Tác giả: Tiêm Tiêm
[ChanhKien.org]
Là một vị đạo sỹ, thi nhân Bạch Ngọc Thiềm quả thật có nhận thức rất khác người. Bài thơ “Ngọa Vân” của ông chỉ gồm 28 chữ, toàn văn như sau:
“Mãn thất thiên hương Tiên tử gia,
Nhất cầm nhất kiếm nhất bôi trà.
Vũ y thường đới yên hà sắc,
Bất nhạ nhân gian đào lý hoa”.
Dịch nghĩa:
“Khắp phòng đầy hương trời, là nhà của Tiên tử,
Một cây đàn, một thanh kiếm, một chén trà.
Áo lông vũ thường mang sắc mây khói,
Chẳng vướng bụi trần đào lý nhân gian”.
“Mãn thất thiên hương Tiên tử gia, Nhất cầm nhất kiếm nhất bôi trà”. Thiên hương (hương trời) ở đây có lẽ là mùi hương trầm mà thi nhân đốt, hoặc hương trà, cũng có thể là mùi thơm của các loại dược liệu quý hiếm hoặc trà rừng mà ông hái được trên núi. Đạo gia trong nhiều sự việc thường rất cầu kỳ. Những người tu luyện Đạo gia thường thường đều là người luyện võ, lại vừa thích gảy đàn. Vì vậy đàn và kiếm đều là vật không thể thiếu của Đạo gia. Trà cũng như vậy.
Phật gia và Đạo gia có một số khác biệt trong rất nhiều phương diện. Phật gia chủ trương buông bỏ mọi thứ, còn Đạo gia, do cần luyện đan, nên cũng tinh thông một số kỹ nghệ khác. Chúng ta thường cho rằng người tu luyện đều giống như khúc gỗ vậy, kỳ thực đó là một loại lý giải sai lầm. Người tu luyện (đặc biệt là Đạo gia) lại càng hiểu dưỡng sinh và tinh thông nhiều loại kỹ nghệ. Bởi vì rất nhiều kỹ nghệ đều là Thần truyền cho con người, ở trên trời đều có cả. Chúng ta thường nhìn thấy cây sáo của Hàn Tương Tử hay thanh kiếm của Lã Động Tân, chính là như vậy.
“Vũ y thường đới yên hà sắc, Bất nhạ nhân gian đào lý hoa”. Rất nhiều y phục của Đạo gia đều cực kỳ phiêu dật, nhẹ nhàng, tiêu sái. Câu “yên hà sắc” ở đây hoặc là chỉ màu sắc của vải áo, cũng có thể là mô tả cảnh nhà thơ đang ở giữa tầng mây trên đỉnh núi. Bởi vì tựa đề bài thơ là “Ngọa Vân” (nằm trong mây), chính là chỉ vị trí của thi nhân. Câu “Bất nhạ nhân gian đào lý hoa” có nghĩa là một người sống tiêu dao tự tại, không thu nhận đồ đệ. Trong Đạo gia, có rất nhiều là sống một mình tiêu dao tự tại. Trừ phi gặp được người cực kỳ tốt, còn không thì họ không thu nhận đệ tử. Chữ “đào lý” ở đây chính là chỉ đồ đệ.
Gần đây, nhiều người vào trong núi sâu phát hiện rất nhiều ngôi nhà bị bỏ hoang, đều nằm trên những đỉnh núi cực kỳ hiểm trở, tứ phía là vách đá dựng đứng. Một người bình thường rất khó có thể đến được những nơi như vậy. Có người ở những nơi đó đào hang, dựng nhà, thật không thể tin nổi. Đối với chúng ta thì đó là việc bất khả thi. Nhưng chúng ta không cần lo lắng cho họ, vì nhiều người trong Đạo gia đều có thần thông và pháp thuật. Những việc người bình thường không làm nổi, đối với họ có lẽ lại không khó khăn như thế.
Thi nhân là một đạo sỹ đã đắc Đạo. Ông từng gặp được cao nhân truyền cho bí quyết luyện kim đan hỏa hầu và Ngũ Lôi Đại Pháp. Chỉ nghe tên thôi cũng biết là vô cùng lợi hại. Đoạn văn này mô tả cuộc sống ẩn cư của đạo sỹ. Hai chữ “Ngọa Vân” chính là nói đến việc thi nhân sống nơi vách đá hiểm trở trên đỉnh núi cao, mỗi ngày đều trải qua cuộc sống siêu phàm thoát tục, nửa Tiên nửa người.
Thi nhân ưa thích sự tiêu dao, không muốn tiếp xúc với người đời, ngay cả việc thu nhận đệ tử cũng không màng tới. Nhiều cao nhân đã phát hiện rằng, ngày nay những đạo sỹ như vậy cũng lần lượt xuất sơn. Bởi sau khi Sư phụ Đại Pháp công bố Kinh văn mới “Vì sao có nhân loại”, họ mới nhận ra rằng Pháp môn mình tu luyện chỉ là tiểu Đạo. Đại Đạo đang ở nhân gian, vì thế họ lần lượt hạ sơn, mong được đắc Đại Pháp. Thế nhưng, con người ngày nay lại dửng dưng trước Đại Pháp, đánh mất cơ hội vạn cổ, cũng chính là đánh mất tất cả. Tại sao con người lại không tỉnh ngộ?
Bài thơ mang đầy khí chất Thần tiên, trong đó ẩn chứa phong thái tiêu dao mà người đời khó lòng bắt chước nổi.