Tác giả: Tiêm Tiêm
[ChanhKien.org]
Thơ của Lý Bạch vốn tiêu sái tự do, ý thơ tuôn chảy liền mạch mà không hề có cảm giác gọt giũa. Mà bài thơ “Tảo phát Bạch Đế thành” (Sớm rời thành Bạch Đế) này lại càng mang một nội hàm đặc biệt:
“Triêu từ Bạch Đế thái vân gian,
Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn.
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trú,
Khinh chu dĩ quá vạn trùng san”.
Tạm dịch nghĩa:
“Sáng từ thành Bạch Đế trong làn mây rực rỡ,
Nghìn dặm Giang Lăng, một ngày trở về.
Hai bờ vượn khóc than chẳng dứt,
Thuyền nhẹ đã quá vạn trùng san”.
Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh khi Lý Bạch bị liên lụy vì Vĩnh Vương Lý Lân tranh ngôi vị với anh trai là Túc Tông nhưng thất bại. Nhà thơ bị kết án lưu đày đến Dạ Lang, và khi đi đến thành Bạch Đế, ông nhận được tin ân xá. Lý Bạch lại được tự do, ông vui mừng tột độ và đã sáng tác bài thơ “Tảo phát Bạch Đế thành”.
“Triêu từ Bạch Đế thái vân gian, Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn”. Câu thơ này có ý là bản thân ông vào buổi sáng sớm rời khỏi thành Bạch Đế, chỉ trong một ngày đã vượt ngàn dặm để về đến Giang Lăng. Niềm hân hoan vui sướng trong đó có thể tưởng tượng ra được. “Thái vân” (làn mây rực rỡ) chỉ bầu trời lúc sáng sớm khi Mặt Trời vừa ló rạng, những đám mây được những tia sáng Mặt Trời đầu tiên chiếu rọi nên hiện ra với nhiều màu sắc, điều này cho thấy tác giả khởi hành từ rất sớm. “Nhất nhật hoàn” (một ngày trở về) cho thấy suốt quãng đường đi không hề dừng bước, dùng thành ngữ mà chúng ta thường nói thì chính là câu “ngựa không dừng vó”. Hai câu thơ này thoạt nhìn không hề dùng một chữ nào thể hiện sự vội vã, cũng không có từ nào bày tỏ niềm vui, nhưng cảm giác hưng phấn và kích động mà nó mang lại lại khó có thể tự mình kiềm chế, có thể nói là vui sướng như điên cuồng.
“Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trú, Khinh chu dĩ quá vạn trùng san”. Ý nghĩa bề mặt của câu thơ rất đơn giản, là chỉ việc tác giả không màng đến việc trời đã về khuya, vẫn vội đi thuyền xuyên đêm để rời khỏi chốn thị phi. “Khinh chu” (thuyền nhẹ) ngụ ý rằng lúc này bản thân tác giả không còn vướng bận điều gì, thuyền nhẹ, thân nhẹ, lòng càng nhẹ hơn. “Vạn trùng san” (vạn ngọn núi trùng điệp) ý chỉ lúc này đã vượt qua trùng trùng trở ngại và áp lực. “Viên thanh” (tiếng vượn kêu) cũng có hai tầng ý nghĩa: một là tiếng vượn thường kêu vào ban đêm, mang theo chút âm u, lạnh lẽo. Còn có một hàm nghĩa là ẩn dụ cho những can nhiễu đả kích, áp lực, vì Lý Bạch do vụ việc của Vĩnh Vương mà bị liên lụy, chắc chắn tồn tại những áp lực từ dư luận kiểu “giậu đổ bìm leo”.
“Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trú, Khinh chu dĩ quá vạn trùng san” – đã trở thành câu thơ danh tiếng thiên cổ. Là vì câu thơ này có thể khiến rất nhiều người đồng cảm. Tại Trung Quốc đại lục, mấy chục năm Trung Cộng đàn áp chính tín (Pháp Luân Đại Pháp), cũng giống như tiếng vượn hú kia không ngừng vang lên, ở đây cũng có mang hàm ý hắc ám, đen tối. Mà người tu luyện, khi buông bỏ được mọi ràng buộc trong tâm, thì tựa như một chiếc thuyền nhẹ vượt qua muôn trùng trở ngại, tiến về phía tương lai tươi sáng. Cảm nhận lúc này lại có một dư vị hoàn toàn khác biệt.
Thuyền nhẹ, thân nhẹ, tâm càng nhẹ, chớp mắt đã vượt qua vạn trùng núi non.