Hữu đức tự nhiên hương: Nữ đức tu thân



Tác giả: Lan Nhược

[ChanhKien.org]

Tôn Trung Sơn từng nói “Nhìn người phụ nữ biết được sự thái bình, an nguy của thiên hạ, nhìn người mẹ biết được sự hưng suy của gia đình”. Nam giới đều kỳ vọng kết hôn với người phụ nữ dung mạo và phẩm hạnh câu toàn; con cái mong ước mẹ mình hiền đức, ôn nhu; cha mẹ hy vọng con gái của mình dịu dàng, trí huệ. Những mong muốn này của con người từ xưa đến nay chưa bao giờ thay đổi, duy chỉ có một thứ biến đổi chính là con người hiện đại đã thay đổi chuẩn tắc và phương pháp giáo dục người con gái, xã hội hiện đại đã không còn biết thế nào là hiền thục, lương thiện, trí huệ, không biết làm thế nào để bồi dưỡng cho bé gái hiểu biết đúng đắn về trợ giúp chồng, dạy bảo con, hiếu kính bề trên nữa rồi.

Bắt đầu từ kỳ này, tác giả chia làm bốn loạt bài để cùng bạn đọc tìm hiểu kỹ việc giáo dục phụ nữ trong văn hóa truyền thống.

Từ xưa đã có rất nhiều sách liên quan đến nữ giáo (giáo dục phụ nữ), nữ đức (đức hạnh của phụ nữ).

Nữ đức cũng gọi là khôn đức [1], đất là khôn, nuôi dưỡng và chứa đựng vạn vật. Trong lịch sử rất nhiều cuốn sách cổ như “Nữ giới”, “Nữ huấn”, “Nữ hiếu kinh” và “Nữ nhi kinh”… đã mô tả cụ thể hình tượng nữ tính mẫu nghi thiên hạ của khôn đức như thế nào, làm thế nào để bồi dưỡng những đức tính lương thiện của người phụ nữ như “ôn, lương, cung, kiệm” (ôn hòa, lương thiện, cung kính, tiết kiệm).

Chúng tôi có thể mô tả ngắn gọn như sau:

(1) Tu thân

(2) Giúp chồng

(3) Dạy con

(4) Hiếu thân

(5) Hòa thích

(1) Tu thân

“Nữ hữu tứ hạnh, nhất viết phụ đức, nhị viết phụ ngôn, tam viết phụ dung, tứ viết phụ công… U nhàn trinh tĩnh, thủ tiết chỉnh tề, hành kỷ hữu sỉ, động tịnh hữu pháp, thị vị phụ đức. Trạch từ nhi thuyết, bất đạo ác ngữ, thời nhiên hậu ngôn, bất yếm ư nhân, thị vi phụ ngôn. Quán hoán trần uế, phục sức tiên khiết, mộc dục dĩ thời, thân bất cấu nhục, thị vị phụ dung. Chuyên tâm phưởng tích, bất hiếu hí tiếu, khiết tề tửu thực, dĩ cúng tân khách, thị vị phụ công hỹ. Thử tứ giả, nữ nhân chi đại công, nhi bất khả phạp chi giả dã.”

(Trích trong sách “Nữ giới” – Đông Hán Ban Chiêu)

Tạm dịch [2]:

“Trong đời sống hằng ngày, phụ nữ có bốn quy phạm hành vi cần phải có là phụ đức, phụ ngôn, phụ dung và phụ công. Tao nhã, hiền thục, thanh khiết, trầm tĩnh, cung kính, cẩn thận, giữ tiết tháo, cử chỉ đoan chánh, tâm biết hổ thẹn, lời nói, việc làm đều có quy củ, phù hợp lễ nghi, đây chính là phụ đức.

Lựa lời mà nói, không nói lời khó nghe, cho dù là lời tốt cũng phải chọn thời điểm thích hợp mới nói ra, sẽ không khiến người phản cảm, đây chính là phụ ngôn.

Y phục dù cũ hay mới cũng phải giặt cho sạch sẽ, phục sức tươi sáng thanh khiết, tắm gội đúng lúc, giữ thân thể sạch sẽ, đây chính là phụ dung.

Chuyên tâm may vá, dệt vải, không nói đùa cười cợt với người khác, chuẩn bị rượu và thức ăn ngon, tiếp đãi khách chu đáo, đây chính là phụ công.

Làm được bốn điều này thì người phụ nữ đã lập được đại công, và những điều này cũng không thể thiếu.”

1) Những câu văn cổ ở trên đều rất rõ ràng, dễ hiểu. Ở đây, tôi sẽ nói cụ thể hơn về “phụ ngôn”. Là người tu luyện, chúng ta đều biết về tầm quan trọng của việc tu khẩu. Yêu cầu được đặt ra đối với lời nói của phụ nữ trong văn hóa truyền thống chính là sự gợi mở cho chúng ta.

Người xưa có câu: “Một người nếu có thể giảng đạo lý cho người khác bằng tâm thái vui vẻ, ôn hòa thì dù là người có tính cách kiên cường như đá cũng cảm động mà tự thay đổi. Nếu nói những lời chanh chua, cay nghiệt, làm tổn thương người khác thì tai họa sẽ mạnh mẽ như lửa lớn thiêu rụi cỏ trên bình nguyên, vô phương cứu vãn”. Người xưa còn có câu: “Miệng người nếu có thể thường đóng giống như cửa nhà, không dễ dàng đa ngôn loạn ngữ, thì lời nói ra sẽ bền lâu. Lời người nói ra như bát nước đổ đi không thể lấy lại”. Từ đó có thể thấy người xưa rất nghiêm khắc yêu cầu người phụ nữ nói năng thận trọng.

Sách “Thượng Thư – Mục Thệ” có câu: “Gà mái nếu giống như gà trống dậy sớm gáy vang thì đó là điềm báo gia đạo suy tàn”.

Là người phụ nữ tính tình dịu dàng, thong dong, càng nhiều lời thì càng tổn thất, chi bằng kiệm lời. Người giỏi biết kiềm chế, nhất định phải thận trọng hơn.

2) Trong giáo dục của người xưa còn có một yêu cầu rất quan trọng nữa đối với người phụ nữ là “ti nhược”, “ti” chỉ sự khiêm nhường, “nhược” chỉ sự mềm yếu; khiêm nhường và mềm yếu là đại biểu cho đức hạnh quan trọng nhất của người phụ nữ. Ti nhược ở đây chính là chỉ “hậu đức tải vật” (đức dày chứa đựng vạn vật), nhược thể hiện rõ ràng phẩm hạnh “thượng thiện nhược thủy” [3]. Nếu như người phụ nữ xưa không làm được khiêm nhường, thiện lương, mềm yếu thì cũng chính là mất đi nữ đức.

Người xưa sau khi sinh hạ con gái ba ngày, thì đặt con ngủ ở dưới giường, lấy con thoi dệt vải bằng đất nung cho con làm đồ chơi. Để bé gái ngủ ở dưới giường thể hiện rằng con gái nên biết yếu mềm, khiêm nhường, dùng con thoi dệt vải làm đồ chơi thể hiện bé gái cần phải có đức tính lao động cần cù, giữ đạo cần kiệm trong gia đình.

Còn rất nhiều yêu cầu cụ thể khác như: đối đãi với người khác phải khiêm nhường, cung kính, không thể sơ suất với bất kỳ ai. Gặp việc tốt thì luôn nhường người khác hưởng, bản thân không tranh đua. Làm điều tốt cho người khác cũng không được khoe khoang, gặp việc ủy khuất cũng không tranh biện. Thời thời khắc khắc dè dặt cẩn thận, kính nể phục tùng.

Hằng ngày dậy sớm nhất, chăm lo việc nhà, quét dọn nhà cửa sạch sẽ, gọn gàng không bụi bẩn, làm cơm canh thơm ngon vừa vị, thu xếp bản thân sạch sẽ chỉnh tề. Mỗi đêm sắp xếp cho người trong nhà nghỉ ngơi hết rồi mình mới đi nghỉ.

Những cô gái được bồi dưỡng theo cách này thì làm sao có thể không làm cho gia đình thịnh vượng và hạnh phúc chứ? Trước những yêu cầu trên thì người hiện đại chỉ có trố mắt không nói nên lời! Cái tôi bị phóng đại hoàn toàn không thể chấp nhận được việc đặt bản thân vào vị trí thấp nhất, nhưng vì các nữ đồng tu chúng ta đang tu luyện Đại Pháp, các yêu cầu này đối với chúng ta là hoàn toàn có thể từ từ làm được. Sự phục hưng của văn hóa truyền thống bắt đầu từ việc chúng ta hiểu biết về văn hóa truyền thống, thực hành văn hóa truyền thống và truyền bá văn hóa truyền thống, mỗi người đều là một hình mẫu sống động về người phụ nữ dịu dàng, hoàn mỹ, tài năng, đức độ cho thế nhân noi theo.

Người xưa yêu cầu về đạo đức rất rõ ràng cụ thể, tuy nhiên nhìn suốt quá trình lịch sử, những cô gái thật sự có thể đáp ứng các yêu cầu trên quả là rất ít. Nhưng chúng ta đang trong tu luyện Đại Pháp, tự mài giũa bản thân thành những nữ đệ tử Đại Pháp đoan trang, dịu dàng với tâm hồn thuần tịnh, trong sáng, hoàn toàn không phải là điều xa vời không thể đạt được.

3) Trong các sách cổ có đặt ra rất nhiều yêu cầu cho người phụ nữ để đạt được “nhàn tĩnh”, như trong “Nữ luận ngữ” yêu cầu phụ nữ khi đi đường không được nhìn ngang liếc dọc, lúc ngồi không được lắc lư đầu gối, phải ngồi khép hai đầu gối, càng không thể bắt chéo hai chân. Khi đứng không được lay động quần, nói chuyện không được cao giọng để lộ răng lợi. Thời xưa, vi phạm bất kỳ mục nào ở trên sẽ bị xem là “tiện tướng” (tướng mạo ti tiện). Ngoài ra, yêu cầu khi thích thú không được cười lớn, lúc phiền não không được cao giọng. Không tuân thủ bị coi là “khinh tướng” (tướng mạo tùy tiện). Hai từ “khinh tiện” này làm tổn thương nhất đến hình tượng đứng đắn của người phụ nữ.

“Nữ nhi kinh” cũng viết:

“Tu nữ dung, yếu chính kinh, nhất thân đả phẫn thậm phi khinh. Trà yên mạt phấn do tiểu sự, trì thể đoan trang hữu trùng tình. Quang sơ đầu phát tịnh tẩy kiểm, chỉnh khiết tự thị hảo nghi dung. Y phục bất tất lăng la đoạn, thoa miên y phục yếu can tịnh. Y giá y phục tu đáp phối, y tương điệp bản mạc loạn ủng.”

Tạm dịch: “Tu nữ dung, cần ngay chính, ăn mặc trên thân phải nghiêm trang. Tô son trát phấn là chuyện nhỏ, giữ thân đoan trang mới trọng yếu. Tóc chải gọn gàng, mặt mày sạch sẽ, chỉnh tề tự nhiên dung nhan đẹp. Y phục không cần bằng gấm lụa, quần áo vải bông giữ sạch sẽ. Y phục treo giá phải thành bộ, quần áo trong hòm chớ loạn tung.”

Thời xưa, những phụ nữ có giáo dưỡng đều được yêu cầu động tác phải nhàn tĩnh, tâm thái tường hòa, chuyển động dịu dàng, uyển chuyển. Cử chỉ đoan trang, cung kính. Lễ tiết thời xưa có nguồn gốc từ các nghi lễ nhà Chu, bao gồm năm hệ thống nghi thức chính là “Cát lễ, Gia lễ, Tân lễ, Quân lễ, Hung lễ”. Chỉ một “Gia lễ (lễ chúc mừng)” thôi cũng bao hàm lễ ẩm thực, lễ tân xạ (bắn cung), lễ khánh hạ (chúc mừng) v.v. Mỗi lễ tiết nếu phân ra còn bao gồm vô số chi tiết. Đều có những yêu cầu rất cụ thể đối với phụ nữ trong mỗi trường hợp về cách đứng, ngồi, đưa tay, cầm chén trà ra sao, cách di chuyển, điều chỉnh ngữ điệu âm thanh và nét mặt nụ cười như thế nào.

Trong hoàn cảnh hiện nay, bắt chước hoàn toàn người xưa là điều không thể, nhưng nắm bắt và học tập tinh thần cùng âm điệu của các lễ nghi lớn vẫn rất cần thiết.

Mọi người trên thế giới đều biết vẻ đẹp của Shen Yun, mỗi nét nhăn mày, mỗi nụ cười, mỗi động tác, cử chỉ của các nghệ sĩ Shen Yun trên sân khấu hoàn toàn phù hợp với lễ pháp văn hóa truyền thống. Mỗi cử động tay chân, mỗi động tác nhíu mày ngước mắt, mọi nơi mọi lúc đều thể hiện cảnh giới thuần chân, thuần thiện đạt tới thuần mỹ. Kỳ thực, vạn pháp quy tông, dù chi tiết có phức tạp đến đâu, nhưng là người tu luyện Đại Pháp, khi thân tâm chúng ta lúc nào cũng chứa đầy “Chân, Thiện, Nhẫn” thì mọi hành động sẽ phù hợp nhất với lễ pháp.

Các nghệ sĩ Shen Yun đã trình diễn những hình tượng mỹ hảo và truyền thống nhất trên sân khấu. Chẳng phải chúng ta cũng đang diễn giải những hình ảnh thuần chân và mỹ hảo nhất của các đệ tử Đại Pháp cho người thường trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta sao? Chỉ là sân khấu có đòi hỏi cao hơn, không được phép cẩu thả, một chút xíu bất cẩn sẽ khiến “khán giả” có chướng ngại trong tâm, ảnh hưởng đến việc họ cùng chúng sinh của họ được cứu độ.

Thế gian con người lại là một sân khấu còn đòi hỏi khắt khe hơn, mỗi đệ tử Đại Pháp chúng ta đều có Đại Pháp trong tâm, nếu lấy các nghệ sĩ Shen Yun làm hình mẫu, trong người thường việc chúng ta “biểu diễn” xuất ra một “Shen Yun” đủ ôn lương cung kiệm hoàn toàn không phải là điều xa vời. Thử nghĩ, nếu chúng ta mở rộng sân khấu Shen Yun đến nơi người thường, mỗi đệ tử Đại Pháp chúng ta đều trình diễn tốt trong mỗi từng việc nhỏ hằng ngày, nếu tất cả chúng ta đều làm rất tốt thì diễn xuất “Shen Yun” được mở rộng và phóng đại vô hạn, do tất cả các đệ tử của Sư tôn cùng biểu diễn, sẽ là một lễ hội trình diễn vô cùng hoàn mỹ!

Ngôn ngữ cơ thể của các nữ nghệ sĩ Shen Yun là hình mẫu cho các nữ đệ tử Đại Pháp noi theo. Dù động hay tĩnh, dù nói hay im lặng đều ung dung, chừng mực. Chuẩn tắc lễ nghi nghiêm túc, đứng đắn của các nữ đệ tử Đại Pháp được thể hiện ở khắp mọi nơi, như những đóa tịnh liên vươn lên từ bùn dơ mà không vấy bẩn. Với Đại Pháp trong tâm, chúng ta có thể luôn nhắc nhở bản thân rằng không khó để làm điều đó. Trong thời kỳ hỗn thế mạt kiếp này, hình ảnh những nữ đệ tử Đại Pháp như vậy sẽ triển hiện ra chân tướng Đại Pháp tốt đẹp hơn nữa.

Về yêu cầu tu thân của phụ nữ xưa hôm nay chỉ nói đến đây, trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ bàn về những ghi chép trong các sách cổ về vai trò của phụ nữ trong mối quan hệ vợ chồng và việc người phụ nữ làm thế nào để tương trợ chồng.

Hẹn gặp lại trong phần tiếp theo.

Ghi chú:

[1] Khôn: quẻ khôn trong bát quái, tượng trưng cho đất, nữ giới, phái nữ

[2] Tham khảo bản dịch trên trang web nuduc.com

[3] Lão Tử giảng: “Thượng thiện nhược thủy. Thủy thiện lơi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư Đạo” (Đạo Đức Kinh). Ý nghĩa là: nước là thiện nhất. Nước khéo làm lợi cho vạn vật mà không tranh với vật nào, luôn tìm đến ở chỗ mọi người ghét cho nên gần với Đạo. Theo Lão Tử, “nước” có bảy cái thiện, đó là: “cư thiện địa, tâm thiện uyên, dữ thiện nhân, ngôn thiện tín, chính thiện dung, sự thiện năng, động thiện thì”. Về chi tiết, xin tham khảo bài viết sau:

https://www.ntdvn.net/van-hoa/httpsdrivegooglecomfiled1d0z9l87gmvnoryw427i8qv5apnzh-hp8view-17918.html

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/279112



Ngày đăng: 17-02-2023

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.