giải mã Phong thần | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 24 Apr 2025 07:00:24 +0000en-UShourly1Giải mã “Phong Thần diễn nghĩa” (Phần 3)https://chanhkien.org/2024/08/giai-ma-phong-than-dien-nghia-phan-3.htmlThu, 15 Aug 2024 03:53:50 +0000https://chanhkien.org/?p=33731Tác giả: Phất Trần [ChanhKien.org] Tham chiếu với hiện thực ngày nay Một, thế nhân không được học theo Thương Trụ Cuộc đời của Thương Trụ đã cô đọng và khái quát được những kẻ phóng túng ác tính của bản thân, cuối cùng vi phạm giáo huấn của Thần, Phật, đã chiêu mời yêu […]

The post Giải mã “Phong Thần diễn nghĩa” (Phần 3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Phất Trần

[ChanhKien.org]

Tham chiếu với hiện thực ngày nay

Một, thế nhân không được học theo Thương Trụ

Cuộc đời của Thương Trụ đã cô đọng và khái quát được những kẻ phóng túng ác tính của bản thân, cuối cùng vi phạm giáo huấn của Thần, Phật, đã chiêu mời yêu ma, mê trụ thân tâm, diệt thân diệt quốc.

Thương Trụ vốn có tài cái thế, lại trầm mê nữ sắc, vì tâm sắc dục mà chiêu mời yêu ma. Phong Thần diễn nghĩa đã miêu tả tường tận quá trình Thương Trụ vì dục vọng mà từng bước đi về hướng hủy diệt. Khi bái miếu Nữ Oa sinh ra niệm bất kính Thần, Nữ Oa Nương Nương gọi ba con yêu tới, Cửu Vĩ Hồ Ly phụ thể trên thân Đát Kỷ, bắt đầu mê hoặc Trụ Vương. Từ khi Vân Trung Tử tặng bảo kiếm trấn yêu, Đát Kỷ chế bào lạc hành hình, Thương Dung tử tiết, Khương hoàng hậu bị móc mắt, cho đến Đát Kỷ bày mưu lập kế bức Võ Thành Vương phải rời đi, Tỳ Can moi tim, giam lỏng Văn Vương, tới Võ Vương phạt Trụ, toàn bộ tuyến chính của Phong Thần diễn nghĩa chính là Thương Trụ Vương bị mê hoặc bản tính, không ngừng hành ác, mà trung thần nghĩa sĩ không ngừng hàng yêu trừ ma, tuyến chính mâu thuẫn này quán từ đầu đến cuối, cũng là điểm hấp dẫn nhất của bộ sách này.

Tại sao phải tốn nhiều bút mực xoay quanh tuyến chính này như vậy? Chính bởi vì chủ đề này mới có thể nhìn ra được một nhân vương được trời ban điều kiện rất tốt, bởi vì dục vọng, bị yêu ma mê hoặc, từng bước một đi về phía vực sâu. Yêu ma hại người, từ xưa đến nay có rất nhiều câu chuyện, chỉ có Phong Thần diễn nghĩa mới có thể dung hợp một cách hợp lý hiện thực và hư cấu, thường lý và huyền lý, nhân giới và thiên giới, dùng câu chuyện và truyền kỳ điển hình biểu đạt một cách chi tiết đầy đủ quá trình đại chiến chính tà, khiến người dân có thể xem và hiểu tường tận, đây là một ẩn dụ lớn nhất của bộ sách này.

Dùng quá trình mê mất bản tính của Thương Trụ để cảnh tỉnh tất cả những người đời sau trầm mê vào dục vọng không thể tự dứt ra được, cho dù là quân vương, hễ trầm mê trong dục vọng, liền bị dục vọng thao túng, đằng sau dục vọng sẽ có yêu tà tồn tại, mà nó không tồn tại trong thời không mà mắt thịt của chúng ta có thể nhìn thấy, chính bởi vì mắt thịt không thể nhìn thấy, người ta mới dễ dàng bị tà linh ở đằng sau mê hoặc.

Điều nhắm vào vấn đề của tất cả người dân ngày hôm nay là: mỗi một người dân đều giống với Thương Trụ, bị yêu ma mê hoặc, mà năng lực của yêu ma này thì Cửu vĩ hồ không thể so sánh được, nó là ma quỷ lớn nhất trong dự ngôn, ma quỷ này không phải chỉ người ở trong trần thế, mà là chỉ ma quỷ ở đằng sau đang bám vào linh hồn của người Trung Quốc. Tư tưởng của nó tương hợp với rất nhiều dục vọng của người dân, càng tiếp thụ tư tưởng của nó con người càng dễ phóng túng dục vọng của bản thân, càng phóng túng dục vọng càng chịu sự khống chế của nó. Tên của ma quỷ này tại thế gian chính là Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ).

Sự diệt vong của Thương Trụ chỉ là quân vương bị Cửu vĩ hồ mê hoặc, mà điều đáng sợ của người dân Trung Quốc dường như là mỗi một đội viên, đoàn viên, đảng viên ĐCSTQ đều đang chủ động hoặc bị động chịu sự khống chế của nó. Phương thức khống chế con người của nó chính là dùng bạo lực cưỡng chế quán thâu linh hồn, tư tưởng của nó ép nhập vào mỗi người, tiếp thụ hay không thì cũng phải tiếp thụ, cuối cùng linh hồn và nó hợp lại thành một.

Trong 70 năm qua, sự đối lập giữa thiện và ác trong mỗi lần vận động và trào lưu cũng giống như sự phản kháng và thái độ không khoan nhượng đối với tà ác của các nhân thần nghĩa sĩ trung thành với xã tắc của Thương Thang, mà mỗi một lần nhân sĩ chính nghĩa bị đồ sát cũng giống như việc Thương Trụ và Đát Kỷ liên tiếp làm ra những tội ác đối với con dân của mình.

Tương lai của người dân cũng giống như tương lai của Thương Trụ, có thể nhận rõ diện mục chân thực của Cửu vĩ hồ chính là nhận rõ diện mục thật của yêu ma Trung Cộng, có thể cuối cùng đi về hướng hủy diệt hay không, điều quan trọng chính là xem người ta có thể nhận rõ yêu ma không.

Mỗi một người dân Trung Quốc đều giống Thương Trụ, vận mệnh của bản thân vẫn là do bản thân quyết định.

Hai, con người nên trung với điều gì

Một bộ Phong Thần bảng, đã tóm tắt lịch sử Thương diệt Chu hưng, cũng là lựa chọn tâm linh của thần dân nhà Thương khi nước mất nhà tan, trung với điều gì, là suy nghĩ của hiện thực, cũng là đo lường cảnh giới và tâm tính của thế nhân.

Văn Vương thuận thiên ý, tu đạo đức, yêu con dân, kính hiền nhân, an bang thổ, can gián quân vương, có ba phần thiên hạ mà không thảo phạt Trụ, nhớ ân của tiên vương, tận bổn phận của người làm thần tử, là Thánh vương một đời. “Trung” của Văn Vương là ở trong nội tâm, tận nhân thần sự (làm việc gì cũng cần tận lực làm tròn bổn phận), tu thân dưỡng đức của bậc vương giả, vô cầu mà tự được, được hậu thế ca tụng là đại trung với thiên địa nhân thần, đạt đến cảnh giới tối cao của vạn thế quân vương.

Võ Vương, Khương Tử Nha, phạt Trụ hưng Chu cùng các văn thần võ tướng, khởi binh thảo phạt, Thương Trụ mất hết đức của quân vương, dẫn đến diệt thân, tội ác chồng chất. Nhà Chu thuận thiên ý thảo phạt, vì để cứu vạn dân trong nước sôi lửa bỏng mà làm cách mệnh, ứng với lòng dân hướng về. Lòng trung thành của quân thần Đại Chu, có thể gọi là trung với vạn dân, đại trung cứu khổ cứu nạn, cũng là lựa chọn chính nghĩa trong kiếp nạn hưng suy.

Ân Thương có người nhân đức, Tỳ Can, Cơ Tử, Vi Tử, Thương Dung, và các cựu thần khác, thấy Trụ Vương vô đạo, cố gắng khuyên can nhưng không có kết quả. Thương Dung dùng cái chết để khuyên gián không nghe, Tỳ Can tự nguyện moi tim, Vi Tử lưu lại huyết mạch của tiên vương, bỏ đi xa xứ, Cơ Tử lưu lại văn hóa triều Thương, tới Triều Tiên tồn giữ cố quốc. Những cựu thần nhà Thương, tưởng nhớ đạo đức của tiên vương, nghĩ đến cái khổ của vạn dân, giữ gìn tông đường của tổ tiên, không chống lại người trung nghĩa, có thể chết có thể không chết. Lòng trung này, tưởng nhớ đức cũ cảm tạ ân cũ, lưu lại phong tục xưa, lưu lại truyền thống, kính tổ tiên, bảo tồn huyết mạch, cũng là một loại đạo đức khác trong nguy nan loạn thế dùng cách ở ẩn để biểu hiện khí tiết, có thể gọi là tiết tháo lòng trung của văn nhân thủ đức.

Hoàng Phi Hổ, Sùng Hắc Hổ, Đặng Cửu Công, một nhóm những tướng quân cựu thần, khuyên can Trụ Vương không được, vì những nguyên nhân khác nhau mà làm phản Triều Ca, không bảo vệ kẻ ác độc hung tàn, không theo trợ vua Trụ làm điều trái, cân nhắc suy xét giữa ân trạch và tội hành của quân vương mà có thể phân rõ chính tà, quyết đoán, vứt bỏ vinh hoa, buông bỏ sinh tử chống lại cường quyền, tấm lòng tận trung, ghét ác này vốn là bản tính tự nhiên. Dám chống lại cái ác, không màng vinh hoa phú quý, không lưu luyến tư tình nhi nữ, có thể coi là lòng trung cương dũng chính nghĩa của bậc đại trượng phu.

Văn Thái Sư, các tướng ở các quan ải lớn, lấy lý do làm tròn chức trách giữ đất, báo ân, để đối địch với những nhân sĩ trung nghĩa vì người dân mà có thể bỏ mạng, dẫn đến sinh linh lầm than, đã phạm phải tội trợ Trụ vi ngược. Trong đó có Văn Thái Sư khuyên gián quân vương, tu sửa đạo đức của quân vương, không phụ khổ tâm của tổ tiên. Có những tướng sĩ thủ thành mù quáng, ngoan cố, có những người có năng lực ẩn cư sơn dã theo đuổi công danh, có những kẻ tham dục muốn thăng quan tiến chức tâm xấu đầy lợi ích, dục vọng, có những gia nô đáng thương phục tùng một cách mù quáng,… Lòng trung này động cơ không giống nhau, có người vì lợi lộc mà chết, có người vì chức trách mà chết, có người vì lời hứa mà chết, tổng thể được coi là: ngu trung thể hiện trong khi trợ Trụ vi ngược.

Khi trong kiếp nạn hưng suy, nước mất nhà tan ngàn vạn sinh mệnh có ngàn vạn lựa chọn, câu chuyện trong Phong Thần bảng giải thích một cách toàn diện tâm linh trong lựa chọn rốt cuộc là trung với điều gì, thiện ác chính tà đều ở trong đó.

Ghét ác như thù, phân rõ chính tà, giữ vững đạo đức, lưu lại truyền thống, thực hiện lời hứa, không màng sống chết, không lưu luyến vinh hoa, không phụ tổ tiên, đó là tiêu chuẩn và yêu cầu thiện với tấm lòng trung, ngược lại chính là biểu hiện và hành vi ác trợ Trụ vi ngược.

Những câu chuyện trong Phong Thần bảng, khai thị cho hậu nhân rằng: trong ma nạn và mâu thuẫn thực sự, trong quá trình lựa chọn khó khăn, động cơ của một người khi làm việc, từ góc độ suy xét vấn đề, logic ở tầng thứ thâm sâu, họ trung với điều gì, trung với tổ tiên, trung với đạo đức, trung với chức trách, trung với vạn dân, trung với quân vương, hay là trung với văn hóa Thần truyền? Điều này là vô cùng trọng yếu!

Ba, người tu hành cần phải tu đến vô lậu

Phong Thần bảng ngoài một trường chém giết, chính tà đại chiến, Thần ma đấu pháp ra, còn có một tuyến chính, ẩn tàng tại toàn bộ tình tiết và kết cấu của câu chuyện, đó chính là: người tu hành có căn cơ khác nhau, đạo hạnh khác nhau, tâm tính khác nhau sẽ có kết cục và vận mệnh khác nhau.

Từ góc độ của Thiên ý mà xét, triều Chu đang hưng, triều Thương khí số đã tận, đây là điều mà những người trong Triệt giáo, Xiển giáo đều biết. Từ góc độ tâm tính mà xét thì việc của con người có liên hệ với thượng giới. Cảnh giới và tâm tính của người tu hành đã quyết định trong thời khắc quan trọng, họ sẽ lựa chọn như thế nào giữa thiện và ác.

Vì để tỏ rõ Thiên ý, Nguyên Thủy Thiên Tôn và Thông Thiên Giáo Chủ đã cố ý lưu lại một bài kệ: “Kính tụng hoàng đình khẩn bế động, Như nhiễm tây thổ thụ tai ương”. Mục đích chính là nhắc nhở lần nữa đối với người tu hành, cần thủ giữ tâm tính của bản thân, nếu không sợ rằng sẽ có tên trên bảng phong thần. Đây là điều mà họ nhìn thấy. Cho dù là người tu hành, trong tình huống đã hiểu rõ Thiên ý, cũng có thể bởi vì các chủng các dạng nhân tâm không buông bỏ của người tu hành, trong hoàn cảnh và khảo nghiệm cụ thể, sẽ giữ không vững tâm tính của bản thân, trong vấn đề quan trọng mà phạm vào tội.

Thực sự đúng là như vậy, người trong môn đồ Triệt giáo, hoặc là do khí hận, hoặc là do đố kỵ, hoặc là vì tâm tranh đấu, hoặc là vì hiển thị, hoặc là tình huynh muội, tình phụ tử, tình sư đồ, trước sau không kiềm chế được bản thân, gia nhập chiến tranh giữa Thương và Chu, hễ tới Tây Kỳ thì mất mạng.

Từ một góc độ nào đó mà xét, người tu hành có lậu, cho dù là động vật tu hành hay con người tu hành, chỉ cần trong tâm còn hữu lậu, thì trải qua bao nhiêu năm, sẽ có một ngày kiểm nghiệm tới, không thủ giữ tâm tính, sẽ phải chịu sự trừng phạt của Thiên pháp.

Tâm đố kỵ của Thân Công Báo là một tình tiết chính trong câu chuyện này, ông ta vì tâm đố kỵ tác quái, gây mâu thuẫn giữa những người của hai giáo, trực tiếp và gián tiếp hại chết rất nhiều người. Điều quan trọng nhất của câu chuyện Thân Công Báo trong Phong Thần bảng, đó là nói rằng người tu hành nên đặc biệt cảnh giác với tâm đố kỵ.

Cái chết của Triệu Công Minh có thể khiến Quỳnh Tiêu và Bích Tiêu rời đảo để báo thù, mà Vân Tiêu trong hoàn cảnh cụ thể tranh đấu giữa hai bên mới động niệm sát tâm, cuối cùng phạm phải đại tội, hủy đi đạo hạnh nghìn năm. Có thể thấy tu vi của người tu hành không giống nhau, chấp trước nhiều ít khác nhau, chỉ cần là có, sẽ lưu lại một hạt giống cho kiếp nạn cuối cùng.

Trong trận Thập Tuyệt và trận Vạn Tiên, còn có rất nhiều người tu đạo khổ hạnh nghìn năm đã không thoát khỏi kiếp nạn. Có người chủ động tranh đấu với Triệt giáo, có người vì đồng môn tranh đấu mà chết nên muốn báo thù, có người do bị xúi giục ỷ đạo thuật cao cường mà xuống núi. Rất nhiều câu chuyện khác nhau đều đang cảnh tỉnh: người tu hành không thể tu đến vô lậu, cuối cùng cũng chỉ là một trường không, khó lòng thoát khỏi kiếp nạn trong hiện tại hoặc tương lai.

Bốn, pháp tắc nhân quả trọng tại nhân

Một bộ Phong Thần bảng, có bao nhiêu lựa chọn của sinh mệnh con người, gieo bao nhiêu nhân, thì sẽ diễn dịch ra bấy nhiêu quả.

Thương Trụ vô đạo, vương triều suy tàn, dòng dõi vương hầu, hậu phi cung nga, tể tướng triều quan, văn thần võ quân, dị sĩ có năng lực, phàm phu tôi tớ, đều không thể thoát khỏi lựa chọn. Có người coi trọng đạo đức, thương vạn dân, kính hiền nhân, thông hiểu điều huyền diệu là bậc Thánh cảnh giới cao Chu Văn Vương; có người biết hưng suy, thuận Thiên ý, học đạo thiên nhân, khuông phù chính nghĩa trừ tà Khương Thượng; có người là tấm gương của cựu thần Ân Thương, lưu lại huyết mạch như Vi Tử, lưu lại văn hóa như Cơ Tử, lưu lại chính khí như Tỳ Can, đều thể hiện ra phong thái của người nhân nghĩa; có người bỏ tối theo sáng, phò giúp minh chủ, là trọng thần cứu vạn dân khỏi cảnh đau thương, giúp đỡ nhà Chu (Hoàng Phi Hổ, Sùng Hắc Hổ, Đặng Cửu Công); có người là trọng thần tam triều Văn Thái Sư, tuy rằng đối địch với những người trung nghĩa, nhưng vẫn giữ chính khí, phong cốt anh hùng, trung trinh đáng thương; có những tướng sĩ không biết đại nghĩa, giữ gìn quốc thổ làm tròn trách nhiệm, không thể phân rõ chính tà, tưởng nhớ ân cũ, tận chức trách mà tuẫn cùng triều Thương; cũng có người trợ Trụ vi ngược, trên không thể khuyên bảo quân vương, dưới không thể lo cho lê dân, làm mê hoặc vua, loạn triều chính, hại trung lương, tham danh lợi bổng lộc như nhóm người Sùng Hầu Hổ và Ác Lai, Phi Liêm. Bá Di, Thúc Tề chết đói ở núi Thú Dương, tiều phu Vũ Cát, cùng những tướng khác đắc phú quý, nhiều vô số, trong thời mạt thế hỗn loạn, canh tân cũ mới, những lựa chọn khác nhau của thế nhân dẫn đến kết quả khác nhau!

Thế nhân đã là vậy, người tu hành cũng lại như thế. Thân Công Báo vì tâm đố kỵ cuối cùng bị dìm ở biển Bắc Hải. Triệu Công Minh do tâm tranh đấu không bỏ, bị tản tiên Lục Áp yểm bùa chết. Vân Tiêu, Bích Tiêu, Quỳnh Tiêu tình huynh muội không rời, chết ở trận Hoàng Hà. Ân Hồng, Ân Giao phản bội sư môn, giúp vua cha cũng là giúp ác, phát lời thề độc, ứng nghiệm lời thề, hối hận cũng đã muộn. Thổ Hành Tôn vốn là người tu hành trong Đạo môn, lại tham luyến ái dục, nóng vội công danh, tuy rằng lập công bù tội, bị sát tinh giết chết. Hoàng Thiên Hóa không kính sư môn ban đầu gặp nạn, sau này chết nơi sa trường.

Na Tra, Kim Tra, Mộc Tra, Lý Tịnh, Vi Hộ, Lôi Chấn Tử, Dương Tiễn bảy vị nhân sĩ đắc Đạo, hoàn thành sứ mệnh, nhục thân thành Thánh. Trong đó còn có biết bao nhiêu người của môn đồ Triệt giáo, không biết lý thiện ác chính tà nhân gian, làm hại người vô tội, tạo tội lớn dẫn đến mất hết đạo hạnh,…

Chủng lựa chọn trong “Phong Thần diễn nghĩa”, khải thị cho người đời sau không phải nói với người ta hết thảy là do thiên định, mà là dùng lượng lớn các ví dụ về sinh mệnh khó thoát khỏi nhân quả để cảnh báo thế nhân cần phải coi trọng hành vi và tâm niệm của bản thân, hành vi và tâm niệm như thế nào sẽ quyết định kết cục thế ấy. Đằng sau mỗi một câu chuyện, đều có bằng chứng tất yếu và sinh động, loại bằng chứng này là khải ngộ, cũng là giáo huấn mà người đời sau phải khắc ghi!

Năm, khải thị từ việc Cửu vĩ hồ đằng sau Đát Kỷ

Người dân Trung Quốc không ai không biết Đát Kỷ, kỳ thực là chỉ Cửu vĩ hồ đã hại chết Đát Kỷ, Cửu vĩ hồ và Thương Trụ nhà nhà đều biết, cũng đáng để mọi người suy nghĩ sâu thêm.

Sắc dục nam nữ là cái dục lớn của con người, không thể tiết chế sẽ bị dục vọng làm mê mờ, không thể giữ lễ sẽ xa rời nhân đạo. Do đó, cổ nhân nói: Vạn ác dâm vi thủ. Một mặt là muốn nói sắc dục rất dễ mất khống chế, mặt khác là nói rằng điều này là giới tuyến quan trọng nhất của con người. Cửu vĩ hồ mê hoặc Trụ Vương trở thành người trầm mê sắc dục, cũng bởi sắc dục mà nước mất nhà tan, trở thành ví dụ điển hình nhất phạm tội nghịch thiên.

Thương Trụ háo sắc túng dục, Thần Nữ Oa gọi ba con yêu họa loạn Thương Trụ, thiên số triều Thương đã tận, Thương diệt thuộc về thiên mệnh. Ba con yêu tới là nhân quả cho việc Thương Trụ khinh nhờn Thần linh mà dẫn đến. Ba con yêu hại chết ái nữ của Tô Hộ, Đát Kỷ, làm phụ thể trên thân Đát Kỷ, túng dục giết người, xúi giục Trụ Vương chế bào lạc, tàn sát trung lương, hãm hại cung nhân, xây lộc đài vơ vét của cải thiên hạ, vì tửu trì nhục lâm mà hại chết người trong nội cung, thậm chí mổ xương xem tủy, mổ bụng xem thai, tội ác tày trời, dẫn đến Thiên địa Thần nhân đều phẫn nộ, cuối cùng bị chúng Thần tiêu diệt.

Đối ứng với hiện thực, 70 năm qua Trung Hoa chịu bao nhiêu sương gió, trải qua bao kiếp nạn, tà ác tàn hại hàng trăm triệu sinh mạng, tuyệt đối không thể dùng một câu Thiên ý khái quát. Tất cả đều là ý Thần an bài, vậy thì tốt xấu có gì khác nhau, nghĩa cử và làm việc thiện có cần thiết chăng?. Thiện ác vô tồn, lý của nhân gian đã tận, tất sẽ xuất hiện côn đồ mạt thế. Trăm năm triều đại đỏ, biến dị linh hồn, đảo lộn thiện ác, làm hại sinh mệnh, che giấu chân tướng, rất giống với Đát Kỷ (Cửu vĩ hồ) trong Phong Thần diễn nghĩa.

Nhìn từ góc độ nhân đạo, thuận Thiên ý lại không thể bỏ qua thiện ác, lạm sát vô cớ, vì để thỏa mãn tư dục mà phạm tội. Ở ngoài nhân đạo, thiên ngoại hữu thiên, cao hơn còn có tiêu chuẩn và biểu hiện cao hơn. Cửu vĩ hồ vốn có thể thuận Thiên ý, mê hoặc Trụ Vương mà hoàn thành thiên số, nhưng nó lại tàn hại sinh mệnh, hãm hại trung lương, mê hoặc Trụ Vương phạm vào tội không thể dung thứ. Ngày nay, nếu tà linh Trung Cộng không phạm phải đại tội bức hại Chính Pháp, vốn có thể được thiện giải. Những người trợ Trụ vi ngược chỉ cần không diệt tuyệt nhân tính, Thần có thể võng khai nhất diện, còn có cơ hội có cuộc đời mới.

Trong văn hóa Trung Hoa, tinh hoa và cặn bã cùng tồn tại, người dân gặp kiếp nạn thời mạt thế, tư tưởng hỗn loạn, các gia các phái, ai cũng không thoát khỏi lý thiện ác. Lý thiện ác của nhân gian là căn cứ theo thế nhân phân biệt, suy xét, con người thông qua chính nghĩa và lương tri mới có thể thể hội được điều gì là Thiên ý chân chính.

Thương Trụ giống như vai chính, Đát Kỷ giống như vai phụ, hai mặt của thế nhân, không thể học Thương Trụ mê mất bản tính, không thể học Cửu vĩ hồ tàn hại thiện lương. Nếu không, điều chờ đợi sẽ là cuối cùng bị hủy diệt.

Sáu, ẩn dụ và cảnh tỉnh đối ứng với thế nhân

Bất kỳ tác phẩm kinh điển văn hóa nào, nếu như mất đi khải ngộ và răn dạy đối với người đời sau, thì sẽ mất đi ý nghĩa tồn tại của nó, thậm chí sẽ rất khó lưu truyền đến ngày nay. Bộ tiểu thuyết “Phong Thần diễn nghĩa” mà nhà nhà đều biết này, lưu lại cho người thời nay những ẩn dụ và cảnh tỉnh gì trong cuộc sống và lịch sử?

Rất nhiều nhân vật, lựa chọn vận mệnh, nội hàm phong phú, có lịch sử sâu xa, đều có đối ứng với xã hội và cuộc sống của xã hội hiện đại chúng ta. Lấy việc vô đạo hành ác của Thương Trụ ẩn dụ cho việc phóng dục thất đức của con người thời nay. Lấy việc Thương Trụ bị yêu ma mê hoặc chân tính ẩn dụ về con người ngày nay bị ma đỏ mê hoặc trở thành nhân loại biến dị. Dùng việc Thương Trụ bị Cửu vĩ hồ mê hoặc ẩn dụ con người ngày nay phóng túng sắc dục. Lấy việc Văn Vương bị nhốt mà diễn Chu Dịch ví dụ cho việc thánh hiền an thủ đạo đức, tĩnh tĩnh đối đãi biến hóa của trời. Lấy việc Văn Vương cầu hiền ở sông Vị Thủy ví dụ cho triều đại đỏ lạm dụng gian nịnh, không hiểu đạo trị quốc của thánh hiền. Lấy việc Hoàng Phi Hổ nghĩa sĩ trung thần một đời ví dụ cho việc xa rời tà ác, tinh thần vì dân quyên mệnh thảo phạt tà ác. Lấy những trải nghiệm của các vị quan nhân từ triều Ân Thương đối ứng với những nhân sĩ chính nghĩa không khuất phục trước chính quyền tàn bạo mà bị mất đi sinh mạng trong 70 năm qua. Lấy bài hịch văn hạch tội trạng Trụ Vương của Khương Thượng đối ứng với cuốn Cửu Bình. Lấy việc nhục thân thành Thánh của bảy vị tướng sĩ đối ứng với người tu hành mang theo thiên mệnh tới nhân gian. Lấy anh em nhà họ Phương ghét ác như thù đối ứng với giới võ phu chính nghĩa. Lấy điềm lành phượng hoàng Kỳ Sơn, cá bạc nhảy lên thuyền để ẩn dụ động đất lớn ở Đường Sơn, tai họa động đất ở Vấn Xuyên trong 70 năm qua. Lấy hành vi san lấp lộc đài của Võ Vương đối ứng với hồng ma vơ vét tài sản. Lấy việc Thương Trụ chế hình phạt bào lạc, sái bồn, chặt chân xem tủy, cắt thận đồng nam, mổ bụng xem thai đối ứng với Trung Cộng tàn hại thiện lượng, mổ sống lấy nội tạng. Lấy việc Chu Võ Vương khiến thiên hạ kính phục, tế lễ thiên địa đối ứng với Trung Cộng dùng thuyết vô thần xây dựng triều đại thành lập chính quyền, giết năm triệu người lập uy, trong thời cách mạng văn hóa diệt tận chính giáo, hủy chùa miếu Thần Phật. Lấy việc Võ Vương phong mộ Tỳ Can đối ứng với Trung Cộng thời cách mạng văn hóa đào huyệt mộ của tổ tiên trong năm nghìn năm. Lấy việc Vũ Vương thả Cơ Tử, phong con của Trụ Vương là Vũ Canh ở nước Ân, Vi Tử ở nước Tống, đối ứng với Trung Cộng truy cùng diệt tận, diệt tận những gì trái ý, thống nhất Đại Lục.

Tâm đố kỵ của Thân Công Báo, cái tình của Vân Tiêu tiên tử, vi phạm lời thề của huynh đệ họ Ân, tham luyến ái dục của Thổ Hành Tôn, tâm tranh đấu của môn đồ Triệt giáo, bất kính sư môn của Hoàng Thiên Hóa, đối ứng với ma tính chấp trước của người tu luyện. Lấy việc Cửu vĩ hồ túng dục hại sinh mệnh, giết hại sinh linh đối ứng với những kẻ lấy lý do Thiên ý, lạm sát vô cớ, xem mạng người như cỏ rác. Lấy những yêu quái sơn lâm bị giết chết đối ứng với những kẻ tu luyện không đắc thân người, không giảng tâm tính ở thế gian. Lấy tranh chấp giữa Triệt giáo và Xiển giáo đối ứng với mâu thuẫn, chia rẽ trên Thiên thượng. Lấy Văn Thái Sư, 24 vị Thiên quân, Ma Gia tứ tướng đối ứng với lực lượng ở thế gian bất phân chính tà, trợ Trụ vi ngược. Lấy nhân sĩ Triệt giáo nghe lời Thân Công Báo xúi giục mà tới Tây Kỳ sát phạt để ví dụ tà linh trên trời đằng sau trợ vua Trụ. Lấy những người tu hành chính giáo giúp Chu Võ diệt Trụ đối ứng với Chính Đạo trên Thiên thượng diệt tà hộ Pháp. Lấy việc phát lời thề độc của Thân Công Báo, huynh đệ họ Ân ví dụ cho thế nhân phát lời thề trước trời, muốn đem sinh mệnh cống hiến cho Trung Cộng. Ví dụ loại này, nhiều không kể xiết.

Câu chuyện trong Phong thần bảng không phải để cho thế nhân giải muộn tiêu sầu, mà là để chúng ta tự nhận thức mình, minh tỏ thiện ác, mỗi một ẩn dụ và cảnh thị, thế nhân nên suy xét lại.

Tổng kết lại: Một bộ “Phong Thần diễn nghĩa” lưu lại cho người ta một truyền kỳ kinh điển, một câu chuyện thần tiên, những tội ác của yêu ma, chính tà đối lập,… Ngoài ra, đằng sau những ví dụ sinh động và tiêu biểu còn ẩn chứa những nội hàm ở tầng thâm sâu hơn. Chính nghĩa và đức hạnh trong cuộc thảo phạt của Thương Thang và Vũ Vương, khải thị trong quá trình Thương Trụ phạm tội, trật tự và lẽ thường của Thần, Phật, nhân, yêu, sự lựa chọn và động cơ trong quá trình canh tân cũ và mới, khởi nguyên và truyền thừa của địa lý nhân văn, đều ở trong đó mà được giải thích toàn diện.

Điều quan trọng nhất là, tiểu thuyết đã nói lên những nguyên lý thiện ác mà con người tuyển chọn trong trường đại biến và canh tân, mối liên hệ giữa nhân và quả, giữa người và trời, nhân tố Thần truyền, văn hóa truyền thống, vì để cấp cho tương lai, chính là thời đại của chúng ta làm tham chiếu, có thể khiến thế nhân ngày nay có thể tại thời kỳ lịch sử kinh điển này có được giáo huấn, tổng kết kinh nghiệm, thể hội đạo lý, minh tỏ thiện ác, suy ngẫm và tham khảo, rút kinh nghiệm và đối chiếu, trong thời đại biến hóa và mê loạn nhất này, đưa ra được lựa chọn quan trọng nhất, từ đó mà vượt qua kiếp nạn!

Chính là:

Một bộ Phong thần diễn nghĩa, thế gian kinh điển truyền kỳ.
Chính tà luân hồi qua lại, thương tang tuế nguyệt tề tụ.
Nhân thiên Thần quỷ chinh chiến, thiện ác tuyển chọn minh lý.
Pháp đồ trừ yêu giáng ma, viên mãn quy lai thiên tế.

(Hết)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/129513

The post Giải mã “Phong Thần diễn nghĩa” (Phần 3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Giải mã “Phong Thần diễn nghĩa” (Phần 2)https://chanhkien.org/2024/08/giai-ma-phong-than-dien-nghia-phan-2.htmlWed, 07 Aug 2024 03:57:53 +0000https://chanhkien.org/?p=33694Tác giả: Phất Trần [ChanhKien.org] Mười lăm, lựa chọn khó khăn của Ân Giao, Ân Hồng Thời cổ đại, đế vương lấy nước là nhà, ở dưới gầm trời, chỗ nào không phải là đất của vua, đất đai ở vùng biên cũng là của chư hầu. Mà thân là vương công quý tộc, là […]

The post Giải mã “Phong Thần diễn nghĩa” (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Phất Trần

[ChanhKien.org]

Mười lăm, lựa chọn khó khăn của Ân Giao, Ân Hồng

Thời cổ đại, đế vương lấy nước là nhà, ở dưới gầm trời, chỗ nào không phải là đất của vua, đất đai ở vùng biên cũng là của chư hầu. Mà thân là vương công quý tộc, là con cháu họ Ân của Thành Thang, khi nước nhà gặp biến cố, phải lựa chọn như thế nào? Huynh đệ nhà họ Ân gặp cảnh mẫu thân chết thảm, vua cha tàn sát người thân, lang bạt khắp nơi, nhận ơn cứu mệnh của Đạo gia Côn Luân, truyền võ nghệ ở danh sơn, vốn dĩ nên thuận thiên trừng phạt kẻ có tội, lại đứng giữa tình thân phú quý và thiên lý thiên mệnh mà lựa chọn sai đường.

Trung với vua cha, không đồng nghĩa với trung với tông miếu Thành Thang. Hai huynh đệ Ân Giao, Ân Hồng phản bội lại đại trung mà chọn tiểu hiếu, đã phát lời thề độc mà lại vi phạm, người thì hóa thành tro bụi, người thì bị chết dưới lưỡi cuốc, đã ứng nghiệm với nhân quả rõ ràng mười mươi, đã diễn dịch sự lựa chọn mâu thuẫn giữa gia tộc và thiên mệnh, trong quá trình thay cũ đổi mới của những người con của quân vương, vì người đời sau mà lưu lại giáo huấn bi thảm.

Mười sáu, một số nữ nhân là chứng nhân cho tiết tháo của họ

Khương Hoàng hậu là hoàng hậu chính cung của Thương Trụ, do bị yêu nhân hãm hại mà bị móc mắt chặt tay, chỉ cần nhận tội dàn dựng, thì có thể tránh khỏi cái khổ của cực hình. Mà người phụ nữ họ Khương lại nói: “Lúc sinh thời đã biết lễ giáo, làm sao có thể nhận tội đại nghịch này, làm nhục phụ mẫu, đắc tội với tổ tông xã tắc, bại hoại cương thường vợ chồng, ô nhục gia phong, khiến phụ thân ở hoàn cảnh bất trung bất nghĩa, khiến thái tử không được yên vương vị. Cho dù có bị nghìn vạn đao búa, thì đây cũng là bởi kiếp trước tạo nghiệp, kiếp này đền, sao có thể trái với đại nghĩa được?” Chỉ một đoạn này có thể thấy Khương thị là người phụ nữ có giáo dưỡng của nhà quyền quý, có phong thái của bậc mẫu nghi thiên hạ, thuận nhân quả, kính tổ tiên, giữ luân thường, có tâm yêu thương con, hiếu thuận cha mẹ, chịu vạn cái khổ và cái chết để chứng minh cho sự thanh bạch.

Giả thị là vợ của Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ, bị Đát Kỷ bày mưu hãm hại, Trụ Vương háo sắc ngỏ ý lẳng lơ, Giả thị phẫn nộ, hiên ngang mắng chửi hôn quân, nhảy xuống từ lầu cao, thịt nát xương tan, bảo toàn danh tiết cho Hoàng tướng quân.

Mã thị là vợ kết tóc của Khương Tử Nha, Khương Tử Nha muốn tới sông Vị Thủy ở Tây Kỳ gặp quân vương, muốn Mã thị cùng đi, Mã thị lấy lý do là phụ nữ Triều Ca không đến vùng đất hoang dã để từ chối, chê nghèo ham hưởng phú quý. Khương Tử Nha diệt Trụ vào Triều Ca, trở thành đại công thần, Mã thị xấu hổ tự vẫn mà chết, khi chết bị phong là Thần nghèo.

Có chính thì sẽ có phản, có quý thì cũng có tiện, có những người phụ nữ không hề kém cạnh đấng mày râu, dùng phú quý, sinh tử để chứng minh cái nghĩa phu thê.

Mười bảy, sự do dự của cha con Hoàng Phi Hổ

Hoàng gia bảy đời trung lương, phụ thân là tổng binh của Giới Bài quan, con trai là Hoàng Phi Hổ được phong là Võ Thành Vương, em gái là Hoàng phi, cả nhà ông đã lập công lao to lớn cho giang sơn Thành Thang. Vậy mà cuối cùng vợ và em gái bị ép chết thảm, Hoàng Phi Hổ tức giận phản lại Triều Ca, bỏ chạy đầu quân cho Tây Kỳ thánh chủ.

Trong ơn của vua, có danh có lợi có tình, tiểu nhân lý giải ân nghĩa chỉ chăm chăm vào lợi ích vinh hoa, quân tử lý giải ân nghĩa chú trọng tới thiên lý đạo đức, cha con Hoàng Phi Hổ cảm ân đức hạnh và ân nghĩa của Thành Thang, xen lẫn với quyến luyến vào địa vị, danh dự, kim tiền, cảm tình, mới xuất hiện khoảnh khắc do dự. Thế nhưng, Trụ Vương hoang dâm, tửu, sắc, tàn hại trung lương, nghịch lễ bội luân, giết vợ bội nghĩa, Hoàng Phi Hổ lòng đau xót, mới quyết định giữ đại nghĩa mà bỏ tiểu nghĩa, vì dân mà trừng phạt kẻ có tội, tiểu nghĩa là những vinh hoa phú quý mà quân vương ban cho và ân nghĩa trước đây của tổ tiên, đại nghĩa là vì trăm họ bách tính và những trung hồn mà hành binh trừng phạt kẻ có tội, trong giữ bỏ mà thấy chân tính, trong tức giận, Võ Thành Vương đã phản Trụ Vương, trên con đường phạt Trụ, một nhà hổ tướng đã chết trên sa trường.

Sự lựa chọn của Võ Thành Vương, vì hậu thế mà khai mở cục diện thái bình, vì trung lương mà giương cao chính nghĩa, làm gương cho chư hầu, có thể thấy vinh hoa phú quý không thể mê hoặc hào kiệt chân chính.

Mười tám, Phật gia, Đạo gia và Kỳ Môn

Đạo gia không đồng nghĩa với Đạo giáo, Phật gia không đồng nghĩa với Phật giáo, Kỳ Môn cũng là tu hành, nội hàm này cũng được biểu hiện tinh tế, sâu sắc trong bộ tiểu thuyết này. Trong Phong thần diễn nghĩa, Lão Tử nhất khí hóa Tam Thanh, là Thần của Đạo gia, những điều mà Phong thần diễn nghĩa viết là Thần ở trên trời, Lão Tử mà 800 năm sau hạ thế lưu lại “Đạo Đức Kinh” 5000 chữ chính là Thần dùng thân người mà đến.

Đạo gia truyền thừa có lịch sử uyên nguyên, Nữ Oa nương nương là Thần tạo ra con người ở vùng đất Thần Châu, Tam Hoàng Ngũ Đế khai sáng văn hóa tiền sử, Phục Hy vẽ bát quái, Thần Nông nếm trăm loại thảo mộc, Thương Hiệt tạo chữ viết, Hoàng Đế và chúng thần tử bạch nhật phi thăng, Đại Vũ trị thủy, những nhân vật này ở trong Phong thần diễn nghĩa đều là Thần của Đạo gia, đã diễn giải đầy đủ nội hàm này, Đạo gia không đồng nghĩa với Đạo giáo của người đời sau.

Phật gia cũng không đồng nghĩa với Phật giáo, Tiếp Dẫn đạo nhân và Chuẩn Đề đạo nhân, đều là Phật gia, Từ Hàng đạo nhân của Xiển giáo sau này trở thành Quán Âm Bồ Tát, Văn Thù Quảng Pháp Thiên Tôn sau này trở thành Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền chân nhân sau này trở thành Phổ Hiền bồ tát, Nhiên Đăng đạo nhân sau này trở thành Nhiên Đăng Cổ Phật.

Có phải điều chân thực hay không không quan trọng, tiểu thuyết vốn dĩ là hư cấu, quan trọng là thông qua miêu tả như vậy đã làm rõ được quan hệ uyên nguyên giữa mảnh đất Trung thổ, con người Trung thổ, người tu hành Trung thổ với Tây phương giáo, tiết lộ được uyên nguyên giữa Thích giáo và Đạo gia.

Kỳ Môn độc lập với Phật gia và Đạo gia, sau khi tu thành sẽ trở thành tản Tiên không bị ràng buộc. Lục Áp trong “Phong thần diễn nghĩa” khi xuất hiện liền nói: “Không ở trong tam giáo, không ở vùng đất Cực Lạc, không quy nhân vương quản, không ở trong địa phủ. Tiêu diêu tự tại tùy ta tới, tự tự tại tại tản thánh sơn”.

Rất rõ ràng, Phong thần diễn nghĩa đã tiết lộ một điều, ngoài Phật gia, Đạo gia, còn có Kỳ Môn tản Tiên.

Rất nhiều bí mật, những điều thế nhân không thể tường tận trong giới tu luyện lại có thể thông qua một bộ tiểu thuyết khiến thế nhân có thể hiểu rõ.

Mười chín, Văn Vương bị nhốt giam mà diễn giải Chu Dịch

Kinh Dịch là quyển kinh đứng đầu trong các sách, nó thanh khiết, huyền diệu, sâu sắc, là nguồn gốc và thành phần quan trọng của văn hóa Trung Hoa. Tiên thiên bát quái do Phục Hy đế trong tam hoàng ngũ đế sáng tạo, tương truyền có Hạ dịch, Thương dịch, Văn Vương diễn dịch bát quái thành tám tám sáu mươi tư quái, bộ phận nội dung này chính là Chu Dịch mà người đời sau nắm rõ.

Văn Vương và chư thần khuyên can Trụ Vương không có kết quả, bị kết tội chút nữa thì vong mạng, sau đó dùng thuật số để suy diễn và ứng nghiệm nên được xá tội, bị giam ở Dũ Lý. Thánh nhân thuận thiên biết mệnh, vui vẻ sống ở Dũ Lý, quân dân dắt dê và gánh rượu, quỳ xuống đường chào đón. Thánh nhân chiếu rọi nhật nguyệt, sáng rọi một phương, dùng hành vi để giáo hóa, quân dân vui vẻ. Tây Bá Hầu không oán hận quân vương, không lo lắng, nhàn nhã vô sự, diễn dịch tám tám sáu mươi tư quái, phân thành 384 hào tượng, thành tựu giai thoại nghìn thu.

Văn Vương kế thừa thần số của tiên hoàng, cho quân thần thấy được thần kỳ, giáo hóa người Trung Nguyên, kết duyên tại Dũ Lý (Thang Âm, Hà Nam), vui vẻ cả ngày không lo nghĩ, an yên với phận của mình, nếu không phải đạo đức của thánh nhân thì không thể làm được như vậy.

Một vở đại kịch, người tu hành đều biết, Văn Vương và chúng sinh kết duyên, đời này duyên thành ở Trung thổ.

Hai mươi, sự thanh tỉnh của Trường Nhĩ Định Quang Tiên

Trường Nhĩ Định Quang Tiên là đệ tử của Thông Thiên Giáo Chủ Triệt Giáo, nhận sự phó thác của Thông Thiên Giáo Chủ là cuối cùng phải rung Lục Hồn Phiên, Định Quang Tiên thấy rằng Tiếp Dẫn đạo nhân bọc cơ thể bằng hoa sen trắng, xá lợi hiện lên ánh sáng, đệ tử thứ mười hai cũng có kỳ quang dị tượng, không muốn rung Lục Hồn Phiên, trốn dưới lư bồng ẩn náu.

Sau này trước mặt Nguyên Thủy Thiên Tôn khấu bái, nhận tội nói: “Đệ tử thấy sư bá đạo chính lý minh, thầy tôi thiên vị mà nghe lời trái lý, tạo ra tội này, đệ tử không nhẫn tâm sử dụng”. Câu nói này có thể nhìn ra được căn khí của Định Quang Tiên.

Định Quang Tiên trước đại kiếp số, có thể ở trong đại chiến mà bảo trì thanh tỉnh, có thể thể hội được đạo chính lý minh, có thể thực sự khách quan, lý tính, minh bạch mà dùng chân tính suy xét, cuối cùng mới miễn được kiếp nạn mà đệ tử Triệt giáo khó thoát khỏi, đã kết duyên với Thích giáo, khai sáng cho bản thân một cuộc đời và tương lai mới.

Hai mươi mốt, Khương Tử Nha quy về chốn nào

Phong thần bảng để lại cho mọi người của đời sau rất nhiều chỗ suy ngẫm, những cái tên trên bảng phong thần đều có, vậy kết cục của người phò Chu diệt Thương, là công thần có công lao lớn nhất sẽ như thế nào, sau trăm tuổi thì Thần sẽ quy về đâu?

Khương Tử Nha vào núi tu Đạo, căn cơ còn nông cạn, không thể chính ngộ đại Đạo, tu thành chính quả, phụng mệnh Nguyên Thủy Thiên Tôn phong thần, hưởng phú quý, trở thành đại thần, có chỗ tương tự với Văn Thái Sư là phụ chính đại thần hai đời nhà Thương Trụ. Đây chỉ là một tầng nội hàm mà chúng ta có thể biết được từ trong bộ sách Phong thần bảng này; ở tầng thâm sâu hơn cũng có: Khương Tử Nha đã lưu lại giai thoại câu cá bên sông Vị Thủy, khai sáng học thuyết bách gia, cuốn “Lục Thao” được người sau này liệt vào bảy cuốn sách võ kinh, cuốn “Càn khôn vạn niên ca”, là cuốn sách khai sáng cho văn hóa dự ngôn, trở thành tổ tiên của bách gia bao gồm: binh gia, nho gia, pháp gia, tung hoành gia, chiêm bốc,…, được Vũ Vương phong là vua của đất Tề “cai quản phong tục nơi đó, giản hóa lễ nghi nơi đó, thông thương công nghiệp, khiến người dân ở đó được lợi”, đã khai sáng văn hóa Sơn Đông có ảnh hưởng sâu rộng.

An bài của Thần, không phải là điều mà thế nhân có thể đoán được, có người lên trời trở thành Thần, có người nhập thế khai sáng văn hóa Thần truyền, ẩn sĩ cũng đang tích công đức, chờ đợi cơ duyên thành thục.

Hai mươi hai, tình huynh muội của Vân Tiêu Tiên tử

Vân Tiêu, Bích Tiêu, Quỳnh Tiêu, ba vị Tiên tử này tu vi không giống nhau, Vân Tiêu Tiên tử tu vi cao nhất, khi Triệu Công Minh bị thâu mất Định hải châu, đến chỗ của ba vị muội muội để mượn Kim giao tiễn, trong ba vị Tiên tử chỉ có Vân Tiêu không muốn cho mượn, vẫn muốn khuyên Triệu Công Minh không nên quản chuyện của Tây Kỳ. Cuối cùng, do sự thỉnh cầu của các Tiên tử, đã cho Triệu Công Minh mượn Kim giao tiễn, dẫn đến họa sát thân của Triệu Công Minh.

Triệu Công Minh chết rồi, Vân Tiêu vẫn không muốn để Quỳnh Tiêu, Bích Tiêu đi, sợ rằng sẽ mang họa, mới theo họ tới Tây Kỳ. Ba vị Tiên tử nhìn vật nhớ đến người, lại thấy cảnh chết thảm của Triệu Công Minh, mới động tình, tìm Lục Áp đạo nhân báo thù.

Lục Áp đạo nhân khi giảng rõ đạo lý với Vân Tiêu, Vân Tiêu vẫn trầm ngâm không ngộ, hai bên giao đấu, mới không thể không chế, cuối cùng bày ra cửu khúc hoàng hà trận, mới dẫn tới họa sát thân, trên bảng phong thần có tên.

Vân Tiêu Tiên tử nghìn năm tu hành hủy trong một chốc, đều là bắt nguồn từ một chút tình huynh muội, một niệm không thanh tĩnh, khi kiếp nạn tới cũng sẽ khó mà qua được!

Hai mươi ba, Hoàng Thiên Hóa không kính sư môn mà chịu tai ách

Bốn huynh đệ Ma gia là bốn viên đại tướng của Trụ Vương trong chiến dịch thảo phạt nhà Chu, có pháp thuật dị năng, gây khó khăn cho phía nhà Chu, Hoàng Thiên Hóa là đệ tử của Đạo Đức Chân Quân, phụng mệnh sư phụ hạ sơn, thất bại trong cuộc chiến đầu tiên, Đạo Đức Chân Quân phái Bạch Vân Đồng Tử cứu nguy cho Hoàng Thiên Hóa, đồng thời cảnh cáo cho Hoàng Thiên Hóa nhân quả ở trong đó.

Khi Hoàng Thiên Hóa mới xuống núi, mặc trang phục Đạo ăn mặn, tuy rằng là vô ý, nhưng cũng đã phạm vào tội. Do đó, gặp phải tai ách nguy hiểm mà mất mạng. Người tu hành không kính sư môn, không thủ giới, nhất định sẽ phải chịu sự trừng phạt, đây cũng là biểu hiện của nhân quả, cũng là khảo nghiệm và giáo huấn của sư phụ đối với đệ tử.

Một câu chuyện nhỏ trong phong thần bảng, đã biểu đạt tính nghiêm túc của người xưa đối với người tu hành.

Hai mươi tư, các huynh đệ nhà họ Phương ghét ác như thù

Phương Bật, Phương Tướng là trấn điện đại tướng quân ở triều đường nhà Thương Trụ, hai người khi thấy việc Trụ Vương giết vợ giết con, đã liều thân đứng ra bảo vệ hai vị hoàng tử, tiên phong phản lại triều đình. Họ dũng cảm quyết đoán, ngay cả Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ cũng nói: “Đáng tiếc trong số các quan văn võ, lại không có ai được như Phương Bật”.

Phương Bật, Phương Tướng vốn là hai người thô lỗ, khi thấy Trụ Vương tàn bạo có thể rút đao tương trợ, đã nói lên rằng đứng trước khảo nghiệm sinh tử thực sự, không có quan hệ gì tới chức vị, quyền lực, tài phú, chỉ nhìn xem ai có thể xuất ra được chân tính ghét ác như thù thôi, Phương Tướng, Phương Bật không màng sinh tử, những người thô lỗ lại có bản tính minh tỏ thiện ác. Tâm tính và cảnh giới này mới có tên trên bảng phong thần.

Người của Triệt giáo bày ra thập tuyệt trận, vốn là đấu pháp giữa những người tu hành của hai giáo, một người phàm phu tục tử như Phương Bật bước vào Phong Hống trận, bị vạn đao giết chết. Đối diện ác thần mà có thể không sợ sinh tử, nên có thể thành Thần.

Hai mươi năm, Khương Tử Nha hạch mười đại tội của Trụ Vương

Khương Tử Nha đánh vào Triều Ca, trước mặt Trụ Vương mà hạch ra mười đại tội:

Tội thứ nhất: Bất kính thiên địa, trầm mê tửu sắc.

Tội thứ hai: Phóng túng dâm dật, bại hoại nhân luân.

Tội thứ ba: Không màng tới người nối dõi, vọng tổ tuyệt tông.

Tội thứ tư: Bào lạc trung lương. Đoạn tuyệt nghĩa vua tôi.

Tội thứ năm: Giết chư hầu địa phương, thất tín với thiên hạ.

Tội thứ sáu: Lạm dụng hình phạt, oan hồn khắp thiên hạ.

Tội thứ bảy: Hoang phí xa hoa, làm dân chúng lầm than.

Tội thứ tám: Không biết liêm sỉ, vua bắt nạt vợ của thần tử, khiến trinh phụ phải tử tiết.

Tội thứ chín: Tàn hại sinh mệnh, gây đau khổ cho bách tính.

Tội thứ mười: Cắt thận người, làm tuyệt nòi giống của bách tính, tàn nhẫn bất nhân.

Mười đại tội trong bài hịch văn của Khương Tử Nha, đã liệt kê ra những tiêu chuẩn và điều kiện cụ thể khi vương triều gặp tai kiếp, tội ác tràn lan, cũng là để hậu nhân lấy lịch sử như tấm gương, cảnh giác với hoàn cảnh hiện thực.

Hai mươi sáu, bảy vị tướng sĩ nhục thân thành thánh

Trong quá trình diệt Thương hưng Chu, có bảy vị tướng sĩ huyền môn lập công cao nhất, đều là đệ tử đời thứ ba của Xiển giáo Nguyên Thủy Thiên Tôn, gồm có Lý Tịnh, Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra, Dương Tiễn, Vi Hộ, Lôi Chấn Tử, họ ra sa trường giết giặc, công trạng to lớn, lựa chọn cuối cùng của họ đều là quy ẩn.

Bảy vị này đều có kinh nghiệm phi phàm, tài năng phi phàm, cảnh giới phi phàm, phú quý, công danh, bổng lộc đều không phải là những thứ mà người tu hành truy cầu, đã quen với việc không màng danh lợi, nhận thiên mệnh mà đến thế gian, hoàn thành nguyện ước quay về sơn lâm, nhục thân thành thánh.

Câu chuyện về Na Tra đại náo Đông Hải, thân là liên hoa, ba đầu sáu tay, Dương Tiễn bát cửu huyền công, bảy mươi hai phép, Lý Tịnh là Thác Tháp Thiên Vương ở thiên giới, Kim Tra, Mộc Tra, Lôi Chấn Tử được muôn đời sau truyền tụng, lưu lại truyền kỳ kinh điển về thiên giới, nhân gian.

Người tu hành đến nhân gian, có sứ mệnh trời ban, có Thần Phật an bài, vạn khổ ở nhân gian, không làm ô nhục sứ mệnh, bảy vị tướng sĩ nhục thân thành Thần đã trở thành tấm gương cho người đời sau.

Hai mươi bảy, Bá Di, Thúc Tề chết đói ở núi Thú Dương

Thương Trụ diệt, khí số tận, Chu Võ Vương quay trở về Tây Kỳ trên đường gặp hai vị đạo sĩ (Bá Di, Thúc Tề), nghe nói Thương Triều đã mất, phẩy tay áo bỏ đi, không ăn thức ăn của nhà Chu, chết đói ở núi Thú Dương.

Hai vị đạo sĩ Bá Di, Thúc Tề, tưởng nhớ đạo đức Thành Thang, không thể trợ Trụ vi ngược, chỉ là những người thảo dân lại có thể nhớ tưởng tinh thần vương đạo, lấy thân mình tuẫn theo triều đại cũ. Họ không giống với những người như Vi Tử, Cơ Tử, Tỳ Can, Thương Dung, cũng không giống với những cựu thần bỏ đi xa theo Cơ Tử, cũng không giống với những võ tướng chết ở sa trường, họ chỉ là dùng thân phận người dân của triều Thương mà lựa chọn cái chết, nối gót một vương triều và tinh thần đã qua đi. Trung với cái cũ mới có thể lập ra cái mới, ở thời đại biến đổi to lớn, họ có lý do để tồn tại.

Một triều tận số, một triều mới lại đến, thần tử, quân, dân, mỗi người đều có duyên, sinh sinh tử tử mỗi người đều có mệnh, không phải điều mà con người có thể biết tường tận, thiên lý có an bài khác.

Hai mươi tám, khí tượng vương giả của Đại Chu

Triều Chu thịnh thế 800 năm, là một vương triều thực sự huy hoàng đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, tiếp nối thời thượng cổ và sau này, có ảnh hưởng sâu rộng, là một thời đại trọng yếu nhất đặt định ra văn hóa Trung Hoa, triển hiện ra khí tượng vương giả huy hoàng của văn hóa Trung Hoa, trở thành hình mẫu để các vương triều đời sau tham chiếu và học tập.

Thành tựu sự nghiệp đế vương, tất phải thừa hưởng cơ nghiệp của người đi trước, kính Trời, kính Thần, thuận thiên, yêu thương người, giữ lễ tiết, tích lũy đạo đức, Văn Vương có đức lớn, làm cảm động phượng hoàng ở Kỳ Sơn, nếm trải cay đắng để giữ vững thân phận người làm thần tử, bị giam ở Dũ Lý vẫn có thể nhẫn được tâm tính, cầu hiền tài ở sông Vị Thủy, Bá Ấp Khảo biết phải chết mà vẫn cứu cha, Văn Vương có ba phần thiên hạ mà vẫn không phạt Trụ. Cho đến khi Võ Vương đợi đến thời vận tội ác chồng chất, triệu chư hầu hướng về, hiền nhân tới, binh mã đầy đủ, hào kiệt quy tụ, Thần Tiên trợ giúp, thiên hạ một lòng hướng về, thiên địa nhân sáu điều hợp lại, mới có thể hoàn thành đại nghiệp thảo phạt Thương Trụ, thuận ứng thiên số.

Võ Vương phạt Trụ, kế thừa đạo đức của cha và anh, huynh đệ cùng ra trận, không sợ sinh tử, quân thần một lòng, vận mệnh khác với anh em họ Ân, vì giải cứu muôn dân Tây Kỳ khỏi tai nạn binh đao mà chịu khổ, Thương Trụ vô đạo, vì nhân dân mà thảo tội, dám dấn thân mình vào trận Hồng Sa nguy hiểm, không phải một vị vua có đại đức thì không thể làm được như vậy.

Vũ Vương phạt Trụ, xóa bỏ bào lạc, sái bồn, không giết con của Thương Trụ, san phẳng lộc đài, lấy kho lúa ở Cự Kiều phát chẩn, tha tù Cơ Tử, phong mộ cho Tỳ Can, thăm viếng Thương Dung, thả cung nga về xứ, lập đàn cúng thiên địa, sửa võ tu văn, trả ngựa ở hướng nam của núi Hoa Sơn và thả trâu ở đồng của rừng Đào Lâm (Quy mã ư Hoa Sơn chi dương, phóng ngưu ư Đào Lâm chi dã – Trích Kinh Thi, Vũ Thành, ý nghĩa là chiến tranh kết thúc, không cần dùng đến trâu, ngựa nữa), thiên hạ đều thuần phục, vạn dân đều vui vẻ, cỏ thụy sinh, phụng hoàng hiện, suối lễ chảy, cam lộ giáng, vạn vật hài hòa, thực là khí tướng thái bình, Khương Tử Nha phụng thiên mệnh phong Thần, thất tướng sĩ nhục thân thành thánh, Vũ Vương tấn phong các nước chư hầu, khai sáng kỷ nguyên mới cho Hoa Hạ.

Khí tượng vương giả Đại Chu vạn cổ hiếm có, ứng với đạo tam tài thiên địa nhân, đã khai sáng một thời kỳ vương đạo huy hoàng cho hậu thế.

Hai mươi chín, tâm người thường của Tỳ Can khi bị moi tim

Đát Kỷ hãm hại Tỳ Can, một vị thần tử nhân nghĩa nhà Ân Thương, Tỳ Can nghe theo Khương Tử Nha, đốt lá bùa và uống, tự moi tim mà không chảy máu, xuống đài, cưỡi ngựa phi nước đại, gặp một người phụ nữ già, đang bán cải vô tâm, Tỳ Can hỏi bà lão: “Người nếu như không có tim sẽ thế nào?” Bà lão trả lời: “Người nếu như không tim tất sẽ chết”. Tỳ Can hô lên một tiếng lớn, ngã ngựa, một khoang máu nóng chảy trên cát.

Câu chuyện nhỏ này trong “Phong thần diễn nghĩa”, đã nói cho người ta một đạo lý, những năng lực phi thường, sự việc phi thường, pháp thuật phi thường, tất phải có cái tâm phi thường, Tỳ Can bởi vì uống bùa của Đạo gia mà không chết, nhưng vào thời khắc quan trọng khi hễ tâm người thường động, công hiệu của lá bùa lập tức mất đi tác dụng.

Tôn Hành Giả trong “Tây Du Ký”, trên đường gặp những kẻ mạnh, kẻ mạnh nâng gậy nên, Tôn Hành Giả nhắm mắt làm ngơ, dùng tay chỉ một cái, miệng niệm “định”, kẻ mạnh liền lập tức định lại. Một đạo thuật bình thường như vậy, cũng cần người sử dụng phải tâm vô tạp niệm, không có bất kỳ tâm người thường nào.

Cái chết của Tỳ Can và đạo thuật của Tôn Hành Giả, đã nói nên rằng tâm tính và năng lực của người tu hành là có quan hệ, những việc phi thường tất phải có lý phi thường.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/129513

The post Giải mã “Phong Thần diễn nghĩa” (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Giải mã “Phong Thần diễn nghĩa” (Phần 1)https://chanhkien.org/2024/07/giai-ma-phong-than-dien-nghia-phan-1.htmlMon, 29 Jul 2024 02:15:26 +0000https://chanhkien.org/?p=33650Tác giả: Phất Trần [ChanhKien.org] “Phong Thần diễn nghĩa” là một bộ tiểu thuyết thần thoại của Trung Quốc cổ đại, có thể sánh ngang với ba bộ “Chúa tể của những chiếc nhẫn” của phương Tây, từ góc độ văn hóa của Trung Quốc mà xét, nó không chỉ là một bộ tiểu thuyết […]

The post Giải mã “Phong Thần diễn nghĩa” (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Phất Trần

[ChanhKien.org]

“Phong Thần diễn nghĩa” là một bộ tiểu thuyết thần thoại của Trung Quốc cổ đại, có thể sánh ngang với ba bộ “Chúa tể của những chiếc nhẫn” của phương Tây, từ góc độ văn hóa của Trung Quốc mà xét, nó không chỉ là một bộ tiểu thuyết Thần ma, cũng không giống với tứ đại danh tác, kể từ khi ra mắt vào triều đại nhà Minh cho đến nay, nó đã trở thành một cái tên quen thuộc mà nhà nhà đều biết, người người đều hay. Bộ tiểu thuyết này lấy bối cảnh thời nhà Thương bị diệt vong, nhà Chu thành lập, cốt truyện đề cập đến đủ loại các nhân tố như Thần, ma, người, yêu, Phật, Đạo, kết hợp với chiến tranh, những việc ly kỳ quái dị, cảnh vật, nhân vật, tình cảm, thơ từ, ca phú. Tất cả các yếu tố này được miêu tả đan xen với nhau tạo thành một câu chuyện sống động, đáng để người đời sau suy ngẫm và thưởng thức. Hôm nay, tôi sẽ giải thích cuốn tiểu thuyết này dưới góc nhìn của một người tu luyện, để thế nhân có thể hiểu sâu hơn về nền văn hóa Thần truyền cổ xưa và nội hàm trong đó.

Một, ai là tác giả bộ tiểu thuyết

Có một vài giả thuyết cho rằng tác giả của bộ tiểu thuyết này là Hứa Trọng Lâm thời nhà Minh, có người lại cho rằng đó là một người tu Đạo họ Lục. Từ góc nhìn của mình, tôi cho rằng tác giả cụ thể là ai không quan trọng, quan trọng là tác giả của bộ sách này cần phải có rất nhiều kiến thức và tu dưỡng của Đạo gia, mới có thể viết ra được bộ tiểu thuyết có nội hàm phong phú, diễn đạt tài tình, chân thực sống động khiến quảng đại quần chúng yêu thích như vậy. Đây là một loại phương thức kế thừa và tôn vinh văn hóa Thần truyền của Trung Hoa. Tức là những người tu hành hoặc là văn nhân có hiểu biết sâu rộng về văn hóa, thông qua loại phương thức văn học thông tục này, lấy lịch sử làm cơ sở, sáng tác ra một kiệt tác có thể giáo hóa nhân tâm, minh tỏ thiện ác, hoằng dương chính khí, tìm về cội nguồn và có ảnh hưởng sâu rộng như vậy. Đúng như câu nói: Dĩ văn tải Đạo (lấy văn để truyền tải Đạo).

Hai, thay đổi triều đại lấy đây làm hình mẫu

Lịch sử sụp đổ của Thương Trụ và sự trỗi dậy của Chu Võ là một thời đại quan trọng của văn minh thượng cổ, trong đó, sự đối lập giữa thiện và ác, vị trí của con người và Thần, sự thay thế của cái cũ và cái mới, số kiếp trời định, tôn ti quý tiện, sự thay đổi của vương hầu, quan hệ nhân duyên ở trong đó. Đối với bất kỳ lần thay đổi vương triều nào trong lịch sử 5000 năm, đều mang tính điển hình và đại biểu, đều đáng để tổng kết kinh nghiệm, tiếp thu giáo huấn, có thể nói đây là hình mẫu tốt nhất và kinh điển nhất của lịch sử.

Mà suy nghĩ ở một tầng thâm sâu hơn nữa chính là: nhân, Thần, yêu, ma vừa hay gặp kiếp nạn, trong quá trình con người thượng cổ từ đơn sơ mộc mạc đi tới văn minh, từ trị lý tới ly loạn, từ thái bình tới giết chóc, mỗi một sinh mệnh đều cần phải trong hiện thực và hoàn cảnh luân lý cương thường bị mai một mà đưa ra lựa chọn và quyết định của bản thân mình, vì bản thân, vì dòng tộc, vì bách tính một phương, vì tổ tiên cho đến đời sau, trong hoàn cảnh thiện ác đan xen, chính tà khó phân biệt, dùng cách nghĩ và phương thức tư duy gì để đưa ra quyết định như thế nào, diễn dịch ra kết quả như thế nào. Từ người cho tới Thần, từ Thần cho tới yêu, từ trời đến đất, từ Triều Ca cho tới Tây Kỳ, từ vương hầu cho tới người bắt cá gánh củi, từ miền núi tới hải đảo, từ hồng trần tới ngoài thế gian, không ai có thể đứng ngoài cuộc, đều chủ động hoặc bị động mà lựa chọn nhân quả đằng sau, mâu thuẫn thiện ác, giao tranh chính tà trong quá trình nhân quả, hoặc là xung động, hoặc là do dự, hoặc là mê mang, hoặc là quyết liệt, mỗi một thái độ của sinh mệnh đều trực tiếp hay gián tiếp quyết định tương lai của mình. Một bộ “Phong Thần diễn nghĩa” chứa đựng đằng sau đó không biết bao nhiêu duyên do và hình mẫu truyền kỳ.

Ba, người vô đạo tất sẽ không kính Thần

Thế cuộc nghìn thu, đạo đức ở vị trí cao nhất, triều đại nhà Thương kế thừa đạo đức của Thành Thang, Thành Thang có thể cầu hiền tài là Y Doãn, lưới mở một mặt cho sinh linh, khoan dung nhân từ, có đức lớn, bảo hộ và cứu vớt sinh mệnh, mưa thuận gió hòa mà truyền ngôi vị 600 năm. Thương Trụ Vương đỡ xà thay cột trụ, sức mạnh vô song, văn có Thương Dung, Tỳ Can, Triệu Khởi, võ có thái sư Văn Trọng, Hoàng Phi Hổ, trong tam cung có hoàng hậu hiền lương thục đức, bốn chư hầu lớn uy chấn tám phương. Vốn dĩ có thể sáng tạo ra một điều kiện thịnh thế, nhưng Trụ Vương lại là một người vô đạo.

Người vô đạo tất sẽ không kính Thần. Từ thời đại thượng cổ, con người đều kính thiên địa, kính quỷ Thần, trọng đạo đức, coi trọng nhân luân, Nữ Oa Thị là Thần thủy tổ của Trung Hoa, vậy mà Thương Trụ lại dám có ý khinh nhờn, từ đó mà xúc phạm Thần linh, tạo ra một nhân quả xấu, vì tâm sắc dục mà chiêu dẫn yêu hồ nghìn năm, bị mê trụ bản tính, mất đi giang sơn xã tắc.

Mở đầu “Phong Thần diễn nghĩa”, nói về một người vô đạo (Thương Trụ) không kính Thần, gióng lên một hồi chuông cảnh báo. Tất cả những người vô đạo thường bắt đầu từ việc không kính Thần, không kính Thần tất sẽ phóng túng dục vọng thất đức, gieo xuống một hạt giống diệt vong sau này.

Bốn, thời kỳ con người và người tu hành đồng thời tồn tại

Con người thời kỳ thượng cổ, bởi vì tiêu chuẩn đạo đức cao, tác phong thuần hậu, tin vào lời giáo huấn của Thần, những kỳ tích của Thần, Đạo cũng triển hiện một cách tương ứng cho thế nhân. Văn hóa Trung Hoa khởi nguồn từ Đạo gia, người tu hành thời đó được mọi người tôn trọng. Từ việc Trụ Vương tiếp kiến Vân Trung Tử, có thể thấy rằng thiên tử tôn kính Đạo, Văn Thái Sư cũng từng tu hành trong Triệt Giáo, Hoàng Phi Hổ, Trương Quế Phương, Sùng Hắc Hổ, Trương Khuê, các chư hầu võ tướng phần nhiều là những cao nhân dị sĩ, có mối liên hệ mật thiết với người tu hành ngoài thế tục. Lý Tịnh, tướng canh giữ Trần Đình Quan, từng theo học đạo Độ Ách ở phía Tây núi Côn Luân, Na Tra bái sư phụ là Thái Ất Chân Nhân ở núi Càn Vân, những đứa trẻ có căn cơ lớn thường được sư phụ Đạo gia nhận làm đồ đệ, đi vào núi tu luyện khắc khổ, có người xuất thế tu thành Đạo trở thành Thần Tiên, có người học thành phò tá quân vương, có người ẩn cư ở dân gian tu thân dưỡng tính, điều này ở triều đại nhà Thương lúc đó là một chuyện phổ biến, từ giáo dục, dùng binh, kỹ nghệ, tuyển chọn nhân tài, tục lệ dân gian, chế độ cai quản, ở mọi phương diện đều có thể nhìn thấy văn hóa vào cuối triều Thương là một loại văn hóa nửa Thần nửa nhân điển hình, đó không phải là truyền thuyết mà là lịch sử chân thực, tồn tại trong sinh hoạt hiện thực của người thời kỳ đó.

Sự diệt vong của triều Thương, báo trước sự kết thúc thời đại người và người tu hành cùng tồn tại ở thời thượng cổ, nguyên nhân chủ yếu là vì chỉnh thể đạo đức của thế nhân trượt xuống, cần phải sản sinh một loại văn hóa và quy tắc thích ứng với thời đại mới, lần lượt những thay đổi như vậy, một mạch cho tới hôm nay, năm tháng lâu dài, thế nhân còn cho rằng đó là truyền thuyết hư cấu.

Năm, vì sao Thương Trụ lại trở nên hung ác

Thương Trụ sức địch trăm người, có thể giết gấu đập hổ, hùng tài cái thế, vì sao có thể hung tàn ác độc đến mức cổ kim không ai sánh bằng? Bởi vì bị hồ ly ngàn năm mê trụ bản tính.

Thế nào gọi là người phóng túng dục vọng chiêu mời ma? Yêu ma không phải tự dưng sinh ra, mà vốn là ma tính phóng túng dục vọng vô hạn của Thương Trụ, tâm phóng túng sắc dục, khinh nhờn Thần linh, chế tạo bào lạc hành hình để ngăn chặn lời nói trái ý, giết vợ giết con tiêu diệt tông miếu nhân luân, xây sái bồn để rắn độc ăn thịt cung nhân, giết chư hầu thất tín thiên hạ. Xây lộc đài tiêu tốn tiền tài của thiên hạ, vô liêm sỉ làm nhục vợ của thần tử, tàn hại sinh mệnh để làm trò tiêu khiển, moi bào thai của phụ nữ mang thai, cắt thận của đồng nam để nấu canh, làm tuyệt tự dòng dõi của vạn họ.

Quân vương được hưởng phú quý cao nhất ở nhân gian, cần phải giữ đức của vua, thực hành nhân luân, bảo hộ sinh mệnh, tránh xa sắc dục, tiếp nhận lời trung, biết liêm sỉ, tiết kiệm tiền tài vật lực, kính trời và thương dân, thuận với thiên ý. Thương Trụ đã làm trái Đạo, cuối cùng nước mất nhà tan, tự thiêu mất thân xác ở trên đài cao.

Thương Trụ đã quy tụ đủ các loại tội nghiệt cổ kim, đã lưu lại bài học thiên cổ cho người đời sau. Con người không thể làm việc ác, phóng túng dục vọng, nghịch thiên lý, diệt nhân tính, quân vương lại càng phải giữ vững. Tội ác chồng chất như Thương Trụ, cuối cùng chiêu dẫn yêu ma. Khi thế nhân đạo đức bại hoại, phóng túng dục vọng, yêu ma tất sẽ lại đến.

Sáu, người và Thần đều không dám xem nhẹ lời thề

Thân Công Báo vốn dĩ là người tu hành ở núi Côn Luân, bởi vì tâm đố kỵ mà gây xích mích giữa Xiển Giáo và Triệt Giáo, ở trước mặt sư tôn đã lập một lời thề, nếu vi phạm lời thề sẽ bị dìm ở biển Bắc Hải. Ân Giao, Ân Hồng là con của Trụ Vương, đã phụ ân cứu mệnh của Đạo gia Côn Luân, quên đi mối hận giết mẹ đau thương, không nghe lời sư tôn khổ tâm phó thác, làm ngược với ý trời, trợ Trụ vi ngược, hai người Ân Giao, Ân Hồng lập lời thề độc, nhưng hai người đều nghe theo lời xúi giục của Thân Công Báo, cuối cùng vi phạm lời thề, một người bị Thái Cực Đồ hóa thành tro, một người bị kẹp dưới núi cày nát thân.

Trong bộ “Phong Thần diễn nghĩa” có rất nhiều câu chuyện những người lập lời thề mà không thực hiện lời thề, cuối cùng khó thoát khỏi nhân quả, người đời sau cần phải suy nghĩ sâu sắc trước những lời thề.

Thiên Thần còn như vậy, huống hồ là con người.

Bảy, nhân thân nan đắc

Tranh chấp giữa Xiển Giáo và Triệt Giáo bắt nguồn từ chuyện có Đạo diệt trừ vô Đạo, ứng với kiếp nạn nhân Thần 1500 năm, khí số nhà Thương đã tận, Chu Võ đang hưng, mà mấu chốt của sự bất đồng trên thượng giới có thể là việc liệu động vật có thể tu thành chính quả hay không.

Người của Triệt giáo rất nhiều là động vật tu hành, đắc được linh tính của trời đất, nhưng động vật không thể tu thành chính quả, vừa hay gặp kiếp số, rất nhiều người của Triệt giáo không giữ vững tâm tính, bị đánh hiện nguyên hình, đạo hạnh 1000 năm bị hủy trong chốc lát.

Ô Vân Tiên bị hóa thành con rùa vàng và được Chuẩn Đề đạo nhân đưa về hồ Bát Đức ở Tây Phương, Cù Thủ Tiên bị đánh thành con sư tử lông xanh, trở thành thú cưỡi của Văn Thù Quảng Phát Thiên Tôn, Linh Nha Tiên bị đánh thành con voi trắng bị Phổ Hiền Đạo Nhân thu phục, Kim Quang Tiên bị Từ Hàng Đạo Nhân đánh hiện nguyên hình thành con Hống lông vàng, Quy Linh Thánh Mẫu bị đánh hiện nguyên hình thành con rùa,…

Dã thú cũng có những người tu luyện có thành tựu, ở núi Mai Sơn có thất quái, họ là vược trắng, lợn, dê, trâu, chó, cừu, rắn, rết, bảy loại động vật, tu luyện mà thành. Nhưng do động vật không thể tu thành chính quả, nên khi Vũ Vương phạt Trụ, họ không nhẫn chịu được sự cô độc, đã xuất sơn cầu công danh, một trường đại chiến, thất quái bị tiêu diệt.

Động vật không được phép tu thành chính quả, dù có tu nghìn năm cũng sẽ có kiếp nạn. Thông Thiên Giáo Chủ, Nguyên Thủy Thiên Tôn, Lão Tử và Tây Phương Giáo Chủ ở trong trận Vạn Tiên, thiên số đã là vậy cũng ứng với thiên lý động vật không được tu thành chính quả.

Trời cao nhân từ, tu hành không dễ, căn cơ không giống nhau, đạo hạnh có sâu có nông, mỗi người đều có nơi trở về. Tam đại sĩ sau khi thu nhận được ba thú cưỡi đã đại hưng Thích giáo, Khổng Tuyên Đại Minh Vương và một số khác theo Chuẩn Đề Đạo Nhân tới thế giới Tây Phương, có người có tên trên Phong Thần Bảng, nơi quy về không giống nhau, cũng là để an ủi công sức khổ tu.

Hàng trăm nghìn năm nay, đắc được thân người khó, động vật không được phép tu thành chính quả, nhiều câu chuyện của những sinh mệnh trong Bảng Phong Thần đã cho người ta một lời giải thích toàn diện đầy sinh động.

Tám, tâm đố kỵ của Thân Công Báo

Thân Công Báo cho rằng đạo thuật của Khương Tử Nha không bằng ông ta, vô cớ sinh ra tâm đố kỵ, đố kỵ Tử Nha được đi phong Thần, còn mình thần thông quảng đại, tại sao lại không được. Chính bởi cái tâm này, ban đầu giỡn cợt Khương Tử Nha, bị Nam Cực Tiên Ông trừng phạt, không biết hối cải, không ngừng kích động mâu thuẫn giữa Triệt giáo và Xiển giáo, dẫn đến việc vô số nhân sĩ tu đạo bị chết trong cuộc sát phạt Thương Chu. Phát ra lời thề độc, sau đó lại vi phạm lời thề, cuối cùng bị dìm chết ở biển Bắc.

Kiếp nạn định số trong “Phong Thần diễn nghĩa”, có một nhân khởi chính là tâm đố kỵ của Thân Công Báo. Có thể thấy tâm đố kỵ của người tu hành đáng sợ như thế nào, là bước đầu dẫn tới tội ác vô biên.

Người xưa dùng cái tâm của Thân Công Báo để cảnh tỉnh tâm đố kỵ của người tu hành, không bỏ đi tâm đố kỵ thì tu hành sẽ chắc chắn không đắc được chính quả.

Chín, tinh thần nhân nghĩa của thần tử nhà Ân Thương

Cơ Tử bị bắt làm nô bộc, Tỳ Can vì khuyên can mà chết, Vi Tử phải bỏ đi, đây là những người được gọi là “Ân Thương tam nhân”, tại sao người xưa lại khen ngợi không ngớt đối với tinh thần của ba vị cựu thần tử này, đây chính là luân lý và quan niệm coi trọng xã tắc, coi trọng tổ tiên, coi trọng quốc gia, văn hóa của người Trung Quốc xưa.

Chế độ quân vương cho rằng nhà tức là nước, nước tức là nhà, khi nước nhà hỗn loạn, bại vong, tất có quân vương nghịch thiên hại nhân, làm mất đức, loạn tính, mất lòng dân, mà họ thân là hoàng tộc, họ nên lựa chọn điều gì?

Hai anh em Ân Giao và Ân Hồng đã trợ Trụ vi ngược, giúp phụ vương cũng là giúp đỡ cái ác, Tỳ Can, Vi Tử, Cơ Tử cũng giống vậy, cũng có lựa chọn của mình. Vi Tử là huynh trưởng của Trụ Vương, đã nhiều lần khuyên can mà không có kết quả, đành phải rời bỏ Trụ Vương, sau này giúp Võ Vương diệt Trụ, đã bảo lưu huyết mạch của nhà Thương, Vi Tử trở thành vua của nước chư hầu Tống. Cơ Tử là thúc phụ của Trụ Vương, tính ngay thẳng, có tài năng, nhiều lần khuyên can nhưng Trụ Vương không nghe, không cách nào đành phải rời bỏ đất nước đi xa, giả điên cuồng làm nô lệ, quy ẩn bi thương gảy đàn. Say này Võ Vương hỏi đạo Cơ Tử, Cơ Tử đã lưu lại “Hồng phạm cửu trù”, dẫn theo 5000 quan dân cũ của nhà Ân Thương qua Triều Tiên, mang theo văn hóa Trung Nguyên tiên tiến. Tỳ Can là thúc phụ của Trụ Vương, là trọng thần phụ chính, thấy Trụ Vương vô đạo đã can gián mạnh mẽ, làm chọc giận Trụ Vương, muốn thấy trái tim thất khiếu linh lung của thánh nhân, nên bị moi tim chết thảm.

Ba vị thần tử cũ nhà Ân Thương, khi nước mất nhà tan, một người thì lưu lại huyết mạch, một người lưu lại văn hóa, một người dùng cái chết để khuyên gián vua, đều là vì họ trung với tổ tiên của mình, trung với đạo đức của tiên vương, trung với văn hóa vương đạo, ba loại thái độ, ba loại lựa chọn, đã lưu lại tư tưởng quốc gia cổ xưa của dân tộc Trung Hoa, đã bảo tồn tinh thần quý giá của một vương triều đã mất.

Mười, pháp khí, thú cưỡi và đạo thuật

Thú cưỡi của Hoàng Phi Hồ là bò thần ngũ sắc, thú cưỡi của Khương Tử Nha là tứ bất tượng, thú cưỡi của Văn Thái Sư là con kỳ lân đen, thú cưỡi của Hanh Cáp nhị tướng là con thú mắt vàng, Vân Tiêu tiên tử và Long Cát công chúa cưỡi thanh loan, Triệu Công Minh cưỡi hổ đen, thú cưỡi của Đạo Đức Chân Quân là thú mây ngũ sắc.

Khương Tử Nha có pháp khí đả thần tiên, hạnh hoàng kỳ, Na Tra chân cưỡi bánh xe phong hỏa, tay cầm vòng càn khôn, Triệu Công Minh dùng định hải châu, dây trói rồng, ba vị nương nương Quỳnh Tiêu, Bích Tiêu, Vân Tiêu có hỗn nguyên kim đấu và kim giảo tiễn, Kim Tra dùng độn long trụ, Tiếp Dẫn Đạo Nhân có tòa sen vàng 12 tầng, tiếp dẫn bảo phiên, Thông Thiên Giáo Chủ có lục hồn phiên, chu tiên kiếm, Nữ Oa Nương Nương có giang sơn xã tắc đồ, Lục Áp có đinh đầu thất kiếm thư, Quảng Thành Tử có phiên thiên ấn, Xích Tinh Tử có kính âm dương, Nhiên Đăng đạo nhân có càn khôn thước, linh cữu đăng, Vi Hộ có giáng ma xử,…

Đạo thuật trong “Phong Thần diễn nghĩa” khiến người ta hoa mắt chóng mặt, ba đầu sáu tay, bát cửu huyền công, ngũ hành độn thuật, kỳ môn độn, ngũ sắc thần quang, thiên lý nhãn, thuận phong nhĩ,…

Bất kỳ một bộ tiểu thuyết thần thoại nào trong lịch sử cũng không thể có trí tưởng tượng kỳ diệu và thần kỳ đến vậy, có thể đem những pháp khí, thú cưỡi, đạo thuật của thế giới Thần Tiên miêu tả một cách sống động, chi tiết, không chỉ đơn giản là vấn đề tưởng tượng của văn nhân, tác giả còn phải được trang bị những kiến thức và tu dưỡng rất thâm sâu của Đạo gia, mới có thể viết ra được những vũ khí và công năng như vậy, khiến cho người Trung Quốc có thể quen thuộc với những thuật ngữ thần bí của giới tu hành, còn lưu lại cho người đời sau những nhân tố Thần truyền phong phú, lưu lại văn hóa tất yếu cho thời đại tối hậu.

Mười một, Trung Hoa là vùng đất được lựa chọn đầu tiên của chúng sinh

Trên thế giới chưa từng có bất kỳ bộ sách nào có thể biểu đạt được nội hàm như vậy: văn minh Trung Hoa cổ xưa, dòng chảy dài của lịch sử, năm tháng lâu dài thương tang, chúng sinh người và Thần, các giới thiên địa, vùng đất được lựa chọn đầu tiên khi đến phàm trần là Trung Hoa, sau khi kết duyên ở Trung Hoa, liền chuyển sinh đến các nơi trên thế giới, đặt định nền văn hóa đạo đức cho nhân loại. Đệ tử Đại Pháp đều biết rằng thiên cơ trong quá khứ này, mà trong các cuốn sách ở cổ đại, chỉ có trong “Phong Thần diễn nghĩa” mới từng xuất hiện những miêu tả tương tự.

Cù Lưu Tôn gia nhập Thích giáo thành Phật, Văn Thù Quảng Pháp Thiên Tôn sau này trở thành Văn Thù Bồ Tát trong Phật giáo, Phổ Hiền đạo nhân sau này trở thành Phổ Hiền Bồ Tát, Từ Hàng đạo nhân sau này trở thành Quan Thế Âm Bồ Tát, Tây Phương Giáo Chủ thu nhận Khổng Tước Đại Minh Vương, Trưởng Nhĩ Định Quang Tiên, rất nhiều nhân sĩ có duyên với Thích giáo,…

Thương Chu thay đổi, chính tà khó phân, tranh chấp giữa Triệt Giáo, Xiển Giáo khiến cho những kẻ sĩ đạo hạnh cao thâm gặp phải kiếp sát thân, người có duyên không ở trên bảng phong thần, sẽ kết duyên với Tây phương giáo, tiếp tục tu hành.

Người học Phật, người học Đạo, rất nhiều pháp môn, nhưng học Đạo xong gia nhập Phật, ngược lại, người học Phật cũng có thể học Đạo, cần xem duyên phận, cần xem lựa chọn của bản thân. Văn minh Đông phương từ sớm đã kết duyên với văn minh Tây phương, có rất nhiều người có duyên, người ở trong chốn hồng trần, trước hết tại Trung Hoa kết duyên, sau đó ở Tây phương thành tựu sự nghiệp công đức.

Câu chuyện trong phong thần bảng, không xét về tính chân thực, lại tiết lộ một tín tức độc đáo. Mảnh đất Trung Quốc này, lịch sử lâu dài, nhân khẩu đông, núi sông tráng lệ, văn hóa Thần truyền hệ thống nhất, phong phú nhất, là vùng đất lựa chọn đầu tiên của chúng sinh, có lẽ còn ẩn tàng nhiều hơn nữa những thiên cơ không để cho con người biết!

Mười hai, âm nhạc thời cổ đại câu thông với Đạo

Cổ cầm được tạo ra bởi tiên hoàng Phục Hy, chế tạo dựa theo thân hình của phượng hoàng, lấy chiều dài tượng trưng cho 365 ngày trong một năm, ban đầu có năm dây, tượng trưng ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ, Văn Vương sau này vì thương nhớ con trưởng Bá Ấp Khảo mà tăng thêm một dây, Vũ Vương sau khi phạt trụ, vì để tăng thêm sĩ khí, lại tăng thêm một dây, do đó, cổ cầm có tên gọi là “Văn Võ thất huyền cầm”.

Bá Ấp Khảo là con trưởng của Văn Vương, ấu chủ của Tây Kỳ, phụ thân bị giam cầm tại Triều Ca bảy năm, biết rõ là thiên số, vì để tận hết lòng trung hiếu của thần tử, không nghe theo lời khuyên ngăn của chúng quan, gặp Trụ Vương hiến bảo vật để thay cha “chuộc tội”.

Bá Ấp Khảo giỏi cổ cầm, trên thế gian không có người thứ hai, phong tư tuấn nhã, khiến yêu hồ khởi sắc tâm, lệnh cho Bá Ấp Khảo dạy đàn, và cùng Bá Ấp Khảo nói chuyện nhạc đạo. Nội ngoại ngũ hành, sáu luật ngũ âm, tay trái mắt rồng, tay phải mắt hổ, theo ngũ âm cung, thương, giác, trưng, vũ, lại nói về tám pháp: mạt, khiêu, câu, dịch, phiết, thác, đả, trích. Có sáu điều kỵ: nghe khóc kể, mình rơi lụy, chuyên tâm sự, đang giận hờn, đang kinh hãi, tưởng việc tà. Bảy điều không dám đàn: mưa vạy gió may, có tang than khóc, áo mão chẳng ngay, say rượu loạn tính, nhơ uế không sạch, chẳng xông hương là khinh nhờn, không kẻ biết nghe là tục, gặp những điều này không thể đàn.

Một vài lời của Bá Ấp Khảo, đã bàn đến được thủ pháp, âm luật, hoàn cảnh, tâm thái, tu dưỡng trong cổ cầm, phản ánh ra việc cổ nhân thông qua nhạc đạo để tu thân, thông qua nhạc đạo để di tình, thông qua nhạc đạo mà học lễ, dùng lễ nhạc giáo hóa, âm nhạc, cổ cầm có thể trở thành công cụ để tu thân.

Bá Ấp Khảo lấy âm để cự tuyệt sắc dụ dỗ, dùng ca nhạc để tiếp cận quân vương, tận chữ hiếu của người con, chữ trung của thần tử, cam nguyện bị băm nhỏ thịt. Người đời sau là Bá Nha và Chung Tử Kỳ đàn khúc “cao sơn lưu thủy”, Kê Khang thời Tấn đến pháp trường đàn khúc “Quảng Lăng”, Cao Tiệm Ly gảy đàn và Kinh Kha “Gió thổi vi vu, Dịch Thủy lạnh, Tráng sĩ một đi không trở về!”,…

Chính là: Kỷ khúc cổ cầm thanh, đa thiểu du du ý (Vài thanh âm cổ cầm mà ẩn chứa biết bao nhiêu ý tứ ở trong).

Mười ba, Sùng Hắc Hổ đại nghĩa diệt thân

Sùng Hắc Hổ là đệ đệ của Sùng Hầu Hổ, một trong tứ đại chư hầu của triều Thương, Sùng Hầu Hổ là trọng thần của nhà Thương, làm rối loạn triều chính, mê hoặc thiên tử, tàn hại bách tích, bóc lột tiền tài của nhân dân để làm giàu cho bản thân, nhẫn tâm thất đức, tội ác chất chồng. Văn Vương vì dân chúng mà thảo phạt Sùng Hầu Hổ, Khương Tử Nha viết thư cho Sùng Hắc Hổ, Sùng Hắc Hổ hiểu rõ đại nghĩa, thà đắc tội với tổ tông, chứ không thể đắc tội với bách tính, bắt anh trai, sửa lại luật, bảo hộ tông miếu, lưu lại huyết mạch Sùng thị, bảo vệ binh lính và dân thường tránh khỏi nạn binh đao.

Hành vi của Sùng Hắc Hổ là hình mẫu của việc đại nghĩa diệt thân, trung với vạn dân chứ không trung với người thân, trung với bách tính chứ không trung với quân vương, đây mới là giải thích toàn diện về trung nghĩa của bậc đại trượng phu, có được tấm lòng và sự lựa chọn này, Sùng Hắc Hổ mới có thể xả thân vì nhân nghĩa, sau này được phong Ngũ Nhạc chính thần.

Mười bốn, đức hạnh của Văn Vương chiếu rọi thiên cổ

Trong bảng phong thần có trung thần lương tướng, đại la thần tiên, kỳ nhân dị sĩ, duy chỉ có Văn Vương là không có tên trên bảng phong thần, cũng không có duyên với Thích giáo, địa vị của ông đặc thù, đức hạnh huy hoàng cổ kim.

Văn Vương nhân nghĩa giáo hóa vạn dân ở Tây Kỳ, khiến phượng hoàng ở Kỳ Sơn cất tiếng hót, nhân tâm thuần phác, đi đường không nhặt của rơi, ở nhà không cần khóa cửa, ba lần đến kinh thành nhà Thương can gián, bị giam ở Dũ Lý bảy năm, bị bắt giam mà vẫn diễn dịch tám tám sáu mươi tư quái, bên bờ sông Vị Thủy cầu người hiền là Khương Tử Nha, lưu lại giai thoại nghìn thu quân thần, cho tới lúc chết vẫn giữ trọn tiết của thần tử, không thảo phạt Thành Dương, có phúc trăm con, gần trăm tuổi mới mất.

Văn Vương có thể nói là nghìn năm mới có một người, vốn dĩ đều là kết duyên cùng với chúng nhân, Thần, diễn một vở đại kịch để lưu lại văn hóa Thần truyền.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/129513

The post Giải mã “Phong Thần diễn nghĩa” (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>