dựa trên tầng thứ tâm tính của tôi vào thời điểm đó. Ông ấy đã câm lặng một lúc, dường như ngạc nhiên trước câu trả lời của tôi và không nói thêm được gì.

Khi đối mặt với sự bức hại của cảnh sát của tà đảng, một số đồng tu không hề sợ hãi, oán hận hay tranh đấu. Thay vào đó, họ giảng chân tướng cho cảnh sát bằng chính niệm và lòng từ bi. Họ không chỉ ngăn chặn được sự bức hại và ngăn cản những người có ý định phạm ác làm hại các đệ tử Đại Pháp, mà còn cứu được chính những người đó. Nếu không có tầng thứ tâm tính cao, thì không thể làm được như vậy! Tôi thể hội sâu sắc từ kinh nghiệm bản thân rằng trong những hang ổ của tà ác (đồn cảnh sát, trung tâm tẩy não, trại giam, nhà tù, v.v.), trong những hoàn cảnh nguy hiểm mà người ta có thể phải chịu đựng đau đớn về cả thể xác lẫn tinh thần, thậm chí là tử vong, nếu không có đủ chính niệm từ Pháp và ức chế được mặt người thường của mình, thì không thể nào làm thật tốt và thật chính được. Nếu một người có thể làm tốt và chính đến vậy, thì đó mới thật sự là đang chứng thực Pháp! Thế nhưng tôi đã không làm tốt được như thế. Mặc dù tôi không thỏa hiệp với tà ác, nhưng tôi đã không hoàn toàn loại bỏ được tư tưởng người thường của mình, đạt được chính niệm mạnh mẽ và đủ lòng từ bi để cứu những cai ngục bằng cách giảng chân tướng cho họ. Tôi đã giảng chân tướng cho nhiều người dân thường bị giam giữ và thuyết phục họ thoái xuất khỏi ĐCSTQ, nhưng tôi đã không giảng chân tướng một cách sâu sắc và thuyết phục được các cai ngục thoái xuất khỏi ĐCSTQ vì nhiều lý do: khó tìm được chủ đề phù hợp, không có đủ thời gian, xung quanh có quá nhiều người, và sợ rằng người kia sẽ lo ngại mà không cho tôi nói tiếp. Đôi khi tôi còn cảm thấy rằng người đó đã bị tà đảng đầu độc quá sâu và sẽ không muốn nghe ngay cả khi tôi cố gắng. Tất cả những điều này đều là nhân tâm, bao gồm trong đó có cả tâm sợ hãi và nhiều tâm chấp trước khác. Chính vì thế, tôi đã để lỡ những cơ hội đó hết lần này đến lần khác. Mỗi cai ngục đã gặp và tiếp xúc với một số đệ tử Đại Pháp vào thời điểm đó, nhiều người trong số họ đã hiểu được một số chân tướng. Mặc dù vậy, tôi vẫn có trách nhiệm riêng của mình là giảng chân tướng cho họ, nhưng tôi đã không làm được tốt lắm, đã bỏ lỡ nhiều cơ hội cứu người.

Xét theo tiêu chuẩn mà tôi lẽ ra phải đạt được, thì việc không thỏa hiệp với tà ác là chưa đủ. Việc chỉ giảng chân tướng cho một số người xung quanh cũng chưa đủ. Tôi lẽ ra phải thực hành theo lời Sư phụ giảng:

“Chính niệm kiên cố không thể phá đối với chân lý vũ trụ là cấu thành nên thể kim cương vững như đá tảng của đệ tử Đại Pháp lương thiện, làm run sợ hết thảy tà ác, ánh sáng chân lý phóng ra làm hết thảy những nhân tố tư tưởng bất chính của các sinh mệnh phải giải thể. Có chính niệm mạnh bao nhiêu, thì có uy lực lớn bấy nhiêu” (“Cũng một đôi lời”, Tinh Tấn Yếu Chỉ II).

Tôi nên đạt được lòng từ bi và trí huệ của một người tu luyện Đại Pháp của vũ trụ; nỗ lực hết sức để cứu được mọi người xung quanh mình, kể cả cảnh sát; và chứng thực Pháp một cách đường đường chính chính. Nhưng tôi đã không làm được như vậy, và những gì còn lại chỉ là hối tiếc.

Qua việc học Pháp, tôi ngộ ra rằng cựu thế lực hẳn đã lấy cớ để gieo rắc tâm sợ hãi này vào khí chất của tôi: “Toàn thể vũ trụ đang ở bên bờ vực hủy diệt. Là một đệ tử Đại Pháp, các người muốn tu thành trong Đại Pháp và đạt tới quả vị ở tầng thứ cao như vậy. Nếu không có gian khổ to lớn thì làm sao lập được uy đức vĩ đại, và làm sao chúng tôi có thể thừa nhận các người?” Đây là một trong những tâm thái của cựu thế lực. Kỳ thực, sự xuất hiện của cựu thế lực cùng những gì họ làm chính là biểu hiện cực đoan và tất yếu của sự bại hoại tột cùng của cựu vũ trụ. Những khó khăn trong tu luyện Chính Pháp là do những khiếm khuyết vốn có của cựu vũ trụ khi đang trên đà hủy diệt, do đó là không thể tránh khỏi. Nói một cách nghiêm túc, điều này vốn không đáng sợ bởi vì Đại Pháp có thể giải trừ mọi khó khăn dù chúng có to lớn đến đâu. Chính niệm, từ bi và trí huệ mà chúng ta có được từ Đại Pháp có thể làm suy yếu, ước chế và tiêu trừ những tâm chấp trước và thiếu sót của con người chúng ta – bất kể cựu thế lực có áp đặt chúng lên chúng ta hay không. Sư phụ cũng sẽ giải quyết và cân bằng tất cả những món nợ và nhân duyên phức tạp ở các không gian khác. Tất cả những điều này sẽ giúp chúng ta chứng thực Pháp một cách hiệu quả. Thế nhưng, trong trường hợp của tôi, tôi đã không thể ước chế hữu hiệu tâm sợ hãi và những nhân tâm khác, nên kết quả là không đạt được tiêu chuẩn, thay vì có thể chứng thực Pháp mà không để lại điều gì hối tiếc.

Cựu thế lực đối với tất cả các đệ tử Đại Pháp đều có an bài một bộ những thứ của chúng; nếu đệ tử Đại Pháp không chiểu theo yêu cầu của Sư phụ mà hành xử, thì nhất định đang thực thi chiểu theo an bài của cựu thế lực. Thực ra trong Chính Pháp cựu thế lực vẫn luôn nhắm vào việc các đệ tử Chính Pháp có thể bước vượt ra hay không, mà thường hay đặt kèm theo đó những cửa ải thống khổ và nạn lớn” (“Thanh tỉnh”, Tinh Tấn Yếu Chỉ III).

“Tôi muốn nói rằng từng bước đi của chư vị, từng bước đi của chư vị lớn nhỏ thế nào là có an bài, có thể chư vị không tin. Trong bức hại chư vị hô lên bao nhiêu lần, đánh chư vị bao nhiêu cái, điều đó đều là chúng an bài hết cả rồi. Đương nhiên chính niệm của người tu luyện mạnh mẽ hay không mạnh mẽ thì sẽ cải biến những điều đó, nhưng sẽ không có chênh lệch nhiều. Tâm thái của chư vị, thậm chí có thể chịu đựng tới mức độ nào, thì chúng đều [thấy] rõ phi thường” (Giảng Pháp tại Pháp hội San Francisco 2014).

Hai đoạn Pháp này khơi dậy ký ức của tôi về lần bị bức hại đầu tiên vào năm 2000, đặc biệt là về cách tôi phản ứng khi bị cảnh sát tra tấn và nỗi đau cùng cảm giác bất lực mà tôi cảm thấy trên phần bề mặt con người này… Trong khi tra tấn tôi, người cảnh sát tàn ác nhất đã chửi rủa Sư phụ và Đại Pháp để khiến tôi chịu thêm thống khổ về tinh thần. Ông ấy thẳng thừng nói rằng sẽ nghiền nát tôi cả về thể xác lẫn tinh thần vì nếu không thì tôi sẽ không từ bỏ Đại Pháp. Cựu thế lực rõ ràng đã dự liệu trước được tâm thái của tôi và thậm chí biết được tôi có thể chịu đựng được tới mức nào. Vì vậy, họ đã an bài cho các sinh mệnh tà ác bức hại tôi vào thời gian và địa điểm định sẵn. Đó không chỉ là lần đầu tiên tôi bị bức hại. Khi tôi bị bức hại hai lần tiếp theo, tôi đã đi trên con đường mà Sư phụ an bài đến mức nào, và tôi đã làm theo những an bài của cựu thế lực đến mức nào? Nhìn xa hơn nữa, điều này không chỉ liên quan đến cuộc bức hại mà tôi đã trải qua. Khi tôi không bị bức hại trực tiếp, thì tôi đã đi trên con đường mà Sư phụ an bài đến mức nào, và tôi đã làm theo những an bài của cựu thế lực đến mức nào? Khi suy ngẫm lại, tôi càng thêm lo lắng. Điều này tất yếu gợi lên một câu hỏi cảnh tỉnh khác: Trong suốt quá trình tu luyện, liệu tôi có thể bảo đảm rằng mình sẽ loại bỏ được sự can nhiễu và khống chế của cựu thế lực, và hoàn toàn đi theo con đường mà Sư phụ an bài không?

Tại sao tôi không làm được tốt và để lại bao điều hối tiếc trên hành trình tu luyện của mình? Là đệ tử Đại Pháp, vì sao có những đồng tu luôn có thể làm rất tốt và đạt tiêu chuẩn, còn tôi thì không? Về cơ bản điều này cho thấy điều gì? Nó có hàm ý về sự khác biệt giữa các sinh mệnh không? Có phải vì nguồn gốc sinh mệnh của tôi chưa đủ cao? Có phải đó là biểu hiện không thể tránh khỏi của những khiếm khuyết sẵn có của cựu vũ trụ trong cuộc đời tôi không? Hay đó là khảo nghiệm phá hoại tất yếu của cựu thế lực đối với tôi do những khiếm khuyết sẵn có của cựu vũ trụ? Nếu vậy, tại sao những an bài tà ác của cựu thế lực lại thực sự xảy ra với tôi? Liệu nó có liên quan đến nguồn gốc của tôi không? Mặc dù cựu thế lực có những an bài tà ác của họ, nhưng làm sao một sinh mệnh đến từ một tầng thứ cực cao lại có thể để lại những hối tiếc như vậy, đặc biệt là sự hổ thẹn vì đã thỏa hiệp với tà ác? Làm sao điều đó có thể xảy ra?… Đây không thể là một vấn đề đơn giản!

Trong khi suy ngẫm về điều này, tôi cũng phát hiện ra một chấp trước khác: Tôi có phần lo lắng rằng nguồn gốc sinh mệnh của mình có thể chưa đủ cao. Thực ra, tôi biết rõ rằng căn nguyên sinh mệnh vốn đã được an bài từ trước, và việc suy nghĩ và truy cầu vì tò mò hay bất mãn chỉ là một loại chấp trước vô ích mà thôi.

Vậy thì vì sao tâm sợ hãi hoặc những tâm chấp trước người thường khác lại khiến tôi thiếu chính niệm chính hành? Điều này liên quan trực tiếp đến ngộ tính của tôi khi ấy. Nếu ai đó chỉ ra rằng tôi có ngộ tính kém, tôi hẳn sẽ không phục hoặc thừa nhận điều đó. “Tôi ư? Ngộ tính kém? Sao có thể được?” Nhưng giờ đây, sau khi nhìn lại cách tôi vượt qua những khảo nghiệm đó, nhìn lại tâm thái của mình, và những gì tôi đã nói và làm trong những khoảnh khắc đó, tôi thực sự không nói nên lời. Tôi chắc chắn sẽ là tự lừa dối mình nếu tôi nói rằng tôi có ngộ tính tốt vào thời điểm đó. Không làm tốt chính là phản ánh trực tiếp của ngộ tính kém. Nếu ngộ tính của tôi đạt tiêu chuẩn vào thời điểm đó, liệu tâm sợ hãi có thể can nhiễu tôi đến mức đó không? Chắc chắn là không. Sư phụ đã giảng trong https://vn.minghui.org/jw/kinh_van_20160515.html Giảng Pháp tại Pháp hội New York 2016]”:

“Các đệ tử Đại Pháp, quá khứ tôi vẫn giảng, tôi nói, rằng ở thiên thượng chư vị đều là Vương, bản sự đâu cả rồi? Người ta nói chư vị từ tầng thứ cao tới, hẳn phải mang theo một chút nhân tố chứ, một chút trí huệ chứ, những bản sự đó đâu cả rồi?”

Đúng vậy, tất cả bản sự của tôi đã đi đâu cả rồi? Có phải vì tôi tu luyện chưa đủ tốt nên những bản sự ấy bị trói buộc bởi những tâm chấp trước của con người không?

“Như kim cương, vững như bàn thạch, không ai lay động nổi, tà ác thấy thế đều thấy sợ. Nếu thật sự có thể khi khó nạn trước mặt mà niệm đầu rất chính, khi bức hại tà ác ở trước mặt, khi can nhiễu ở trước mặt, chư vị nói một câu [với] chính niệm kiên định liền có thể khiến tà ác lập tức giải thể, (vỗ tay) liền có thể khiến những ai bị tà ác lợi dụng phải cúi đầu đào tẩu, liền khiến bức hại mà tà ác nhắm vào chư vị [phải tan đi như] khói tiêu mây tản, liền khiến can nhiễu mà tà ác nhắm vào chư vị tiêu mất không còn tung tích” (Giảng Pháp tại Pháp hội quốc tế miền Tây Mỹ quốc).

Đó mới là phong thái của một đệ tử Đại Pháp đáng ngưỡng mộ! Đó là một đệ tử Đại Pháp chân chính, người thực sự thể hiện và chứng thực được Pháp cùng trí huệ của Sáng Thế Chủ trong nhân gian và khắp vũ trụ! Thực ra, đây cũng là một yêu cầu và tiêu chuẩn mà Sư phụ đã đặt ra cho các đệ tử Đại Pháp. Nhưng tâm tính và hành động của tôi lúc bấy giờ còn cách xa yêu cầu này biết bao!

Tôi không khỏi tự hỏi: “Bây giờ mình có thể làm được tốt không? Bây giờ mình đã đạt tiêu chuẩn yêu cầu chưa?” Sẽ không còn những khổ nạn tương tự như trước đây để “khảo nghiệm” tôi nữa. Nhưng chừng nào các tâm chấp trước của con người vẫn còn, thì vẫn có khả năng khảo nghiệm hay khổ nạn sẽ xuất hiện. Chỉ là chúng có thể biểu hiện dưới những hình thức khác. Trong Pháp, cảnh giới và tiêu chuẩn mà một đệ tử Đại Pháp cần đạt tới hoàn toàn không có chỗ cho sự thỏa hiệp. Hơn nữa, tiêu chuẩn ấy còn ngày càng cao hơn.

Nói về những hối tiếc trên hành trình tu luyện của tôi, chắc chắn không chỉ giới hạn ở những điều này. Ắt hẳn còn có những hối tiếc khác, lớn có, nhỏ có, có điều tôi biết, có điều tôi chưa nhận ra, và cũng có những điều tôi hoàn toàn không nhìn thấy. Tuy nhiên, tất cả những gì đã qua đều đã trở thành quá khứ và không thể thay đổi được nữa. Đây là hiện thực mà tôi phải đối diện.

Tất nhiên, Sư phụ cũng đã giảng trong Giảng Pháp tại Pháp hội Vancouver ở Canada năm 2003”:

“Nếu trong tư tưởng chư vị mà coi trọng nó quá, thì sẽ lại hình thành một loại hối hận khác, áp lực nặng trong tâm, khi ấy chư vị sẽ bị sa lầy trong chấp trước đó, chư vị không vượt lên [trên] được. Toàn thể quá trình tu luyện của đệ tử Đại Pháp chính là quá trình vứt bỏ các tâm chấp trước của con người. Bất kể là gặp phải chuyện gì, [khi] đã nhận thức được rồi, chư vị lập tức sửa đi cho đúng đắn; trượt ngã rồi liền vựng dậy, tiếp tục làm những gì mà đệ tử Đại Pháp cần làm. Vậy tức là coi một lần sai hỏng của chư vị, như là một quan chưa vượt qua được tốt, [vậy hãy] vượt lại quan đó cho tốt; còn cơ hội lặp lại cho chư vị vượt qua; thế thôi”.

Đây chính là Sư phụ đối đãi với đệ tử của Ngài bằng lòng từ bi vô hạn. Tôi cố gắng không để bản thân mình chìm đắm mãi trong hối hận, nhưng khi đọc đoạn Pháp này, tôi cũng không cảm thấy nhẹ nhõm. Tôi hiểu rõ rằng nếu vào thời khắc cuối cùng của Chính Pháp mà vẫn chưa đạt được tiêu chuẩn và làm đủ tốt, thì sẽ để lại những hối tiếc còn sâu nặng hơn nữa.

(Hết).

Dịch từ:

Bản tiếng Anh: https://www.pureinsight.org/node/7566

Bản tiếng Trung: https://www.zhengjian.org/node/248433

Ban Biên Tập Chánh Kiến

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.

Loạt bài