Đàm luận về "Trinh Quán Chính Yếu" | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnSat, 10 Aug 2024 15:52:40 +0000en-UShourly1Đàm luận về “Trinh Quán Chính Yếu” (Phần 12)https://chanhkien.org/2020/11/dam-luan-trinh-quan-chinh-yeu-phan-12.htmlSat, 28 Nov 2020 07:54:36 +0000https://chanhkien.org/?p=26830Tác giả: Lưu Như Tiếp theo Phần 11 [ChanhKien.org] Đoạn hai trong Trinh Quán Chính yếu bàn luận về “thế nào là minh quân”. Trọng tâm của đoạn này là đạo lý “nghe các ý kiến từ nhiều phương diện mới hiểu rõ được vấn đề”. Nói một cách thông thường là cần nghe ý […]

The post Đàm luận về “Trinh Quán Chính Yếu” (Phần 12) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

Tiếp theo Phần 11

[ChanhKien.org]

Đoạn hai trong Trinh Quán Chính yếu bàn luận về “thế nào là minh quân”. Trọng tâm của đoạn này là đạo lý “nghe các ý kiến từ nhiều phương diện mới hiểu rõ được vấn đề”. Nói một cách thông thường là cần nghe ý kiến từ nhiều phương diện rồi mới đưa ra quyết định, không nên nghe ý kiến một chiều đã tin ngay. Đoạn này khiến chúng ta liên tưởng đến đạo trung dung mà Khổng Tử dạy. Hàm nghĩa chính của trung dung chính là “quá do bất cập” (thái quá cũng như bất cập), cũng có nghĩa là không được đi đến cực đoan. Đối nghịch với trung dung là đạo của kẻ tiểu nhân, tất sẽ đi sang cực đoan, đi đến cùng đường mạt lộ. Đạo trung dung này thực chất chính là thể hiện nơi thế gian của đạo lý âm dương cân bằng của Đạo gia, đạo trung dung được Khổng Tử coi là cảnh giới tối cao của nhân đức. Cũng là điều con người khó làm được nhất, dễ lầm lạc nhất, vì lẽ đó mà con người rất dễ đi sang cực đoan, đánh mất trí tuệ, khiến cho không thể đưa ra quyết định sáng suốt.

Nhà Hán học người Nhật Bản Masahiro Yasuoka khi nghiên cứu lịch sử triều Tống đã sắc bén chỉ ra rằng: Triều đại nhà Tống quá chú trọng “văn” còn “võ” thì lại xem nhẹ, chỉ nghe các ý kiến của các văn nhân, dẫn đến trên chính đàn những lý luận sáo rỗng của giới văn nhân nhiều quá, khiến việc giải quyết các công việc thực tế bị sai lệch, các học phái, đảng phái tranh luận không ngớt, thời Tống Nhân Tông có vẻ hoà bình và phồn vinh, nhưng thực chất đã đi đến đường cùng.

Hiện tượng mà Masahiro Yasuoka nói đến kỳ thực là do quá khoan dung (nhu) trong khi chính nghĩa (cương) lại không đủ mạnh, khoan dung một cách vô nguyên tắc, dung túng cho kẻ xấu, cương nhu không hài hòa, khiến cho quốc gia đi đến cùng đường phải chịu khuất nhục. Điều này hoàn toàn trái ngược với cách làm của Đường Thái Tông văn võ tương xứng, cương nhu cân bằng.

Thế nào là minh quân

Trước tiên chúng ta hãy đọc nguyên văn đoạn thứ hai của Trinh Quán Chính yếu:

Đoạn đối thoại này rất mộc mạc, năm Trinh Quán thứ hai, Đường Thái Tông hỏi đại thần Ngụy Trưng: “Thế nào là minh quân và hôn quân” Ngụy Trưng đáp: “Vua thánh minh là vì biết nghe ý kiến và quan điểm khác nhau ở nhiều phương diện; vua ngu tối là bởi chỉ biết nghe và tin lời một phía. Kinh thi viết: “Tiên nhân hữu ngôn, tuân vu sô nghiêu” (nghĩa là: người xưa có câu rằng hãy hỏi ý kiến của kẻ cắt cỏ và đốn củi). Xưa ông Nghiêu, ông Thuấn mở rộng cửa ngõ bốn phương để nắm tình hình của bốn phương tám hướng trong thiên hạ; mở rộng tai mắt để hiểu tình hình các nơi, lắng nghe các ý kiến khác nhau. Vì thế minh quân không việc gì không biết, cho nên những lời hoa mỹ của những loại người có tài không có đức như Cộng Cung, Cổn không thể bịt mắt được minh quân; lời xu nịnh và gian kế của lũ tiểu nhân gian tà cũng không thể mê hoặc được minh quân. Tần Nhị Thế thì không như vậy, sống trong thâm cung, xa lánh hiền thần, xa rời dân chúng, chỉ tin lời Triệu Cao, đến khi thiên hạ bang hoại, dân chúng phản loạn cũng không biết. Tùy Đạng Đế chỉ tin lời Ngu Thế Cơ, quân khởi nghĩa các lộ đánh lấy thành trì, cướp lấy hương ấp mà vẫn không hay biết. Bởi thế, vua mà biết chắt lọc lắng nghe, thu nạp rộng rãi các ý kiến của quần thần, tiếp thu kiến nghị của bề tôi thì đại thần dù quyền thế cao đến mấy cũng không thể che dấu tình hình bên dưới, bịt mắt vua, một tay che trời, mà tiếng kêu của bá tánh ắt có thể tới tai vua”. Thái Tông rất tán thành ý kiến của Ngụy Trưng.

Luận giải của Ngụy Trưng rất rõ ràng, ông muốn Thái Tông biết lắng nghe nhiều ý kiến khác nhau, nghe nhiều rồi sẽ tự hiểu rõ, chỉ nghe một chiều sẽ phiến diện. Tiếp đó ông đưa ra các tấm gương tích cực trong lịch sử về hai vị hoàng đế thánh minh là Vua Nghiêu và Vua Thuấn, sau đó lại đưa ra các tấm gương xấu trong lịch sử là triều Tần và triều Tùy để chứng minh. Đây chính là tác dụng chủ yếu của việc người xưa đọc sử sách, có thể từ đó mà rút ra các lời giáo huấn tinh thâm. Nhưng đã là một vị đế vương thì những kinh nghiệm và lời giáo huấn thu về việc trị quốc tiếp thu được qua việc đọc sách lại càng quan trọng hơn, bởi vì điều đó liên quan đến vận mệnh của toàn thể quốc gia và dân chúng.

Lời của Ngụy Trưng tuy rằng nhằm mục đích để Thái Tông hiểu được tình hình của người dân, tình hình của quốc gia, từ đó không bị gian thần che mắt bịt tai, ngoài ra những lời này cũng lại phù hợp với đạo lý trung dung. Đạo làm quân vương giảng về đức, cái đạo lý về đức này ở đoạn đầu tiên đã khẳng định rằng Thái Tông phải nhân ái với bá tánh, bất cứ việc gì cũng phải nghĩ đến bá tánh trước tiên. Đã làm một vị quân vương thì bảo vệ và chăm lo tốt cho người dân của mình là trách nhiệm số một, đó cũng là nền tảng cơ sở của những bậc đế vương giảng về đức. Nhưng đoạn thứ hai lại nói với Thái Tông rằng không chỉ cần nhân ái mà còn phải thánh minh, phải có cả hai thứ này thì mới vận dụng tốt nhân nghĩa. Lòng nhân ái thì phải đi cùng chính nghĩa thì mới thể cương nhu hài hòa.

Đạo nhân nghĩa bắt nguồn từ Chu Dịch

Trong Quần thư trị yếu – Chu Dịch có một câu như sau: “Tích giả thánh nhân chi tác dịch dã. Tương dĩ thuận tính mệnh chi lí, thị dĩ lập thiên chi đạo viết âm dữ dương, lập đích chi đạo viết nhu dữ cương, lập nhân chi đạo viết nhân dữ nghĩa” (Nghĩa là: Ngày xưa thánh nhân sáng tạo ra Chu Dịch, để phù hợp với tính chất của vạn vật và quy luật biến hóa của tự nhiên, nên đã sáng lập ra phương thức biểu đạt của trời gọi là âm và dương, sáng lập ra phương thức biểu đạt của đất gọi là nhu và cương, sáng lập ra phương thức biểu đạt làm người gọi là nhân và nghĩa).

Có thể thấy Khổng Tử cả đời giảng về nhân nghĩa, chính là giảng về đạo lý âm dương cân bằng mà Thánh Hoàng Phục Hy truyền lại, sau đó lại được Chu Văn Vương phát triển thành Chu Dịch, đó là đạo lý cương nhu tương hỗ thể hiện ở con người. “Nhân pháp địa, địa pháp thiên” (nghĩa là người thuận theo đất, đất thuận theo trời) của Lão Tử giảng lại càng rõ hơn. Con người học theo đạo lý cương nhu tương hỗ của đất, đất học theo đạo của trời về âm dương cân bằng. Đây chính là nói rằng đạo trung dung của Khổng Tử xuất phát từ nhân đức, nhưng nhân cần phải có nghĩa mới không đi sang cực đoan. Nghe và tin một chiều chắc chắn sẽ mất cân bằng.

Nhân chủ yếu thể hiện mặt nhu hòa và khoáng đạt, còn Nghĩa lại thể hiện sự cương chính, uy nghiêm không nặng tình cảm. Cho nên, chương mở đầu Học nhi đệ nhất-Luận ngữ của Khổng Tử đã nhắc nhở những nho sinh đời sau rằng: “Tín cận ư nghĩa, ngôn khả phục dã” (Nghĩa là: tín gần với nghĩa thì lời hứa có thể thực hiện được) nghĩa là chữ tín tuy là thể hiện của nhân đức, nhưng tất phải phù hợp với nghĩa lý thì mới có thể tin cậy được. Những đạo lý này đã được viết rất rõ trong chương mở đầu của Luận ngữ. Đáng tiếc thời nhà Tống có không ít các học giả đã dần dần lệch khỏi những lời dạy bảo của Khổng Tử, đưa ra các loại lý thuyết suông, cũng giống như nền giáo dục ngày nay, các loại lý thuyết và danh từ mới không ngừng xuất hiện, chỉ chú trọng nghiên cứu học thuật, mà quên mất tinh thần thực tiễn, cũng chính là quên mất dùng đạo lý nhân nghĩa để đối chiếu với hành vi của bản thân. Văn nhân thời đó, vì thích tranh luận không ngừng nên đã hình thành các học phái, phản ánh trên chính đàn chính là sự hình thành các đảng phái và nhóm tranh chấp. Điều này đã làm mất đi đại nghĩa cương chính, khẳng khái, bao dung của các nho sinh thời đại Đường Thái Tông. Các nho sinh đời sau cũng vì thế mà dần dần đi lệch khỏi đạo trị quốc mà hai vị vua thánh hiền Nghiêu Thuấn để lại. Hàm nghĩa của đức cũng bắt đầu đi sang cực đoan.

Triều Tống vì lẽ đó mà nhất mực trọng văn khinh võ, nhất mực nói về nhân mà rời xa nghĩa, dẫn đến dương không đủ cứng rắn, nhiều lần nhân nhượng kẻ địch xâm phạm biên giới, đúng là chiều quá sinh hư, tiêu cực, bị động, chịu khuất nhục, đây là bài học giáo huấn sâu sắc. Nhưng nếu quá dựa vào sự cứng rắn của dương, quá coi trọng võ thì lại biến thành chính quyền bạo lực, vậy cũng không được. Cho nên Khổng Tử giảng hàm dưỡng, người quân tử phải hiểu rằng cần có giới hạn, không được thái quá, cần phải hiểu được tính trọng yếu của nhẫn.

Trung dung ghi lại lời nguyên gốc của Khổng Tử, giảng rằng “thái quá cũng như bất cập”

Trong Trung dung, Khổng Tử đã giảng một câu như thế này: Khổng Tử nói “Trung dung kì chí hĩ hồ! Dân tiển năng cửu hĩ” (Nghĩa là: Đạo trung dung là triết lý tối cao của nhân sinh! Đã lâu rồi người ta không còn làm được theo đạo lý này)

Ý nghĩa là gì? “Trung dung đó là đức hạnh tối cao! Mọi người rất khó nắm vững và vận dụng nó, điều này thực ra đã xảy ra rất lâu rồi!” Câu nói này đã nói rõ đức ở cảnh giới tối cao mà Khổng Tử lĩnh ngộ được chính là Trung dung. Nhưng những lĩnh ngộ này của Khổng Tử lại là nhờ nghiên cứu Kinh Dịch. Câu thành ngữ “Vĩ biên tam tuyệt” chính là nói về việc Khổng Tử nghiên cứu Kinh Dịch chuyên chú đến mức nhiều lần làm đứt cả dây da buộc sách trúc, tuổi đã cao mà vẫn than thở rằng nếu có thể sống thêm một chút thì có thể lĩnh hội được nội hàm thâm sâu hơn.

Một đời Khổng Tử chỉ gánh vác trách nhiệm đi giảng giải và truyền thụ, giáo hóa đức hạnh cho các vị thánh vương thời cổ đại, bản thân ông chưa từng viết sách, ông vô cùng khiêm tốn và tôn kính tổ tiên và cho rằng mình còn chưa đến đâu, nên không dám coi những kinh thư mình chỉnh lý Kinh Dịch, Kinh Thi, Thượng Thư là thứ của mình, ông cho rằng bản thân mình lĩnh ngộ vẫn chưa đủ, cũng chính là chỉ dạy các đệ tử đời sau rằng những học vấn học được từ thời Tam Hoàng Ngũ Đế của nhà Hạ, Thương, Chu thì nhất thiết không được đem ra lập thành môn phái riêng, sáng tạo ra cái mới, để rồi đi đến cùng đường. Một số hiện tượng giáo điều, cổ hủ xuất hiện trong những nho sinh đời sau chính là hậu quả của việc đi lệch khỏi những lời Khổng Tử chỉ dạy. Những hiện tượng xấu này đã bị Trung Cộng lợi dụng để bóp méo và công kích giáo dục truyền thống. Mọi người đều không xem ngọn nguồn nên không biết sự thực của các kinh sách cổ. Đừng nhìn những hành vi và tư tưởng bất hảo cực đoan của một số nho sinh đời sau mà đổ trách nhiệm lên Khổng Tử, bôi nhọ tổ tiên của chính mình.

Trong Trung dung, Khổng Tử còn nói một câu thể hiện rất rõ ràng đạo lý “quá do bất cập”: Khổng Tử nói “Đạo chi bất hành dã, ngã tri chi hĩ: Tri giả quá chi, ngu giả bất cập dã. Đạo chi bất minh dã, Ngã tri chi hĩ: hiền giả quá chi; bất tiếu giả bất cập dã” (Nghĩa là: Đạo không thực hành được thì ta đã biết rồi, ấy là do người trí thì thái quá, kẻ ngu tối thì không theo kịp. Đạo chẳng được người đời hiểu rõ thì ta cũng biết rồi, ấy là do người tài cán thì thái quá, kẻ tầm thường thì lại không theo kịp).

Đại ý của câu này là: Khổng Tử nói “Nguyên nhân không thể thực hành đạo trung dung được thì ta cũng biết rồi: Người thông minh tự cho là đúng, làm việc thái quá; kẻ ngu muội lại không đủ năng lực, làm bất cứ việc gì đều làm không tới nơi tới chốn. Nguyên nhân mọi người không hiểu rõ đạo Trung dung thì ta cũng biết rồi: Người có tài cán thì làm thái quá; kẻ tầm thường lại không làm được”. Tức là nói, mọi người đều đã đi đến cực đoan và không đạt được đến mức thánh minh nữa. Không được làm thái quá, cũng không được làm không đủ”.

Người ta tưởng rằng Trung dung là do Tử Tư viết, kỳ thực phần lớn những điều được ghi chép trong đó đều là lời của Khổng Tử, đều là những điều Khổng Tử truyền dạy. Hiểu cách vận dụng đạo lý này thì có thể bất bại, ngay cả dùng vào việc quản lý gia đình cũng sẽ rất trí tuệ, sáng suốt, con cháu của chúng ta cũng sẽ không vì được nuông chiều quá mà trở thành hư hỏng.

 

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/248112

 

The post Đàm luận về “Trinh Quán Chính Yếu” (Phần 12) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đàm luận về “Trinh Quán Chính Yếu” (Phần 11)https://chanhkien.org/2020/11/dam-luan-trinh-quan-chinh-yeu-phan-11.htmlTue, 10 Nov 2020 05:36:14 +0000https://chanhkien.org/?p=26769Tác giả: Lưu Như Tiếp theo Phần 10 [ChanhKien.org] Nhắc đến đức, con người ngày nay cho rằng người xưa chỉ muốn tán dương những đạo lý tốt đẹp, người ta hoàn toàn không ý thức được rằng, muốn trở thành bậc trí tuệ hơn người thì từng phút từng giây đều phải nhớ kỹ […]

The post Đàm luận về “Trinh Quán Chính Yếu” (Phần 11) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

Tiếp theo Phần 10

[ChanhKien.org] Nhắc đến đức, con người ngày nay cho rằng người xưa chỉ muốn tán dương những đạo lý tốt đẹp, người ta hoàn toàn không ý thức được rằng, muốn trở thành bậc trí tuệ hơn người thì từng phút từng giây đều phải nhớ kỹ chữ đức này, mới có thể ở vị trí cao, có con mắt tinh tường, nếu không tất sẽ luẩn quẩn trong giáo điều và bảo thủ, cũng tức là rơi vào đường cùng. Nói về các khía cạnh luân lý, lễ giáo, trí tuệ, pháp luật, giáo dục và nghệ thuật mà không nhắc đến chữ đức thì đều đi đến cực đoan. Do vậy câu mở đầu của Trinh Quán Chính yếu đã đi thẳng vào chủ đề, dùng câu nói của Đường Thái Tông “Đạo của người làm vua, tất phải nghĩ đến bách tính trước tiên” để bắt đầu thảo luận với quần thần, định ra nguyên nhân tại sao toàn bộ cuốn sách này lại lấy đức làm tôn chỉ. Điều này mục đích là giáo huấn những người quản lý đất nước đời sau khi làm việc chính sự trị quốc (gồm cả việc tề gia) chớ quên rằng đức là cốt lõi quan trọng. Dù tương lai gặp việc chính sự cụ thể nào, thì tôn chỉ này cũng sẽ trở thành cương lĩnh danh chính ngôn thuận nhất, sự việc dù phức tạp đến đâu nó đều có thể giúp con người tìm ra manh mối giải quyết, không đi theo giáo điều cực đoan, tránh cho bản thân bị cuốn theo sự phức tạp và hỗn loạn của sự việc hay các trường phái, học thuyết mà không thoát ra được, không biết phải giải quyết thế nào, cuối cùng mất đi phương hướng.

Lời giáo huấn trong Tư trị thông giám

Thực ra, nhắc tới sách giáo khoa của đế vương còn có cuốn Tư trị thông giám của Tư Mã Quang đời Tống mà khá nhiều người biết rõ, tên cuốn sách có ý nghĩa gì, nghĩa là có thể trợ giúp việc quản lý đất nước, làm tư liệu tham khảo thông dụng cho người quản lý đất nước. Nội dung tư liệu trong Tư trị thông giám vô cùng phong phú, nó hoàn toàn khác với các cuốn sách sử học khác, nội dung của nó gồm các sự việc điển hình mang tính chính diện và phản diện liên quan đến hưng vong, dẹp loạn của các triều đại trước đời nhà Tống. Sự kiện lớn hay nhỏ đều được phân tích kinh nghiệm và rút ra bài học trị quốc, cho nên có thể nói đây là một kho tàng lớn tổng hợp các bài học trị quốc rất có giá trị tham khảo. Nhưng con người hiện đại lại dễ hiểu lầm, không nắm được yếu lĩnh của cuốn sách này. Bởi vì trong chương mở đầu bàn luận về lễ quân thần và luận về luân thường kỷ cương triều đình, Tư Mã Quang cho rằng cần giáo dục nhân đức cơ bản cho nho sinh, giáo dục là để người học hiểu đạo lý làm người, để trở thành người đức hạnh, lương thiện, sau đó lập chí báo quốc, đây cũng chính là tôn chỉ giáo dục làm người cơ bản. Khi hiểu được tôn chỉ làm người phải trọng đức, chúng ta mới có thể lý giải được tại sao Tư Mã Quang lại coi trọng kỷ cương triều đình như vậy. Trong chương mở đầu luận lễ nghĩa kỷ cương triều đình, những người đời sau hoàn toàn bị tách ly khỏi giáo dục tứ thư ngũ kinh của nho giáo thì khó mà lý giải được điều này, rất có thể đó là nguyên nhân bị Trung Cộng phê phán là duy hộ lễ giáo phong kiến.

Kỳ thực bản thân lễ giáo vốn không có ý nghĩa châm biếm, lễ giáo phong kiến ngày nay mang nghĩa xấu cũng do Trung Cộng đã cắt đứt mối liên hệ của người Trung Quốc với tổ tiên, khiến người Trung Quốc tự hạ thấp, tự cười nhạo văn hóa của bản thân mình mà tự rời xa tất cả các kinh sách cổ đại, không nhìn ra được cái cốt lõi của sự thật mà cố ý bẻ cong một cách ác ý. Chúng dùng các tiểu thuyết văn học, tác phẩm điện ảnh để khắc họa hình ảnh những quan lại và nho sinh thời cổ đại thành những kẻ hủ bại, những người cố chấp nực cười, những kẻ ngu muội chỉ biết một mực bảo vệ lễ pháp và giáo điều làm người. Thủ đoạn thâm độc này đã khiến cho người Trung Quốc tự rời xa tổ tiên mình, không nhận ra được trí tuệ vĩ đại của tổ tiên, không nhìn thấy sự tốt đẹp của ‘Lễ nghi chi bang’. Còn ngày nay, rất nhiều người Trung Quốc chỉ khi đến Nhật Bản mới cảm thấy kinh ngạc và ngưỡng mộ vì sao người Nhật Bản lại nho nhã, lễ nghĩa như vậy. Vốn dĩ những điều này đều từ Trung Quốc truyền tới Nhật Bản. Thực ra, dùng lễ để giáo hóa dân chúng chính là dùng lễ giáo, khiến con người dùng lễ nghĩa để đối nhân xử thế, bản thân điều này căn bản không sai, sai ở chỗ sau khi Trung Cộng phê phán, đả kích toàn bộ Nho – Thích – Đạo, nền giáo dục cách làm người truyền thống càng bị mai một đi, cũng không còn ai biết đến tôn chỉ lấy đức làm gốc của giáo dục truyền thống nữa. Cứ nói đến lễ giáo thì con người hiện đại sẽ không thể lý giải được, cũng có thể tùy tiện giải thích sai lệch và bẻ cong.

Phá bỏ lời dối trá về Tam tự kinh

Muốn phá bỏ lời dối trá này thực ra rất đơn giản, chỉ cần tìm hiểu qua về triều Tống ngay từ đầu đã cho học sinh học cuốn sách giáo khoa Tam tự kinh, hơn nữa chỉ cần học sáu câu đầu (Nhân chi sơ, Tính bản thiện; Tính tương cận, Tập tương viễn; Cẩu bất giáo, Tính nãi thiên) là hiểu ngay rằng nền giáo dục chính thống của nho sinh đầu tiên phải hiểu vì sao cần được giáo dục. Sáu câu này đã nói rõ mục đích của giáo dục là giữ gìn bản tính thiện lương của con người, giúp cho bản tính thiện lương này không chịu ảnh hưởng, tác động của xã hội mà bị che lấp. Không được giáo dục thì con người sẽ rời xa bản tính, rời xa sự thiện lương trời ban cho. Có thể thấy đây là tôn chỉ căn bản của nền giáo dục thời xưa. Mà lễ giáo chính là phương thức bề ngoài và thông dụng để duy trì đạo đức, con người cần được trang bị những lễ giáo và luân lý làm người cơ bản này mới có thể thành công trong xã hội, mới có thể biết cách đối nhân xử thế cơ bản. Các dân tộc, quốc gia khác nhau tất nhiên có lễ nghĩa và phép tắc khác nhau, nhưng đều có mục đích cơ bản chung là giúp con người đối xử thiện với nhau.

Vì vậy, nếu không đứng trên tôn chỉ đạo đức để nói về lễ nghĩa và phép tắc, cho dù bản thân người viết hiểu rõ tôn chỉ căn bản của lễ nghĩa và phép tắc là nhân đức, thì người đời sau do bị tà đảng lợi dụng mà sẽ giải thích sai lệch và công kích người viết. Vì vậy trước tiên cần phải làm rõ điểm này, nếu không cũng sẽ bị Trung Cộng lừa dối mà thù hận truyền thống. Có thể thấy, dù viết sách hay làm người, dù làm nghề nghiệp nào đều phải luôn nhớ chữ đức này. Đây cũng chính là lý do ngay từ đầu tôi lựa chọn Trinh Quán Chính yếu để bàn về đế vương học. Không chỉ có Đường Thái Tông hiểu rõ đức là tôn chỉ của đạo lý này, mà những người chỉnh lý sách sử, những người viết sử cũng hiểu rất rõ đạo lý này, cho nên thời kỳ thịnh thế thiên cổ đời Trinh Quán nhà Đường không phải ngẫu nhiên, đó là nhờ quân thần đều hiểu rõ đạo lý lớn này. Sự nghiệp trị quốc của Thái Tông nhờ nắm vững yếu lĩnh về chữ đức này, nắm vững yếu lĩnh trị quốc của bậc thánh vương nên mới không ngừng thăng hoa, thịnh trị, chỉ nhìn qua vấn đề cũng có thể nhanh chóng thấy được điểm mấu chốt và đưa ra kết luận.

Tư Mã Quang phân chia con người thành bốn đẳng cấp

Vậy thì Tư Mã Quang có biết được tầm quan trọng của chữ đức không? Đương nhiên ông biết, ông phân chia con người thành bốn loại người, cũng tức là bốn đẳng cấp, sự phân chia này hoàn toàn dựa trên chữ đức: Cấp cao nhất là bậc thánh nhân, là người có đức có tài, nghĩa là đức cao thì tài trí cũng cao; cấp tiếp theo là bậc hiền nhân, đức cao nhưng tài trí có phần kém hơn; loại thứ ba là kẻ ngu dốt, không có đức cũng không có tài, tuy rằng không có đức nhưng vì không có tài trí nên không thể làm nên việc ác nào lớn, không gây tác hại lớn đối với xã hội; loại cuối cùng là tiểu nhân, đặc điểm của tiểu nhân là có tài nhưng không có đức. Tư Mã Quang coi loại người có tài nhưng không có đức là loại người tiểu nhân thấp nhất, vì những người này gây nguy hại nhiều hơn loại người ngu dốt. Lấy ví dụ một bác sỹ có tay nghề phẫu thuật cao, anh ta dùng “tay nghề phẫu thuật cao” này vào việc “giết người, hại người”. Nếu nhìn vào giáo dục ngày nay chỉ trọng kỹ thuật mà không trọng đức, những sinh viên đại học có tay nghề cao này của chúng ta nên xếp vào loại người nào đây? Nhà nghiên cứu Hán học người Nhật Bản Nobuyuki Kaji từng nói rằng, nền giáo dục hiện đại đã tạo ra một lô những tiểu nhân. Nhìn chủ nghĩa sùng bái đồng tiền ngày nay, nhìn những con người tâm địa lạnh lùng, những hiện tượng đạo đức biến dị ngày nay, thì luận điểm này Nobuyuki Kaji không phải là lời nói suông để hù dọa người ta. Năm xưa Tư Mã Quang viết cuốn sử thư này trên cơ sở người đã tiếp nhận nền giáo dục căn bản của nho giáo, lúc đó người ta không cần phải nói về đức vẫn có thể hiểu được, vì thế mới dùng lối viết mở đầu đã giảng về luân thường đạo lý.

Pháp luật không coi trọng đức tất sẽ thành pháp luật xấu

Nghĩ lại, rất nhiều lĩnh vực đều vì không đề cao chữ đức mới dẫn đến sai lệch, ví dụ pháp luật nếu rời xa đức thì sẽ không phân biệt thiện ác đúng sai, cũng có thể bị người có quyền lực tùy tiện giải thích và quy định ra pháp luật xấu. (Sở dĩ lễ giáo bị công kích cũng là do Trung Cộng không nói cho mọi người biết tôn chỉ lễ giáo của tổ tiên người Trung Quốc là lấy đức làm gốc, từ đó nó có thể tùy ý giải thích sai lệch và bóp méo) Pháp luật vốn dĩ là biện pháp cưỡng chế để duy trì đạo đức cơ bản của nhân loại, từ đó duy trì trật tự xã hội. Vậy pháp luật xấu là gì, người xưa có đức, có thể phân biệt rõ thiện ác đúng sai thì sẽ rất dễ nhận ra vấn đề. Nhưng pháp luật ngày nay đã rời xa đức, có quy định pháp luật đã biến dị thành để bảo vệ cho hành vi vô đạo đức, làm bại hoại luân thường đạo lý và hôn nhân gia đình. Con người đều đã trở nên hồ đồ, rời xa đạo đức một cách không có nguyên tắc, lấy cớ tự do nhân quyền tuyệt đối để duy hộ các loại sở thích và hành vi biến dị (như hôn nhân đồng tính…). Rời xa đức thì nhân loại sẽ rơi vào đường cùng không lối thoát. Xã hội hỗn loạn, nhân sinh lạc lối, chỉ có quay về với đức mới có thể tìm được gốc rễ vấn đề, không bị rơi vào giáo điều, hủ bại, một người lấy nhân nghĩa làm căn bản, khi nhìn nhận vấn đề sẽ rất sâu sắc, vì thế bậc đế vương có tố chất đức này có thể đưa ra quyết sách sáng suốt, trở thành minh quân. Do vậy, đoạn thứ hai của Trinh Quán Chính yếu bắt đầu bàn luận thế nào là minh quân.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/247808

The post Đàm luận về “Trinh Quán Chính Yếu” (Phần 11) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đàm luận về “Trinh Quán Chính Yếu” (Phần 5)https://chanhkien.org/2020/06/dam-luan-ve-trinh-quan-chinh-yeu-phan-5.htmlWed, 10 Jun 2020 16:32:13 +0000https://chanhkien.org/?p=26386Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 4. Sở dĩ Nhật Bản từ xưa coi Trinh Quán Chính Yếu là cuốn sách giáo khoa của bậc đế vương, không chỉ bởi vì cuốn sách giảng cụ thể về rất nhiều yếu lĩnh trị quốc trong thời kỳ giữ gìn thành quả, mà quan trọng hơn là […]

The post Đàm luận về “Trinh Quán Chính Yếu” (Phần 5) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 4.

Sở dĩ Nhật Bản từ xưa coi Trinh Quán Chính Yếu là cuốn sách giáo khoa của bậc đế vương, không chỉ bởi vì cuốn sách giảng cụ thể về rất nhiều yếu lĩnh trị quốc trong thời kỳ giữ gìn thành quả, mà quan trọng hơn là cuốn sách luôn xoay quanh “đạo làm vua” mà phát triển ra các phương diện cụ thể một cách rất hệ thống và đầy đủ. Cũng tức là nói, cuốn sách này không chỉ giảng giải chi tiết việc xử lý triều chính của quân vương, mà còn giải thích tại sao Thái Tông lại ra phán quyết và xử lý việc chính sự như vậy. Điều này không chỉ có tác dụng bồi dưỡng cho các lãnh đạo cấp cao, mà cũng có lợi ích to lớn trong giáo dục cách giao tiếp, ứng xử, cách xử lý công việc.

Giáo dục đế vương có quan hệ đến vận mệnh của bách tính muôn dân

Vào thời cổ đại, dù ở phương Đông hay phương Tây đều coi giáo dục đế vương là việc cực kỳ quan trọng, nguyên nhân rất đơn giản, là vì lời nói, hành vi của họ có liên quan đến sựu an nguy của cả quốc gia và người dân. Vận mệnh của dân chúng trong nước gần như đều nằm trong tay họ, vì thế người Trung Quốc nói rằng đế vương không có việc riêng, họ được đặt yêu cầu cực cao, họ sẽ không được phép làm việc tùy hứng như người ngày nay nói. Ví dụ Tống Huy Tông sở dĩ bị nước Kim bắt đi, không phải vì cá nhân ông ta tàn bạo ra sao. Ngược lại nếu ông chỉ là một người dân bình thường, hay là một tài tử tài hoa, một nhà văn có tài thơ ca…, thì lịch sử sẽ đánh giá ông là người tinh thông âm luật và thư họa, rất có tài về nghệ thuật. Nếu như ông chỉ là một văn nhân bình thường, chỉ làm những việc theo sở trường của mình thì cũng không sao. Nhưng triều Tống vì thế mà nghèo đói, yếu nhược, đây không phải nói bản thân âm luật hay thư họa có tội, mà là nói làm đế vương thì không thể coi những việc này làm trọng được.

Đế vương là thiên tử phụng lệnh Trời chăm lo cho quốc dân, vậy nên thực hiện tốt lệnh Trời, chăm lo việc triều chính, lo nghĩ việc đại sự của thiên hạ, đó mới là việc chính của thiên tử. Còn Tống Huy Tông lại chìm đắm trong âm luật và thư họa (chỉ coi tập luyện âm nhạc như một kỹ năng để tiêu khiển, mà bỏ qua tác dụng chính của âm nhạc là dùng nghệ thuật để tu dưỡng đạo đức và trị quốc theo cách mà các thánh vương thời cổ đại đã sử dụng), không dụng tâm vào việc đại sự tuyển hiền tài, dẫn đến gian thần gây họa, tiểu nhân đắc chí, vua bị bịt mắt che tai, mới dẫn quốc gia và dân chúng đến cảnh lầm than, ngoại tộc xâm phạm. Gian thần dù rằng có tội, nhưng dù sao trách nhiệm cuối cùng vẫn là bản thân Tống Huy Tông, tự mình không phân rõ trung thần với gian thần, nên mới tạo ra cơ hội cho tiểu nhân làm điều ác. Nhạc Phi về sau bị gian thần Tần Cối hãm hại, dân chúng bị ức hiếp, đó chính là hậu quả của việc gian thần cầm quyền.

Nhìn từ ý nghĩa này, nếu đứng trên cương vị đế vương mà không hoàn thành trọng trách của đế vương, dù là một người dân bình thường, ở phương diện kỹ năng khác dẫu có ưu tú và xuất chúng thế nào, thì cũng đã phạm đại tội. Sở thích và nhân cách của đế vương quyết định đường hướng của quốc gia, cho nên đế vương là đối tượng đầu tiên phải được giáo dục nghiêm khắc, không chỉ cần được giáo dục kiến thức cơ bản, mà còn phải được giáo dục về bổn phận và trọng trách của bản thân, tự mình thực hiện đạo nhân nghĩa để trở thành đế vương, nếu không thì hậu quả khó mà lường được.

Những nhà Nho học thời cổ đại, sở dĩ được triều đình mời làm thầy của đế vương, nghiêm khắc dạy dỗ các hoàng tử, chính là vì lý do này. Giáo dục thời cổ đại ngay từ đầu vốn là giáo dục cho các quý tộc và hoàng tộc, cũng chính vì nguyên nhân này. Địa vị càng cao, trách nhiệm càng lớn, tầm ảnh hưởng càng lớn thì yêu cầu đối với những người này cũng càng cao, đây chính là nguyên nhân vì sao chương đầu tiên trong bộ sách kinh điển Luận Ngữ nêu rõ trọng điểm cơ bản của học tập chính là để mai sau trở thành người quân tử có nhân đức, chương thứ hai mới là “Vi chính” (cầm quyền).

Giá trị của kinh điển: Khai tôn minh nghĩa – Khuông phù chính đạo

Như vậy đối với người cai trị quốc gia, những vua quan quản lý đất nước, ảnh hưởng tới vận mệnh của dân chúng và quốc gia, Khổng Tử đã định hướng và giáo dục họ thế nào? Có phải rất phức tạp, khó hiểu chăng? Có phải rất cao thâm khiến người bình thường không thể hiểu được chăng? Hoàn toàn không phải.

Cổ nhân viết sách có một đặc điểm là khai tôn minh nghĩa (ngay từ đầu đã giảng rõ ý nghĩa chủ đạo), chỉ sợ không thể giảng thật rõ những đạo lý mà mình muốn lưu lại cho người đời sau. Cho nên ai xem cũng có thể hiểu được, lập tức có thể ứng dụng vào thức tiễn, mục đích của việc viết sách vốn dĩ không phải để khoe khoang bản thân mình nắm được bao nhiêu từ ngữ hoa mỹ, thâm sâu, khó hiểu, khiến người ta cảm thấy mơ hồ, mà là làm chính lại tư tưởng của con người, tạo phúc cho đời sau. Chỉ có điều ngôn ngữ của thời cổ đại là ngôn ngữ cổ, đương nhiên đối với con người hiện tại mà nói thì rất khó hiểu, thực ra ngôn ngữ này đối với con người thời đó lại rất bình thường, thực sự không khó hiểu. Tuy nhiên mấy nghìn năm qua, những vấn đề phiền não và nan giải mà con người sống trên thế gian gặp phải không hề có sự thay đổi về bản chất, chúng đều giống nhau, chỉ là ngôn ngữ biểu đạt khác nhau mà thôi.

Cho nên, chúng ta thấy tể tướng khai quốc nhà Tống là Triệu Phổ chỉ dùng bộ Luận Ngữ này của Khổng Tử mà có thể phò tá Triệu Khuông Dẫn lập nên nhà Tống, khai sáng và cai trị thiên hạ. Tại sao như vậy? Chính vì những lời dạy của Khổng Tử được ghi trong Luận Ngữ đều là những đạo lý được viết bằng ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu, đều khai tôn minh nghĩa, ai cũng có thể dễ dàng học và hiểu. Vậy thì tác giả của Trinh Quán Chính Yếu cũng không vượt khỏi nguyên tắc này, chẳng phải ông cũng là Nho sinh sao? Ông đương nhiên hiểu được nhiệm vụ chính và mục đích viết sách của Nho sinh là dẫn dắt quốc gia theo con đường đúng đắn. Ông tất nhiên cũng hiểu rõ việc ghi chép những việc xử lý triều chính của vua quan Thái Tôn nhằm mục đích gì, đó chính là nhắm vào những người làm quan, đặc biệt là quân vương, giảng rõ đạo của quân vương, vậy nên tất cả nội dung ghi chép, chỉnh lý đều xoay quanh đạo quân vương. Ông kỳ vọng cuốn sách sẽ trở thành tấm gương và bài học tốt nhất của các bậc đế vương đời sau, đó không đơn giản là ghi chép sự thực lịch sử hàng ngày. Vì lý do đó mà chương mở đầu của Trinh Quán Chính Yếu là “Đạo làm vua”.

Vậy thì quay trở lại vấn đề chính, xem xem rốt cuộc trong chương “Vi chính” Khổng Tử giảng “Vi chính yếu đạo” là như thế nào. Khi đã hiểu được yếu đạo này thì xem lại Trinh Quán Chính Yếu sẽ trở nên vô cùng đơn giản.

Nghĩa thực sự của “Vi chính dĩ đức, thí như Bắc Thần”

Chương 2 “Vi chính – phần 2” của Luận Ngữ vừa mở đầu đã đi thẳng vào vấn đề, mở cửa thấy núi, một lời nói chỉ ra thiên cơ, đó chính là bốn chữ “Vi chính dĩ đức”. Chẳng phải rất đơn giản, rất dễ hiểu sao? Điều mà Khổng Tử cả đời giảng chính là nhân đức, vi chính dĩ đức, chẳng phải là dùng nhân đức xử lý công việc quản lý đất nước sao? Nhân đức là gì, nhân đức không phải chính là đức của con người sao? Không phải là “đạo nhân nghĩa”, là tiêu chuẩn đạo đức làm người mà con người nên tuân theo hay sao? Là quân vương hay bầy tôi, nắm trong tay quyền lực, thì nhân nghĩa này không phải chính là thể hiện việc dùng quyền lực trong tay để yêu thương người dân, cai trị bằng nhân nghĩa sao? Tinh thần nhân đạo mà con người ngày nay nói chẳng phải chính là tinh thần nhân đạo này sao? Nhân giả (người nhân nghĩa), nhân dã (con người), hai từ này có thể ngẫu nhiên mà trùng hợp sao? Cho nên quyền lực trong tay đế vương không phải dùng cho bản thân, mà dùng để chăm lo cho người dân.

Có người có thể nói, nào có đơn giản vậy, sau “vi chính dĩ đức” chẳng phải còn những lời khác sao? Đúng vậy, chính những lời sau đó lại khiến con người ngày nay cảm thấy rất nghi hoặc, cho rằng lời mà Khổng Tử giảng có vẻ như chỉ muốn bảo vệ quyền lợi và địa vị của đế vương, muốn người dân phải hoàn toàn phục tùng đế vương mà không phân biệt đúng sai, đây là do người đời sau đã hiểu sai. Chúng ta hãy xem toàn bộ nguyên văn của câu này: Khổng Tử viết: “Vi chính dĩ đức, thí như Bắc Thần, cư kỳ sở nhi chúng tinh cộng chi” (Cầm quyền phải giữ chữ đức, giống như sao Bắc Đẩu ở nơi cố định cho các ngôi sao vây quanh).

Chúng ta thấy câu này thực sự rất đơn giản, theo ngôn ngữ ngày nay là: Khổng Tử nói, việc triều chính trị quốc, cần phải trọng đức, trọng đức như thế nào? Thí dụ như Bắc Thần —chính là sao Bắc Đẩu— đứng ở trung tâm, bất biến bất động, rất nhiều ngôi sao khác đều phải xoay quanh sao Bắc Đẩu, lấy Bắc Đẩu làm trung tâm mà vận động theo.

Ở đây có chữ nào nhắc đến quyền lực, địa vị không? Không có, “thí như Bắc Thần” rõ ràng là một phép so sánh, dùng hình ảnh so sánh để giúp hiểu “vi chính dĩ đức” là thế nào, để mọi người hiểu hơn cụ thể dùng đức trị nước là thế nào, đức chính là trọng tâm triển khai và chấp hành việc triều chính, bất cứ việc triều chính nào đều phải xoay quanh đức giống như ngôi sao Bắc Đẩu, lấy đó làm tiêu chuẩn. Lấy đức làm trung tâm, đức giống như sao Bắc Đẩu, là phương hướng, chuẩn tắc và tôn chỉ cho những người trị quốc, luôn bất biến bất động.

Thật không hiểu rốt cuộc tại sao người đời sau lại bẻ cong ý nghĩa câu này thành quyền lực và địa vị, giải thích thành nhấn mạnh quyền lực tối cao vô thượng của đế vương, không thể làm trái mà phải tuyệt đối phục tùng. Câu này rõ ràng giảng rằng phải lấy đạo đức làm trung tâm, giáo dục đế vương phải coi đức như sao Bắc Đẩu, không thể dao động, thế nhưng câu này đã bị giải thích méo mó ở Trung Quốc đại lục và trên phim ảnh.

Shibusawa Eiichi, cha đẻ của nền kinh tế Nhật Bản cũng giải thích rất rõ về đạo lý này, ông cũng nói, Khổng Tử dạy chúng ta phải coi đức như sao Bắc Đẩu, là nguyên tắc bất biến động, tất cả mọi hành vi, hành động đều phải lấy đức làm trung tâm, xoay quanh đức mà triển khai. Vậy cụ thể thế nào, chúng ta sẽ bàn tiếp về sau, xem xem rốt cuộc tôn chỉ thi hành chính sự của người xưa có mối liên hệ gì về bản chất và có gợi mở gì cho cuộc sống ngày nay của mỗi chúng ta hay không.

 

Xem tiếp phần 6.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/247449

The post Đàm luận về “Trinh Quán Chính Yếu” (Phần 5) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>