Trang chủ Right arrow Văn hóa Right arrow Văn hóa truyền thống

Áo mật Hán tự Thần truyền (9)

16-08-2025

Tác giả: Kim Hữu Hạnh

[ChanhKien.org]

Bài viết này chủ yếu muốn cùng mọi người thảo luận về nội hàm thâm sâu của “mạt thế” (末世) và “mạt vĩ” (末尾).

Newton, một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất trong 300 năm qua, sau khi phát hiện ra ba định luật mang tên mình, đã bước vào Thần học. Ông dành toàn bộ quãng đời còn lại cho việc học tập, nghiên cứu Thần học và “Kinh Thánh”. Hơn nữa, khi càng nghiên cứu, ông lại càng thành kính và có niềm tin sâu sắc vào Thượng Đế. Khi gặp phải trường hợp chuyển động thiên thể không giải thích được, ông tin rằng đó là do Thần đang kiểm soát tất cả, “Thần là động lực đẩy đầu tiên”, ông còn nói rằng: “Thượng Đế thống trị vạn vật, chúng ta là tôi tớ của Ngài nên kính nể và sùng bái Ngài”.

Năm 2003, tại Bảo tàng Quốc gia Do Thái ở Jerusalem, cuối cùng người ta đã phát hiện ra bản thảo bị thất lạc trước kia của Newton. Trên hàng ngàn trang giấy viết chằng chịt đó, các nhà nghiên cứu đã thấy nhà khoa học vĩ đại này dùng các công thức phức tạp để giải mã “mật mã Kinh Thánh”…

Cuối cùng, bản thảo của Newton không chỉ xác định tiên tri về thời kỳ mạt trong Kinh Thánh sẽ rơi vào thế kỷ 21, mà còn dự đoán:

Vào mạt thế, sẽ có một Thánh giả giáng lâm xuống Trái Đất, Ngài sẽ có thể trở thành một vị Thánh mới…

Sau đây chúng ta sẽ từ góc độ chữ Hán Thần truyền và cùng một số chứng cứ khác để xác minh kết luận này của Newton.

Trước tiên chúng ta tìm hiểu về chữ “mạt” (末), ý nghĩa bề mặt của nó là: cuối cùng, kết thúc, thứ rất nhỏ – như bột… còn ý nghĩa sâu xa của nó thì cần tìm từ kết cấu chữ.

Chữ “mạt” (末) được cấu thành bởi nét ngang và chữ “mộc” (木); lại có thể xem như “số 20” (二十) và chữ “mộc” (木) chồng lên nhau; lại có thể xem như “số 20” (二十), một nét dọc và “bát” (八) chồng lên nhau. Ba cấu thành khác nhau này lại đại biểu cho những hàm nghĩa khác nhau.

Nét ngang và chữ “mộc” (木) (chữ “mộc” có thể phân tách thành một nét ngang, một nét dọc và chữ “nhân” (人). Vậy nó ám chỉ điều gì? Những độc giả từng xem các phần trước đều biết, nét ngang ở đây chính là đại biểu cho “thiên” (天).

Nét dọc biểu thị cho cảnh từ trên trời đi xuống, “nhân” chính là đại biểu cho nhân gian. Nói cách khác, những người cầm tinh đối ứng với “mộc”, sẽ phải xuyên qua tầng tầng trời để tới nhân gian.

Vậy khi nào sẽ xuống tới nhân gian, sẽ biểu hiện ra như thế nào? “Số 20” (二十) và chữ “mộc” (木) chồng lên nhau tạo nên chữ “mạt” (末) đã cho chúng ta câu trả lời. Nghĩa là, vào cuối thế kỷ 20, cũng chính là khoảng từ năm 1969-1999, người thuộc mệnh Mộc sẽ xuất hiện ở nhân gian.

Mục đích của sự xuất hiện này là gì? Đó là để trước khi thời mạt thế đến, tới để giải cứu nhân loại, giải cứu địa cầu và vũ trụ! Bởi vì đạo đức nhân loại trượt dốc quá nhanh chóng, có những người đã hoàn toàn không có quy phạm hành vi của con người, hoàn toàn đã đánh mất tư cách làm người, đã thể hiện rõ ra tình trạng của tận thế. Vì vậy, ắt cần phải tiến hành tịnh hóa nhân loại, canh tân địa cầu và trùng tổ vũ trụ (hiện nay các nhà thiên văn học đã phát hiện ra nhiều thiên hà trong vũ trụ đã xảy ra va chạm lớn), đây cũng chính là Đại thẩm phán cuối cùng được nhắc tới trong “Kinh Thánh”. Những thứ tốt sẽ được lưu lại, thứ xấu sẽ bị diệt tận, khiến cho Trái Đất canh tân bước vào vũ trụ mới. Đây chính là ý nghĩa đích thực và chữ “mạt” (末) được tạo thành bởi “20” (二十), một nét ngang và “bát” (八) muốn nói với chúng ta. Vào thế kỷ 21 và các năm liên quan tới số 8 sẽ bắt đầu xuất hiện những cuộc đại đào thải, thanh lọc, trùng tổ trên Trái Đất. Điều này cũng xác nhận cho kết luận của Newton rằng “Thế kỷ 21 là thời kỳ mạt thế”.

Vậy người có mệnh Mộc là ai? Học thuyết Ngũ hành của Trung Quốc cổ xưa đều có quan hệ tương ứng với Đông Nam Tây Bắc, xuân hạ thu đông, Thiên can Địa chi và 12 con giáp, và chúng được biểu thị như sau:

Ngũ hành: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ
Phương vị: Đông – Nam – Tây – Bắc – Trung
Màu sắc: Trắng – Xanh – Đen – Đỏ – Vàng
Năm mùa: Thu – Xuân – Đông – Hạ – Hạ kéo dài
Địa chi: Thân/Dậu – Dần/Mão – Tý/Hợi – Tị/Ngọ – Thìn Tuất/Sửu
Con giáp: Khỉ/Gà – Hổ/Thỏ – Chuột/Heo – Rắn/Ngựa – Rồng Chó/Dê Bò

Vào thời nhà Minh, tể tướng khai quốc Lưu Bá Ôn đã có vài bài dự ngôn vô cùng nổi tiếng (những sự việc đã xảy ra và được đối chiếu đều ứng nghiệm với dự ngôn của ông). Trong đó, “Thôi Bối Đồ” có phần miêu tả về Thánh nhân hạ thế tới nhân gian, và cũng có liên quan tới chữ “mộc” (木):

Thế giới đã tận, mạt kiếp đang đến, chúng sinh chịu khổ não, vạn ma xuất động, không phải tam dương thì không điều hòa được, phải đợi thượng thượng chủ Thánh tới… Ta nói, thượng thượng chủ Thánh chính là Phật Di Lặc đã tới… (quyển 2).

“Phật Di Lặc từ Thiên nói rằng: ‘Sau khi ta tự mình truyền tam tự tam Pháp, tất vạn Pháp quy nhất, Pháp chính càn khôn,… lễ rồi thấu hư mà đi. Phàm thân Mộc Tử vi tính”.

Giải: Đoạn trên có thể giải thích như sau:

“Lúc Phật Di Lặc từ biệt sinh mệnh cao tầng trên Thiên thượng nói rằng: ‘Sau khi ta tới nhân gian truyền ‘tam tự chân kinh’, nhất định sẽ quy nhất tất cả các Pháp ở không gian tầng thấp nhất, dùng bộ Đại Pháp vũ trụ tối cao này để quy chính Thiên Địa,… Thi lễ xong xuyên qua Thần giới, hướng về nhân gian mà đi. Nhục thân của Phật Di Lặc tại nhân gian họ là Lý”.

(“Mộc Tử” (木子) là cách viết của chữ “Lý” (李); quá trình từ không gian của Thần hướng về không gian con người mà chuyển sinh gọi là “thấu hư”.)

“Lúc ấy Di Lặc Phật thấu hư đến Nam Hạp Phù Đề thế giới trung thiên tại Trung Quốc Kim Kê mục, phụng Ngọc Thanh thời niên kiếp tận, Long Hoa hội Hổ, Thỏ chi niên đáo trung thiên, nhận Mộc Tử vi tính”.

Chúng ta tổng hợp các tư liệu trên và cách lý giải đối với chữ “mạt” (末), về vị Thánh giả “giáng lâm xuống Trái Đất” vào thời “mạt” thế mà Newton nhắc tới, chỉ có Sư phụ Lý Hồng Chí của Pháp Luân Đại Pháp là phù hợp với những phân tích và miêu tả đó:

Sư phụ Lý Hồng Chí sinh vào ngày 13 tháng 05 năm 1951 (năm Thỏ của Trung Quốc) tại phương Đông – ở Công Chủ Lĩnh, Trường Xuân, tỉnh Đông Bắc của Trung Quốc. Vào ngày 13 tháng 05 năm 1992 (thời kỳ ‘mạt’ của thế kỷ 20), Ngài lần đầu truyền giảng Pháp Luân Phật Pháp (Pháp Luân Công) – Đại Pháp vũ trụ. Khi đó, Sư phụ 41 tuổi, nhưng vẻ ngoài của Ngài trông rất trẻ, trông chỉ như mới hơn 20 tuổi. Điều này hoàn toàn phù hợp với các đối ứng về con giáp, địa chi, phương vị… của ngũ hành “mộc”.

Đồng thời, cũng hoàn toàn phù hợp với miêu tả trong dự ngôn của Lưu Bá Ôn! Chủ Thánh “Phàm thân Mộc Tử vi tính”, “thấu hư” tới vùng “Kim Kê Mục Trung Quốc” (cũng chính là chuyển sinh tới Trường Xuân, Trung Quốc: bản đồ Trung Quốc ngày nay giống hình con gà; ba vị trí tương ứng với “Kê mục” (mắt gà) chính là Trường Xuân, “tự mình truyền tam tự tam Pháp”.

Tam tự tam Pháp mà Sư phụ Lý Hồng Chí lần đầu truyền ra tại Trường Xuân chính là cuốn thiên thư “Chuyển Pháp Luân”, với ba chữ “Chân-Thiện-Nhẫn” – đây là Đại Pháp cao đức xưa nay chưa từng có, không gì có thể sánh được. Vì vậy cuối cùng nhất định sẽ là vạn Pháp quy nhất, Pháp chính càn khôn.

Do đó, điều này cũng xác thực cho kết luận của Newton về việc “vào thời mạt thế, sẽ có Thánh giả giáng lâm”. Tất nhiên, suy luận này của tôi là luận chứng đảo ngược, bởi vì chữ Hán có trước, Lưu Bá Ôn có sau, và Newton lại xuất hiện sau hơn nữa. Bởi vì những điều càng xa xưa, con người lại càng dễ quên đi, chúng lại càng dễ bị lẫn lộn, bóp méo nghiêm trọng. Có những người vốn không tin từng có tồn tại sự thật nguyên thủy nào đó. Ví dụ như rồng, rất nhiều người vốn không tin thực sự có sự tồn tại của rồng, họ chỉ tiếp nhận phần nào những gì trước mắt hay của thời cận đại.

Kỳ thực, Thần vốn từ lâu đã an bài vạn sự vạn vật, chỉ là vì con người ở trong mê, không có mấy ai thật sự biết rõ được!

“Thiên tác mạc – Địa thị đài
Vận càn khôn – Thiên địa khai
Vận cổ sự – Vi Pháp lai
Pháp Luân chuyển – Tân tam tài”

(Hồng ngâm II – Hí nhất đài)

Diễn nghĩa:

Chỉ là một đài diễn kịch
Trời làm màn, đất là đài [sân khấu],
[Xoay] vận càn khôn [vũ trụ], thiên địa [trời đất] khai [mở].
Vạn sự việc cổ xưa, vì Pháp mà đến,
Pháp Luân chuyển động tam tài mới.

Bài kinh văn này của Sư phụ đã nói rõ cho chúng ta rằng Thần đã an bài sẵn toàn bộ kịch bản cho thế gian: Trời làm màn, đất là sân khấu, vạn vật vận chuyển, trình diễn từng màn, tuần tự mà đến, sau khi Đại Pháp khai truyền, trời mới, đất mới, nhân loại mới sẽ long trọng bước lên sân khấu của thế kỷ mới!

Chữ “thế” (世) đã chỉ ra cho chúng ta tương lai tươi sáng này! (Nhân tiện nói một chút về chữ “vị” (未). Mạt (末) là chỉ điểm kết thúc, còn vị lại là điểm khởi đầu, là khởi đầu mới nối tiếp với điểm kết thúc trước đó. Vì vậy chữ “vị” (未) và “mạt” (末) về kiểu chữ cũng có liên kết với nhau).

Chữ “thế” (世) về nghĩa bề mặt là: một đời, thời đại, toàn cầu, thế kỷ, thế giới, những điều mà tổ tiên truyền lại. Còn hàm nghĩa sâu xa của nó, cần tìm tòi qua những hàng chữ. Chữ “thế” này có hai cách viết là “世” và “卋”.

Trước tiên chúng ta xem chữ “卋”. Nó được cấu thành từ chữ “thập” (十) và “nhị thập nhất” (二十一), cũng có thể xem là do chữ thập “十” và chữ niệm “廿” tạo nên. Chữ niệm “廿” đọc giống âm của chữ niệm “念”, cũng là chữ viết thường của chữ niệm “念”, mang ý nghĩa thương nhớ, tưởng niệm, bận tâm lo lắng…

Từ cấu tạo trên, chữ thập “十” nằm phía trên chữ nhị thập nhất “二十一”. Về ý nghĩa của chữ thập “十”, trước đây chúng ta đã đề cập tới: ngoài mang nghĩa hoàn toàn, hết sức, triệt để, chữ số 10, nó còn có ý nghĩa thập phương thế giới. Do đó, chúng ta có thể hiểu được hàm nghĩa tiềm tàng bên trong của cấu tạo chữ thế “卋” là: thế giới thập phương vô cùng tuyệt đẹp sẽ xuất hiện vào thế kỷ 21.

Xét theo một cấu tạo khác của chữ “thế” (卋), chữ thập “十” ở ngay chính giữa phía trên chữ niệm “廿”, nó giống như bàn thờ nhỏ ở trên đầu chữ niệm “廿”. Nó thể hiện một “niệm đầu” rất hình tượng: trong tối tăm, những suy nghĩ, tư tưởng, mong chờ trong trí não chúng ta chính là thế giới thập phương của thế kỷ 21!

Tiếp theo chúng ta hãy xem chữ “thế” (世), chữ này được cấu thành bởi chữ nhị thập “二十”, chữ nhất “一”, và nét gấp đứng, cũng có thể được xem là sự chồng lên nhau của chữ nhị thập nhất “二十一” và bộ chủy “匕”. Dù cấu tạo thế nào thì hàm nghĩa sâu xa mà nó muốn thể hiện đều là: vào thế kỷ 21, thế giới sẽ phát sinh bước ngoặt lớn, nét gấp đứng chính là thể hiện rõ ràng cho ý nghĩa này. Chữ chủy “匕” còn thể hiện ý nghĩa này một cách sinh động hơn: ngoài cách đọc là “chủy thủ” (匕首 – nghĩa tiếng Việt là dao găm, đoản kiếm), nó còn có cách đọc và ý nghĩa là “hóa”. Đồng thời còn thể hiện về sự biến hóa hết sức thảm khốc, bởi vì rất nhiều người sẽ bị “gươm, kiếm” (匕) chém “đầu” (首)!

Vậy rốt cuộc ai sẽ bị gươm chém đầu? Đây chính là điều mà chữ “vĩ” (尾) muốn giải đáp cho chúng ta.

Ý nghĩa bề mặt của chữ “vĩ” (尾) là cuối cùng, phần đuôi, sau cùng, tên vì tinh tú, lượng từ… nhưng ý nghĩa sâu xa của nó thì thật đáng sợ, có liên quan tới cái chết!

Chữ “vĩ” (尾) được cấu thành bởi chữ “thi” (尸) và “mao” (毛), cũng có nghĩa là “phần tử Mao”, “kẻ theo chủ nghĩa Mao” (ở đây nói về Đảng cộng sản do Marx tạo ra và tất cả các tổ chức của nó, Mao Trạch Đông kế thừa và phát triển chủ nghĩa Marx Lenin, là kẻ cầm đầu Đảng Cộng sản Trung Quốc và các tổ chức phụ thuộc của nó), sẽ bị ‘thi hóa’ (thành xác chết) vào thời “mạt vĩ” (thời mạt cuối cùng! Đây chính là vào thế kỷ 21, chữ “mao” (毛) đã chỉ ra điều này!)

Chữ “mao” (毛) có thể xem là do chữ “tam” (三) và “thất” (七) chồng lên nhau mà thành. Ba nhân bảy là 21, cũng chính là ám chỉ thế kỷ 21. Thực ra, hàm nghĩa đích thực của câu tục ngữ thường nói: “Bất kể ba bảy hai mươi mốt” (nghĩa là: không cần biết đúng sai), là ám chỉ điều này! Vào thế kỷ 21, tuyệt đối sẽ không có sự nhân nhượng nào đối với cái gọi là “phần tử Mao” – Đảng cộng sản và những kẻ đi theo nó! “Bất kể” chính là không cần biết, không quan tâm, không xem xét! Chỉ cần người nào không hướng tới Thần Phật biểu thị thoái xuất khỏi đảng, đoàn, đội của Trung Cộng, người đó nhất định sẽ phải chịu sự đào thải của Thần Phật, sẽ bị biến thành thi thể thối rữa, mục nát!

Hỡi thế nhân, nếu bạn thực sự có trách nhiệm đối với sinh mệnh của bản thân, mong bạn hãy mau chóng thoái xuất khỏi đảng, đoàn, đội của Trung Cộng trước khi ngày đó tới. Bạn có thể dùng biệt danh hoặc hóa danh để tuyên bố thoái xuất ở trên mạng là được. Thần Phật từ bi với con người, chỉ xét nhân tâm!

Nghe hay không nghe, tin hay không tin, đều do bản thân bạn quyết định. Nhưng Thần Phật uy nghiêm, lôi đình vạn quân! Thời khắc này qua đi, thì cơ hội sống sót sẽ không còn nữa. Thời gian không chờ đợi ai! Hãy mau chóng thanh tỉnh trước khi Trời diệt Trung Cộng! Hãy đưa ra quyết định đúng đắn cho sinh mệnh của bản thân!

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/140318

Ban Biên Tập Chánh Kiến

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.

Loạt bài