ttatt | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnTue, 22 Apr 2025 00:14:28 +0000en-UShourly1Thần thoại hỗn loạn và tư tưởng triết học truyền thống (Phần 6)https://chanhkien.org/2021/09/than-thoai-hon-loan-va-tu-tuong-triet-hoc-truyen-thong-phan-6.htmlMon, 06 Sep 2021 14:08:46 +0000https://chanhkien.org/?p=27843Tác giả: Arnaud H [ChanhKien.org] Không chỉ nghệ thuật, mà lý thuyết bốn nguyên tố có liên quan đến nhiều lĩnh vực ở Hy Lạp cổ đại. Ví dụ, y học gia đương đại Philistion of Locri cùng thời với Plato đã áp dụng bốn đặc tính lạnh, nóng, khô và ướt mà ông rút […]

The post Thần thoại hỗn loạn và tư tưởng triết học truyền thống (Phần 6) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Arnaud H

[ChanhKien.org]

Không chỉ nghệ thuật, mà lý thuyết bốn nguyên tố có liên quan đến nhiều lĩnh vực ở Hy Lạp cổ đại. Ví dụ, y học gia đương đại Philistion of Locri cùng thời với Plato đã áp dụng bốn đặc tính lạnh, nóng, khô và ướt mà ông rút ra từ bốn nguyên tố này vào y học, kết hợp với chủ trương của Alcmaeon vào thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, Alcmaeon (Alcmaeon of Croton) tin rằng “sức khỏe con người phụ thuộc vào sự cân bằng các yếu tố đối lập”, điều này giúp hoàn thiện hơn các lý luận y học phương Tây cổ đại.

Ngoài bốn nguyên tố, Hy Lạp cổ đại còn có một “Nguyên tố thứ năm” (Quinta Essentia hay Quintessence) nổi tiếng, được gọi là “Aether” (Aether hay Ether). Nó được người ta biết đến từ thuở sơ khai khi lý thuyết về bốn nguyên tố xuất hiện, nhưng vì người ta cho rằng Ether có kích thước siêu nhỏ, và có các tính chất khác với bốn nguyên tố trên nên nó không được đưa vào bốn nguyên tố. Chỉ đến thời Aristotle, nó mới được xếp vào loại nguyên tố thứ năm. Ở thời hiện đại, người ta từng cho rằng Ether là một loại sóng điện từ giả định nào đó, nhưng sau khi nghiên cứu, họ cho rằng không có bằng chứng quan sát nào chứng minh được sự tồn tại của loại chất này, nên về cơ bản nó đã bị giới khoa học loại bỏ.

Nhưng trên thực tế, từ “Ether” xuất phát từ vị Thần Hy Lạp nguyên thủy Aether, người đại diện cho không gian tối cao ở Thiên giới và không khí trong lành tươi sáng mà các vị Thần sống ở đó hít thở.

Cũng giống như gió là một hiện tượng tự nhiên ở phía bên này, và Thần Gió ở phía bên kia, một mặt của sự vật là một chất cụ thể, và mặt kia là một vị Thần. Do đó, khái niệm “Ether” có thể được hiểu là biểu hiện của vị Thần Aether ở trên cao. Đặc điểm của vật chất này là kỳ ảo, hư vô, nhẹ nhàng, vi diệu, tinh khiết, có nhiệt lượng. Người Hy Lạp cổ đại cho rằng, nó là một nguyên tố cực kỳ vi quan tràn ngập khắp không gian vũ trụ. Theo trình tự thời gian về sự xuất hiện của nhiều danh từ khác nhau trong lịch sử triết học, nó được các thế hệ sau gọi là “nguyên tố thứ năm”. Tuy nhiên, vì khái niệm của nó cao hơn các nguyên tố tự nhiên thông thường như Nước, Lửa và Khí, nhiều học giả cũng coi nó là nguyên tố đầu tiên trong các nguyên tố cổ điển.

Cuộc tranh luận về sự tồn tại của Ether vẫn tiếp tục cho đến ngày nay, nhưng hầu hết chúng hoàn toàn bó hẹp trong khuôn khổ của vật lý học hiện đại. Hạn chế này khiến người hiện đại thực sự khó hiểu khái niệm của nó trong văn hóa truyền thống. Trên thực tế, người xưa luôn coi trọng quan niệm về sự thống nhất giữa tinh thần và vật chất, cho rằng tư tưởng là vật chất nhẹ nhàng, trong sáng. Vì vậy, họ cũng tin rằng Ether tinh tế, thuần khiết và thanh tao cũng có một ý chí quy tắc nhất định, nó thiết lập và duy trì trật tự của vạn vật. Bởi vì, nó là biểu hiện của Thần trên cao, tuy là vật chất rất vi quan, nhưng nó cũng có đặc tính của sự hư không.

Nếu so sánh với nền văn hóa cổ đại Á Đông, chúng ta có thể tìm thấy một số tình huống trùng hợp tất yếu. Trong lý thuyết Phật giáo có một danh từ gọi là “Ngũ giới” (Panca-dhatavah), cũng được gọi là “Ngũ luân”, cụ thể là “Tứ đại” gồm Đất, Nước, Lửa và Gió, cộng với “Không giới” (Akasha) là năm yếu tố cơ bản tạo nên thế giới. Ở phương Tây sự hiểu biết ban đầu về điều này đến từ Nhật Bản, vì vậy nó thường được gọi là “Godai” – đây là phiên âm của “Ngũ đại” trong tiếng Nhật.

Như chúng ta đã biết, không có các vị thần Hy Lạp như Zeus, Hera, Poseidon, Hades và Aether trong Phật giáo. Thuyết “Ngũ giới” của Phật giáo hoàn toàn xuất phát từ hệ thống lý luận của chính mình, và không liên quan gì đến việc người Hy Lạp cổ đại suy luận ra năm nguyên tố cổ điển thông qua các đặc điểm của các vị Thần. Hơn nữa, thời điểm mà phương Đông và phương Tây cùng đưa ra những lý thuyết về nguyên tố này rất gần nhau, đều là vào thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, khi chưa có công nghệ hiện đại, phương tiện giao thông còn rất thô sơ, thành quả về văn hóa và học thuật rất khó để truyền sang các lục địa khác. Tuy nhiên, mặc dù hai nền văn hoá mang nội hàm ý thức hệ khác nhau, nhưng quan niệm “Đất, Nước, Lửa, Gió và Không” của Phật giáo và quan niệm “Đất, Nước, Lửa, Khí và Ether” của Hy Lạp cổ đại lại tương đồng, bổ trợ cho nhau, điều này khiến mọi người nhớ đến một câu thành ngữ trong cuốn “Chu Dịch” là “Thù lộ đồng quy”, tức các con đường khác nhau nhưng đều dẫn đến cùng một đích.

Truyền thống và sự thay đổi

Nói về nhiều nền văn hóa cổ xưa như vậy, cũng khiến chúng ta nảy sinh một chút suy nghĩ: Trong nghiên cứu văn hóa lịch sử, cần phải làm rõ một khái niệm – đó là “truyền thống” là gì. Nói chung, truyền thống có lịch sử lâu đời, vậy tất cả những gì có từ lâu đời có phải là truyền thống không?

Từ các nền văn hóa cổ đại của các quốc gia có thể nhìn thấy một đặc điểm chung: nhiều quy phạm đạo đức và phong tục cơ bản có nguồn gốc từ Thần thoại hoặc tôn giáo cổ đại. Những điều cơ bản như việc Bàn Cổ khai thiên trong thần thoại phương Đông và việc các vị Thần định ra các mối quan hệ nhân luân trong tôn giáo phương Tây, đều do các vị Thần đặt định ra vào thời kỳ đầu của nền văn minh và truyền lại cho thế nhân, sau đó được nhân loại coi là nền văn hóa chính thống mà truyền từ đời này qua đời khác, chúng ta thường gọi đó là “văn hóa Thần truyền”.

Những nền văn hóa Thần truyền này đa phần được đặt định vào thời kỳ đầu của một chu kỳ văn minh trong lịch sử, hoặc được hoàn thiện trong quá trình phát triển ban đầu, từng bước trải qua một quá trình thành trụ hoại diệt, cho đến khi lại có nền văn minh mới xuất hiện, thay thế nền văn minh cũ.

Các nền văn minh mới thay thế các nền văn minh cũ, một số nền văn minh là do thiên tai và các yếu tố khác dẫn đến sự tuyệt chủng hoàn toàn của con người và thậm chí cả các sinh vật. Một số khác là do chiến tranh quy mô lớn hoặc bệnh dịch quy mô lớn gây ra số lượng lớn người chết, những người sống sót dần dần từ bỏ nền văn hóa tiền sử để hòa nhập vào nền văn minh mới. Nhưng trong trường hợp thứ hai, nền văn minh cũ còn lại sẽ không biến mất hoàn toàn mà có khả năng sẽ được nền văn minh mới tiếp thu một phần, hoặc được bảo tồn như những di tích văn hóa và bằng chứng lịch sử.

Ở đây có liên quan đến một vấn đề, các nền văn minh trong quá khứ phát triển theo quy luật “thành, trụ, hoại, diệt”, nên khi lịch sử đi đến giai đoạn diệt vong thì yếu tố văn hoá trong nền văn minh đó cũng bị hủy, kể cả văn hóa Thần truyền ban đầu. Có nghĩa là, trong quá trình lịch sử lâu dài, văn hóa Thần truyền ban đầu dần dần bị các thế hệ sau thay đổi, thậm chí đi ngược lại. Những câu chuyện Thần thoại cao quý thuận theo đạo đức xã hội suy đồi mà dần dần lệch khỏi trạng thái ban đầu, trong quá trình lịch sử bị phá hoại, chúng dần dần bị người ta cải biến, chỉnh sửa thành những nội dung tình tiết thấp kém, truỵ lạc, đương nhiên nền văn hóa đã bị thay đổi này không thể được coi là “văn hóa Thần truyền”.

Tuy nhiên, nền văn hóa biến dị không còn là “văn hóa Thần truyền” này lại có một đặc điểm mê hoặc con người – đó là nó có lịch sử khá lâu đời. Sau khi nó được nền văn minh mới bảo tồn như một di sản lịch sử, lịch sử của nó trong mắt người đời sẽ lâu hơn so với thời kỳ văn hóa Thần truyền trong nền văn minh mới, nhưng nó còn bại hoại và trụy lạc hơn cả nền văn hóa của nền văn minh mới. Tuy nhiên, loài người tôn trọng lịch sử cổ đại, nên cùng với sự phát triển của thời đại, con người sẽ công nhận hoặc tán thành sự bại hoại này theo một nghĩa nào đó, và hậu quả dẫn đến cuối cùng sẽ rất nguy hiểm là điều chúng ta cần thấy rõ ngày nay.

Chúng ta hãy quay trở lại chủ đề vừa rồi: Truyền thống là gì? Đó là sự chính thống Thần truyền. Bởi vì, tính chính thống Thần truyền không bị phụ thuộc theo thời đại, mà phụ thuộc vào bản chất Thần truyền. Nói cách khác, ngay cả những nội dung mà Thần truyền lại ngày nay, cho dù nó không được tích lũy lưu giữ ở bất kỳ thời đại nào trên thế giới, thì nó vẫn là truyền thống. Ngược lại, nếu nó không phải là một thứ chính thống, thì dù nó có lưu truyền từ niên đại xa xưa đi chăng nữa, nó cũng không phải là truyền thống mà chúng ta nói đến. Tất nhiên, một số có thể được gọi là “Truyền thống ma quỷ”, nhưng chúng không liên quan gì đến “Truyền thống” được đề cập ở đây.

♦ ♦ ♦ ♦ ♦

Trong các tác phẩm nghệ thuật phương Tây của các triều đại trước đây, nội dung về chủ đề văn hóa Hy Lạp và La Mã cổ đại chiếm phần lớn, vì vậy để tạo điều kiện cho mọi người hiểu rõ về nền tảng văn hóa cổ đại, tôi viết bài này khá đơn giản và tương đối trung dung. Thực ra, bài viết này chỉ giới thiệu sơ lược về một vài câu chuyện tiêu biểu trên đại dương văn hóa, không viết một cách tổng thể và chuyên sâu, chỉ dưới góc nhìn của học thuật thông thường và không đề cập đến nhiều nhân tố hơn nữa, mục đích là để cho độc giả ở mọi tầng lớp trong xã hội, những người có quan điểm khác nhau đọc và hiểu, vì vậy không tránh khỏi những thiếu sót trong bài viết, kính mong quảng đại độc giả lượng thứ.

Tài liệu tham khảo:

♣ Aristotle,《 Metaphysica 》, 4th century BC

♣ Aristotle,《 Politics 》, 4th century BC

♣ Gustav Schwab,《 Die schönsten Sagen des klassischen Altertums 》, 1840

♣ Herodotus,《 Histories 》, c. 430 BC

♣ Hesiod,《 Works and Days 》, c. 700 BC

♣ Jean-Georges Vibert,《 La Science de la peinture 》, 1891

♣ Leonardo da Vinci,《 Trattato della pittura 》, 1651

♣ Lucius Flavius Philostratus & Charles Daremberg,《 Philostrate : Traité sur la Gymnastique 》, 1858

♣ Plato,《 Apology 》, 399 BC

♣ Plato,《 Phaedo 》, c. 399 BC

♣ Plato,《 Republic 》, 375 BC

The post Thần thoại hỗn loạn và tư tưởng triết học truyền thống (Phần 6) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thần thoại hỗn loạn và tư tưởng triết học truyền thống (Phần 5)https://chanhkien.org/2021/09/than-thoai-hon-loan-va-tu-tuong-triet-hoc-truyen-thong-phan-5.htmlSun, 05 Sep 2021 14:04:29 +0000https://chanhkien.org/?p=27841Tác giả: Arnaud H [ChanhKien.org] Từ “triết học” chữ Latin là “Philosophia”, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ đại “φιλοσοφία”, là sự kết hợp của “Philos” nghĩa là tình yêu, và “Sophia” nghĩa là trí tuệ, có nghĩa là “tình yêu trí tuệ”. Điều này tương tự như “từ bi” và “huệ ngộ” […]

The post Thần thoại hỗn loạn và tư tưởng triết học truyền thống (Phần 5) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Arnaud H

[ChanhKien.org]

Từ “triết học” chữ Latin là “Philosophia”, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ đại “φιλοσοφία”, là sự kết hợp của “Philos” nghĩa là tình yêu, và “Sophia” nghĩa là trí tuệ, có nghĩa là “tình yêu trí tuệ”. Điều này tương tự như “từ bi” và “huệ ngộ” trong Phật giáo, hay “tình yêu” trong Cơ Đốc giáo, chỉ là những cách thể hiện khác nhau dưới những bối cảnh văn hóa khác nhau mà thôi. Nói cách khác, đó đều là những phương pháp tu luyện khác nhau.

Người hiện đại thường quen nhìn người xưa dưới con mắt người hiện đại. Đặc biệt là một số “người theo chủ nghĩa duy vật” khi xem xét về quan điểm của Thales “nước là nguồn gốc của vạn vật”, thì đoạn chương thủ nghĩa nói rằng, ông theo “chủ nghĩa duy vật” mà cố ý quên rằng vị hiền triết này cũng từng nói “vạn vật đều có linh”.

Trên thực tế, một người tu luyện sau khi khai trí khai huệ đều có cái nhìn sâu sắc đối với vạn sự vạn vật, và có tầm hiểu biết vượt xa người thường về cả vĩ mô và vi mô. Có thể thấy rằng 2.600 năm trước, Thales, người đưa ra chủ trương hai điểm này đã giác ngộ và khai mở trí huệ.

Thales cũng tin rằng, Trái Đất được đặt trên mặt nước, điều này gợi nhớ đến ghi chép của Phật gia rằng Núi Tu Di (Sumeru) ở trên mặt nước. Nếu chú ý một chút đến tầng tầng vũ trụ và các không gian khác được mô tả trong kinh sách, người ta sẽ ngạc nhiên trước những khái niệm rộng lớn và tất cả các chi tiết bao trùm vạn vật của nó.

Nhiều người hiện đại nói: “Tôi không hiểu tại sao người xưa lại có trí tưởng tượng phong phú đến vậy”. Họ thực sự cho rằng, những mô tả về các không gian khác trong hàng vạn cuốn kinh Phật và Đạo tạng đều là do người xưa hư cấu biên tạo nên. Cần phải biết rằng, một người có tư duy logic bình thường không thể quy kết hết thảy điều này là do trí tưởng tượng của người xưa, bởi vì môi trường xã hội cổ đại rất đơn giản, tư duy của người xưa cũng đơn giản hơn người hiện đại, họ cũng không thể có khả năng tưởng tượng siêu thường như thế được. Những chi tiết tường tận về các không gian khác, cũng như tính nhất quán của các tôn giáo trên thế giới khi miêu tả về chúng, kỳ thực chính là những điều mà các nhà thuyết giáo và những người tu luyện nhìn thấy, nghe thấy và đích thân trải nghiệm.

Tác phẩm “Phaedo” của Plato ghi lại những mô tả chi tiết của Thánh nhân Socrates về Trái Đất ở không gian khác trước khi ông qua đời, gồm sự cấu thành của quả cầu, màu sắc của đất, sự rực rỡ của cây cối, hình dạng của đá quý và các chi tiết khác. Nhưng những đoạn văn dài này, về cơ bản bị các học giả triết học hiện đại bỏ qua. Nhân loại được tạo ra bởi khoa học hiện đại, ngay cả những điều mà họ nhìn thấy tận mắt mà còn coi chúng như thể không tồn tại, thế thì làm sao họ có thể hiểu được chân lý của “tình yêu trí tuệ”?

Trong cuốn “Siêu hình học” (Metaphysica), Aristotle đã giải thích sự hiểu biết về nước từ góc độ Thần thoại: “Một số người nghĩ rằng, ngay cả những người cổ đại cách xa thời nay, trong mô tả ban đầu của họ về Thần cũng có những quan điểm tương tự về tự nhiên. Chẳng hạn, họ cho rằng Thần Oceanus (vị Thần cai quản đại dương sông ngòi bao quanh tất cả các vùng đất trên thế giới) và Thần Thetis (nữ thần biển cả ban đầu) là cha mẹ sáng tạo ra thế giới. Trong các câu chuyện, các vị Thần thường chỉ vào nước và thề, và gọi nó là “Styx” (Styx, con gái của hai vị Thần nói trên). Những sự vật lâu đời nhất cũng được kính trọng nhất, và sự vật mà người ta thề hẳn phải là sự vật thần thánh, thiêng liêng nhất”.

Đoạn văn này của Aristotle tham chiếu phả hệ Thần thoại phiên bản của Homer. Styx là con gái của hai vị Thần nguyên thủy Hy Lạp Oceanus và Thetis, cai quản sông Styx. Mặc dù thuộc về các Thần Titan cổ đại, Styx đã đứng về phía Zeus trong cuộc chiến Titan (Titanomachy). Sau chiến thắng, tên của cô đã trở thành biểu tượng của sự linh thiêng và danh dự trong các vị Thần trên đỉnh Olympus, vì vậy sau này các vị Thần lấy tên Styx để thề. Theo Homer, lời thề nhân danh Styx là lời thề thiêng liêng nhất, và bất kỳ vị Thần nào làm trái lời thề này sẽ bị trừng phạt.

Trong quan niệm của con người ngày nay, vật chất chỉ là bản thân vật chất. Tuy nhiên, nếu dùng quan niệm hiện đại này để nghiên cứu các tác phẩm của người xưa thì sẽ hiểu sai hoàn toàn về vật chất được đề cập trong triết học Hy Lạp cổ đại. Đặc biệt bắt đầu từ thời Xô viết, một số triết gia Hy Lạp cổ đại bị gán cho là “chủ nghĩa duy vật” một cách có chủ ý. Họ đều là người tín Thần, các vật chất và nguyên tố mà họ nói đến đều liên quan mật thiết đến các vị Thần, tuyệt đối không thể tách chúng ra thành hai thứ để xem xét độc lập được.

Trong đó quan điểm triết học tiêu biểu nhất là thuyết bốn nguyên tố của Hy Lạp cổ đại cách đây khoảng 2.500 năm, tức là bốn nguyên tố cơ bản “đất, nước, lửa và khí” cấu thành thế giới. Nhiều người cho rằng đây là “chủ nghĩa duy vật”. Nếu đúng như vậy, cùng thời đó ở Ấn Độ cổ Đức Phật Thích Ca cũng nói về “tứ đại” gồm “đất, nước, lửa và gió”, chúng có giống nhau không? Nó cũng được coi là “chủ nghĩa duy vật” sao?

Ở Hy Lạp cổ đại, một số lý thuyết về nguyên tố đã tồn tại trong lĩnh vực tôn giáo hoặc tu hành học thuật từ rất lâu (người xưa không có khái niệm học thuật hiện đại, và việc nghiên cứu học thuật và khám phá chân lý được coi là việc tu hành đến gần với Thần linh). Theo ghi chép lịch sử triết học thì lý thuyết bốn nguyên tố này là của nhà triết học và thầy chiêm tinh Hy Lạp cổ đại Empedocles vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, lý thuyết này bắt nguồn từ thần học Hy Lạp cổ đại. Tóm lại, nó xuất phát từ bốn vị Thần chính: Thần Zeus, vị Thần Vương là hiện thân của nguyên tố “Lửa”, vì ông phụ trách bầu trời, ánh sáng và sấm sét. Thần Hera, vị Thần Hoàng Hậu là mẹ của sự sống, nghĩa là nguyên tố “Khí”. Thần Biển Poseidon, người anh em của vị Thần Vương, tượng trưng cho nguyên tố “Nước”. Còn người anh em khác của Thần Zeus là Diêm Vương Hades cai quản cõi âm, và cũng là người thống trị các khoáng chất dưới lòng đất, vì vậy tương ứng với nguyên tố “Đất”.

Có thể thấy, các sự vật khác nhau đều được cấu tạo bởi các yếu tố vật chất này, và ở các mức độ khác nhau, có các yếu tố Thần linh khác nhau tham gia vào. Lấy một ví dụ đơn giản với các vật liệu mỹ thuật quen thuộc, chẳng hạn như bột màu. Các loại bột màu ban đầu về cơ bản có nguồn gốc từ khoáng chất dưới lòng đất và chứa các nguyên tố Đất. Trong quá trình xay nghiền bột này từ nguyên liệu thô, nó cần được nước rửa sạch, làm sạch bằng phương pháp lỏng, thêm chất kết dính v.v., và sẽ chứa nguyên tố Nước. Khi sản xuất bột màu, cần phải trải qua quy trình nung và làm khô trong khí, nên có yếu tố Lửa và yếu tố Khí tham gia. Do đó, bột màu bao gồm có Đất, Nước, Lửa và Khí tạo thành. Và vì có Thần đứng sau những yếu tố này, nên chất liệu màu có đặc tính liên hệ với Thần ở phía sau. Thế nên người xưa cho rằng những đồ vật do Thần làm ra hoặc do Thần dạy con người tạo ra, thì cần phải sử dụng cho đúng đắn, chẳng hạn như dùng để vẽ Thần linh, dùng các bức tranh để ca ngợi công đức của Thần, đều có thể phát huy thần tính trong đặc tính của cả chất liệu màu này.

Ảnh minh hoạ: Sơ đồ của bốn nguyên tố trong không gian vũ trụ vĩ mô do học giả người Anh Robert Fludd vẽ vào năm 1617. Hình vẽ này lấy Trái Đất làm trung tâm, từ trong ra đến ngoài lần lượt là phạm vi của bốn nguyên tố trong vũ trụ: Đất (Terra, tức là Trái Đất nằm ở vị trí thấp nhất trong hình), Nước (Aqua), Khí (Aer) và Lửa (Ignis). [Lưu ý: thứ tự của bốn nguyên tố có thể khác nhau theo các lý thuyết và cấp độ khác nhau]. Vũ trụ quan về các nguyên tố cổ đại đã thịnh hành trong lý luận về âm nhạc và nghệ thuật cổ đại trong thời gian dài. Bức tranh này toát lên sự hài hòa của âm nhạc, mô tả rằng âm nhạc có thể thể hiện thiên nhiên và vũ trụ thông qua cấu trúc âm thanh riêng biệt của bốn nguyên tố.

Lý luận bốn nguyên tố đã tồn tại ít nhất 2.000 năm trong quá khứ. Ngay cả trong thời kỳ Phục hưng, lý luận hội hoạ của Leonardo da Vinci cũng dựa trên lý thuyết về màu sắc trên cơ sở bốn nguyên tố, so với lý thuyết màu sắc của Michel-Eugène Chevreul hay Jean-Georges Vibert, vốn nổi tiếng trong giới mỹ thuật phương Tây cận đại, rõ ràng nó còn thuần phác cổ xưa hơn nhiều.

Ghi chú:

Vũ trụ quan: Sự xem xét, suy nghĩ về trời đất, vạn vật và những sự biến đổi của trời đất, vạn vật, hoặc nói cách khác, vũ trụ quan là quan niệm của chúng ta về những định luật diễn hóa của vũ trụ, vạn vật.

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/26806

The post Thần thoại hỗn loạn và tư tưởng triết học truyền thống (Phần 5) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thần thoại hỗn loạn và tư tưởng triết học truyền thống (Phần 4)https://chanhkien.org/2021/08/than-thoai-hon-loan-va-tu-tuong-triet-hoc-truyen-thong-phan-4.htmlMon, 16 Aug 2021 14:10:21 +0000https://chanhkien.org/?p=27773Tác giả: Arnaud H [ChanhKien.org] Tôn giáo và triết học Các tôn giáo Hy Lạp cổ đại có liên quan mật thiết đến Thần thoại, nhưng chúng không hoàn toàn giống nhau, bởi vì các tôn giáo thường chọn những phần có ý nghĩa giáo huấn trong Thần thoại và văn hóa để giảng dạy […]

The post Thần thoại hỗn loạn và tư tưởng triết học truyền thống (Phần 4) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Arnaud H

[ChanhKien.org]

Tôn giáo và triết học

Các tôn giáo Hy Lạp cổ đại có liên quan mật thiết đến Thần thoại, nhưng chúng không hoàn toàn giống nhau, bởi vì các tôn giáo thường chọn những phần có ý nghĩa giáo huấn trong Thần thoại và văn hóa để giảng dạy cho con người. Nói một cách chính xác, con người thời đó đều tin vào Thần nên không có thuật ngữ “tôn giáo”, cũng không có khái niệm của người hiện đại đối với tôn giáo. Tuy nhiên, để tiện cho việc diễn đạt về mặt ngôn ngữ, giới học thuật đã liên tục dùng từ “tôn giáo” này.

Đôi khi, chúng ta có thể bắt gặp một thuật ngữ khác, đó là “triết học”. Tác giả đã đề cập trong cuốn “Từ một giai đoạn lịch sử nghệ thuật thấy được sự thay đổi của tư tưởng nhân loại – Phần 2” rằng, triết học Hy Lạp cổ đại đương thời không phải là kiến ​​thức như ngày nay mà mọi người nghĩ, thực tế nó giống như một số môn tu luyện và phương pháp tu luyện được lưu truyền lại. Cũng có một số học giả hiện đại so sánh với các phương pháp tu hành mà Đức Phật Thích Ca và Lão Tử đã dạy. Xét theo ý nghĩa này, không có nhiều sự khác biệt giữa triết học và tôn giáo cổ đại, và quan điểm này cũng có giá trị về mặt học thuật.

Lấy tư tưởng Pythagoras làm ví dụ đơn giản. Bởi vì, hiện nay người ta xếp Pythagoras là một nhà triết học, nhiều người cho rằng tư tưởng Pythagoras là một trường phái triết học về học thuật. Nhưng vì lý luận của Pythagoras có chứa đựng rất nhiều quan điểm tôn giáo và thần học, nên khi giới học thuật nói về tôn giáo Hy Lạp, trường phái triết học này lại được quy về một loại tôn giáo.

Thần thoại và truyền thuyết Hy Lạp thường tập trung vào kể chuyện và giải trí, vì những kẻ phàm phu tục tử thiếu trí tuệ quen tạo ra các câu chuyện theo logic và chấp trước của con người để đọc giả thấy hứng thú. Trong cốt truyện, các nhà văn đã nhân tính hóa, nhân vị hóa, và thậm chí là tà ác hóa các vị Thần. Vào thời đó, một số triết gia và một số giáo phái ở thời kỳ khá cường thịnh không quá quan tâm đến việc bịa đặt vô căn cứ này. Lối vào đền thờ Apollo ở Delphi được khắc ba câu châm ngôn nổi tiếng: “Hãy nhận thức chính mình”, “Bất kỳ việc gì cũng không quá mức” và “Thề thốt bừa bãi thì tai họa sẽ ập đến”, điều này cho thấy tôn giáo và Thần thoại đều có lời dạy khác nhau. Tất nhiên, cũng có nhiều tác động tiêu cực, chẳng hạn như nghi lễ huyền bí của người Eleusis yêu cầu kể những câu chuyện cười khiêu dâm, tại một địa điểm nhất định yêu cầu những người tham gia nghi lễ phải nói với nhau những lời lẽ thô tục, hạ lưu v.v. Đặc biệt là thời kỳ sau này, khi đạo đức dân chúng băng hoại, các ngành các nghề đều hỗn loạn, chẳng hạn như tình trạng dâm loạn tràn lan ở đền thờ Thần Tình Yêu được ghi lại trong lịch sử, vấn đề này sẽ không nói nhiều nữa.

Tranh phục dựng đền thờ Thần Apollo ở Delphi dựa trên các di tích được kiến trúc sư người Pháp Joseph Albert Tournaire vẽ vào năm 1894. (Hình ảnh sưu tầm trên mạng internet)

Một đặc điểm khác của tôn giáo Hy Lạp cổ đại là rất coi trọng sự khải thị từ những lời dạy của Thần (Oracle). Bất kể họ là người cai trị hay người bình thường, khi họ gặp những sự kiện quan trọng hoặc những vấn đề khó khăn, họ sẽ đến nơi Thánh địa (thường là đến các ngôi đền của các vị Thần khác nhau) để tìm kiếm sự khải thị, và nếu vị Thần chấp nhận lời cầu nguyện thì sẽ giáng lời Thần dụ để giải đáp. Tế tư hoặc người chuyên trách trong ngôi đền sẽ chuyển dịch lại lời Thần dụ thành thể văn vần, thơ ca để nói cho người đi cầu nguyện. Theo ghi chép, lời Thần dụ của Thần Apollo ở đền Delphi được chứng minh là linh nghiệm và chính xác nhất, vì vậy đền Delphi đã trở thành một trung tâm tín ngưỡng cực kỳ quan trọng của Hy Lạp cổ đại kể từ thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên.

Khi Thánh Socrates còn sống, lời Thần dụ ở đền Delphi đã nói rõ: “Không có người nào có trí huệ hơn Socrates”. Tuy nhiên, sự đánh giá phi phàm của lời Thần dụ đã làm dấy lên rất nhiều sự ghen tị. Vì vậy, một loạt các sự kiện dẫn đến việc Socrates bị cáo buộc một cách vô căn cứ rằng không tôn trọng các vị Thần và mê hoặc những người trẻ tuổi, và bị kết án tử hình sau cuộc bỏ phiếu của một bồi thẩm đoàn gồm 500 người.

Ảnh minh hoạ: Tượng Socrates trước Học viện Athens. Tác phẩm của Leonidas Drosis và Attilio Picarelli. Trong thời đại mà tất cả mọi người đều tin vào Thần, các thành viên của bồi thẩm đoàn và những người ghen ghét, căm ghét Socrates một cách vô lý cũng đều tin vào sự tồn tại của các vị Thần, nhưng điều này không thay đổi được sự thật rằng họ đã giết Thánh nhân dưới chiêu bài kính Thần.

Chuyện các Thánh đồ bị trừng phạt vì ham muốn ích kỷ không phải là chuyện lạ. Câu chuyện nổi tiếng nhất phương Tây là câu chuyện vua Herod tàn sát trẻ sơ sinh được ghi trong Kinh Thánh: Vua Herod nghe tin xuất hiện thiên tượng vị vua mới của người Do Thái giáng sinh, thì coi đó là mối đe dọa và phái người đi tìm. Tuy nhiên, những người được sai đi tìm đó đã được các Thiên sứ nhắc nhở, vì vậy họ đã bỏ trốn mà không quay lại bẩm báo với vua Herod. Vua Herod không tìm thấy Chúa Giê-su nên đã ra lệnh thảm sát tất cả trẻ sơ sinh nhỏ hơn hai tuổi tại Bethlehem, quê hương của Chúa Giê-su.

Những ví dụ như vậy không thiếu trong thời cổ đại và hiện đại, cả ở phương Đông lẫn phương Tây. Những người nắm quyền vì họ tin rằng có một vị vua được sinh ra trên thế gian liền tàn sát bừa bãi, hoặc thông qua giải nghĩa những lời tiên tri để xem ai là hoàng đế trong tương lai mà giết chóc. Trong lịch sử, trong các chức sắc tôn giáo như các giám mục, sư trụ trì và các linh mục, đều không thiếu những kẻ tham lam và bại hoại, mà rất nhiều người trong số họ thực sự tin vào sự tồn tại của các vị Thần. Ở Trung Quốc mặc dù tuyên truyền học thuyết vô thần, nhưng lại có nhiều quan chức tham nhũng tin vào phong thủy và những thứ khác được coi là “mê tín”, tuy nhiên tin vào những điều này không có nghĩa là họ sẽ không tham nhũng, hủ bại.

Nhiều ví dụ đều chỉ ra một vấn đề: nếu một người không nỗ lực để cải thiện đạo đức và tâm tính của mình, cho dù họ tin vào sự tồn tại của Thần, thì cũng không có nghĩa là họ thành người có đạo đức cao thượng. Đạo đức không phải là một khái niệm có thể được đánh giá đơn giản bằng cách tin vào sự tồn tại hay không tồn tại của thứ gì đó, mà nó liên quan đến các quy tắc ứng xử và chuẩn mực của con người, cũng như tổng thể các phương diện đối nhân xử thế xuyên suốt của con người như phẩm hạnh, quan niệm, tâm trạng…. Nói đúng ra, nếu một người tin vào sự tồn tại của Thần mà bỏ qua những yêu cầu của Thần đối với đạo đức, phẩm chất của con người, thì loại “niềm tin” này giống như thật mà thành giả, thậm chí là biến dị, không phải là niềm tin chân chính.

Các nhà hiền triết cổ đại đều là những người coi trọng đạo đức và tu dưỡng tâm tính, điều này khác biệt rất lớn với việc con người ngày nay coi kiến ​​thức và kỹ thuật bề ngoài là thước đo giá trị. Chẳng hạn như Thales (Thales of Miletus) (khoảng 624 TCN-548/545 TCN), một trong “bảy nhà hiền triết của Hy Lạp cổ đại”, người hiện đại chỉ đánh giá ông là người thông thạo về thiên văn, địa lý và đi tiên phong trong trường phái Milesia, ông được coi là nhà triết học đầu tiên để lại tên tuổi trong lịch sử phương Tây. Nhưng thực ra, những gì ông làm là để giáo hóa đạo đức công chúng. Những thứ mà ông nắm bắt được không phải là kiến ​​thức khoa học, mà nói là siêu năng lực thì đúng hơn.

Theo cuốn sách “Lịch sử” (Histories) do Herodotus biên soạn vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, Đại hiền triết Thales đã dự đoán chính xác nhật thực toàn phần vào ngày 28 tháng 5 năm 585 TCN. Trong cuốn sách “Politics” (Chính trị) của Aristotle ​​kể về câu chuyện Thales dự đoán một vụ thu hoạch ô liu bội thu vào mùa đông năm tới. Người hiện đại đã quen gán cho những dự đoán chính xác này là do kiến ​​thức khoa học phong phú của Thales, vốn đã được tính toán và phán đoán cẩn thận, thậm chí người hiện đại còn gọi ông là “cha đẻ của khoa học”. Nhưng tại sao họ không nghĩ, làm thế nào một người cổ đại có thể làm được điều này vào 2600 năm trước khi mà không có sự hỗ trợ về mặt thiết bị nào và khoa học thời đó cực kỳ kém phát triển?

Thay vì khiên cưỡng gán ghép những việc làm này do công lao của khoa học, tốt hơn hết nên thẳng thắn thừa nhận chúng có mang đặc trưng tiên tri, trên thực tế, đó cũng là để giáo hóa nhân tâm. Lấy ví dụ về một câu chuyện được Aristotle kể: Công việc của nhà hiền triết vĩ đại Thales ở thế tục là làm kinh doanh, nhưng vì ông đã đầu tư nhiều tiền bạc và thời gian vào việc tìm kiếm chân lý và nghiên cứu triết học nên ông ngày càng nghèo hơn, dẫn đến nhiều người chỉ trích ông và cho rằng triết học là vô ích. Để đảo ngược nhận thức của mọi người, Thales đã dự đoán một vụ thu hoạch ô liu bội thu vào mùa đông năm tới, đồng thời độc quyền cho thuê các xưởng ép dầu ở Miletus và Chios với chi phí rất thấp. Bởi vì, không có sự cạnh tranh, ông đã kiếm được rất nhiều lợi nhuận từ việc cho thuê xưởng dầu trong năm thứ hai. Aristotle nói rằng, Thales đã chứng minh “chỉ cần các triết gia muốn thì rất dễ dàng trở nên giàu có, nhưng đây không phải là mục tiêu theo đuổi của họ”.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/268063

The post Thần thoại hỗn loạn và tư tưởng triết học truyền thống (Phần 4) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thần thoại hỗn loạn và tư tưởng triết học truyền thống (Phần 3)https://chanhkien.org/2021/08/than-thoai-hon-loan-va-tu-tuong-triet-hoc-truyen-thong-phan-3.htmlFri, 13 Aug 2021 13:25:00 +0000https://chanhkien.org/?p=27766Tác giả: Arnaud H [ChanhKien.org] Đương nhiên, ở đây viết rất đơn giản, nhưng trên thực tế tiến trình lịch sử cụ thể vô cùng phức tạp. Chỉ dựa trên danh sách các cuộc chiến lớn nhỏ đủ kiểu, liên tiếp không ngớt, thì cũng đủ làm người ta hoa cả mắt. Bất kể từ […]

The post Thần thoại hỗn loạn và tư tưởng triết học truyền thống (Phần 3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Arnaud H

[ChanhKien.org]

Đương nhiên, ở đây viết rất đơn giản, nhưng trên thực tế tiến trình lịch sử cụ thể vô cùng phức tạp. Chỉ dựa trên danh sách các cuộc chiến lớn nhỏ đủ kiểu, liên tiếp không ngớt, thì cũng đủ làm người ta hoa cả mắt. Bất kể từ vị trí địa lý, hình thái xã hội, cơ cấu kinh tế hay rất nhiều phương diện khác, đều có thể phân tích được những lý do bên ngoài dẫn đến sự suy tàn của Hy Lạp cổ đại, nhưng tất cả đều gắn liền với lòng người. Trong lịch sử, có rất nhiều ví dụ về lòng người bị ma biến, dẫn đến phán đoán và quyết sách sai lầm, cuối cùng dẫn đến hủy diệt. Vì vậy, người Hy Lạp cổ đại tưởng chừng như bị người La Mã cổ đại đánh bại, nhưng đằng sau biểu hiện bề ngoài đó, nó cũng phản ánh Thiên ý: sự sa đọa dẫn đến diệt vong.

Thần thoại La Mã không có nhiều câu chuyện và truyền thuyết kỳ lạ như thần thoại Hy Lạp, đặc biệt là ở thời kỳ đầu. Trong những ngày đầu của nền văn minh La Mã cổ đại, các vị Thần nguyên thủy không có trải nghiệm cá nhân, không có hôn nhân và con cái. Họ không giống các vị Thần Hy Lạp chút nào, các vị Thần La Mã thời kỳ đầu chỉ thể hiện Thần tính trong trạng thái tĩnh, mà không có hành vi hay tính cách được nhân cách hóa như trong thần thoại Hy Lạp, bởi vậy không có nhiều ghi chép về hoạt động của họ, điều này khiến người thời ngày nay hiểu biết tương đối ít về thần thoại La Mã.

Khi người La Mã thôn tính đất đai của Hy Lạp cổ đại, họ đã tiếp thu nền văn minh do Hy Lạp để lại, vì vậy, trong quá trình dần dần hội nhập văn hóa, người ta quen dùng các vị Thần La Mã đối ứng với các vị Thần Hy Lạp, do đó các vị Thần Hy Lạp sau này và các vị Thần La Mã lẫn lộn với nhau, nên có tình trạng cùng một vị Thần nhưng tên lại được phiên dịch ra thành hai tên khác nhau.

Với sự phát triển của lịch sử và sự hội nhập không ngừng của các dân tộc và văn hóa, người La Mã cổ đại ngày càng chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi văn hóa Hy Lạp, và dần dần họ biên tạo ra những câu chuyện… Theo quy luật “thành, trụ, hoại, diệt”, La Mã cổ đại cũng tất yếu đi vào suy vong. Khi những tư tưởng bại hoại trở thành phong tục dân gian, hoặc thậm chí là các hình thức tôn giáo, thì sức tàn phá đạo đức của chúng thật đáng kinh ngạc. Ví dụ, Lễ Ma men “Bacchanalia” được truyền từ Hy Lạp đến La Mã, đã nhanh chóng biến thành một lễ hội ma quỷ với chủ đạo là uống rượu say và loạn dâm, vậy mà lễ hội này lại được mang danh nghĩa “thần thánh”. Cho dù sau đó nó đã bị cấm bởi các quan chức La Mã vào năm 186 trước Công nguyên, nhưng nó vẫn hoạt động bí mật trong một thời gian dài.

Tuy nhiên, cho dù cái tên nghe mỹ miều đến đâu, ngay cả mang danh nghĩa của “Thần”, thì những thứ hủ bại sẽ không tồn tại được lâu, thậm chí sẽ bị Trời giáng tai họa. Bài viết “Diễn giải mỹ thuật trong hai trăm năm sau thời kỳ Phục hưng” đã trích dẫn các ví dụ về sự hủy diệt hoàn toàn của Pompeii do băng hoại đạo đức, vì vậy chúng tôi sẽ không nhắc lại chúng trong bài viết này.

Mặc dù nội dung ở đây nói về sự suy tàn của văn hóa, nhưng trên thực tế, văn hóa của nhân loại là có tồn tại âm và dương, có chính có phụ. Phần sau chúng ta sẽ nói về một số phần tích cực và tươi sáng của văn hóa Hy Lạp cổ đại, tuy nhiên bản thân văn hóa nhân loại là sự pha trộn giữa tích cực và tiêu cực, khiến cho các thế hệ sau khó phân biệt giữa thiện và ác.

Nhiều bộ phận trong nền văn hóa Hy Lạp bị biến chất và đã thực sự gây ảnh hưởng tiêu cực tới con người. Hy Lạp cổ đại thời kỳ cuối đã bị huỷ diệt do đạo đức bại hoại, nhưng việc các quốc gia của nền văn minh Hy Lạp cổ đại rời khỏi vũ đài lịch sử không có nghĩa là nền văn hóa đó bị tuyệt diệt. Sức sống của nó vẫn ngoan cường như cỏ dại, vẫn khởi tác dụng trong lịch sử nhân loại, thậm chí kéo dài đến ngày nay.

Có thể thấy trong lịch sử, những tư tưởng mà người La Mã cổ đại coi đó là tư tưởng của kẻ thù và muốn tiêu diệt nó, nhưng sau khi đánh bại Hy Lạp, họ dần dần chấp nhận nó vì sự phong phú đa dạng của nó. Cơ Đốc giáo cổ đại coi tư tưởng Hy Lạp là tà giáo, dị giáo, và muốn tiêu diệt nó, nhưng một số nội dung tích cực trong văn hóa Hy Lạp cổ đại được gắn với các lý thuyết tôn giáo, thậm chí trở thành một phần của Thần học. Sau Cải cách tôn giáo, nhiều giáo phái nhắc lại rằng các giáo lý nên được thanh lọc, và những thứ không có trong Cơ Đốc giáo nên bị loại bỏ. Nhưng nó đã kết hợp chặt chẽ với nhau và liên quan chặt chẽ đến văn hóa, nghệ thuật, triết học, khoa học, chính trị và nhiều phạm trù khác. Cho đến ngày nay, nó vẫn có mối liên hệ mật thiết với hình thái chính trị, hệ thống kinh tế, khái niệm nhân văn và nền tảng văn minh và những sự việc cụ thể khác không tiện nói thêm. Ngay cả những người ủng hộ đồng tính luyến ái, giải phóng tình dục, loạn luân và các lối sống khác trong xã hội cũng có thể truy ngược lại thời Hy Lạp, họ cho rằng đó là “truyền thống” được lưu truyền từ thời cổ đại, và nhiều quốc gia đã thông qua luật pháp để bảo vệ nó…

Được tài trợ bởi Giáo hoàng Pius PP. VI, bức tượng bán thân của thần Zeus được khai quật ở Otricoli vào năm 1775. Trong nhiều thế kỷ, Giáo hội Công giáo đã thu thập được một số lượng lớn các kho tàng di tích văn hóa ngoại giáo, tượng bán thân này hiện nằm trong Bảo tàng Vatican. (Hình ảnh sưu tầm trên mạng internet)

Trên thực tế, nếu xem xét kỹ những tác phẩm kinh điển được truyền lại từ thời Hy Lạp cổ đại cho đến nay, chúng ta sẽ thấy có nhiều học giả và triết gia Hy Lạp cổ đại rất bất bình với những câu chuyện thần thoại hỗn loạn thời bấy giờ. Ví dụ, Xenophanes, một nhà triết học và nhà thơ nổi tiếng vào thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên, rất phản cảm vớt việc các nhà thơ và nhà viết kịch chuyển thể thần thoại, ông cho rằng họ đang báng bổ các vị Thần và bịa ra những câu chuyện dối trá xúc phạm các vị Thần. Một thế kỷ sau vào thời Thánh Socrates, qua cuốn “Cộng hoà” (Republic) và các tác phẩm khác do Plato học trò của ông để lại, có thể thấy họ có thái độ phê bình khá kín đáo đối với các tác phẩm thơ của Homer.

Đương nhiên, cần nói rõ rằng bài viết này chỉ mô tả lại diễn biến bề mặt văn hóa từ lý luận thông thường, nhưng thực tế bất cứ sự việc bề mặt nào cũng có nguồn gốc cơ bản và nguyên nhân sâu xa. Vì vậy, về bộ mặt thật của lịch sử, bao gồm chi tiết cụ thể của những nhân vật lịch sử thời kỳ nhân – Thần đồng tại, một số điều khó có thể giải thích đầy đủ trong thời kỳ đa văn hóa và phức tạp này, và một số điều không tiện để đưa ra nhận xét tùy tiện vào lúc này. Có lẽ phải đến tương lai khi màn sương mù tan hết thì sự thật của lịch sử mới thực sự được phơi bày trước nhân loại.

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/268063

The post Thần thoại hỗn loạn và tư tưởng triết học truyền thống (Phần 3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thần thoại hỗn loạn và tư tưởng triết học truyền thống (Phần 2)https://chanhkien.org/2021/07/than-thoai-hon-loan-va-tu-tuong-triet-hoc-truyen-thong-phan-2.htmlSat, 24 Jul 2021 11:26:25 +0000https://chanhkien.org/?p=27676Tác giả: Arnaud H [ChanhKien.org] Ngày nay, người ta biết được về thần thoại Hy Lạp chủ yếu qua các sử thi do Homer và Hesiod truyền lại. Chúng là hai hệ thống tương đối dung hợp, thống nhất trong thần thoại Hy Lạp. Kỳ thực, có rất nhiều nội dung mâu thuẫn với nhau, […]

The post Thần thoại hỗn loạn và tư tưởng triết học truyền thống (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Arnaud H

[ChanhKien.org]

Ngày nay, người ta biết được về thần thoại Hy Lạp chủ yếu qua các sử thi do Homer và Hesiod truyền lại. Chúng là hai hệ thống tương đối dung hợp, thống nhất trong thần thoại Hy Lạp. Kỳ thực, có rất nhiều nội dung mâu thuẫn với nhau, bởi vì mỗi nguồn khác nhau tương đương với một phiên bản riêng biệt. Từ góc độ học thuật, ngoài hai phiên bản nói trên về lịch sử Hy Lạp cổ đại thì có những tác giả như nhà viết kịch Sophocles, nhà thơ trữ tình Pindar, nhà viết kịch Aeschylus… cũng sáng tác thêm một số đề tài, điều này làm cho nguyên tác càng thêm lệch lạc.

Ngoài ra, một số nhóm không thuộc tín ngưỡng chính thống của Olympus ở Hy Lạp cổ đại, như tôn giáo Orphism, nghi lễ Eleusinian và các giáo phái có ảnh hưởng khác, cũng do giáo lý khác nhau mà các phiên bản thần thoại khác nhau đã được hình thành trong một phạm vi nhất định, tất cả đều đã làm cho hệ thống thần thoại Hy Lạp càng trở nên phức tạp.

Có lẽ nhiều độc giả phương Đông không biết nhiều về Thần thoại phương Tây, vì vậy ở đây chỉ lấy hai vị Thần quen thuộc nhất là Athena và Apollo làm ví dụ.

Nhiều người biết rằng, Athena thường được gọi là “Pallas Athena”. Có một phiên bản được lưu truyền rộng rãi nói rằng Athena đã vô tình giết chết bạn thân của mình là tiên nữ Pallas khi đang luyện tập giao đấu với nhau. Athena rất buồn, để tưởng nhớ người bạn đã khuất, cô đã đổi tên thành “Pallas Athena”.

Bức tượng Pallas Athene trước toà nhà Quốc hội Áo, được điêu khắc năm 1893-1902. Bức tượng thể hiện tư thế của Athena đội mũ chiến đấu, mặc áo giáp, một tay cầm giáo, tay kia nâng nữ Thần chiến thắng. (Hình ảnh sưu tầm trên mạng internet)

Nhưng ở một phiên bản khác, Pallas là một người đàn ông khổng lồ (Giant), người bị Athena giết trong cuộc chiến Gigantomachy (cuộc chiến giữa các vị thần và những người khổng lồ vì họ nổi loạn chống lại sự thống trị của Thần Zeus).

Cũng có phiên bản nói rằng Athena đã giết một Titan, cũng được gọi là Pallas (Titan là một vị Thần cổ đại trong Thần thoại Hy Lạp) và không liên quan gì tới cuộc chiến Gigantomachy.

Tất nhiên, trong thần thoại Hy Lạp còn có nhiều cách nói hơn. Theo truyền thuyết, Athena ban đầu được gọi là Pallas, do sự tôn thờ nữ Thần rộng rãi của người Athen nên tên của nàng đã trở thành “Pallas Athena”, có nghĩa là “Pallas của Athens”, như vậy là không liên quan gì đến người khác…

Có quá nhiều phiên bản phức tạp khiến người ta không biết tin vào đâu, cái tên “Phoebus Apollo” của vị Thần Âm nhạc và thơ ca, Thần Ánh sáng, Thần Mặt trời cũng bị lẫn lộn. Và trong thần thoại Hy Lạp, ngay cả danh tính của Thần Mặt trời cũng có nhiều nhân vật khác nhau.

Tượng Thần Apollo ngồi tay cầm đàn lia, làm bằng đá porphyry và đá cẩm thạch, được làm vào thế kỷ thứ hai sau Công nguyên, hiện được lưu giữ trong Bảo tàng Khảo cổ học Quốc gia Naples. (Hình ảnh sưu tầm trên mạng internet)

Vào thời của mười hai Titan, Hyperion là con trai của nữ Thần Trái đất Gaia và Thần Bầu trời Uranus, Hyperion vốn là vị Thần cai quản ánh sáng và mặt trời, nhưng khi con trai của ông là Helios xuất hiện trong thần thoại, mọi người bắt đầu nhầm lẫn hai người này là một. Bởi vì hằng ngày Helios lái xe chở mặt trời ngang qua bầu trời mang lại ánh sáng cho thế giới, ông cũng là Thần Mặt trời. Theo thời gian, nhiều phiên bản thần thoại Hy Lạp khác nhau chồng chéo lên nhau, và nhiều người đã nhầm lẫn Thần Helios với Thần Apollo con trai của Thần Zeus…

Những phiên bản thần thoại hỗn loạn này nếu chỉ giới hạn ở việc không biết ai là ai, thì sẽ không gây tổn hại nghiêm trọng đến đạo đức con người. Nhưng khi giới văn học và dân chúng tự do sáng tác thần thoại theo sở thích cá nhân của mình, như vậy văn hóa sẽ bị đẩy xuống vực thẳm nguy hiểm.

Cuối thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, các nhân vật khác nhau trong các phiên bản khác nhau của thần thoại Hy Lạp dần dần chồng chéo thành một thứ hỗn loạn và phức tạp, mối liên hệ và tương tác giữa các nhân vật trong câu chuyện trở nên gần gũi hơn. Trong số đó, có vô số câu chuyện thần thoại hoang đường về mối quan hệ tương tác giữa nam Thần và nam anh hùng, điều này đã dần dần thay đổi ý nghĩa của những câu chuyện vốn thể hiện tình bạn thuần túy và tôn nghiêm. Sự băng hoại đạo đức và việc mọi người theo đuổi sự kích thích tinh thần bệnh hoạn dẫn đến sự phát triển của đồng tính luyến ái nam.

Người viết bài này cho rằng, đặc tính này cũng liên quan đến thi đấu Olympic cổ đại. Vào thời điểm đó, chỉ có nam giới mới được phép tham gia Thế vận hội Olympic, các vận động viên bị cấm mặc quần áo trong luật thi đấu, và công chúng được khuyến khích đánh giá vẻ đẹp của cơ thể nam giới. Là một trong những nghi lễ chính của các nghi lễ Hy Lạp cổ đại, Thế vận hội Olympic đã có sức ảnh hưởng rất lớn trong dân chúng, vì vậy, rất nhiều người dân đã dần quen với việc chiêm ngưỡng vẻ đẹp khỏa thân của nam giới, điều này tạo môi trường cho sự phát triển đồng tính luyến ái nam. Trong xã hội đương thời cũng xuất hiện hiện tượng đồng tính luyến ái nữ, nhưng do địa vị xã hội của phụ nữ thời Hy Lạp cổ đại khá thấp, nên đồng tính luyến ái nữ không dấy lên thành làn sóng lớn.

Khi số lượng người đồng tính nam trong xã hội đạt đến một tỷ lệ nhất định, các nhà văn cũng khai thác phóng đại đề tài này để thu hút độc giả. Từ các tác phẩm văn học và nghệ thuật ở thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, chúng ta có thể thấy rằng nhiều nam Thần có ít nhất một chàng trai làm bạn đồng hành, tương tự nhiều anh hùng trong các câu chuyện cũng có bạn nam đi cùng.

Tình trạng này tưởng chừng vô lý nhưng lại có vẻ quen thuộc với một số hiện tượng xã hội ngày nay. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, xã hội phương Tây đã khá cởi mở, nhưng khi nói về đồng tính người ta sẽ nói đó là hành vi trái đạo đức. Ngày nay, hàng chục năm sau, nhiều quốc gia đã đua nhau tuyên bố “hôn nhân đồng tính” là hợp pháp. Bản thân các chính trị gia cho dù cũng ghét đồng tính luyến ái, nhưng do dư luận và áp lực chính trị, họ phải công khai ủng hộ “hôn nhân đồng giới”. Để thu hút lượng người xem, những người trong giới văn học nghệ thuật đã làm giống như đồng nghiệp của họ ở thời Hy Lạp cổ đại, họ tuyên truyền bừa bãi những thứ này trong các lĩnh vực nghệ thuật, điện ảnh, văn học…

So sánh hai trào lưu này, có thể thấy rằng việc thần thoại Hy Lạp bị xuyên tạc kỳ thực chính là tư tưởng của “phái hiện đại” áp đặt cho thời cổ đại, hoàn toàn không phải là tư tưởng truyền thống chân chính.

Việc duy trì nền văn minh của nhân loại cần luôn tuân theo những quy tắc đạo đức nhất định, nếu không sẽ bị hủy diệt. Đây là ý chí của Thần, là quy luật của lịch sử, là tất yếu của xã hội, thực ra cũng là điều truy cầu từ sâu thẳm tâm linh con người. Những “nền văn hóa” chứa đầy nội dung bại hoại, suy đồi đó chỉ kích thích con người trong một thời gian ngắn, và chúng sẽ không tồn tại lâu dài. Do đó, Hy Lạp cổ đại bước vào thời kỳ hoàng kim vào thế kỷ thứ 5 và thứ 6 trước Công nguyên, nhưng nó chỉ duy trì được sự thịnh vượng của mình trong hơn 100 năm, rồi dần dần suy tàn dưới sự tấn công của nhiều tư tưởng tiêu cực khác nhau.

Từ biểu hiện bên ngoài, khi lòng người trở nên u ám, người ta coi sự xảo quyệt là thông minh và vinh diệu, và sự chính trực là ngu ngốc và xấu hổ. Trong quá trình lòng người bị ma biến này, rất nhiều mâu thuẫn đã nảy sinh, và cuộc nội chiến liên miên đã làm suy yếu sức mạnh mọi mặt của các thành bang Hy Lạp. Cuối cùng với sự nổi lên của La Mã, họ đã rút lui khỏi giai đoạn vũ đài lịch sử vào thế kỷ thứ hai trước Công nguyên.

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/268063

The post Thần thoại hỗn loạn và tư tưởng triết học truyền thống (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thần thoại hỗn loạn và tư tưởng triết học truyền thống (Phần 1)https://chanhkien.org/2021/07/than-thoai-hon-loan-va-tu-tuong-triet-hoc-truyen-thong-phan-1.htmlSat, 24 Jul 2021 11:25:09 +0000https://chanhkien.org/?p=27675Tác giả: Arnaud H [ChanhKien.org] Trong tiến trình lịch sử, khái niệm “văn hóa truyền thống” bao hàm phạm vi rất lớn và phức tạp. Các dân tộc, quốc gia và khu vực khác nhau có những nền văn hóa truyền thống riêng biệt, rất nhiều nền văn minh có lịch sử lâu đời, thậm […]

The post Thần thoại hỗn loạn và tư tưởng triết học truyền thống (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Arnaud H

[ChanhKien.org]

Trong tiến trình lịch sử, khái niệm “văn hóa truyền thống” bao hàm phạm vi rất lớn và phức tạp. Các dân tộc, quốc gia và khu vực khác nhau có những nền văn hóa truyền thống riêng biệt, rất nhiều nền văn minh có lịch sử lâu đời, thậm chí có từ thời đại thần thoại. Nhìn chung, trong các thời kỳ văn hóa truyền thống của các dân tộc ở phương Tây thì “Văn hóa Hy Lạp cổ đại và văn hóa Do Thái” có sức lan tỏa rộng lớn nhất về phạm vi và có sức ảnh hưởng lớn nhất đến các thế hệ sau, do đó nó được miêu tả như hai chân của nền văn minh truyền thống phương Tây.

Thời kỳ “Phục hưng” thường được nhắc đến trong văn hóa phương Tây đã có ảnh hưởng sâu rộng đối với tư tưởng, văn học, nghệ thuật và nhiều lĩnh vực khác của con người hiện đại. Thời kỳ này đã làm “phục hưng” hệ thống văn hóa nghệ thuật từng rất huy hoàng ở Hy Lạp và La Mã cổ đại, hoàn toàn khác với văn minh Cơ Đốc giáo ở Châu Âu. Tất nhiên, về quá trình phục hưng phức tạp này, tôi đã nói về một số tình huống liên quan trong các bài báo lịch sử mỹ thuật trước đây nên ở đây không nhắc lại nữa. Nội dung bài viết này quay về thời Hy Lạp và La Mã cổ đại, chúng ta sẽ bàn luận từ các câu chuyện thần thoại cổ xưa, xuyên qua lớp sương mù để có cái nhìn đúng đắn về lịch sử.

Sự hỗn loạn của Thần thoại

Năm ngoái, các kênh truyền thông lớn trên thế giới đều đưa một thông tin gây sốc: Trong cuốn sách giáo khoa “Đạo đức nghề nghiệp và pháp luật” do Bộ Giáo dục Trung Quốc phê duyệt và xuất bản năm 2018, câu chuyện Chúa Giê-su ân xá cho người phụ nữ phạm tội đã bị xuyên tạc thành Chúa Giê-su ném đá người phụ nữ cho đến chết. Sách giáo khoa này cũng trích dẫn câu chuyện Chúa Giê-su tha thứ cho tội ngoại tình trong chương 8 “Phúc âm John” trong “Kinh Thánh Tân Ước”.

Nguyên văn câu chuyện được kể lại như sau: “Họ cứ không ngừng hỏi, Chúa Giê-su liền đứng dậy nói với họ: ‘Ai trong các người không có tội, thì hãy lấy đá ném cô ấy trước! ‘ Rồi Ngài lại cúi xuống dùng ngón tay viết chữ lên mặt đất. Nghe vậy, tất cả từ già đến trẻ đều bỏ đi, chỉ còn Chúa Giê-su và người phụ nữ vẫn ở lại. Đức Chúa Giê-su đứng thẳng dậy và nói với cô: ‘Này con, những người kia đâu rồi? Không ai định tội con sao?’ Cô ấy nói, ‘Lạy Chúa, không ạ.’ Chúa Giê-xu nói: ‘Ta cũng sẽ không kết tội con đâu. Hãy đi đi!” Từ nay trở đi đừng phạm tội nữa.'”

(Trích từ bản dịch Kinh Thánh tiếng Trung “Bản hòa hợp” Phúc Âm Gioan Chương 8)

Trong sách giáo khoa “Đạo đức nghề nghiệp và pháp luật” được Bộ Giáo dục Trung Quốc phê duyệt và xuất bản năm 2018, câu chuyện Chúa Giê-su ân xá cho phụ nữ tội phạm đã được chuyển thể thành câu chuyện Ngài ném đá người phụ nữ đến chết. Trong hình là nội dung sách giáo khoa bôi nhọ Chúa Giê-su.

Trong sách giáo khoa “Đạo đức nghề nghiệp và pháp luật” được Bộ Giáo dục Trung Quốc phê duyệt và xuất bản năm 2018, câu chuyện Chúa Giê-su ân xá cho phụ nữ tội phạm đã được chuyển thể thành câu chuyện Ngài ném đá người phụ nữ đến chết. Trong hình là bìa sách giáo khoa và thông tin liên quan.

Tuy nhiên, trong sách “Đạo đức nghề nghiệp và Pháp luật” đã được điều chỉnh lại với nội dung hoàn toàn ngược lại. Sách viết: “Có lần Chúa Giê-su nói với tất cả những người phẫn nộ rằng muốn giết chết một người phụ nữ đã phạm tội: ‘Nếu ai chưa từng phạm lỗi, thì bước lên giết chết cô ta’. Nghe xong, mọi người dừng lại không ái bước về phía trước. Khi mọi người rời đi, Chúa Giê-su đã lấy đá đánh chết người phụ nữ và nói: ‘Ta cũng là tội nhân. Nhưng luật pháp được thực hiện bởi người không có lầm lỗi nào thì luật pháp sẽ chết’. Qua câu chuyện nhỏ này, bạn nhìn nhận thế nào về luật pháp?

Thông tin này đã gây náo động trên toàn thế giới, và được kết thúc bằng việc thu hồi lại sách giáo khoa. Mọi người đều biết rằng, sách giáo khoa có vị thế rất cao trong các loại sách, rất nhiều thầy trò ngày đêm nghiên cứu, học tập, và được nhiều học giả sử dụng. Nếu không hiểu bản chất của câu chuyện, người đọc sẽ nhầm tưởng rằng Chúa Giê-su là một kẻ giết người.

Từ xưa đến nay, ngay cả đối với những người không theo tôn giáo, Chúa Giê-su luôn được coi là hình mẫu về đạo đức, nhưng một bậc Giác Giả như vậy lại bị đưa vào sách giáo khoa thời mạt thế, và dưới sự thao túng của tà linh loạn quỷ bị ác ý bôi nhọ, hủy hoại thanh danh và trở thành kẻ giết người. Nếu tiếp tục lưu giữ trong sách giáo khoa mà truyền bá tràn lan những thông tin sai lệch này thì đạo đức nhân loại sẽ bị phá hoại lớn nhường nào. Ngày nay đối với sách giáo khoa còn xảy ra tình trạng nghiêm trọng đến mức độ như vậy, chẳng phải trong lịch sử lâu dài, các nền văn hóa cổ đại bị sửa đổi cũng là chuyện thường thấy đó sao?

Thần thoại Hy Lạp có trước thời Chúa Giê-su truyền Đạo trong kỷ nguyên văn minh lần này, do đó, nó đã bị cải biến nghiêm trọng đến mức các vị Thần trong Thần thoại không còn được con người kính trọng nữa. Ngày nay, tên của vị Thần Hy Lạp cổ đại là Thần Zeus, đã bị người ta dùng để đặt tên cho chó, thậm chí còn sử dụng phổ biến ở các nước phương Tây.

Từ văn hóa được lưu truyền đến nay, có thể thấy các vị Thần Hy Lạp cổ đại bị con người gán cho nhiều tính cách tiêu cực như tham lam, háo sắc, ghen tuông, độc ác. Họ dường như sở hữu tất cả những ham muốn và ma tính của kẻ xấu, hiếm khi thấy được sự thiện lương và chính nghĩa của họ. Thần Zeus thậm chí còn bị bôi nhọ là kẻ thập ác bất xá. Tuy nhiên, trong sử sách Hy Lạp cổ đại, bạn có thể thấy khá nhiều điều ngược lại. Trong các tài liệu này, Thần Zeus là hiện thân của công lý và trí tuệ, rất công bằng và vô tư đối với con người. Khi con người sống tử tế, Ngài sẽ giúp cho nông sản của họ tăng thêm thu hoạch có cuộc sống ấm no. Khi con người làm điều ác, Ngài sẽ giáng thiên tai để trừng phạt.

Tượng bán thân của nhà thơ Hy Lạp cổ đại thế kỷ thứ 8 TCN Hesiod. Trải qua lịch sử lâu dài, ông bị nhầm với Seneca, một triết gia, chính trị gia và nhà viết kịch La Mã cổ đại trong lịch sử nghệ thuật phương Tây. Đây là một trong những bức tượng thạch cao chuẩn bị cho kỳ thi tuyển sinh đại học nghệ thuật ở Trung Quốc, nó rất nổi tiếng trong giới nghệ thuật Trung Quốc. Tuy nhiên, trong nhiều thập kỷ, do kiểu tóc, ngoại hình và biểu cảm của bức tượng, một số giáo viên mỹ thuật đã nhầm nó thành “cướp biển”.

Hesiod, nhà thơ Hy Lạp vào thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên, trong tác phẩm “Works and Days” của ông có luận thuật rằng: “Thần Zeus đã ban tặng món quà chính nghĩa tốt nhất cho nhân loại. Bởi vì, bất cứ ai biết chính nghĩa và coi trọng chính nghĩa, Thần Zeus sẽ ban phúc lành cho người ấy.”

Hình vẽ tượng Thần Zeus trên đỉnh Olympus, một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại, được vẽ vào năm 1815 bởi nhà khảo cổ học, kiến ​​trúc sư và nhà sử học nghệ thuật người Pháp Quatremère de Quincy. Bức tượng Thần Zeus trên đỉnh Olympia được hoàn thành bởi nhà điêu khắc Hy Lạp Phidias vào khoảng năm 435 trước Công nguyên, được đặt trong Đền thờ Thần Zeus ở Olympia, Hy Lạp. Tượng cao khoảng 12 mét được cho là làm bằng đồng mạ vàng, đá quý, ngà voi và vàng. Theo sách cổ, Thần Zeus một tay cầm vương trượng tay kia nâng nữ Thần chiến thắng, uy nghi ngồi trên ngai vàng. Tượng Thần đã biến mất sau một trận hỏa hoạn vào thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên, nhưng giá trị nghệ thuật cao công trình đã thu hút sự chú ý trên toàn thế giới, nó được mệnh danh là một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại.

Khi Hesiod khuyên những người nắm quyền không nên làm điều ác, ông đã mô tả lại điều này: “Ai mà có hành vi hung bạo, Thần Zeus – người con của Cronus, với thiên lý nhãn sẽ trừng phạt họ. Thậm chí có những trường hợp cả thành phố bị trừng phạt chỉ vì một kẻ xấu làm điều ác, con trai của Cronus đã mang nạn đói và bệnh dịch đến cho họ. Vì vậy, người dân ở đó dần dần chết đi, vợ bị vô sinh, nhà cửa cũng bị Thần Zeus phá hủy, và mất dần đi. Sau đó Thần Zeus đã tiêu huỷ đội quân khổng lồ, phá hủy các bức tường thành và đánh chìm tàu ​​của họ trên biển”. Mặc dù những câu chuyện này đã xuất hiện từ lâu, nhưng nội hàm của chúng không phải là không liên quan đến dịch bệnh lan tràn ngày nay và tỷ lệ sinh ngày càng giảm.

Sau nền văn minh Hy Lạp cổ đại, các câu truyện thần thoại Hy Lạp có nhiều phiên bản khác nhau vì được dân gian thêm thắt nhiều tình tiết và do các nhà văn tùy tiện sáng tác. Những câu chuyện thần thoại chủ yếu là truyền miệng, đó không phải là những ghi chép lịch sử nghiêm túc và chân thật, mà Hy Lạp cổ đại là một tổng thể gồm rất nhiều thành bang nhỏ, mỗi thành phố đều có những câu chuyện thần thoại và truyền thuyết khác nhau. Do sự khác biệt về địa lý, thời gian và dị bản dẫn đến xuất hiện rất nhiều yếu tố mâu thuẫn nội tại khó giải thích rõ trong hệ thống thần thoại Hy Lạp

Dich từ: http://www.zhengjian.org/node/268063

The post Thần thoại hỗn loạn và tư tưởng triết học truyền thống (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>