Nhìn lại hành trình tu luyện của tôi
Tác giả: Thiên Chân
[ChanhKien.org]
Học Pháp và đắc Pháp
Trong nhiều bài giảng Pháp và Kinh văn, Sư phụ đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta phải học Pháp cho nhiều và học Pháp cho tốt. Chúng ta luôn ghi nhớ điều này và nỗ lực thực hiện. Học Pháp là sự bảo đảm căn bản cho việc tu luyện của chúng ta, và cũng là điều kiện tiên quyết để đệ tử Đại Pháp làm tốt ba việc: “tịnh hóa” bản thân, cứu độ chúng sinh, và hoàn thành sứ mệnh của mình. Mỗi ngày, tôi đều cố gắng đảm bảo cả về chất lượng và số lượng trong việc học Pháp. Tuy nhiên, thời gian học Pháp mỗi ngày không cố định. Thông thường, tôi tham gia nhóm học Pháp và đọc một bài giảng trong “Chuyển Pháp Luân” vào buổi sáng sớm. Sau đó tôi đọc thêm nửa bài giảng một mình và dành thêm khoảng nửa giờ để đọc các bài giảng Pháp khác. Tổng cộng, tôi học Pháp khoảng hai đến hai tiếng rưỡi mỗi ngày. Vào những ngày có nhóm học Pháp trực tiếp, tôi thường dành khoảng ba tiếng để học Pháp. Thật khó để đưa ra một tiêu chuẩn chung về thời lượng học Pháp hàng ngày. Mỗi người cần tự quyết định dựa trên hoàn cảnh cụ thể của chính mình.
Trước đây, tôi thường học Pháp với tư thế ngồi đơn bàn (ngồi bán già), vì lo rằng nếu ngồi song bàn (ngồi kiết già) sẽ khiến chân bị đau và làm phân tâm trong khi học Pháp. Thật ra, tôi không muốn chịu đựng cơn đau có thể xảy ra và cũng không sẵn lòng chịu chút khổ nạn đó. Sau này, tôi quyết định rằng không thể tiếp tục như vậy mãi. Đã đến lúc phải thay đổi tư thế ngồi, nên tôi bắt đầu học Pháp trong tư thế ngồi kiết già. Khi có thể ngồi song bàn lâu hơn, tôi hầu như không cảm thấy đau chân sau khi đọc xong một bài giảng trong “Chuyển Pháp Luân”, vì vậy việc học Pháp không bị ảnh hưởng. Tôi dành nhiều thời gian đọc bản dịch tiếng Anh của “Chuyển Pháp Luân” hơn so với bản tiếng Trung, và phải mất khoảng một tiếng rưỡi mới đọc hết bài giảng dài nhất. Tuy nhiên, tôi vẫn có thể ngồi song bàn thoải mái cho đến cuối buổi, chỉ thỉnh thoảng vài phút cuối mới cảm thấy chút đau ở đùi phải. Đây chỉ là những hình thức bề ngoài, nhưng dĩ nhiên cũng quan trọng và không thể thiếu. Qua trải nghiệm của bản thân, tôi nhận ra rằng tâm thái khi học Pháp mới là then chốt.
Tôi nhận thấy rằng, khi bị tâm chấp trước can nhiễu, thậm chí khống chế nghiêm trọng, thì việc học Pháp sẽ giảm đi, số lượng học Pháp bị ảnh hưởng, điều này rất dễ nhận ra. Ngược lại, mức độ mà chất lượng học Pháp bị ảnh hưởng thường lại vô hình, khó đo lường và thường không dễ nhận ra. Bề ngoài, mọi người đều học Pháp, dường như đều tập trung và dụng tâm, nhưng hiệu quả học Pháp và lượng Pháp thu được có thể khác biệt rất lớn giữa các cá nhân. Có người tâm rất tĩnh, có thể học Pháp thấm vào trong tâm; có người lại bị đủ loại chấp trước can nhiễu mà không thể học thấu và đắc Pháp từ việc học. Ngay cả cùng một người, trong những hoàn cảnh và trạng thái khác nhau, cũng có thể đạt được kết quả học Pháp rất khác nhau. Tuy nhiên, điều này khó mà nhận ra trên bề mặt. Từ trải nghiệm bản thân, tôi hiểu sâu sắc rằng: khi học Pháp, thông thường người khác không thể nhận ra trạng thái của tôi hoặc mức độ can nhiễu mà tôi gặp phải. Thậm chí đôi khi chính tôi cũng không nhận ra được điều gì thực sự đang xảy ra; và dù có nhận ra, tôi cũng chỉ có thể cảm nhận tình hình một cách chung chung trên bề mặt. Thực tế là, sau khi học Pháp xong, tôi khó có thể thấy rõ mình đã thực sự học và đắc được bao nhiêu Pháp, và đã bỏ lỡ bao nhiêu.
Các chấp trước của con người sẽ dần được loại bỏ trong quá trình học Pháp. Chấp trước càng được loại bỏ nhiều thì tâm càng thuần tịnh, can nhiễu càng ít, hiệu quả học Pháp càng tốt, và đề cao càng nhanh. Ngược lại, những chấp trước chưa buông bỏ hoàn toàn sẽ can nhiễu và làm giảm chất lượng học Pháp. Đây là một trong những trở ngại cho việc đắc Pháp và đề cao. Vì vậy, từ một góc độ nào đó, học Pháp và đắc Pháp là song hành cùng với việc loại bỏ chấp trước người thường. Tư tưởng chủ ý thức của chúng ta giữ vai trò then chốt trong quá trình chủ động học Pháp và ức chế các chấp trước. Điều này có thể hình thành một vòng tuần hoàn lành mạnh: học Pháp càng tốt thì chấp trước càng yếu, từ đó lại càng có lợi cho việc học Pháp và đắc Pháp.
Trước đây, đối với tôi, việc bảo đảm chất lượng học Pháp mỗi ngày không hề dễ dàng, ít nhất là không dễ như tôi tưởng. Đặc biệt là khi học “Chuyển Pháp Luân”. Khi đọc các bài giảng hay kinh văn khác một mình, tôi có thể tập trung khá lâu mà không bị can nhiễu; nhưng khi đọc “Chuyển Pháp Luân”, tôi lại dễ bị phân tâm. Tạp niệm cứ âm thầm xuất hiện hết cái này đến cái khác, chấp trước vào điều này điều kia. Phải vài giây hoặc lâu hơn tôi mới chợt nhận ra, và lúc đó tôi phát hiện mình hoàn toàn không nhớ được nội dung Pháp vừa đọc. Tôi liền cố gắng loại bỏ can nhiễu và tập trung vào Pháp, nhưng sau đó tâm trí lại có thể tiếp tục sao nhãng. Khi học Pháp vào buổi tối, đôi lúc tôi đột nhiên buồn ngủ, nửa tỉnh nửa mê, rồi đột nhiên bừng tỉnh và nhận ra mình vừa nhắm mắt vài giây. Giờ đây tình huống đã cải thiện hơn nhiều: tạp niệm không còn can nhiễu thường xuyên hoặc mạnh mẽ như trước vì mỗi lần can nhiễu xuất hiện thì cũng ngắn hơn và có thể nhanh chóng nhận ra và loại bỏ. Đôi khi tôi nhận thấy một ý niệm thoáng qua khi đang đọc Pháp, tôi liền điều chỉnh bản thân để bảo đảm tập trung. Tuy nhiên, vẫn thật khó để đạt đến trạng thái hoàn toàn không bị chấp trước người thường can nhiễu khi học Pháp. Dù sao thì tâm cũng chưa đạt tới độ thuần tịnh tuyệt đối. Như trong “Chuyển Pháp Luân” viết:
“cái tâm ấy của chư vị bất tịnh, do đó chư vị không tĩnh lại được”.
Khi học Pháp theo nhóm, thường thì dễ duy trì sự tỉnh táo và tập trung hơn. Tuy nhiên, tôi nhận thấy đôi khi lại khó tập trung hơn cả khi học một mình. Tâm trí tôi cũng có thể lơ đãng, thậm chí khá nghiêm trọng. Nguyên nhân gây phân tâm và những suy nghĩ nảy sinh trong tâm thường khác so với khi tôi học Pháp một mình. Từ khoảng tháng 04 năm 2016, hầu như mỗi sáng sớm tôi đều tham gia nhóm học Pháp tiếng Anh cùng các đồng tu ở nhiều tiểu bang khác nhau qua hội nghị điện thoại. Chúng tôi lần lượt đọc “Chuyển Pháp Luân” và một trong những bài giảng khác mỗi khi đọc xong “Chuyển Pháp Luân”. Giai đoạn đó, hầu như ngày nào cũng vậy: nếu mọi người đều đọc đúng và trôi chảy, tôi có thể tập trung vào Pháp và hiếm khi bị phân tâm. Nhưng một khi có người đọc chưa tốt, thì tạp niệm sẽ sinh ra và can nhiễu tôi rất mạnh. Trước đây có đồng tu giọng nặng, đọc sai khá nhiều từ và đọc khá chậm. Khi họ đọc, tôi cảm thấy khó chịu và không tránh khỏi việc chuyển sự chú ý từ Pháp sang những lỗi đọc đó. Mọi người cũng không thể liên tục ngắt lời người đang đọc để sửa nên vài lỗi cứ lặp đi lặp lại, tạo điều kiện để chấp trước của tôi liên tục can nhiễu. Tôi thường nghĩ thầm: “Không thể nào! Anh ấy không đọc đúng được mà vẫn cố đọc cho xong. Anh ấy có biết rằng mình đọc sai nhiều từ như vậy không? Sao không chuẩn bị trước? Ít nhất thì cũng nên học đọc bằng cách nghe người khác”. Đến lượt mình, nếu tôi đọc khá trôi chảy thì cảm thấy hài lòng, còn nếu đọc vấp hoặc sai thì lại thấy bực bội. Mỗi lần bị phân tâm bởi những suy nghĩ đó, tôi luôn tự vấn và tự nhắc nhở: “Sao mình vẫn còn những chấp trước hỗn loạn này? Học Pháp thế này thì sao được? Đây là bất kính với Pháp! Chấp trước này mạnh quá! Lòng bao dung thì ít ỏi! Không thể bao dung thiếu sót của người khác! Còn chấp trước vào việc dạy người và thể hiện bản thân!” Trong tâm tôi diễn ra một cuộc đấu tranh giữa lý trí (hay chính niệm) và chấp trước người thường, lúc nghiêng bên này, lúc nghiêng bên kia. Thực ra, do trình độ tiếng Anh còn hạn chế và thị lực kém, tôi từng đọc Pháp thành tiếng khá chậm, nhưng kể từ khi tham gia nhóm, tôi đã tiến bộ dần. Sau này, khi đọc nhanh hơn, tôi nghĩ rằng mình đã gần bằng các học viên phương Tây, cho đến khi một học viên phương Tây chỉ ra rằng tôi vẫn chưa nhanh đến thế. Quan điểm đó khiến tôi nhận ra rằng đôi khi cần có những lời nhắc nhở hoặc cảnh tỉnh từ bên ngoài để giúp tôi thấy rõ vấn đề của bản thân, vì sự tự nhận thức của tôi thường khác với cách người khác nhìn nhận tôi. Sự tự nhận thức của tôi vốn chủ quan, thậm chí đôi khi mang tính lý tưởng hóa, và do đó không đáng tin cậy.
Sư phụ đã nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tĩnh tâm khi học Pháp. Sư phụ giảng trong “Giảng Pháp tại Pháp hội Florida ở Mỹ Quốc”:
“Do vậy khi học Pháp mọi người không được nhắm vào hình thức; tuy nhiên nhất định cần vứt bỏ các tâm để đọc, học Pháp một cách chân chính, tư tưởng không được dấy động; hễ [tinh] thần nhãng đi, thì cũng như là phí công học Pháp. Về một phương diện khác mà giảng, thì nếu như khi học Pháp mà tư tưởng không đặt tại Pháp, thì không chỉ là vấn đề hình thức, trên thực tế nó tương đương với việc người học Pháp không thật sự tôn kính đối với Pháp; như vậy Pháp có thể hiển lộ xuất lai hay không?”
Trường hợp của tôi, khi chấp trước can nhiễu, tâm trí tôi thường lơ đãng và rất khó kéo trở lại! Mỗi lần như vậy, tôi lập tức cảnh giác, nhưng những chấp trước ấy không dễ ức chế, càng khó có thể loại bỏ hoàn toàn ngay lập tức. Thay vào đó, chúng lại xuất hiện, và tôi phải buông bỏ chúng không biết bao nhiêu lần. Như thế, trong tâm diễn ra một cuộc giằng co qua lại. Nhiều ngày liền tôi không đạt được đột phá rõ rệt. Mãi cho đến vài tháng sau, những chấp trước gây phân tâm ấy mới gần như được thanh trừ hết.
Hầu hết các đồng tu phương Tây đều đọc khá nhanh. Có một đồng tu phương Tây từng tham gia nhóm một thời gian, nhưng sau đó không tham gia nữa vì, theo lời cô ấy, trong nhóm có “những người đọc chậm”. Lúc đó, tôi cũng là một trong những người đọc chậm mà không hề nhận ra. Khi hiểu ra, tôi cảm thấy áy náy vì mình đã góp phần khiến cô ấy rời nhóm, và chắc hẳn tôi cũng đã gây khó khăn cho các đồng tu phương Tây khác. Tại tiểu bang tôi sinh sống, có một đồng tu khác tham gia nhóm học mỗi sáng và là một trong những thành viên kỳ cựu người phương Tây của nhóm. Có lần, anh ấy thẳng thắn nói với tôi rằng, đã có thời gian anh cũng cảm thấy khó chịu khi nghe những người đọc chậm. Anh thường bực bội, lo lắng rằng họ sẽ kéo dài thời gian, mà buổi sáng thì vốn dĩ eo hẹp. Nhưng anh biết rằng đó không phải là chính niệm, rằng mình cần bao dung và loại bỏ sự nóng vội, không nên chấp trước vào việc tiết kiệm chút ít thời gian. Anh hiểu rằng tu tâm mới quan trọng hơn việc tiết kiệm vài phút. Sau đó, tâm anh dần trở nên bình tĩnh và không còn bị phân tán nữa. Những trường hợp trên giúp tôi hiểu rõ rằng, trong tu luyện, việc đối diện tình huống bằng tư tưởng người thường hay bằng chính niệm dựa trên Pháp có thể dẫn đến những kết quả khác biệt rõ rệt.
Gần đây, một đồng tu lớn tuổi đã kể cho tôi một câu chuyện về việc bà học Pháp cùng một đồng tu lớn tuổi khác qua điện thoại. Vị đồng tu kia thường xuyên mắc lỗi khi đọc Pháp, hoặc là đọc sai chữ Hán, thêm chữ, hoặc bỏ sót chữ. Ban đầu, bà luôn dừng lại để sửa lỗi cho đồng tu ấy. Nhưng người kia thường tỏ ra khó chịu, đôi khi phủ nhận mình mắc lỗi, và sau đó còn tức giận quở trách bà. Từ đó, bà không dám chỉ ra hay sửa lỗi cho đồng tu kia nữa. Ngay cả khi chỉ có hai người học Pháp cùng nhau, cũng vẫn có thể xuất hiện khảo nghiệm tâm tính, tạo cơ hội để hướng nội, tu tâm, và liên tục cải biến tâm thái trong việc học Pháp. Nếu thường xuyên mắc lỗi, phải chăng là vì chúng ta không tập trung, hoặc đã hình thành thói quen cẩu thả? Khi mắc lỗi, chúng ta có thẳng thắn thừa nhận và sửa ngay không? Chúng ta có tâm lý chống đối khi bị người khác phê bình không? Khi chỉ ra lỗi của người khác, cả hai bên có xuất phát từ thiện ý, không xen lẫn yếu tố hỗn tạp nào khác trong lời nói không? Chúng ta có sợ làm phật lòng người khác không? Chúng ta có đủ độ lượng để bao dung người khác không? Chấp trước của mỗi cá nhân khác nhau, sự va chạm giữa các chấp trước cũng biểu hiện khác nhau, vì thế có thể có rất nhiều cơ hội để tu luyện. Cách mỗi người sử dụng những cơ hội ấy có thể ảnh hưởng khác biệt đến việc học Pháp và sự đề cao tâm tính.
Chấp trước của con người có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức, và bất cứ điều gì cũng có thể trở thành một loại chấp trước. Vào mỗi buổi sáng sớm, chúng tôi lần lượt đọc Pháp theo thứ tự thời gian tham gia. Hầu hết các đồng tu đều tham gia đúng giờ, nhưng tôi nghĩ rằng như vậy có thể hơi vội vã và ảnh hưởng đến sự khởi đầu của việc học Pháp, nên tôi thường gọi vào trước giờ bắt đầu vài phút. Trong nhiều tháng qua, sáng nào tôi cũng là người vào nhóm đầu tiên, vì vậy tôi luôn là người đọc trước. Thỉnh thoảng tôi đến muộn và cảm thấy áy náy vì đã bỏ lỡ phần mở đầu của việc học Pháp. Thực ra, tôi có quan niệm người thường rằng mình có thể để lại ấn tượng cho các đồng tu rằng tôi không thể kiên trì đều đặn mỗi ngày. Mỗi khi có cảm giác đó, tôi nhận ra rằng mình vẫn chưa hoàn toàn buông bỏ chấp trước vào việc giữ thể diện. Chấp trước và quan niệm người thường có thể bộc lộ bất kỳ lúc nào. Tuy nhiên, đôi khi tôi cũng cảm thấy không thoải mái khi luôn là người đọc đầu tiên, vì tôi không thích gây sự chú ý. Một buổi sáng, tôi chờ vài phút thì một đồng tu phương Tây mới vào sau giờ bắt đầu. Tôi chào anh ấy và hỏi: “Chúng ta bắt đầu nhé?” Anh trả lời: “Được”, rồi bắt đầu đọc. Theo thông lệ, anh ấy lẽ ra phải đọc sau tôi. Ngay khoảnh khắc anh ấy bắt đầu đọc, tôi thấy bối rối, nhưng lập tức hiểu ra: “Ồ, đây là để nhắc nhở mình về chấp trước. Mình không nên chấp trước vào việc ngày nào cũng phải đọc trước, hay hình thành quan niệm rằng ai vào trước thì đọc trước”.
Tôi nhận thấy một số đồng tu nghe băng ghi âm các bài giảng Pháp của Sư phụ khi lái xe; có người nghe trong lúc nấu ăn ở bếp nhà hàng; có người nghe khi làm việc nhà; có người lại nghe khi đang làm việc khác. Họ nghe Pháp hoặc là vì muốn tận dụng thời gian để học Pháp nhiều hơn, hoặc là do công việc quá bận rộn không có thời gian học Pháp, nên vừa làm việc vừa nghe. Theo tôi hiểu thì tâm họ là tốt, nhưng việc nghe Pháp trong khi làm việc khác dường như không phù hợp với tiêu chuẩn của Pháp. Khi lái xe, dù kỹ năng lái có thành thạo thế nào, dù tuyến đường quen thuộc ra sao, hay dù điều kiện đường đi có đơn giản thế nào, thì bạn vẫn phải tập trung vào sự an toàn và con đường phía trước. Tình huống khi nấu ăn cũng không hề đơn giản, thậm chí còn phức tạp hơn vì cần cân nhắc công thức, số lượng, quy trình, v.v. Bạn phải liên tục nấu nướng và tương tác với đồng nghiệp. Sư phụ đã giảng rất rõ trong “Giảng Pháp tại Pháp hội Florida ở Mỹ Quốc”:
“hễ [tinh] thần nhãng đi, thì cũng như là phí công học Pháp”.
Chúng ta phải dụng tâm trong bất cứ việc gì mình làm. Từ góc độ học Pháp, chẳng phải tâm trí chúng ta luôn sao nhãng khi vừa học Pháp vừa làm việc khác hay sao? Vậy thì Pháp làm sao có thể triển hiện theo cách này? Tôi nghĩ rằng không có ngoại lệ nào, cho dù tâm nguyện của chúng ta là tốt. Ngay cả khi công việc kia không đòi hỏi nhiều tâm lực, thì ta vẫn đang làm việc khác, chứ không chuyên tâm học Pháp. Chúng ta có thể nghe được vài câu Sư phụ giảng trong một khoảnh khắc, rồi lại bỏ lỡ khi bận việc hay đang nói chuyện với người khác. Ghi âm các bài giảng Pháp của Sư phụ chính là Đại Pháp của vũ trụ do Sáng Thế Chủ trực tiếp truyền ra bằng giọng nói của Ngài. Thành thật mà nói, tôi nghĩ chúng ta không thể đối đãi một cách tùy tiện như vậy. Chẳng phải đó là vấn đề thiếu tôn kính với Sư phụ và Pháp sao? Điều này khiến tôi thực sự thấy quan ngại. Tôi tin rằng chúng ta cần cố gắng hết sức để dành thời gian học Pháp mỗi ngày, bất kể bận rộn đến đâu. Điều này hoàn toàn có thể thực hiện được, miễn là chúng ta có tâm nguyện và chính niệm mạnh mẽ, đồng thời sắp xếp thời gian hợp lý. Sư phụ cũng đã chỉ rõ điểm này trong “Giảng Pháp vào Tết Nguyên Tiêu năm 2003” tại Pháp hội miền Tây Mỹ Quốc:
“Chỉ là thu xếp chưa tốt quan hệ này thôi sao? Vậy chư vị hãy an bài cho tốt, đây là việc rất đơn giản. Thực ra trong “Chuyển Pháp Luân” tôi đã giảng rất rõ ràng rồi. Học Pháp cho tốt, trong tu luyện tuyệt sẽ không ảnh hưởng chư vị gì cả, trái lại làm công tác hay học tập sẽ chỉ mất một nửa công sức mà được gấp đôi”.
Thông thường tôi không có lịch trình hàng ngày quá bận rộn, nên có vẻ như thật dễ dàng khi tôi nói về việc sắp xếp thời gian để học Pháp. Nhưng tôi thực sự tin rằng chúng ta hoàn toàn có thể tranh thủ thời gian, bởi điều này phù hợp với Pháp, và Sư phụ sẽ an bài để việc đó có thể thực hiện. Vấn đề duy nhất là chúng ta có thực tâm kiên trì thực hành hay không. Đôi khi tôi cũng rơi vào tình huống lịch trình rất bận rộn. Sau khi chuyển đến tiểu bang hiện tại, tôi từng làm hướng dẫn viên du lịch trong vài mùa hè, thường phải làm việc 14 tiếng mỗi ngày. Trong khoảng thời gian đó, thật khó để dành thêm nhiều thời gian cho việc học Pháp, nên tôi cố gắng bảo đảm lượng học Pháp tối thiểu mà bản thân cho là cần thiết, đó là mỗi ngày học một bài giảng trong “Chuyển Pháp Luân”, hoặc học cùng nhóm qua điện thoại, hoặc tự học một mình. Việc này thì tôi luôn có thể thực hiện được.
Sư phụ giảng trong “Chuyển Pháp Luân”:
“Pháp rất khó được”.
Câu Pháp ngắn gọn này bao hàm ý nghĩa rộng lớn và thâm sâu đến mức nào? Tôi không thể nhìn thấy hết mà chỉ có thể chia sẻ chút hiểu biết hạn hẹp của mình. Đối với chúng sinh trong vũ trụ, việc bước vào cửa Đại Pháp và tu luyện trong đó là vô cùng khó khăn, thậm chí là hoàn toàn không thể đối với phần lớn chúng sinh. Sư phụ giảng trong “Giảng Pháp trong chuyến đi quanh Bắc Mỹ”:
“Dẫu là thế nào đi nữa, đắc Đại Pháp đã là điều may mắn nhất trong những may mắn rồi, nên nhất định phải lợi dụng thật tốt thời gian này, để bản thân mình có thể thật sự tu luyện đắc Pháp, tu lên trên. Không phải cá nhân nào cũng đắc Pháp, cũng không phải cá nhân nào cũng có thể đến đây, bởi vì đây là Đại Pháp của vũ trụ”.
Những ai không được lựa chọn thì căn bản không thể bước vào và đắc Pháp. Hiện nay trên toàn thế giới có khoảng 100 triệu đệ tử Đại Pháp, nghe thì có vẻ là con số lớn. Nhưng nhân loại có khoảng bảy tỷ người. Nói cách khác, đệ tử Đại Pháp chỉ chiếm khoảng 1/70 dân số toàn cầu. Vậy thì trong toàn vũ trụ với vô số chúng sinh thì sao? Xét về con số, 100 triệu quả thật chỉ là con số cực kỳ nhỏ bé so với vô hạn chúng sinh. Điều đó cho thấy sự trân quý hiếm có của việc được đắc Pháp. Vậy có phải một người bắt đầu tu luyện trong Đại Pháp thì liền được coi là đắc Pháp không? Có lẽ không thể khái quát đơn giản như vậy. Với tư cách là người tu luyện Đại Pháp, chúng ta cần học Pháp, luyện công, phát chính niệm, và giảng chân tướng. Đây là những việc cụ thể cần làm ở trong thế giới con người. Nhưng làm những điều ấy chưa chắc đã có nghĩa là chúng ta đã đắc Pháp, hoặc chứng tỏ chúng ta đã đắc được bao nhiêu Pháp. Chỉ khi nào chúng ta thật sự học Pháp bằng tâm, hướng nội, buông bỏ chấp trước, và toàn tâm toàn ý làm tốt ba việc thì mới có thể đắc Pháp và thực sự đề cao vững chắc. Ngay cả khi một người thật sự đã đắc Pháp, thì vẫn còn vấn đề là người ấy có thể đắc được bao nhiêu Pháp, từ đó quyết định tầng thứ hay cảnh giới mà họ có thể đạt đến. Rồi lại có câu hỏi: người ấy có thể đắc Pháp ở tầng thứ cao hơn không? Vậy còn Pháp ở những tầng rất cao, cực kỳ cao thì sao? Và Pháp tối hậu ở tầng cao nhất thì thế nào? Liệu chúng ta có thể đắc được không? Việc này càng lúc càng khó và được quyết định trực tiếp bởi căn cơ sinh mệnh của mỗi người. Đây tuyệt đối không phải là thứ mà con người có thể đạt được chỉ bằng nỗ lực.
Có lần khi đọc “Chuyển Pháp Luân”, tôi cố gắng hiểu sâu hơn Pháp mà Sư phụ giảng trong “Giảng Pháp tại Pháp hội Thụy Sĩ”:
“Tôi vẫn thường giảng một câu, tôi nói rằng tôi đã lấy tất cả những gì có thể khiến chư vị tu luyện đề cao, những gì chư vị có thể đắc được trong tu luyện ép nhập vào trong bộ Pháp này cả rồi. Chư vị mặc dù ở các cảnh giới khác nhau, nhưng đều không thật sự lý giải được lời tôi nói có sức nặng nhường nào. Chư vị chỉ cần tu, cái gì chư vị cũng có thể đắc được. Nhưng chư vị biết chăng? Những thứ mà chư vị đắc được ấy đã dung nhập [với] bao nhiêu thứ của tôi trong đó?”
Khi nhìn vào cuốn sách, tôi cảm thấy thật sự khó tin rằng mình đang cầm trên tay Đại Pháp vô biên và toàn năng mà Sáng Thế Chủ đã dùng để sáng tạo vũ trụ! Tuy nhiên, tôi cũng cảm thấy lạc lõng, bởi tôi biết rằng bản thân sẽ không bao giờ có thể thấy được sự rộng lớn vô biên ấy như thế nào, không biết mình đã đắc được bao nhiêu, càng không biết cuối cùng mình sẽ đắc được bao nhiêu.
Đồng thời, tôi cũng nhận ra sự hiếu kỳ và tâm truy cầu của mình. Sư phụ đã giảng rất rõ trong “Giảng Pháp tại Pháp hội Bắc Mỹ lần đầu”:
“Chư vị cầm cuốn sách này chư vị chỉ quản việc đọc, gọi là vô cầu nhi tự đắc”.
Thực ra, đối với phần Pháp mà chúng ta đã đắc được, thì mặt tu luyện của bản thân rất rõ ràng, nhưng bề mặt con người lại không biết và cũng không cảm nhận được. Một đệ tử Đại Pháp cuối cùng sẽ đắc được bao nhiêu Pháp thì hẳn đã có định số và an bài từ trước. Phần lớn các nhân tố trong đó đều do Sư phụ chuyển hóa và viên mãn, nên chúng ta không nên băn khoăn về điều ấy. Điều chúng ta cần làm là học Pháp cho tốt và nhiều nhất có thể, bởi đó là tiền đề và sự bảo đảm căn bản để chúng ta đắc Pháp. Dĩ nhiên, đối với đệ tử Đại Pháp trong thời kỳ Chính Pháp, chúng ta không thể chỉ dựa vào việc học Pháp mà có thể đắc Pháp. Chúng ta còn phải loại bỏ chấp trước và làm tốt ba việc.
Một số đồng tu đã học thuộc “Chuyển Pháp Luân” nhiều lần, điều này khiến tôi vô cùng khâm phục. Việc học thuộc và đọc thuộc Pháp là một phương thức rất tốt để học Pháp. Qua trải nghiệm, tôi hiểu rằng trong quá trình học thuộc và đọc thuộc Pháp, các chấp trước người thường có thể được ức chế hiệu quả, và Pháp được khắc ghi trong tâm trí một cách rõ ràng và đầy đủ hơn. Tôi cảm thấy thật xấu hổ khi nói rằng, nhiều năm trước tôi chỉ mới học thuộc xong tám bài giảng đầu tiên rồi dừng lại, không có tiến triển thêm.
Sư phụ đã giảng trong “Giảng Pháp tại Pháp hội miền Tây Mỹ Quốc”:
“Tất cả những điều trong “Chuyển Pháp Luân” lại được “Luận Ngữ” bao hàm”.
Điều này gợi cho tôi một ý nghĩ: chẳng phải sẽ rất tốt nếu tôi thường xuyên đọc thuộc “Luận Ngữ” sao? Vì vậy, tôi bắt đầu đọc thuộc “Luận Ngữ” một lần trước khi đi ngủ, và từng đọc hai lần mỗi ngày khi tôi bị giam giữ phi pháp. Thực ra, ban đầu tôi mang theo động cơ không chính là muốn xua đi tạp niệm trong đầu bằng cách đọc thuộc Pháp để có thể nhanh chóng ngủ. Tất nhiên, động cơ không chính này đã sớm biến mất. Tôi không nhớ chính xác mình bắt đầu từ khi nào, có lẽ từ năm 2009. Tôi không duy trì được mỗi ngày, và nhớ rằng đã quên ít nhất vài lần trước khi ngủ. Ban đầu, tôi thường đọc khi đang nằm trên giường. Sau này tôi nhận ra rằng đó là thái độ bất kính với Pháp, và cũng rất dễ bị can nhiễu bởi cơn buồn ngủ, nên tôi ngồi song bàn và tĩnh tâm trước khi đọc thuộc. Chỉ mất vài phút là xong. Tuy nhiên, ngay cả khoảng thời gian ngắn ngủi đó cũng luôn là một khảo nghiệm lớn về sự tập trung. Khi đọc đến đoạn thứ hai hoặc thứ ba, thậm chí đôi khi ngay đoạn đầu tiên, tôi chợt phát hiện mình đã bị phân tâm, hoặc nghĩ đến việc khác, hoặc nửa tỉnh nửa mê. Khi tỉnh táo lại, tôi thấy mình hoàn toàn không còn ấn tượng về những câu vừa “đọc thuộc”. Cứ như thể tiềm thức đang đọc thuộc, còn tôi thì bị phân tâm. Đến tận bây giờ, tôi vẫn thấy khó có thể hoàn toàn không bị can nhiễu mỗi lần đọc thuộc.
“…định lực thâm sâu ngần nào [cũng] là thể hiện của tầng.” (“Chuyển Pháp Luân”).
Quá trình đọc thuộc “Luận Ngữ” giúp tôi lĩnh hội sâu sắc hơn nguyên lý của Pháp này.
Khi bản “Luận Ngữ” mới được công bố, ngay khoảnh khắc tôi đọc câu đầu tiên:
“Đại Pháp là trí huệ của Sáng Thế Chủ”
Tôi không khỏi kinh ngạc nghĩ rằng: “Thiên cơ này cao thâm đến mức nào! Nếu Sáng Thế Chủ không khai mở, thì có sinh mệnh nào trong vũ trụ có thể biết được? Chẳng phải tôi đang được đồng hóa với trí huệ của Sáng Thế Chủ sao?” Khi đọc, tôi cảm thấy như thể Sư phụ đang triển hiện trước mắt tôi vi quan và hồng quan của vũ trụ, trải rộng vô biên vô tận, và năng lực chứa đựng của tôi lập tức được mở rộng… Khi đọc thuộc “Luận Ngữ” với một tâm thuần tịnh, tôi cảm thấy lý trí và lĩnh hội sâu sắc hơn về Đại Pháp vô biên. Tôi vẫn chưa nhìn thấy rõ việc đọc thuộc “Luận Ngữ” đã giúp tôi đề cao trong tu luyện bao nhiêu, nhưng có một điểm tôi thấy rất rõ: độ sâu tập trung khi đọc thuộc “Luận Ngữ” mỗi ngày phản ánh trạng thái tu luyện của tôi, hoặc ít nhất là cho thấy tâm trí của tôi lúc ấy có thuần khiết, thanh tịnh đến mức nào.
(Còn tiếp)
Dịch từ:
Bản tiếng Anh: https://www.pureinsight.org/node/7551
Bản tiếng Trung: https://www.zhengjian.org/node/246603