Dịch giải dự ngôn «Mai Hoa Thi» thời nhà Tống



Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[Chanhkien.org] «Mai Hoa Thi» (梅花诗) tương truyền là do Thiệu Ung tiên sinh sáng tác. Thiệu Ung, tự là Nghiêu Phu, sinh năm thứ 4 Tống Chân Tông (năm 1011 SCN), mất năm thứ 10 Tống Thần Tông (năm 1077 SCN), hiệu là Khang Tiết. Ông quê ở Phạm Dương, Hà Bắc, sau di cư sang Cộng Thành, cuối cùng ẩn cư ở Lạc Dương. «Mai Hoa Thi» tổng cộng có 10 kỳ, dự ngôn những diễn biến lịch sử trọng đại của Trung Quốc sau khi ông qua đời. Vì vậy tất nhiên bài thơ sử dụng ngôn ngữ tiên tri, rất ẩn ý, không dễ mà lý giải cho được. Có một bộ phận là dành cho người tu luyện, người bình thường đọc quả thực không hiểu chút gì. Ở đây chỉ xin giải sơ qua, các bậc trí giả và cao nhân nếu thấy có chỗ nào không ổn kính mong chỉ giáo. Toàn bộ phần diễn nghĩa là của người dịch, chỉ để tham khảo.

(一)

荡荡天门万古开,几人归去几人来。
山河虽好非完璧,不信黄金是祸胎。

(Nhất)

Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai,
Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai.
Sơn hà tuy hảo phi hoàn bích,
Bất tín Hoàng Kim thị họa thai.

Tạm dịch:

(Một)

Dần từ vạn cổ cổng trời khai mở,
Hỏi mấy người đến mấy người trở về.
Non sông tuy đẹp mà không toàn vẹn,
Không tin Hoàng Kim là mầm tai họa.

Giải:

“Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai, Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai.” Cánh cổng trời vĩ đại từ vạn cổ tới nay mới khai mở lần đầu tiên. Biết bao nhiêu người tới nhân gian, biết bao nhiêu người có thể trở về? Ý nghĩa của hai câu này gắn kết chặt chẽ với chủ đề bài thơ, ngay lúc mở đầu đã dẫn xuất chủ đề tối hậu. Người tu luyện nhìn một cái là rõ ngay, còn người phổ thông xem không hiểu rõ được, ở đây không giải kỹ thêm nữa.

“Sơn hà tuy hảo phi hoàn bích, Bất tín Hoàng Kim thị họa thai.” Thời nhà Tống là lúc mà triều đình nhu nhược bất tài. Toàn bộ xã hội từ trên xuống dưới đều như vậy, đam mê ca múa vui thái bình. Đặc biệt đến thời Nam Tống thì càng cẩu thả tạm bợ, ở nửa giang sơn vùng Giang Nam mà mê đắm trong tình sắc hoan ái, thể thơ Tống từ trở thành cách văn nhân bày tỏ tình cảm luyến ái. Rốt cuộc trong lịch sử Trung Quốc có “nỗi nhục Tịnh Khang” (Tịnh Khang là niên hiệu vua Khâm Tông thời Tống, năm 1126-1127 SCN), hoàng đế Bắc Tống, cung phi, hoàng thân, cho đến khắp đại thần trong triều ba ngàn người đều bị nước Kim bắt làm nô lệ. Đến nỗi cuối cùng hoàng đế Nam Tống phải nhảy xuống biển vùi thân. Do vậy, non sông tuy tươi đẹp mà không toàn vẹn là vậy. “Kim” là chỉ tộc Nữ Chân ở phương Bắc kiến lập nước Đại Kim. “Hoàng” là phủ Hoàng Long, kinh đô nước Kim (nay là huyện Nông An, tỉnh Cát Lâm. Trung Quốc). Ở đây tiên tri về sự kiện nhà Nam Tống sống tạm bợ trong một nửa giang sơn vùng Giang Nam và người Kim xâm nhập trong lịch sử. “Bất tín Hoàng Kim thị họa thai” nói về nước Kim diệt Bắc Tống, xâm phạm Nam Tống.

(二)

湖山一梦事全非,再见云龙向北飞。
三百年来终一日,长天碧水叹弥弥。

(Nhị)

Hồ Sơn nhất mộng sự toàn phi,
Tái kiến Vân Long hướng Bắc phi.
Tam bách niên lai chung nhất nhật,
Trường thiên bích thủy thán di di.

Tạm dịch:

(Hai)

Một giấc mộng Hồ Sơn mà hỏng cả,
Lại thấy Rồng Mây hướng phía Bắc bay.
Ba trăm năm hết chỉ nội một ngày,
Non xanh nước biếc than ôi còn đâu.

Giải:

“Hồ sơn nhất mộng sự toàn phi”: Bởi rằng Nam Tống lập kinh đô Lâm An (nay là Hàng Châu) bên bờ Tây Hồ, hơn nữa hoàng đế Nam Tống cả ngày đắm chìm trong tửu sắc, vậy mới nói “Hồ Sơn nhất mộng”. “Tái kiến Vân Long hướng Bắc phi”, là chỉ khí số thiên tượng rơi vào phương Bắc, ở miền Bắc sinh “chân long thiên tử”, triều đại mới sinh ra ở phương Bắc. Khi binh nhà Nguyên xâm nhập Lâm An, hoàng đế bị bắt làm tù binh. “Tam bách niên lai chung nhất nhật”, là chỉ Bắc Tống, Nam Tống trải qua ba trăm năm (từ năm 960 đến 1279 SCN) rồi cuối cùng diệt vong. “Trường thiên bích thủy thán di di”, chính là chỉ năm 1279 SCN, tàn quân nhà Tống chiến bại không còn lối thoát, Lục Tú Phu cõng tiểu hoàng đế Nam Tống Triệu Bính nhảy xuống biển mà chết, các tướng sĩ khác và hoàng phi đều gặp bão lớn rồi chìm dưới đáy đại dương.

(三)

天地相乘数一原,忽逢甲子又兴元。
年华二八乾坤改,看尽残花总不言。

(Tam)

Thiên địa tương thừa số nhất nguyên,
Hốt phùng giáp tử hựu hưng Nguyên.
Niên hoa nhị bát càn khôn cải,
Khán tận tàn hoa tổng bất ngôn.

Tạm dịch:

(Ba)

Số nhân của Trời Đất đến một nguyên,
Hốt gặp giáp tử thì lại hưng Nguyên.
Được tám tám năm thì càn khôn đổi,
Xem hết hoa tàn mà vẫn không tâu.

Giải:

“Thiên địa tương thừa số nhất nguyên, Hốt phùng giáp tử hựu hưng Nguyên”, là nói thời kỳ Thiên can Địa chi tương giao, trở lại ngọn nguồn, nhà Nguyên bắt đầu hưng thịnh. “Hốt” ở đây là chỉ Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, “hưng Nguyên” là chỉ nhà Nguyên được kiến lập. Hốt Tất Liệt năm 1260 SCN làm Đại Hãn, năm 1264 SCN (một giáp – Giáp tử) lên ngôi kiến lập triều Nguyên, lấy hiệu nước là Nguyên, dời đô đến Yên Kinh (nay là Bắc Kinh). Năm 1271, Hốt Tất Liệt căn cứ vào kiến nghị của Lưu Bỉnh Trung, lấy ý nghĩa “Càn Nguyên” trong «Kinh Dịch» mà cải quốc hiệu thành “Đại Nguyên”, thống trị Trung Quốc. “Niên hoa nhị bát càn khôn cải, Khán tận tàn hoa tổng bất ngôn”, triều Nguyên từ Nguyên Thế Tổ truyền được 10 đời. Năm 1279 SCN, triều Tống diệt vong hoàn toàn, đến năm 1368 SCN, triều Nguyên bị diệt, tổng cộng là 88 năm, ứng với ý trong “Được tám tám năm càn khôn đổi”. Thời Nguyên Thuận Đế, hoạn quan ém nhẹm hồ sơ không tâu lên hoàng đế hại nhà Nguyên, có thể nói “hoa tàn” mà “vẫn không tâu” là như vậy.

(四)
毕竟英雄起布衣,朱门不是旧黄畿。
飞来燕子寻常事,开到李花春已非。

(Tứ)

Tất cánh anh hùng khởi bố y,
Chu môn bất thị cựu hoàng kỳ.
Phi lai yến tử tầm thường sự,
Khai đáo Lý hoa xuân dĩ phi.

Tạm dịch:

(Bốn)

Rốt cuộc là anh hùng từ áo vải,
Lầu son đâu phải cờ vàng ngày xưa.
Chim én bay đến ấy chuyện tầm thường,
Nở tới hoa mận thì xuân đã qua.

Giải:

“Tất cánh anh hùng khởi bố y, Chu môn bất thị cựu hoàng kỳ”, tả rõ Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, tuy xuất thân bần tiện (bố y – áo vải), còn trải qua mấy năm làm hòa thượng, sau tham gia khởi nghĩa nông dân hồng cân quân, cuối cùng thể hiện bản sắc anh hùng, từ một binh sĩ bình thường vọt lên làm thủ lĩnh, đến năm 1368 SCN xưng đế tại Nam Kinh. Chính “Chu môn – Lầu son” ấy không còn là nhà nông đất vàng (“cờ vàng”) ngày xưa nữa. “Phi lai yến tử tầm thường sự, Khai đáo Lý hoa Xuân dĩ phi” chỉ con thứ tư của Chu Nguyên Chương là Yến vương Chu Đệ hùng cứ tại Yên Kinh, bị buộc phải phát động chiến dịch công nhập Nam Kinh, đoạt lấy ngôi Vua, đúng là “nhanh như chim én”. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương nhường ngôi cho Hoàng Thái Tôn cháu mình, tức Minh Huệ Đế. Năm ấy, hơn mười hoàng tử được phong làm Phiên vương, đóng tại biên cương. Trong đó Yến vương Chu Đệ thực lực mạnh nhất, danh vọng lớn nhất. Minh Huệ Đế vì cứ khăng khăng tước bỏ Phiên vương, đòi miễn Yến vương, nên Yến vương không còn cách nào khác đành khởi binh làm phản. Bởi vì Yến vương Chu Đệ tài đức xuất chúng, trí dũng hơn người nên cuối cùng giành chiến thắng sau 4 năm, trở thành Minh Thái Tông, sau được gọi là Minh Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc. Yến vương được thiên hạ, ngẫm ra thì đúng là “tầm thường sự”, về cả tình và lý, rất giống với “sự biến Huyền Vũ môn” của Đường Thái Tông Lý Thế Dân. “Khai đáo Lý hoa xuân dĩ phi”, ứng với năm 1644 SCN, Sấm vương Lý Tự Thành (“Lý hoa”) dẫn quân khởi nghĩa công phá kinh thành, hoàng đế Sùng Trinh thắt cổ tự vẫn ở Cảnh Sơn, triều Minh diệt vong (“xuân đã qua”).

(五)

胡儿骑马走长安,开辟中原海境宽。
洪水乍平洪水起,清光宜向汉中看。

(Ngũ)

Hồ nhi kỵ mã tẩu Trường An,
Khai tích Trung Nguyên hải cảnh khoan.
Hồng thủy sạ bình hồng thủy khởi,
Thanh quang nghi hướng Hán Trung khán.

Tạm dịch:

(Năm)

Kỵ mã của trẻ Hồ tới Trường An,
Khai thác vùng hải cảng tại Trung Nguyên.
Hồng thủy bình rồi lại hồng thủy khởi,
Ánh sáng trong phải hướng Hán Trung xem.

Giải:

“Hồ nhi kỵ mã tẩu Trường An”: Trung Quốc xưa nay vẫn nói “Bắc hồ Nam man”. Bởi thế ở đây là chỉ Mãn Thanh ở vùng Đông Bắc xâm nhập làm chủ Trung Nguyên. Ngô Tam Quế dẫn quân Thanh qua ải, thống nhất toàn cục thời Minh mạt. Năm 1644 lập đô tại Bắc Kinh, trờ thành đế quốc Đại Thanh. “Khai tích Trung Nguyên hải cảnh khoan”: nhà Thanh ngày trước, thế nước hưng thịnh, văn trị võ công, cường thịnh phi thường, một trăm năm đầu tiên là thời “Khang Càn thịnh thế” (thời Khang Hy, Càn Long). Đặc biệt là hoàng đế Khang Hy, bình định các chủng nội loạn ngoại xâm, mở rộng bản đồ Trung Quốc ở mức chưa từng có. Ngoài ra, nhà Thanh bắt đầu tiến hành thông thương quy mô lớn với nước ngoài, khai thác bến cảng, cũng chính là “hải cảnh khoan” vậy.

“Hồng thủy sạ bình hồng thủy khởi, Thanh quang nghi hướng Hán Trung khán”: Chữ “Hồng thủy” đầu tiên chính là chỉ năm 1851, Hồng Tú Toàn lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc, tựa như cơn hồng thủy cuốn sạch một nửa Trung Quốc, kéo dài trong 13 năm, làm lung lay nghiêm trọng sự thống trị của triều Thanh. Sau khi Thái Bình Thiên Quốc bị bình định rồi (“sạ bình”), triều Thanh vẫn loạn trong giặc ngoài không ngừng, các thế lực cách mạng không ngừng nổi dậy mạnh mẽ, mãi đến cuối cùng, khởi nghĩa Vũ Xương thành công, Lê Nguyên Hồng thành đô đốc Trung Hoa Dân Quốc, sau khi Viên Thế Khải chết trở thành Tổng thống, Vương triều nhà Thanh diệt vong hoàn toàn. Do đó, tiền đồ cuối cùng của triều Thanh (“Thanh quang”) cần phải đến Vũ Hán (“Hán Trung”) mà xem.

(六)

汉天一白汉江秋,憔悴黄花总带愁。
吉曜半升箕斗隐,金乌起灭海山头。

(Lục)

Hán thiên nhất bạch Hán giang thu,
Tiều tụy hoàng hoa tổng đới sầu.
Cát diệu bán thăng Ki Đẩu ẩn,
Kim Ô khởi diệt hải sơn đầu.

(Sáu)

Trời Hán sáng tỏ, sông Hán mùa thu,
Hoa cúc vàng tiều tụy vẫn ưu sầu.
Ánh cát tường nửa thăng, Ki Đẩu ẩn,
Mặt trời vụt tắt trên đầu núi biển.

Giải:

“Hán thiên nhất bạch Hán giang thu” là nói nhà Thanh hủ bại suy vong, Trung Quốc cuối cùng lại có hy vọng mới (“Hán thiên nhất bạch”), tiến nhập thời đại mới (“Hán giang thu”), ngày 10 tháng 10 năm 1911 (mùa thu), khởi nghĩa Vũ Xương kiến lập Trung Hoa Dân Quốc. “Tiều tụy hoàng hoa tổng đới sầu”, cách mạng Dân Quốc tuy thành công nhưng nền móng rất thiếu ổn định, tựa như “tiều tụy hoàng hoa”, đầy ắp nguy cơ (“tổng đới sầu”). Cũng có thể là chỉ Viên Thế Khải khôi phục ngai vàng như “tiều tụy hoàng hoa”, sớm nở tối tàn, Viên Thế Khải cuối cùng buồn rầu hối hận mà bệnh chết. “Cát diệu bán thăng Ki Đẩu ẩn”: “Cát diệu” là chỉ cờ Thanh Thiên Bạch Nhật của Quốc Dân Đảng, “bán thăng” là chỉ thời kỳ đầu thống trị của Quốc Dân Đảng, ở Trung Quốc quân phiệt cát cứ, nội chiến liên miên, không cách nào thực hiện bình định thống nhất, chỉ đến khi Tưởng Giới Thạch lãnh đạo Bắc phạt thành công mới sơ bộ đặt địa vị cho Quốc Dân Đảng. “Ki Đẩu” thuộc tử vi cổ đại của Trung Quốc, là một vì tinh tú trong Nhị Thập Bát Tú, ở đây chỉ thế lực bí mật của đảng cộng sản ngấm ngầm phát triển. “Kim Ô khởi diệt hải sơn đầu”: Thời cổ “Kim Ô” là tên gọi khác của Thái Dương (Mặt trời), ở đây ám chỉ Nhật Bản. Cả câu là chỉ Nhật Bản gây chiến trong Đại Thế chiến II rồi cuối cùng chiến bại, đầu hàng.

(七)

云雾苍茫各一天,可怜西北起烽烟。
东来暴客西来盗,还有胡儿在眼前。

(Thất)

Vân vụ thương mang các nhất thiên,
Khả liên Tây Bắc khởi phong yên.
Đông lai bạo khách Tây lai đạo,
Hoàn hữu Hồ nhi tại nhãn tiền.

Tạm dịch:

(Bảy)

Mây mù mờ mịt hết một ngày đêm,
Thảm thương Tây Bắc khói lửa chiến tranh.
Cướp đến từ Đông, giặc đến từ Tây,
Còn có trẻ Hồ ở ngay trước mắt.

Giải:

“Vân vụ thương mang các nhất thiên”, là nói cục diện Trung Quốc và Đài Loan phân chia đối lập nhau. Ba câu sau có thể chỉ sự việc chưa phát sinh hoặc đã phát sinh. Thử giải như sau: “Khả liên Tây Bắc khởi phong yên” dường như chỉ giải phóng quân Trung Quốc bình định bạo loạn Tân Cương và trấn áp độc lập ở Tây Tạng. “Đông lai bạo khách Tây lai đạo”, có thể chỉ Bắc Triều Tiên ở phương Đông và Mỹ quốc có chiến tranh, đồng thời bùng phát chiến tranh biên giới Trung-Ấn với Ấn Độ ở biên giới phía Tây. “Hoàn hữu Hồ nhi tại nhãn tiền”: nước Nga ở phương Bắc luôn trực tiếp uy hiếp Trung Quốc, Trung-Nga đã từng phát sinh chiến tranh, mỗi bên đều có binh lực hùng hậu trấn giữ nơi biên giới trong cả chục năm.

(八)

如棋世事局初残,共济和衷却大难。
豹死犹留皮一袭,最佳秋色在长安。

(Bát)

Như kỳ thế sự cục sơ tàn,
Cộng tề hòa trung khước đại nạn.
Báo tử do lưu bì nhất tập,
Tối giai Thu sắc tại Trường An.

Tạm dịch:

(Tám)

Như ván cờ mới rơi vào thế tàn,
Đồng lòng giúp nhau nhưng gặp đại nạn,
Con báo chết còn lưu lại bộ da,
Sắc thu đẹp nhất ở tại Trường An.

Giải:

“Như kỳ thế sự cục sơ tàn, Cộng tề hòa trung khước đại nạn”: Cục diện thế giới xưa nay tựa như bàn cờ, đây là chỉ thời kỳ chiến tranh Lạnh đối đầu giữa thế giới Tây phương tự do dân chủ và cộng sản quốc tế. Đến thập niên 90, các quốc gia cộng sản ào ào biến sắc, điều này đối với toàn bộ chủ nghĩa cộng sản mà xét, thì đã đi vào tàn cuộc rồi. Liên minh các nước cộng sản triệt để giải thể, tuyệt đại đa số các nước từ bỏ chế độ cộng sản, đối với đảng cộng sản mà nói là lâm vào đại kiếp nạn vậy. “Báo tử do lưu bì nhất tập”: quốc gia đứng đầu các nước cộng sản là Liên Xô tan rã, hệ thống đảng cộng sản thực tế đã giải thể rồi, chỉ còn lưu lại một chút hình thức được những người đương quyền Trung Quốc kế thừa, cũng tựa như con báo chết rồi nhưng vẫn còn lưu lại bộ da. Trung Quốc ngày nay không còn ai tin tưởng chủ nghĩa cộng sản nữa, bao gồm cà những người đương quyền trong đảng cộng sản, họ chỉ lợi dụng hình thức đảng cộng sản để duy trì sự thống trị của họ mà thôi. “Tối giai Thu sắc tại Trường An”: trước mắt những người đương quyền Trung Cộng, vì để tạo tính hợp lý cho hình thức chính quyền nên đã ra sức tô son trát phấn ngụy tạo cái gọi là “tình thế tốt đẹp”, tập trung một lượng lớn tài lực để xây dựng rầm rộ, trang điểm thủ đô. “Trường An” là chỉ kinh thành của Trung Quốc, cũng chỉ Trung Quốc nói chung. Nhưng “sắc thu” ấy cũng không cách nào trường cửu được.

(九)

火龙蛰起燕门秋,原璧应难赵氏收。
一院奇花春有主,连宵风雨不须愁。

(Cửu)

Hỏa long trập khởi Yên Môn thu,
Nguyên bích ưng nạn Triệu thị thu.
Nhất viện kỳ hoa Xuân hữu chủ,
Liên tiêu phong vũ bất tu sầu.

Tạm dịch:

(Chín)

Rồng lửa khởi đau buồn từ Yên Môn,
Nguyên bích chịu nạn, họ Triệu thu về,
Một vườn hoa đẹp, mùa xuân có chủ,
Mưa gió suốt đêm không phải ưu sầu.

Giải:

“Hỏa long trập khởi Yên Môn thu”: “Hỏa long”, tức ác long màu đỏ, chỉ đảng cộng sản Trung Quốc. Câu đầu tiên ẩn dụ về sự kiện “lục tứ” năm 1989, học sinh và dân chúng Trung Quốc thỉnh nguyện tại Thiên An Môn sau đó chịu thảm sát tàn khốc. “Nguyên bích ưng nạn Triệu thị thu”: “Nguyên bích” ngầm chỉ lịch sử Trung Quốc liên tục trong 5.000 năm, phải chịu nạn này. “Triệu thị thu” là chỉ Triệu Tử Dương, vì sự kiện “lục tứ” mà bị đàn áp.

Còn mấy câu dưới đây, nếu như không theo sát toàn bộ chủ đề bài thơ, không thông hiểu việc tu luyện, thì rất khó phá giải. Trên thực tế, mấy câu dưới đây rõ ràng là ứng hợp với chủ đề của toàn dự ngôn. Xem lại câu đầu tiên “Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai”, cho tới câu dưới “Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật”, nghĩa lý chân chính sẽ tự nhiên sáng tỏ.

“Nhất viện kỳ hoa Xuân hữu chủ”: trước ngày 20 tháng 7 năm 1999, Pháp Luân Công phổ biến khắp Trung Quốc đại lục, nơi đâu cũng có đệ tử Đại Pháp đeo huy hiệu Pháp Luân Công, nơi đâu cũng trông thấy đồ hình Pháp Luân, chính là “một vườn hoa đẹp kỳ diệu” vậy. “Xuân hữu chủ” là chỉ một năm nào đó, các đệ tử Pháp Luân Công bị bức hại và Sư phụ sẽ gặp nhau một cách đường đường chính chính. “Liên tiêu phong vũ bất tu sầu”: Trung Cộng đối với đệ tử Pháp Luân Công đã áp dụng thủ đoạn thời kỳ Đại Cách mạng Văn hóa, tiến hành bức hại trên quy mô lớn, chính là “gió mưa suốt đêm” vậy. Tuy vậy Pháp Luân Công vẫn biểu hiện kiên cường phi thường, liên tục duy trì tinh thần phản bức hại, quả thực trong lịch sử xưa nay hiếm. Chỉ với loại tinh thần này, họ cuối cùng đã giành thắng lợi. Lấy nhãn quang lịch sử mà xét, vô luận tà ác có điên cuồng đến cỡ nào, mùa đông có giá rét lạnh lẽo ra sao, cuối cùng vẫn vượt qua, chính là “không cần phải lo sầu” vậy.

(十)

数点梅花天地春,欲将剥复问前因。
寰中自有承平日,四海为家孰主宾。

(Thập)

Số điểm Mai Hoa thiên địa Xuân,
Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân.
Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật,
Tứ hải vi gia thục chủ tân.

Tạm dịch:

(Mười)

Số điểm hoa mai trời đất là xuân,
Muốn biết Bác Phục hỏi nguyên nhân xưa.
Trong hoàn vũ tự hưởng ngày thái bình,
Bốn biển là nhà hỏi ai chủ khách.

Giải:

“Số điểm mai hoa thiên địa Xuân”: Câu này chính là dụng bút theo kiểu “vẽ rồng điểm mắt”, làm nổi bật nét chính, tên bài thơ chính lấy từ câu này, do vậy mới gọi là «Mai Hoa Thi». Kinh qua khảo nghiệm mùa đông giá rét, các đệ tử Pháp Luân Công khắp thế giới và Trung Quốc Đại Lục tựa như những bông hoa mai cười ngạo sương tuyết, trỗi dậy đón nở mùa Xuân đến. Đây chính là thời khắc Pháp Chính Nhân Gian. Vạn vật nghênh Xuân, khắp nơi đều chính. Câu này với câu ở đầu “Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai” – “Hỏi mấy người đến mấy người trở về” là tương quan chặt chẽ với nhau, có bao nhiêu người có thể viên mãn mà sẽ đi đâu? “Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân”: Bác, Phục là tên hai quẻ trong «Kinh Dịch». Bác cực tất Phục, cũng là chỉ “Vật cực tất phản”. Lịch sử tựa như bánh xe xoay chuyển (chuyển luân), có nhân trước tất có quả sau. Lịch sử nhân loại đều là vì Chính Pháp mà an bài. “Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật”: Đây chính là ngày mà vũ trụ rộng lớn không gì sánh được tự nhiên thừa hưởng thái bình. “Tứ hải vi gia thục chủ tân”: năm 1992, người sáng lập Pháp Luân Công, Lý Hồng Chí Tiên sinh xuất hiện truyền Pháp, về cơ bản là đi khắp bốn phương truyền Pháp, bốn biển là nhà. Nửa câu sau “thục chủ tân”, ẩn dụ ai là chủ, ai là khách; trong vũ đài lịch sử ai đóng vai phụ, ai đóng vai chính, đã sớm có số định trước. Văn minh nhân loại lần này đều là vì Đại Pháp mà khai sáng, nơi đây cũng chính là trung tâm Chính Pháp của toàn vũ trụ.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2001/7/7/13024.html



Ngày đăng: 12-02-2011

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.