Bầu trời lịch sử | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnWed, 09 Apr 2025 02:31:32 +0000en-UShourly1Bầu trời của lịch sử: Ký sự 25 năm tu luyện Đại Pháphttps://chanhkien.org/2021/02/bau-troi-cua-lich-su-ky-su-25-nam-tu-luyen-dai-phap.htmlTue, 23 Feb 2021 15:54:59 +0000https://chanhkien.org/?p=27081Thiện Dũng [ChanhKien.org] Thể ngộ tu luyện trong trạng thái tiệm ngộ —— Tu luyện Chính Pháp của các đệ tử Đại Pháp đã trải qua 20 năm gian khổ. Trong suốt hai thập kỷ trôi qua này, mỗi vị đồng tu đều đã dùng sinh mệnh bản thân để chứng thực Đại Pháp của […]

The post Bầu trời của lịch sử: Ký sự 25 năm tu luyện Đại Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thiện Dũng

[ChanhKien.org]

Thể ngộ tu luyện trong trạng thái tiệm ngộ ——

Tu luyện Chính Pháp của các đệ tử Đại Pháp đã trải qua 20 năm gian khổ. Trong suốt hai thập kỷ trôi qua này, mỗi vị đồng tu đều đã dùng sinh mệnh bản thân để chứng thực Đại Pháp của vũ trụ trong các hoàn cảnh tu luyện khác nhau. Do sự bức hại của cựu thế lực, một số học viên cá biệt đã bị nhân tâm quan niệm cản trở, không thể phát huy đầy đủ Pháp lực thần thông mà Đại Pháp ban cho. Mục đích ban đầu của bài viết này là giao lưu thảo luận ​​với các đồng tu để phá trừ quan niệm con người, dùng chính niệm của Thần để làm chủ tể chủ đạo quá trình tu luyện Chính Pháp, phá trừ bức hại của cựu thế lực, làm tròn thệ ước của Thần. Những chỗ còn thiếu sót xin từ bi chỉ rõ.

Sinh mệnh tại các tầng thứ khác nhau trong vũ trụ đều là do tầng tầng lạp tử vi quan tổ hợp cấu thành nên sinh mệnh cá thể bề mặt. Đệ tử Đại Pháp tu luyện tại thế gian hồng trần, thuận theo việc trừ bỏ chấp trước nhân tâm, đồng hóa với đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn của vũ trụ, cảnh giới tu luyện dần dần thăng hoa thì mật độ công của tự thân sẽ không ngừng được tăng lên. Sư tôn giảng:

“Khi lên đến tầng rất cao, mật độ năng lượng ấy so với phân tử nước thông thường có thể gấp 100, 1000, [hoặc] 100 triệu lần; tất cả đều có thể. Vì tầng càng cao, mật độ của nó càng lớn và càng tinh tế, uy lực càng lớn.” (Chuyển Pháp Luân – Bài giảng thứ hai)

Cảnh giới tư tưởng và diễn hóa thân thể của đệ tử Đại Pháp tại giai đoạn tu luyện này cách biệt rất lớn so với người thường. Kết cấu lạp tử của mặt đã đồng hóa với Pháp của mỗi đồng tu vi quan vô tỷ, Thần thể cũng lớn bằng thiên thể vũ trụ tại cảnh giới tu luyện tương ứng. Nhìn từ tầng thứ tu luyện đã đồng hóa với Pháp của tôi (tại không gian khác), thì địa cầu trông bé như một hạt bụi. Từ góc độ của Thần thể tại không gian khác mà nhìn thì hết thảy mọi thứ trên thế gian đều mỏng manh hư ảo như mây khói sương mù mà con người nhìn thấy. Vậy nên rất nhiều người tu luyện cổ đại đều nói hết thảy mọi thứ trên thế gian đều là giả tướng hư huyễn không thật.

Trách nhiệm của đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp chính là chứng thực Pháp, duy hộ Pháp, cứu độ chúng sinh, viên dung những gì Sư tôn yêu cầu. Sư tôn giảng:

“Bất kể là cứu độ chúng sinh, đề cao bản thân, [hoặc] phản đối bức hại, thì đó đều là chứng thực Pháp; bước đi thật ngay chính con đường của chư vị mới là chứng thực Pháp.” (Tinh Tấn Yếu Chỉ III – Tẩu chính lộ)

1- Công năng dự đoán

Đối với một người thường trong thế gian hồng trần, nhục thân chính là xiềng xích khóa lại chủ nguyên thần, là “dụng cụ” để chịu khổ hoàn nghiệp. Đối với người tu luyện mà nói, thân người là Pháp khí để tu luyện phản bổn quy chân, chứng thực Pháp, cứu độ chúng sinh. Triển hiện của Pháp tại cảnh giới tu luyện của tôi là: Nhục thân là một trường vật chất dày đặc sương mù do các nhân tố chính-phụ trộn lẫn vào nhau tổ hợp thành. Quá trình tiêu khứ tâm chấp trước, đồng hóa với đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn của vũ trụ cũng chính là con đường tiêu khứ nhân tố phụ diện của cựu vũ trụ trong trường không gian tự thân, thành tựu sinh mệnh của tân vũ trụ do Đại Pháp tạo nên. Biểu hiện trên phương diện tu luyện tâm tính chính là quá trình bỏ đi ma tính, bồi bổ Phật tính. Thuận theo tâm tính đề cao, cảnh giới thăng hoa, trường năng lượng mà tự thân đệ tử Đại Pháp mang theo sẽ bao trùm một phạm vi rất lớn trong không gian người thường cũng như phạm vi thiên thể vũ trụ tương ứng.

Làm một đệ tử Đại Pháp thì cần toàn diện phủ định an bài của cựu thế lực. Trong lúc tôi tĩnh tâm nhập định, trạng thái tu luyện của đồng tu bên cạnh hoặc chỉnh thể đồng tu trong khu vực đều sẽ triển hiện ra các hình thức khác nhau của Pháp. Có đồng tu thời gian dài không tu bỏ nhân tâm, không coi bản thân là người tu luyện mà lẫn lộn với người thường, từ phần đầu của nhục thân trên bề mặt cho đến trường không gian của thân thể đều sẽ trở nên tối tăm, thậm chí một số phần cục bộ còn có những cục nghiệp lực màu đen, kéo theo các lạn quỷ loạn Pháp của cựu thế lực tiến nhập vào trường vật chất phụ diện để bức hại nhục thân của đồng tu. Có đồng tu cá biệt không tu bỏ tâm sắc dục, thậm chí thụ nhận ô nhiễm từ những quan niệm biến dị của xã hội người thường, tiêu chuẩn tâm tính tại vấn đề này tương đối thấp, tà linh loạn Pháp bèn khống chế lạn quỷ hoặc ác nhân đến lợi dụng đủ loại thủ đoạn gia tăng bức hại việc tu luyện Chính Pháp của đồng tu.

Trong thời kỳ công tác ở phía Nam, tôi có gặp một nam đồng tu góa vợ, vì không buông bỏ tình cảm nam nữ con người nên luôn không tinh tấn lắm. Anh tiếp xúc với một vị nữ đồng tu ở địa phương, hai người phối hợp làm hạng mục Đại Pháp, ngày dài tháng rộng dần dần âm thầm phát sinh nhân tố tình, xuất hiện vướng mắc tình cảm. Tại trường không gian đối ứng với phần đầu của nhục thân hai đồng tu này có một linh thể ác long màu đỏ tàn tạ đang hấp hối, tứ chi mình mẩy, cặp sừng và toàn bộ vảy trên thân nó đều tàn khuyết bất toàn, hai mắt ác long nửa nhắm nửa mở không còn sắc sáng, đang “ngủ đông” tại không gian vi quan hắc ám đối ứng với tư tưởng chưa đồng hóa Pháp của đồng tu. Biểu hiện tại không gian người thường là đồng tu có nhân tố văn hóa đảng rõ rệt và tình cảm nam nữ. Khi hai người hễ động nhân tâm thì liền có các nhân tố phụ diện của cựu thế lực bắt đầu hướng đến trường không gian của họ mà tập kết, trên bề mặt, tại trường không gian của nhục thân liên tục sản sinh và tích lũy những vật chất màu đỏ thẫm của không gian người thường, con ác long màu đỏ đang “ngủ đông” trong trường không gian của họ dần dần tỉnh dậy, long nhãn vốn đang nhắm cũng từ từ hé mở, phóng ra quang diệm hung ác tàn bạo. Hắc thủ loạn Pháp của cựu thế lực mưu đồ dùng tình cảm nam nữ làm cái cớ để bức hại hai vị đồng tu. Sau khi phát hiện loại tình huống này, tôi lập tức giao lưu trao đổi từ Pháp lý với nam đồng tu, đồng thời chỉ ra cựu thế lực mưu tính nội trong ba tháng tiếp theo sẽ khống chế cảnh sát tà ác tiến hành bức hại bắt cóc phi pháp.

Nam đồng tu lý trí nghiêm túc hướng nội tìm và quy chính nhân tâm, trừ sạch tận gốc hết thảy các nhân tố phụ diện không phù hợp với Pháp trong không gian bản thân. Nhưng nữ đồng tu vẫn rất chấp trước, không nghiêm túc đối đãi. Một lần nọ khi nam đồng tu chuẩn bị đi lấy tài liệu giảng chân tướng, tôi “nhìn thấy” nữ đồng tu bị bức hại bắt cóc, sau đó cô ấy mất tích rất lâu. Sau này tôi mới biết rằng sau khi bị bức hại bắt cóc phi pháp, nữ đồng tu phải kinh qua trùng trùng khảo nghiệm sinh tử mới có thể xông ra khỏi động quỷ.

Tu luyện là vô cùng nghiêm túc, cho dù ở bất kỳ giai đoạn tu luyện nào cũng cần nghiêm khắc yêu cầu nhất tư nhất niệm của bản thân, kiên quyết xem nhẹ, trừ bỏ tình cảm nam nữ. Tôi ngộ rằng người tu luyện có thể xem nhẹ, trừ bỏ tình cảm nam nữ hay không chính là giới tuyến trọng yếu phân biệt giữa người và Thần.

2- Nhiếp hồn đại pháp

Các đệ tử Đại Pháp tu luyện trong hoàn cảnh Trung Quốc đại lục không những phải đối diện với áp lực bức hại khủng bố đỏ mà còn phải thanh trừ nhắm vào những nhân tố bức hại và can nhiễu nội bộ đệ tử Đại Pháp đề cao chỉnh thể.

Tại địa phương chúng tôi có một số người tà ngộ, vì một chút lợi cỏn con mà đi truyền bá các loại sản phẩm đa cấp trong (cộng đồng) đệ tử Đại Pháp, gây ra tổn thất kinh tế nhất định cho đệ tử Đại Pháp, thậm chí có một số đồng tu không lý trí còn bị dẫn động. Tôi tình cờ gặp một trong số những người tu luyện lầm đường lạc lối ấy, tóc của chị đã điểm bạc, khô cứng, làn da vàng vọt tối sắc, ánh mắt mờ mịt vô thần, khuôn mặt đầy vẻ cáu kỉnh, đôi mày nhíu lại. Tôi dùng công năng nhìn thấy chị ấy mang theo một trường vật chất âm tính màu xám đen, bình thường hô hấp rất yếu, ở giữa lồng ngực có một ác linh màu xanh đen to bằng quả hạnh nhân đang cắn xé nhai nuốt ngốn ngấu tội tạng của chị. Con ác linh ấy trông giống như một tảng thịt rữa, phần trên của tảng thịt mọc ra ba con mắt màu xám, phần dưới có một cái miệng to như miệng cá, bên trong mọc đầy răng nhọn. Tôi đã từng gặp loại tình huống này, thường phản ánh tại không gian người thường chính là ung thư ác tính giai đoạn cuối, đa phần những người này sống không quá ba tháng. Chồng của chị đến nói chuyện với tôi dăm ba câu, (sau đó) tôi nói với chị ấy: “Tôi biết chị từng là một đệ tử Đại Pháp chân tu, đã phải chịu bức hại khổ hình cực kỳ tàn khốc trong trong hắc động, rồi thụ nhận can nhiễu từ những kẻ tà ngộ “Judas” (phản Chúa) trong ngục. Hiện tại chị đã bị ung thư giai đoạn cuối, chẳng còn sống được bao lâu, chỉ có Sư phụ và Đại Pháp mới có thể chân chính cứu vớt sinh mệnh của chị. Nếu một người mất đi sinh mệnh, thì có nhiều tiền tài đến mấy cũng vô nghĩa.” Chị nói: “Ngày nào ngực tôi cũng vô cùng đau, tôi đau buốt đến mức chẳng nghĩ được gì nữa!” Tôi nói: “Mỗi sinh mệnh đắc Pháp đều là một sinh mệnh xuất sắc, chúng ta đến thế gian con người chính là ‘vì Pháp mà đến’, là đại biểu cho vô lượng chúng Thần và chúng sinh trong thể hệ vũ trụ khổng lồ đến đồng hóa với Đại Pháp. Thệ ước thần thánh của chúng ta là trợ Sư Chính Pháp. Nếu đem so với sinh tử của vô lượng chúng Thần, thì được mất cá nhân không đáng gì cả, chúng ta nhất định phải trân quý cơ duyên tu luyện Chính Pháp, chân tu Đại Pháp,…” Tôi giao lưu với đồng tu cũ này gần năm tiếng đồng hồ, bên ngoài phòng, các đồng tu cũng phối hợp với tôi phát chính niệm liên tục năm tiếng đồng hồ. Cuối cùng phần Thần của vị đồng tu cũ này cũng đã được thức tỉnh, chị quyết định một lần nữa quay lại tu luyện Đại Pháp, kiên quyết làm một đệ tử Đại Pháp chân tu. Ba tháng tiếp theo chúng tôi cùng học Pháp luyện công. Dưới sự gia trì từ bi của Sư phụ, triệu chứng nghiệp bệnh của đồng tu đã dần dần thuyên giảm và yếu đi, đến ngày hôm nay, đồng tu đã hồi phục lại trạng tháng tu luyện chính thường của một đệ tử Đại Pháp, khuôn mặt thanh tú thường nở nụ cười rạng rỡ, ánh mắt kiên định mà ung dung, thân thể dường như có được sinh lực vô tận.

Được các đệ tử Đại Pháp khuyến Thiện và giúp đỡ, có mấy vị làm bán hàng đa cấp đã từ bỏ hành vi phá hoại Pháp một cách không lý trí. Tuy nhiên cũng có những người tà ngộ cá biệt vẫn cứ khăng khăng hành ác, chỉ vỏn vẹn trong thời gian một tháng hoặc lâu hơn, tại một thành phố tương đối giàu có ở tỉnh chúng tôi, các nhóm bán hàng đa cấp đã lừa các học viên Đại Pháp gần 200 nghìn NDT. Họ cấu kết với ác nhân có phụ thể động vật để trường kỳ ác ý bức hại một cách tàn ác nhục thân của những đồng tu đã phơi bày hành vi ác của họ, lợi dụng hình thức tiếp thị đa cấp để can nhiễu bức hại việc tu luyện chính thường của mười mấy đồng tu, đi khắp nơi tung tin bịa đặt phỉ báng bôi nhọ thanh danh các đệ tử Đại Pháp chân tu đã (đứng ra) ngăn chặn họ hành ác, tạo ra gián cách nghiêm trọng giữa các đồng tu.

Đối với những ác nhân tà ngộ đã được các đệ tử Đại Pháp xuất phát từ thiện tâm khuyên can nhiều lần nhưng không nghe, vẫn tiếp tục bức hại việc tu luyện chính thường của đệ tử Đại Pháp trên diện rộng, thì ngoài việc phát chính niệm thông thường, tôi cũng dùng Phật Pháp thần thông mà Đại Pháp ban cấp để trừ ác. Đầu tiên tôi đả tọa nhập định – chủ nguyên thần quy vị, chủ nguyên thần hợp thể với thân kim cương bất hoại đã tu thành. Tôi mở Pháp nhãn nhìn thấy trong không gian đối ứng với nhục thân của người nữ cầm đầu nhóm tiếp thị đa cấp có một con mãng xà lớn màu đỏ nâu có hoa văn hình lăng trụ đang khống chế tư tưởng người này hành ác, khi cô ấy nghỉ ngơi, con mãng xà lớn sẽ từ trong thân thể bò ra, thân rắn uốn động quấn quanh nhục thân của cô, phủ trọn một chiếc giường đôi. Trong định, tôi đả xuất công năng, một chùm ánh sáng vàng kim bao trùm lấy đầu và thân mãng xà, tôi niệm khẩu quyết Chính Pháp, niệm chữ “Diệt”. Dưới sự gia trì của Sư phụ, trong chớp mắt, Pháp Luân lớn ở vị trí bụng dưới phân thân thành nhiều Pháp Luân nhỏ, giải thể yêu linh mãng xà, hóa thành khí đen tản đi mất. Sau đó, tôi dùng “nhiếp hồn đại pháp” trấn nhiếp chủ nguyên thần cùng thân thể tại không khác đối ứng với nhục thân của của ác nhân đến trước mặt, rồi bắt vào trong tay, dùng hóa công triệt để giải thể tiêu mất thân thể tại không gian khác của nó. Biểu hiện tại không gian người thường là người này đột nhiên cảm thấy mệt mỏi buồn ngủ, lập tức mất ý thức và chìm vào giấc ngủ sâu. Sau khi tôi thi triển Pháp xong, người này tỉnh lại, cảm thấy phần đầu vô cùng đau, toàn thân nhức mỏi vô lực; tức ngực, thở gấp, hô hấp khó khăn; các chức năng nội tạng bắt đầu suy giảm nhanh chóng. Dưới uy lực chính niệm của đệ tử Đại Pháp người này hiện nay đã liệt giường, thân thể xuất hiện đủ loại chứng bệnh nghiêm trọng đáng sợ, đây mới chỉ là mở đầu của ác báo.

Tôi ngộ rằng: Phật Pháp từ bi chúng sinh nhưng đồng thời cũng uy nghiêm. Duy hộ hoàn cảnh tu luyện chính thường của đệ tử Đại Pháp cũng là đang duy hộ Pháp, viên dung những gì Sư phụ yêu cầu.

3- Vô trung sinh hữu, ngự khí thành đao (Từ trong ‘không’ mà sinh ra có, chế ngự khí mà thành được đao)

Sư tôn đã giảng:

“Phật với năng lực rất cao, chỉ nháy mắt là thật sự có thể tạo ra một tầng trời, hơn nữa tầng thứ càng cao thì tạo ra càng đẹp. Ngoài ra không cần động tay, chỉ mở miệng hễ nói là thành; còn tầng thứ cao hơn nữa thì hễ động niệm là được rồi, hễ nghĩ là [tạo] xuất lai.” (Chuyển Pháp Luân (Quyển II) – Chuyện cổ về đất bùn tạo con người)

Tại vùng chúng tôi có một người tà ngộ tự tâm sinh ma, đặt mình lên trên các đệ tử Đại Pháp, tùy ý phỉ báng đệ tử Đại Pháp trong khu vực, phao tin rằng (bản thân) thường tu chỉnh đệ tử Đại Pháp. Người này tổ chức một số người không lý trí, học Pháp không sâu, mang theo nhân tâm công nhiên đốt một lượng lớn kinh văn kinh thư giảng Pháp của Sư phụ, nói là đến chỗ anh ta thỉnh pháp của tân vũ trụ, hành vi vô cùng tà ác, hung hăng càn quấy. Người này còn trường kỳ phỉ báng nhục mạ người điều phối địa phương trong hòm thư nội bộ của địa khu, lấy danh nghĩa là đệ tử Đại Pháp cảnh giới cao mà viết email đến trang web của đệ tử Đại Pháp để phỉ báng gièm pha những bài viết được đăng bình thường của đồng tu,…

Những sinh mệnh không lý trí này thiêu hủy kinh thư Đại Pháp xong thì liền tạo ra tội nghiệp to lớn vô tận. Tại không gian khác, tôi thấy các lạp tử từ vi quan đến bề mặt của thân thể nhục thân cho đến các lạp tử trong tất cả các không gian đối ứng với nhục thân của những người thiêu hủy kinh thư, toàn bộ đều đổ đầy nghiệp lực đặc quánh như nhựa đường màu đen. Những sinh mệnh như vậy, từ trong ra ngoài đã toàn bộ biến thành một “người nghiệp lực” màu đen rồi. Đối với những người hành ác không nghe khuyên can, ác ý thiêu hủy kinh sách Đại Pháp cũng như những sinh mệnh tà ác tiếp tục phá hoại Pháp, phá hoại hoàn cảnh tu luyện của đệ tử Đại Pháp thì nhất định cần dùng chính niệm nghiêm túc đối đãi.

Tôi dùng công năng nhìn thấy chủ nguyên thần và phó nguyên thần của những kẻ cầm đầu hành ác đã sớm bị đả nhập địa ngục, chờ khi Pháp chính nhân gian, Sáng Thế Chủ sẽ cân nhắc quyết định tương lai vĩnh viễn cho sinh mệnh của họ. Nhục thân của những người này đã chứa đầy nghiệp lực, bị cựu thế lực và đủ loại tà linh phụ thể khống chế tại nhân gian đi hành ác vô độ giữa các đệ tử Đại Pháp một cách không còn bất kỳ giới hạn đạo đức nào. Nhắm thẳng vào loại tình huống này, trong định, chủ nguyên thần của tôi ly thể tách ra đi đến bên cạnh nhục thân của những người này, mượn dùng “khí binh đao” có trong không gian đất trời để diễn vật hóa vật. Tôi dùng Phật Pháp thần thông diễn hóa khí binh đao của trời đất thành một lưỡi dao sắc – rồi diễn hóa thành rất nhiều con dao dài cấu thành từ vật chất cao năng lượng. Tôi dùng dao đâm xuyên vào từ huyệt bách hội, cắt dọc toàn bộ thân xương rồi rút ra ở huyệt hội âm, lại dùng dao chọc xuyên qua kẽ hở giữa xương sườn, đâm thẳng vào quả tim bên trong nhục thể của sinh mệnh tà ác. Biểu hiện trong không gian người thường là phần tim trong nhục thân của sinh mệnh này trở nên đau đớn kịch liệt, hô hấp khó khăn; não sẽ dần dần mất hết chức năng cho đến khi bị hoại tử, khiến tà linh phụ thể tại không gian khác mất khống chế đối với thân thể ác nhân. Nếu đồng tu đều có thể dĩ Pháp vi Sư, nhận rõ tà ác, không bị lôi kéo, không bị lừa đi nuôi dưỡng nhóm loạn Pháp này thì những kẻ hành ác sẽ rất nhanh gặp báo ứng đến chết. Bản thân việc nhận rõ tà ác phá hoại Đại Pháp chính là đang thanh lý tà ác.

Tu luyện trong thế gian thập ác thời mạt pháp này, bất kỳ nhân tâm nào cũng đều có thể chiêu mời ma nạn cự đại, trong tu luyện tâm nhất định phải chính. Nếu như điều kiện cho phép, khi phát chính niệm tại bốn khung giờ chính tôi xin kiến nghị các đồng tu triệt để thanh trừ, giải thể hết thảy các nhân tố và sinh mệnh tà ác phá hoại Pháp, gây gián cách giữa đệ tử Đại Pháp.

4- Công năng siêu cảm

Xung quanh nhục thân của mỗi sinh mệnh trên thế gian đều tồn tại một trường vật chất, có lúc ngồi đả tọa nhập định, tôi cảm thấy bản thân đang tu luyện trong một thiên thể vũ trụ mênh mông tĩnh lặng, có lúc cảm thấy thân thể đang ngồi bên trong những vật chất vô tận giống như loại nước có mật độ cao tràn đầy không gian vũ trụ. Khi chủ ý thức không động niệm, trong trường vật chất giống như “nước” này sẽ ánh xạ ra hết thảy tín tức của toàn bộ các sinh mệnh có linh tính bên trong (trường vật chất). Trong những tín tức của các sinh mệnh này bao gồm cả toàn bộ tín tức liên quan đến quá khứ, hiện tại, “tương lai” đối ứng với sinh mệnh.

Trong nhóm nhỏ học Pháp, tôi gặp một đồng tu tu luyện Chính Pháp làm ba việc rất tinh tấn. Trong quá trình giảng chân tướng cho người nhà, em gái của cô ấy tiếp nhận mê hoặc từ tuyên truyền của tà đảng, mang theo nhận thức không rõ ràng với Đại Pháp, mặc dù đã làm tam thoái nhưng đối với chân tướng Đại Pháp vẫn có chỗ không lý giải. Đồng tu nhận được tin em gái nhập viện cũng không để tâm. Trong lúc tôi giao lưu cùng đồng tu này, Pháp triển hiện ra rằng em gái của cô ấy đã từng là một sinh mệnh vĩ đại, vì nhân tâm mê trong hồng trần, bị tình vây hãm nên đời này mặc dù Đại Pháp ngay bên cạnh nhưng lại không biết trân quý, bệnh tình nghiêm trọng (lần này) tính mệnh rất đáng lo ngại. Tôi đem cảnh tượng kể lại cho đồng tu và đề nghị cô ấy nhất định phải đến bệnh viện thăm em gái, tiến thêm một bước giảng rõ chân tướng. Nếu không có thể khiến người hữu duyên mất đi sinh mệnh, mất đi cơ duyên với Đại Pháp có thể sẽ khó vãn cứu. Sau khi đồng tu đi đến nơi thì phát hiện bệnh tình của em gái nghiêm trọng bất thường, bác sỹ nói bệnh của cô ấy rất nặng và có thể nguy hiểm đến sinh mệnh. Đồng tu nhẫn nại giảng rất nhiều chân tướng Đại Pháp một cách đầy đủ kỹ lưỡng cho em gái, dặn em gái niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo.” Em gái của đồng tu sau khi phẫu thuật trọng bệnh thì thân thể nhanh chóng hồi phục lại trạng thái bình thường, các bác sỹ đều rất kinh ngạc! Sau khi phẫu thuật xong, em gái đồng tu thường niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo”, vết mổ cũng không đau lắm, còn bệnh nhân cùng phòng thì vùng bệnh đau đớn kịch liệt, cả đêm khó ngủ.

Người trên thế gian đều là vì Pháp mà đến, đệ tử Đại Pháp cần trân quý mỗi từng cơ hội giảng chân tướng. Nếu không, một khi mất đi cơ duyên có thể sẽ cả đời khó bù đắp lại.

Một dì đồng tu mà tôi quen có con gái là một nhân viên văn phòng rất thời thượng, có một thời gian thân thể cô ấy luôn không thoải mái, toàn thân vô lực, mệt mỏi buồn ngủ, thường kèm theo đau nhói ở đầu, thắt lưng và bụng, cảm giác đau ngày càng nặng hơn. Dì ấy tìm đến tôi kể đầu đuôi, qua trao đổi tôi được biết con gái của dì đã tu luyện Đại Pháp suốt khoảng thời gian học cấp 2 và cấp 3, nhưng sau khi tốt nghiệp và lập gia đình thì bắt đầu giải đãi, dần dần lẫn lộn với người thường. Sau khi giao lưu, tôi khuyến khích con gái của đồng tu quay lại tu luyện từ đầu, học Pháp luyện công nhiều hơn, năng niệm chín chữ chân ngôn “Pháp Luân Đại Pháp hảo – Chân, Thiện, Nhẫn hảo”.

Sau một thời gian, con gái đồng tu tìm tôi, trạng thái thân thể vốn không tốt của cô ấy đã cải biến rất nhiều, nhưng do sự tình nơi người thường phức tạp khiến cô ấy hao tổn nhiều tinh lực, không đủ tinh tấn trong tu luyện. Cô vẫn còn thường xuyên có cảm giác đau nhói ở thắt lưng và bụng. Tôi tĩnh tâm xuống mở công năng Pháp nhãn thông xem rõ toàn bộ câu chuyện: Thì ra bên cạnh cô có một người phụ nữ trung niên đã ly hôn nay có bạn trai, đến lúc tính chuyện cưới xin thì do tính cách của người phụ nữ này nên bạn trai không chấp nhận và họ đã chia tay. Người phụ nữ trung niên luôn nghi ngờ rằng bạn trai của mình đã bị cô hấp dẫn nên đã tìm đến một ác nhân bị phụ thể, thu thập tóc của cô, dùng tà pháp yểm cổ thuật (yểm chú) hung tàn hãm hại cô. Thực ra cô và bạn trai của người phụ nữ trung niên chưa hề qua lại. Người phụ nữ đó là vì tật đố dung mạo xinh đẹp của cô mà hành tà thuật hại người. Người phụ nữ bị một âm linh phụ thể đáng sợ khống chế, hình dạng âm linh giống như một bộ xương khoác áo đen, xương của nó có màu đen xám, đỉnh đầu là một mớ tóc dài khô ráp. Thời cổ đại, những kẻ hành ác dùng vu thuật (phép phù thủy) để hại người đều sẽ bị pháp luật nhân gian trừng trị nghiêm khắc, kẻ hành ác sau khi chết sẽ bị đả nhập địa ngục, không bao giờ được siêu sinh.

Đối với việc sử dụng tà thuật để gây loạn trật tự xã hội bình thường và các hành vi tà ác làm hại người tu luyện, thì tất phải bị trừ sạch. Đây là trách nhiệm của đệ tử Đại Pháp, là biểu hiện của việc đệ tử Đại Pháp duy hộ trật tự xã hội chính thường của xã hội nhân loại, (cũng là duy hộ) tầng thứ thấp nhất được Đại Pháp vũ trụ tạo ra. Trong định, tôi đả xuất ra thần thông hình trụ, triệt để giải thể, tiêu hủy âm linh hình bộ xương tại không gian khác đã điều khiển ác nhân hành ác. Tôi lại nhắm thẳng vào toàn bộ các nhân tố vật chất phụ diện hại người trong trường không gian của con gái đồng tu, đem chúng tập hợp lại toàn bộ (dùng công diễn hóa những vật chất âm tính đã được thu thập lại thành quả cầu nghiệp lực) rồi đẩy trở lại thân thể của kẻ hành ác. Nhưng trong mấy ngày tiếp theo, người phụ nữ trung niên vẫn tà tâm không chừa, dùng tiền mua chuộc ác nhân phụ thể sử dụng tà pháp của hồ ly phụ thể để hành ác, can nhiễu người tu luyện Đại Pháp. Vì vậy, đối với tất cả những âm linh dùng ác niệm nguyền rủa con gái đồng tu, tạo thành trường nghiệp lực màu đen khiến nhục thân của con gái đồng tu bị bức hại thống khổ, tôi bèn bắt toàn bộ chúng vào trong tay và ném ngược lại thân thể của người phụ nữ trung niên đã hành ác. Tôi phát chính niệm mật độ cao vào các khung giờ chẵn: “Kẻ hành ác phát ra ác niệm nhiều bao nhiêu sẽ nhận ác báo lớn bấy nhiêu.” Sau đó không lâu, tôi được biết, biên bản khám sức khỏe định kỳ hàng năm của đơn vị công tác phát hiện người phụ nữ trung niên này đã mắc các bệnh ác tính như hoại tử chỏm xương đùi bên phải và xuất hiện khối u ở gan thận.

Sau lần ma nạn này, cô con gái của đồng tu đang kiên định bước trên con đường tu luyện Đại Pháp phản bổn quy chân. Bất kỳ bức hại nào nhắm vào các đệ tử Đại Pháp chân tu, thực ra đều là tổn hại lớn nhất cho chính bản thân những kẻ hành ác.

5- Pháp thân

Sư phụ giảng:

“Người ta sau khi tu đến một tầng rất cao nào đó ở xuất thế gian pháp, thì sẽ sản sinh ra Pháp thân. Pháp thân được sinh ra từ bộ vị của đan điền người ta, là do Pháp và công cấu thành, là thể hiện xuất ra ở tại không gian khác.” (Chuyển Pháp Luân – Bài giảng thứ năm)

Tôi ngộ ra rằng điều mà đệ tử Đại Pháp tu luyện là Đại Pháp căn bản của vũ trụ, là sinh mệnh của tân vũ trụ do Đại Pháp vũ trụ vĩ đại tạo ra. Sinh mệnh tồn tại là vì để chứng thực Pháp, duy hộ Pháp và cứu độ chúng sinh. Đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp là những sinh mệnh đặc thù được cấu thành từ những nhân tố đặc thù trong vũ trụ mới.

Sư tôn giảng đến Pháp lý phát chính niệm, và tôi ngộ ra rằng vào thời gian phát chính niệm hàng ngày, mỗi vị đệ tử Đại Pháp đều đang vận dụng Phật Pháp thần thông mà Đại Pháp ban cấp để chứng thực Pháp, diệt trừ tà ác và cứu độ chúng sinh. Các đồng tu đang tu luyện trong mê chỉ dựa vào chính tín kiên định vào Đại Pháp, mặc dù tạm thời chưa nhìn được triển hiện tại không gian khác, nhưng uy lực của chính niệm phát ra không hề yếu chút nào, mà thậm chí còn rất mạnh!

Pháp triển hiện trong cảnh giới tu luyện của tôi là: Do mỗi đồng tu có một tầng thứ nguyên lai khác nhau và cảnh giới tu luyện Chính Pháp trong đời này cũng khác nhau, nên số lượng Pháp thân sinh ra tại đan điền không hoàn toàn tương đồng. Có đồng tu đã tu luyện được hàng chục triệu Pháp thân; có đồng tu mà tế bào nhục thân nhiều bao nhiêu thì Pháp thân nhiều bấy nhiêu; còn có cả đồng tu tu xuất ra được số lượng Pháp thân nhiều bằng số lượng lạp tử trong thân thể. Khi một người tu luyện vứt bỏ quan niệm con người và coi mình là một đệ tử Đại Pháp trong thời kỳ Chính Pháp, tư tưởng của người này càng thuần tịnh, càng chính thì càng có thể phát huy được năng lực của mặt đã tu thành, bao gồm cả việc phát huy trọn vẹn tác dụng của Pháp thân. Pháp thân phát huy tác dụng trọng yếu trong cứu độ chúng sinh, sẽ không bị chấp trước quan niệm của con người chi phối.

Hết thảy con người trên thế gian đều được sinh ra từ nguồn nguyên lai sinh mệnh của chính họ, ngoại trừ những nhân tố do cựu thế lực an bài khởi tác dụng phụ diện đối với Đại Pháp, thì có rất nhiều thế nhân chính là sinh mệnh chúng sinh được bao phủ trong thể hệ vũ trụ mà đệ tử Đại Pháp đại biểu, cũng chính là có liên hệ mật thiết với đệ tử Đại Pháp trên hai phương diện: nhân tố cấu thành sinh mệnh và thể hiện tại không gian khác của sinh mệnh. Đệ tử Đại Pháp tu luyện cá nhân tốt, chính là cảnh giới cao, uy đức lớn. Trong lúc đệ tử Đại Pháp phát chính niệm, thì Pháp thân của đồng tu cũng như các loại hình thái của công được đồng tu tu luyện ra trong Đại Pháp đều đang khởi tác dụng diệt trừ tà ác, cứu độ chúng sinh. Công và Pháp thân của đệ tử Đại Pháp còn khởi tác dụng bảo vệ trong mọi thời khắc đối với đủ loại hình thái sinh mệnh có duyên với đệ tử Đại Pháp đã được Đại Pháp cứu độ. Nhờ vào uy đức vĩ đại và sự gia trì từ bi vô lượng của Sư phụ: Lựa chọn của các đệ tử Đại Pháp trong thời kỳ Chính Pháp là cứu người!

Trong bài viết này, tôi chỉ thảo luận trao đổi ​​với các đồng tu trên Pháp lý, khi chỉnh thể các đồng tu có nhận thức sâu sắc hơn đối với Đại Pháp thì rất nhiều những bức hại tà ác sẽ tự diệt. Bản thân việc các đệ tử Chính Pháp phát chính niệm đóng một vai trò quan trọng trong việc cứu độ chúng sinh. Nếu một người tu luyện có cảnh giới nguyên lai cao muốn quay trở lại cảnh giới nguyên lai tiên thiên, người đó phải có tiêu chuẩn tâm tính cao tương ứng và uy đức vô lượng cao tương ứng, đồng thời khởi được tác dụng chính diện với mức độ lớn tương ứng trong quá trình tu luyện Chính Pháp cũng như trong chứng thực Pháp, cứu độ chúng sinh. Tôi phát hiện rằng đôi khi những sinh mệnh cao tầng ở các không gian khác không chỉ nhìn vào cảnh giới nguyên lai bản chất sinh mệnh của người tu luyện, mà điều được xem trọng hơn là người tu luyện ấy khởi được tác dụng trường kỳ và cụ thể trong trợ Sư Chính Pháp. Các vị thần vô cùng kính phục những người tu luyện có thể khởi tác dụng chứng thực Pháp, cứu độ chúng sinh tại phạm vi lớn trong người thường, ngay cả khi người đó không được ai biết đến trong xã hội cũng như giữa các đồng tu.

(Chúng ta) không được thờ ơ trước các loại hình thức can nhiễu bức hại đối với các đệ tử Đại Pháp trong xã hội người thường. Khi gặp phải những nhân tố và sinh mệnh tà ác bức hại việc tu luyện của đệ tử Đại Pháp và cản trở cứu độ thế nhân, thì những đệ tử Đại Pháp vốn được tạo tựu bởi Đại Pháp vũ trụ nhất định cần chính niệm, chính hành, nghiêm túc thanh lý. Nếu bạn thờ ơ coi nhẹ những sinh mệnh tà ác bức hại người tu luyện chân chính và người tốt trong xã hội, thì tiêu chuẩn tâm tính của bạn còn không bằng một người tốt có đạo đức cao thượng trong xã hội người thường, còn nói gì đến tu luyện Chính Pháp? Đứng trước bức hại đối với đệ tử Đại Pháp và tổn hại đến việc chúng sinh đắc cứu nhưng lại hờ hững, nhắm mắt làm ngơ, nhìn mà không thấy, thì đó là quan niệm bại hoại của xã hội biến dị, tất phải trừ bỏ. Đệ tử Đại Pháp phải hoàn toàn phủ nhận an bài của cựu thế lực, không phải là trong (khi bị) bức hại mới phản bức hại, mà là tiêu diệt những bức hại vô hình. Bất kỳ sinh mệnh nào cũng không động đến được những đồng tu nào bình thường tu luyện tốt bản thân, làm tốt ba việc một cách vững chắc và đi trên con đường Sư phụ an bài.

Hồng trần phồn hoa là huyễn tượng hư giả đan xen giữa những hình ảnh và màu sắc, đen và trắng; là thời không mộng ảo, nơi giao nhau của cảnh mộng và hiện thực, lịch sử và ký ức. Trải qua hai mươi năm tu luyện Chính Pháp, hết thảy những thứ nơi con người đối với tôi đều là những tín tức không thật, là quang ảnh huyễn hóa trong không gian tầng thấp, nó khác xa với chân tướng của vũ trụ. Trong Chính Pháp vũ trụ, hết thảy những gì hữu hình và vô hình trong vũ trụ cũ đều sẽ được Đại Pháp đồng hóa, tịnh hóa và quy chính, phục hồi trở lại là một bộ phận trong các tầng thứ khác nhau trong trật tự mới của Đại Pháp vũ trụ.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/255432

The post Bầu trời của lịch sử: Ký sự 25 năm tu luyện Đại Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bầu trời của lịch sử: Sự phó thác của thiên quốchttps://chanhkien.org/2020/03/bau-troi-cua-lich-su-su-pho-thac-cua-thien-quoc.htmlSun, 22 Mar 2020 09:20:08 +0000https://chanhkien.org/?p=26118Tác giả: Thiện Dũng [ChanhKien.org] Khi phối hợp trong một hạng mục Chính Pháp, tôi được tiếp xúc với một đồng tu. Cô ấy là một học viên lâu năm đắc Pháp trước năm 1999, một người lặng lẽ, ít nói. Trong quá trình giao lưu chia sẻ, những kỳ tích trong Chính Pháp và […]

The post Bầu trời của lịch sử: Sự phó thác của thiên quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[ChanhKien.org] Khi phối hợp trong một hạng mục Chính Pháp, tôi được tiếp xúc với một đồng tu. Cô ấy là một học viên lâu năm đắc Pháp trước năm 1999, một người lặng lẽ, ít nói. Trong quá trình giao lưu chia sẻ, những kỳ tích trong Chính Pháp và chính niệm kiên định của cô khiến tôi vô cùng chấn động. Tại khu vực trọng điểm bức hại của tà ác ở đại lục, đồng tu bằng chính niệm không lay động đã đường đường chính chính bước qua 19 năm bão táp. Trong hoàn cảnh tà ác khủng bố đỏ ở đại lục, dù phải đối diện với hàng chục cảnh sát tà ác bắt giữ phi pháp hay dưới các loại áp lực xã hội, áp lực gia đình, đồng tu đều vì Pháp mà xả bỏ bản thân, không ký kết, không thỏa hiệp với tà ác. Vì chứng thực Pháp đồng tu đã tận lực phó xuất tất cả những gì mà bản thân có thể phó xuất được. Nghe cô kể về những thể ngộ tu luyện của mình bằng giọng điệu thật bình thản, tự nhiên, dùng lời của đồng tu mà nói: “Đây đều là uy lực của Đại Pháp, tôi chỉ làm những việc mà một đệ tử Đại Pháp nên làm thôi”.

Trong lúc cùng đồng tu phát chính niệm, Pháp đã triển hiện cho tôi thấy thế giới thiên quốc ở vi quan đối ứng với thân thể của đồng tu. Hình tượng Thần thể của đồng tu là hình tượng nữ trong Đạo gia. Thần thể của đồng tu ngồi ngay ngắn trên một đóa sen hồng có 18 tầng cánh hoa, mặc trang phục cổ đại màu trắng, tóc màu lam tím búi lệch sang bên trái, xung quanh đầu tỏa ra một vầng sáng màu trắng và một vòng sáng lớn màu trắng bao quanh thân thể. Do sự sai biệt về thời không, mà trong nháy mắt ở thế gian con người thì ở các không gian khác nhau tương ứng sẽ có khái niệm thời không khác nhau. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi này, tôi thấy được quá trình chuyển sinh qua nhiều đời của đồng tu trong quá khứ, thấy được toàn bộ thiên quốc của cô và không gian khác đối ứng với quá trình tu luyện Chính Pháp trong đời này của cô đã đạt được công đức to lớn vô tỷ.

Vì đồng tu có chính niệm kiên định đối với chân lý vũ trụ nên tuyệt đại bộ phận thể hệ vũ trụ mà cô ấy đại biểu đều được bảo lưu và đồng hóa với vũ trụ mới trong Chính Pháp của vũ trụ.

Thế giới thiên quốc của đồng tu được kết cấu bằng pha lê, tỏa ánh quang ngũ sắc lấp lánh. Mọi vật chất và sinh mệnh trong thế giới đều tỏa ánh quang rực rỡ, tươi sáng, đầy màu sắc.

Thiên quốc của đồng tu trang nghiêm, thần thánh, rộng lớn, phồn vinh. Trang phục của chúng Thần và lối kiến trúc mang phong cách triều Thương ở Trung Quốc cổ đại: Cổ xưa mà hùng vĩ, đơn giản mà thần bí.

Trong thiên quốc có núi sông tráng lệ, có rừng rậm, thảo nguyên mênh mông, có sông hồ chằng chịt, các loài động thực vật phong phú sinh sôi, phát triển. Có một số loại động thực vật chưa từng xuất hiện ở nơi trần thế. Tôi thấy một số loài Thần thú trong nhiều truyền thuyết và thần thoại của nhân gian như tì hưu, loan, huyền điểu v.v. Ở thế gian, trong văn hóa triều Thương có truyền thuyết rằng tổ tiên của người triều Thương là hậu duệ của huyền điểu, đây có lẽ là thể hiện văn hóa Thần truyền của nhân loại đối ứng với văn hóa của thiên thể vũ trụ. Huyền điểu ở trong thiên quốc là một loài chim Thần lớn cỡ chim hạc, phần đầu có lông màu trắng, thân thể có lông ngũ sắc, tiếng kêu trong trẻo, thánh thót.

Hồ trên thiên quốc dày đặc khắp nơi, ánh sáng lấp lánh, trong suốt, tĩnh lặng, những hình ảnh phản chiếu nhấp nhô trên mặt hồ. Trong cánh rừng giữa hồ có rất nhiều cánh đồng vuông vắn, lúc này đã đến mùa thu hoạch, nhiều chúng sinh bách tính của thiên quốc đang làm việc trên cánh đồng. Có những thôn xóm nằm trong rừng rậm hoặc nằm giữa rừng, trong thôn cây cối um tùm, bờ ruộng ngang dọc, ngõ hẻm đan xen, ánh sáng chiếu qua những tán lá cây xanh vàng tạo thành một bức tranh thi vị, đầy màu sắc.

Thành thị và làng mạc các nơi đều rất sầm uất, rất nhiều cửa hàng với các loại hàng hóa vô cùng phong phú, người người đi lại san sát, dòng người qua lại như mắc cửi. Có những hàng hóa dùng hàng đổi hàng, tiền tệ lưu thông ở đây có vẻ như đúc từ đồng thau.

Các công trình kiến trúc đa phần được xây từ loại khoáng thạch giống như pha lê màu xanh và trắng. Nhà dân chủ yếu là nhà năm gian ba cửa, đồ dùng được chế tạo từ pha lê hoặc gỗ mộc, bốn phía nhà có hành lang bao quanh sân.

Thân thể của chúng sinh trong thiên quốc tỏa ánh hào quang màu trắng nhạt, trang phục của họ là áo bên trên, váy bên dưới, áo dài qua đầu gối, đa số mặc màu sáng. Còn những chính Thần có quả vị thì quanh đầu có vòng tròn màu sắc rực rỡ, y phục màu sắc tươi sáng, lưng đeo ngọc bội.

Thành thị ở các nơi phần lớn được quy hoạch theo hình vuông, tùy vào quy mô thành thị lớn hay nhỏ  mà có hai hoặc ba cổng thành. Trên mỗi cổng thành đều có hai chòi tháp canh. Trong thành có hàng vạn ngôi nhà cao cửa rộng, cao thấp đan xen, các nhà lầu san sát nối nhau với phong cách rất khác biệt.

Cung thành hình vuông nằm ở trung tâm của thế giới thiên quốc, xây dựng trên một diện tích rất rộng lớn theo hướng bắc nam, có chín cửa. Các công trình kiến trúc chủ yếu trong cung thành như hoàng cung đại điện, tẩm cung được phân bố đối xứng ở hai bên. Các tòa kiến trúc này được xây dựng bằng pha lê trắng, mái lợp bằng pha lê xanh. Ở giữa và bên trong các tòa kiến trúc có các hình điêu khắc và vật trang trí bằng đồng vô cùng tinh xảo, mỹ diệu. Hoàng cung đại điện với mái nhiều tầng được xây dựng trên đài lớn hùng vĩ, gồm có ba tòa nhà đặt song song thẳng hàng, một tòa ở giữa và hai tòa ở hai bên trái phải, ba tòa kiến trúc vô cùng nguy nga, tráng lệ. Hoàng cung đại điện phân thành chín cửa, các cột trụ trong điện đều khắc các phù điêu trang trí hình rồng. Ở dưới đài có tượng năm con Thần thú đúc bằng đồng dài 9m đặt song song, ở giữa có bốn con đường dẫn đến hoàng cung đại điện. Thần thú ở trạng thái nửa đứng nửa ngồi, hình dạng giống như đầu hổ, mình báo, mồm sói, đuôi dài, đỉnh đầu có một sừng. Mắt thú nhìn thẳng, răng nanh chìa ra ngoài, khí thế ngạo nghễ. Phía trước đại điện có một quảng trường lớn, hai bên mỗi bên có chín cột trụ đồng to lớn. Cột trụ đồng cao 18m, đường kính khoảng 2m. Ở giữa hai hàng cột trụ đồng là một cái đỉnh đồng lớn có bốn chân, bên trên có khắc tranh sơn thủy. 18 cột trụ đồng này tượng trưng cho 18 châu phủ hành chính trong thiên quốc, đỉnh đồng là đại biểu cho vương triều thiên quốc gánh vác thiên hạ. Cấm vệ đứng san sát xung quanh hoàng cung đại điện, trong không khí tĩnh lặng đầy trang nghiêm.

Trong các công trình kiến trúc ở hậu cung có kiến trúc hình tháp, còn có quần thể các loại kiến trúc hùng vĩ phức hợp, tổ hợp, tầng tầng lớp lớp, đan xen tinh xảo và mỹ diệu. Tẩm cung đa số dùng những tấm vải lụa mỏng nhẹ như sương màu hồng hoặc màu trắng làm màn trướng. Đồ dùng sử dụng là những đồ gốm sứ tinh xảo. Trên đỉnh vách tường trong tẩm cung có treo một viên dạ minh châu đường kính 1,5m xung quanh có bốn viên dạ minh châu nhỏ. Dạ minh châu tỏa ánh sáng rực rỡ và êm dịu. Cột trụ của tẩm cung được làm bằng chất liệu pha lê màu hồng, trên đó có khắc những hoa văn trang trí hình tròn, hai bên phía trước đầu giường có một bức tượng huyền điểu bằng đồng vàng cao bằng nửa người, miệng đang nhả khói, làn khói nhẹ nhàng lan tỏa, hương thơm như mùi đàn hương. Trên chiếc bàn gỗ kê sát tường có những nhạc cụ như đàn sắt, đàn tỳ bà v.v. được sắp xếp chỉnh tể. Cung nữ trong cung mặc y phục trang nhã, thần thái ôn hòa, dịu dàng, khéo léo, phong thái diễm lệ.

Trong kiến trúc hậu cung có các hành lang và chòi nhỏ bao quanh, phân bố đồng đều, cung điện sâu hút. Hồ nước trong vườn thượng uyển hơi sương mù mịt, biển hoa dập dờn, hoa sen tím nở rộ trên mặt hồ, đung đưa theo gió, tỏa hương thơm sâu lắng…

Sau khi phát chính niệm xong, tôi kể cho đồng tu nghe những hình ảnh thiên quốc mà Pháp triển hiện, đồng tu kinh ngạc về sự thần thánh và mỹ lệ của thế giới thiên quốc. Tôi lại nói tiếp: Mỗi đệ tử Đại Pháp đều có mối liên hệ bản nguyên sinh mệnh với vô lượng chúng sinh trong thiên quốc mà mình đại biểu. Thệ ước thần thánh của đệ tử Đại Pháp và sự chờ đợi vô hạn mà vô lượng chúng Thần ký thác lên đệ tử Đại Pháp, vượt qua hết thảy thời không liên hệ mật thiết chúng ta với thiên quốc.

Trước khi mỗi đệ tử Chính Pháp hạ thế đều từng thệ ước sẽ dùng sinh mệnh của Thần để trợ sư chính Pháp, Pháp chính càn khôn; thề sẽ dùng sinh mệnh để bảo vệ thế giới thiên quốc mà mình đại biểu mãi mãi phồn vinh. Vào lúc rời thiên quốc để đi xuống, vô lượng chúng Thần và chúng sinh trong thiên quốc đều từng nói: “Vương của chúng con lần này đi trợ giúp Phật Chủ Pháp chính càn khôn, trên đường đi gặp nhiều nguy hiểm, chúng con vạn lần hy vọng Ngài tự giữ vững, tự cảnh tỉnh bản thân, tinh tấn không ngừng. Vương vĩ đại, cuộc sống của Ngài tức là cuộc sống của chúng con, sai lầm của Ngài tức là sự diệt vong của chúng con. Trên thân Ngài mang theo sự an nguy của vô lượng chúng sinh, vạn lần hy vọng Vương của chúng con thời khắc đều tự cảnh tỉnh, chúc Ngài sớm ngày khải hoàn quy vị”. Cuối cùng chúng sinh thiên quốc lại đồng thời quỳ gối dập đầu nói: “Vạn lần hy vọng Vương của chúng con tinh tấn tự cảnh tỉnh, trân trọng giữ vững bản thân”. Lúc đó đồng tu ngẩng đầu ngước nhìn lên trời xanh, cúi đầu nhìn xuống mặt đất, vẻ mặt trầm ngâm hướng về các chúng Thần nơi thiên quốc, lúc quay người bước đi, bỗng dưng nước mắt tuôn trào, đồng tu không lau nước mắt, chỉ kiên định đi trên con đường tương lai hỗn độn mù mịt phía trước.

Tôi lại nói tiếp: Từ thời khắc mỗi đệ tử Đại Pháp bắt đầu đi xuống, thiên quốc đã phái một thiên thần vào mọi thời khắc quan tâm đến mọi việc của chúng ta, đặc biệt là tình hình chuyển sinh của chúng ta trong các thời kỳ ở thế gian con người. Sau khi Chính Pháp bắt đầu, các khảo nghiệm quan trọng trong từng giai đoạn tu luyện mà chúng ta gặp phải cho đến quá trình thăng hoa đề cao cảnh giới của đệ tử Đại Pháp, đều được Thiên thần ghi chép thông báo cho các chúng Thần đại biểu cho các nơi trên thiên quốc.

Chúng sinh và chúng Thần thiên quốc của mỗi đồng tu đều đang từng thời khắc quan sát tiến trình tu luyện của Vương của mình, cùng với cảnh giới tu luyện của đồng tu được đề cao, Thần tính dần dần giác ngộ thức tỉnh, trong mắt chúng Thần, mỗi lần thăng hoa tâm tính của đệ tử Đại Pháp đều là một bước tiến gần tới thiên quốc trên con đường phản bổn quy chân. Mỗi khi chúng Thần nhìn thấy tâm tính của đồng tu thực sự được thăng hoa, chúng Thần đều vì đồng tu mà mừng rỡ reo lên “Vương của chúng ta thật vĩ đại!” Giai đoạn hiện nay, chúng Thần thiên quốc nhìn thấy hoặc cảm nhận được đệ tử Đại Pháp chỉ sai khác một niệm, chỉ cách một bước là đạt đến viên mãn cuối cùng và trở về được quê nhà thiên quốc. Nhưng giữa một niệm này, một bước này ẩn chứa vô vàn gian khổ, hiểm nguy.

Tất cả chúng Thần thiên quốc đều dự đoán vị đồng tu này sẽ viên mãn quy vị vào năm thứ 7000 (theo lịch của thiên quốc) kể từ khi đồng tu rời thiên quốc. Vào ngày kỷ niệm 7000 năm kể từ khi đồng tu rời thiên quốc, họ đã tổ chức lễ kỷ niệm trang nghiêm để cảm tạ ân cứu độ từ bi của Sáng Thế Chủ! Khi màn đêm buông xuống, hệ ngân hà sáng chói. Vô số pháo hoa chiếu sáng rực trời đêm, rất nhiều bông pháo hoa nhỏ hợp thành những bông pháo hoa lớn lơ lửng giữa bầu trời, ở chính giữa những bông pháo hoa đó có những chữ lớn viết theo lối chữ triện: Vương của chúng con, tưởng nhớ ngài! Chúng lơ lửng rất lâu trên bầu trời đêm của thiên quốc, ánh hào quang rực rỡ cứ mãi chiếu sáng khuôn mặt của chúng sinh. Vô lượng chúng Thần và chúng sinh thiên quốc ngắm nhìn bầu trời đêm diễm lệ, ngắm nhìn rất lâu.

Thông qua học Pháp tôi ngộ được rằng: Đệ tử Đại Pháp gánh vác sứ mệnh lịch sử vĩ đại và hy vọng, ký thác toàn bộ sinh mệnh của vô lượng chúng Thần. Chỉ có coi mình là người tu luyện chân chính, vứt bỏ nhân tâm, dùng chính niệm của Thần đối đãi với bản thân và tất cả mọi thứ thế gian, chính niệm chính hành, thì mới có thể thực sự chứng thực được Phật Pháp vĩ đại và cứu độ vô lượng chúng sinh.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/246644

The post Bầu trời của lịch sử: Sự phó thác của thiên quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bầu trời của lịch sử: Cái chết của hoàng hậu Mayahttps://chanhkien.org/2019/01/bau-troi-cua-lich-su-cai-chet-cua-hoang-hau-maya.htmlThu, 03 Jan 2019 04:48:07 +0000http://chanhkien.org/?p=25523Tác giả: Thiện Dũng [ChanhKien.org] Mỗi sinh mệnh trên thế gian đều có đặc điểm, đặc tính riêng, giống như mỗi chiếc lá trên cây cổ thụ tươi tốt, tuy hình dạng giống nhau nhưng không thể tìm thấy hai chiếc lá hoàn toàn giống nhau. Ngày nay, mỗi đệ tử Chính Pháp tu luyện […]

The post Bầu trời của lịch sử: Cái chết của hoàng hậu Maya first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[ChanhKien.org]

Mỗi sinh mệnh trên thế gian đều có đặc điểm, đặc tính riêng, giống như mỗi chiếc lá trên cây cổ thụ tươi tốt, tuy hình dạng giống nhau nhưng không thể tìm thấy hai chiếc lá hoàn toàn giống nhau. Ngày nay, mỗi đệ tử Chính Pháp tu luyện nơi thế tục đều có hoàn cảnh tu luyện và trạng thái tu luyện khác nhau, đều chứa đựng nội hàm lịch sử thâm sâu. Trong quá trình luân hồi lâu dài trong tam giới, lịch sử sinh mệnh của mỗi đệ tử Đại Pháp đều nhằm đặt định ra cảnh giới và tố chất mà mỗi đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp cần phải có.

Cách đây khoảng 40.000 năm, người Maya sinh sống và phát triển trên vùng đất rộng lớn, phì nhiêu ở lục địa Nam Mỹ, họ đã xây dựng lên một đế quốc hùng mạnh – đế quốc Maya. Đế quốc Maya là quốc gia nửa phong kiến nửa nô lệ, quyền lực tập trung ở trung ương, có dân số khoảng 45 triệu người. Tín ngưỡng của phần lớn dân chúng giống với tín ngưỡng của người da vàng ở vùng Trung Á và Tây Á ngày nay, đó là Phật giáo, vị Phật mà họ thờ phụng là Phật Tích Lư Già Na. Lãnh thổ của đế quốc rộng lớn bao la, nằm ở trung tâm của cao nguyên Braxin, bao phủ phần lớn các nước Venezuela, Colombia, Peru, Argentina ngày nay. Ngành luyện kim khá phát triển, các thiết bị cơ khí họ sử dụng đa số được làm từ đồng và sắt. Về lĩnh vực chăn nuôi, họ chăn nuôi các loại gia súc lớn như trâu, ngựa, lạc đà, lợn v.v. số lượng lên đến hơn 300 triệu con. Những vùng đất nông nghiệp rộng lớn trồng ngô, lúa mỳ, mía, bông, khoai tây, cà chua, thuốc lá v.v., ngoài ra còn có rất nhiều các loại cây ăn quả nhiệt đới. Ngành hàng hải và ngư nghiệp cũng rất phát triển. Đội tàu lớn của đế quốc thường xuyên vượt biển liên lục địa, ngoài thực phẩm mang trên thuyền, các thuyền viên thường săn bắt những loài cá to như cá voi làm thức ăn.

Các đời vua của đế quốc Maya đều tiến hành chiến tranh với các quốc gia thờ phụng tà giáo ở các châu lục trên thế giới. Các quốc gia tà giáo đa phần đều thờ phụng một loại tà linh có mắt của rắn hổ mang và có cánh.

Vua của đế quốc Maya bấy giờ đã đến tuổi trung niên, nhưng có một điều khiến ông rất khổ tâm đó là ông chưa có con để kế thừa ngôi vua. Do vậy, sau bảy ngày tịnh tâm, gột rửa, ông đến trước tượng Phật cầu xin ban cho một đứa con. Vị vua Maya này đời trước từng là một cư sỹ thiện tâm, ông đã từng cúng dường thức ăn cho một người xuất gia khổ hạnh độc tu. Về sau người tu luyện này vì tâm tranh đấu không bỏ mà không đắc chính quả, chuyển sinh thành vua của đạo A Tu La. Vì xã hội thời đó đạo đức suy đồi, nhân tâm bất chính, tà giáo hoành hành, chúng sinh bị nghiệp lực báo ứng, vua của đạo A Tu La đã chuyển sinh thành con trai của vua Maya, được đặt tên là Hồng Thạch.

Ba năm sau, ngành chăn nuôi và nông nghiệp của Maya được một mùi bội thu, cả trăm năm mới có một lần, cây lúa phần lớn đều trổ hai bông, gia súc phần lớn đều đẻ hai con. Đến đầu mùa thu, một số loại hoa trái mùa vẫn nở rộ. Trong một căn nhà gỗ giữa rừng sâu, ngày nay thuộc lãnh thổ Venezuela, một thai phụ trẻ đang mang thai sắp sinh, liên tục mấy ngày có rất nhiều loài chim màu sắc rực rỡ đậu trên những cành cây quanh căn nhà gỗ hót líu lo ríu rít, còn có hàng trăm động vật nhỏ vây quanh căn nhà gỗ, thấy người trong thôn, chúng cũng không khiếp sợ, dù người dân trêu chọc thế nào chúng cũng không bỏ chạy, tất cả đều giương những con mắt lớn nhỏ chăm chú nhìn vào căn nhà gỗ như đang nóng lòng chờ đợi điều gì. Trong một cái hồ nhỏ cách thôn làng không xa, thỉnh thoảng những con cá lớn nhảy lên khỏi mặt nước, phát ra những âm thanh lớn, người dân trong thôn đều rất ngạc nhiên.

Thai phụ trẻ sinh hạ một bé gái, hương thơm đầy khắp phòng, sau khi bé gái cất tiếng khóc chào đời, các loài chim nhỏ, động vật nhỏ đều cất những âm thanh huyên náo như tiếng reo mừng, một thời gian lâu sau chúng mới dần dần lũ lượt rời đi. Quan lại địa phương biết chuyện lập tức trình báo lên triều đình về hiện tượng dị thường này. Vua Maya cũng rất kinh ngạc, liền tìm đến một vị cao tăng đại đức gần 400 tuổi để hỏi nguyên do. Vị cao tăng nhìn về hướng nơi bé gái vừa được sinh ra, hợp thập nói: “Đây là điềm lành của đế quốc”. Bé gái này là Nguyệt Quang Bồ Tát từ thượng giới chuyển sinh, đến để cứu độ chúng sinh khỏi khổ nạn. Vua Maya hợp thập quỳ trước cao tăng nói: “Đệ tử vẫn còn một vấn đề không hiểu, xin pháp sư chỉ giáo, vì sao khi bé gái đó sinh ra có rất nhiều chim thú tụ tập xung quanh, gặp người mà như không thấy, dù con người trêu chọc cũng nhất quyết không chịu rời đi”. Cao tăng tuy tuổi tác đã cao, lông mày và râu trắng như tuyết, nhưng khi từ từ mở mắt thì ánh mắt sáng rực và mạnh mẽ giống như ánh sao, ông chăm chú nhìn vua Maya nói: “Đó là do Phật tính từ bi, ân đức cảm hóa vạn vật. Những con vật nhỏ này được Phật tính từ bi cảm hóa đến tụ tập xung quanh cô bé, trong ánh hào quang của Phật tính mà cảm thấy thiện lương, hạnh phúc và bình tĩnh, quên hết tất cả sợ hãi”. Cao tăng nói xong khép hai mắt lại và không nói gì nữa, vua Maya cung kính cúi đầu rồi rời đi. Sau khi trở về cung, ông liền hạ lệnh: “Cô bé này sau khi thành niên sẽ trở thành vương phi của Hồng Thạch, triều đình sẽ chu cấp mọi thứ mà cô bé cần dùng, đến khi năm tuổi sẽ được đưa vào chùa của nữ tăng để tu hành, phái các nữ quan có đạo đức cao thượng đến bảo vệ và chăm sóc cho cô bé”, ông đặt tên cô bé là Minh Nguyệt Nhi.

Mười mấy năm sau, vua Maya đưa Hồng Thạch đến chùa của nữ tăng để thăm Minh Nguyệt. Minh Nguyệt nghe tin đã đến tiếp kiến nhà vua. Cô chưa kịp vào phòng đã nghe thấy âm thanh vui tai phát ra từ chiếc ngọc bội cô đeo trên người, đi đến cửa đã ngửi thấy mùi hương kỳ lạ hiếm có ở thế gian thoang thoảng khắp phòng. Sau khi gặp nữ tăng trụ trì và vua Maya, Minh Nguyệt đứng dậy rời đi. Hồng Thạch nhìn Minh Nguyệt không rời mắt, thấy Minh Nguyệt dung mạo thanh tú, dáng người uyển chuyển, thần thái đoan trang, đặc biệt là đôi mắt to mỹ lệ, trong sáng rạng ngời, như biển lớn sâu thẳm, như ánh mặt trời ấm áp. Hồng Thạch dần dần say đắm vẻ mỹ lệ của Minh Nguyệt. Vua Maya quay sang nữ tăng hỏi: “Vì sao trên thân của Minh Nguyệt Nhi lại có mùi hương kỳ lạ đến vậy?” Nữ tăng đáp: “Cô bé ấy từ nhỏ đến nay thân thể luôn tỏa ra mùi hương tự nhiên như vậy, chưa từng trang điểm gì”. Vua Maya và nữ tăng tiếp tục nói chuyện, bàn đến chuyện hôn sự của Thạch Hồng và Minh Nguyệt, chọn ngày lành tháng tốt để Minh Nguyệt và vương tử Maya chính thức thành thân.

Sau khi kết hôn, vương phi Minh Nguyệt sinh hạ một bé gái, Thạch Hồng rất vui mừng khi có cô con gái hoạt bát hiếu động này, mỗi khi xử lý xong chính sự quốc gia, anh thường ở bên cô bé. Bảy năm sau, vua Maya đã già và mắc bệnh qua đời, Hồng Thạch kế thừa ngôi vua, vương phi Minh Nguyệt trở thành hoàng hậu. Việc làm đầu tiên của hoàng hậu là giúp cho Phật giáo được truyền bá rộng rãi trên toàn quốc, cô sử dụng nguồn lực quốc gia để phổ cập văn hóa, giáo dục; gia tăng đãi ngộ phúc lợi xã hội cho dân chúng; thành lập hiệp hội phụ nữ toàn quốc, quan tâm, chăm sóc cho địa vị, cuộc sống vật chất và tinh thần của người phụ nữ trong xã hội. Cô còn khuyến khích vua Maya hãy lấy đức trị quốc, thống lĩnh thiên hạ. Cô nhiều lần giúp vua Maya xử lý, giải quyết xung đột biên giới, tránh xảy ra chiến tranh giữa các quốc gia.

Hoàng hậu đối xử với rất từ bi với mọi người, dù các nô bộc trong cung phạm lỗi, hoàng hậu Minh Nguyệt cũng sẽ giảng rõ đạo lý để các nô bộc sửa chữa sai lầm, không tái phạm lại sai lầm nữa. Tất cả những người tiếp xúc với cô đều vô cùng kính phục phẩm cách cao thượng của hoàng hậu Minh Nguyệt. Trí huệ và sự từ bi siêu thường của hoàng hậu Minh Nguyệt đã cảm phục dân chúng toàn đế quốc. Tất cả phụ nữ trong đế quốc Maya đều lấy hoàng hậu Minh Nguyệt làm gương, hoàng hậu ăn chay nên phụ nữ toàn quốc đều dấy lên phong trào ăn chay, mỗi loại trang phục và trang sức mới dù giản dị hay cao quý của hoàng hậu sẽ ngay lập tức trở nên thịnh hành trong giới nữ toàn quốc. Thậm chí dầu tắm gội chế từ thảo dược mà hoàng hậu thường dùng cũng trở thành mục tiêu tìm kiếm của những phụ nữ quý tộc. Nhưng quan trọng hơn là sự từ bi của hoàng hậu Minh Nguyệt đã giáo hóa mọi người phụ nữ thời đó, từ những bé gái cho đến những bà lão tóc bạc đều biết rõ những việc hành thiện của hoàng hậu. Hoàng hậu Minh Nguyệt khơi nguồn cho các phong trào thịnh hành thời đó. Sau khi Hồng Thạch lên ngôi vua đã thực hiện các biện pháp để củng cố thêm quyền thống trị, tăng cường xây dựng quân đội, gia tăng số lượng cấm vệ quân từ 1 vạn người lên đến 4 vạn người, quân đội chính quy thường trực trên toàn quốc tăng từ 40 vạn người lên đến 100 vạn người, quân đội dự bị tăng lên đến 300 vạn người. Tiêu chuẩn tuyển chọn cấm vệ quân là ngoài việc phải được rèn luyện trong chiến tranh và có kỹ năng chiến đấu cực kỳ cao siêu ra thì trước khi được phục vụ chính thức, những người này còn được phái đến những quốc gia đối địch ở Bắc Mỹ, sống tối thiểu một tháng trong hoàn cảnh không có bất kỳ sự chi viện nào của hậu phương, đồng thời phải mang về ít nhất một thủ cấp và vật biểu tượng quân hàm của quân nhân phe địch. Những cấm vệ quân này đa phần là những thuộc hạ A Tu La chuyển sinh theo vua A Tu La.

Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Các quốc gia tà giáo ở đại lục phương Bắc lo sợ trước sự hùng mạnh của đế quốc Maya, đã tìm mọi cách ngăn cản và phá hoại sự ổn định và phồn vinh của đế quốc Maya. Họ dùng rất nhiều vàng để mua chuộc một tín đồ tà giáo ẩn trong các quan của vương triều, âm mưu đầu độc hoàng hậu nhưng kế hoạch bất thành, họ liền ra tay hạ độc con gái của vua Maya.

Vua Maya biết được sự thật đã nổi trận lôi đình, đem xử tử toàn bộ những người liên quan. Qua nhiều ngày suy nghĩ, vua Maya triệu tập hội nghị quân sự cấp cao. Đứng trước các tướng lĩnh, vua Maya nghiêm túc và trang nghiêm, ánh mắt của ông sắc bén như chim ưng từ từ nhìn qua mỗi cấm vệ quân hung hãn bên mình, nhìn qua từng khuôn mặt của mỗi vị tướng lĩnh chiến công lừng lẫy bên cạnh mình, cuối cùng ánh mắt ông dừng lại trước một vị tướng quân một mắt và bình tĩnh ra lệnh: “Tập hợp toàn bộ quân đội của đế quốc, ban lệnh động viên chiến tranh trên toàn quốc”. Nói xong rời đi, theo sau là đội cấm vệ quân.

Những ngày tiếp theo, vua Maya trước tiên xuất quân bình định các quốc gia ở Nam Mỹ thờ phụng “Dực mãng thần”. Trong chiến tranh, vua Maya đã truyền lệnh tàn sát hàng loạt dân chúng trong thành: Hễ gặp người chống cự lại thì giết không tha, hễ gặp người tín ngưỡng tà giáo mà không cải biến giết không tha. Sau khi vua Maya mang sư đoàn Hổ Lang của mình bình định toàn bộ Nam Mỹ, ông tập kết gần vạn chiến hạm vượt đại dương và gần 120 vạn quân viễn chinh, với lòng phẫn nộ và hận thù bừng bừng đặt chân lên đại lục phương Bắc (đại lục Bắc Mỹ). Ngoài việc tấn công chính diện, vua Maya còn bí mật phái ba đạo cấm vệ quân, mỗi đội có quân số một vạn người, đi đánh úp thủ đô của ba quốc gia tà giáo chủ chốt ở đại lục Bắc Mỹ, ám sát quốc vương của các quốc gia đó. Mệnh lệnh đặt ra là bằng mọi giá phải thực hiện được mục tiêu chiến lược.

Sau một tháng quân viễn chinh tấn công thẳng vào đại lục Bắc Mỹ, ba đạo quân cấm vệ quân đã tập kích thành công, đô thành của ba nước bị phá hoại thiêu hủy thành tro, chỉ có một vị quốc vương bị trọng thương chưa chết và đã được cứu sống. Quân đội ba nước bị mất đi đầu não chỉ huy thống nhất nên hỗn loạn không chống trả được, bị vua Maya tập trung ưu thế binh lực đánh bại. Đại quân Maya đi đến đâu thì chó gà cũng không còn, thành bang làng mạc đều bị thiêu trụi, trong suốt một thời gian ở đại lục Bắc Mỹ đâu đâu cũng trở thành những vùng đất chết chóc, hoang tàn. Hoàng hậu Minh Nguyệt sau khi biết được tình hình chiến tranh đã lập tức viết thư khuyên nhà vua hãy nhân từ với người dân, khoan dung, tha thứ cho phụ nữ và trẻ nhỏ. Sau nhiều lần khuyên bảo, vua Maya đều không động lòng, vẫn tiếp tục thực thi các chính sách chiến tranh diệt chủng. Sau năm năm, chiến tranh tàn khốc cũng bước vào giai đoạn cuối, vị quốc vương tà giáo cuối cùng đã bị đại quân Maya vây khốn trong một thung lũng, trong lúc hấp hối, ông ta đã cho gọi một thầy phù thủy nắm vững ma pháp hắc ám của ‘Dực mãng thần’ đến và nói: “Ta sẽ dùng tất cả mọi thứ mà ta có để đánh đổi, xin ngài nhất định phải thực hiện nguyện vọng của ta, xin ngài hãy báo thù cho ta và thần dân của ta”. Thầy phù thủy mặc áo bào đen nhìn quốc vương đang hấp hối bằng con mắt đỏ ngầu, chậm rãi gật đầu đồng ý, sau đó quay người biến mất trong dãy núi tối đen. Chiến tranh kết thúc, vua Maya thống lĩnh đại quân A Tu La của mình trở về đô thành ở Nam Mỹ.

Nhà vua quay trở về bên hoàng hậu Minh Nguyệt, nhưng hoàng hậu không biểu lộ một chút vui mừng nào, ánh mắt nghiêm nghị nhìn vua Maya. Vua Maya nhìn vào đôi mắt to mỹ lệ của Minh Nguyệt và hỏi: “Vương hậu, ta đã báo được thù cho con gái chúng ta, đại quân của chúng ta đã bình định được tất cả các quốc gia tà giáo, ta đã trở về bên cạnh nàng, vì sao nàng lại không vui vậy?” Minh Nguyệt đứng dậy hành lễ với vua Maya và nói: “Đại vương, trời cao có đức hiếu sinh, nhưng ngài lại giết hại sinh linh khắp nơi, khiến cho gần 40 triệu người dân ở năm nước bị tàn sát hết, tội nghiệp sát sinh sâu nặng như trời như biển, Thần Phật đã cảnh báo cho thiếp rằng thần dân, con cháu của ngài cũng sẽ bị lời nguyền rủa diệt chủng”. Vua Maya nghe xong, trở nên trầm mặc không nói gì, hạ giọng hỏi lại: “Không có cách nào có thể bù đắp sao?” Hoàng hậu Maya đáp: “Có, thứ nhất là ngài cần phải tích đức hành thiện, không được dẫn quân đi tàn sát sinh linh nữa; thứ hai là cần phải toàn tâm hướng Phật, chỉ có tu Phật mới có thể bù đắp tội lỗi trước đây; ba là thiếp sẽ thỉnh cầu Thần Phật, chúng ta sẽ cùng gánh chịu trừng phạt”. Sau khi nghe xong, vua Maya run run người nhìn hoàng hậu mà không nói được lời nào.

Năm sau đó, vì vua Maya vô đức tàn sát sinh linh, quốc gia của ông đã phải gánh chịu sự trừng phạt của Thần: động đất, núi lửa phun trào; bệnh dịch hoành hành, dân số giảm mạnh; nước biển dâng, khí hậu biến đổi, sản lượng nông nghiệp thấp và mất mùa; gia súc chết rất nhiều, khắp quốc gia đâu đâu cũng đầy mùi tử khí. Tử thần tự do hoành hành trên vùng đất đã từng rất màu mỡ này. Vua Maya ăn ngủ không yên, thân thể tiều tụy, hoàng hậu nhìn thấy cảnh ấy, trong tâm rất đau khổ. Sau khi biến mất trong suốt một tháng, hoàng hậu Maya lại xuất hiện trước mặt nhà vua, dáng vẻ vẫn thuần khiết, dịu dàng, mỹ lệ như lần đầu tiên Hồng Thạch gặp hoàng hậu. Vua Maya vội vàng hỏi: “Những ngày qua, vương hậu đã đi đâu, ta thực sự rất nhớ nàng!” Hoàng hậu lấy cuốn sách dày bằng vải lụa trong tay người thị nữ bên cạnh mình và nói: “Trong một tháng qua, thiếp đã đến nhờ ba vị cao tăng để hỏi xem thần dân Maya sau này còn phải gặp những đại nạn gì, kết hợp với những điều mà Thần Phật đã khai thị cho thiếp biết mà viết thành cuốn sách này, để cảnh báo cho con cháu đời sau của người Maya cách tránh khỏi tai họa. Cuốn sách này ghi chép lại lời tiên tri về những sự kiện sẽ xảy ra liên tục cho đến khi vị Phật Chủ vĩ đại nhất vũ trụ tương lai giáng hạ nhân gian để cứu vớt tất cả sinh mệnh trong vũ trụ, con cháu của người Maya chúng ta cũng sẽ được Phật Chủ cứu vớt, đến lúc đó lời tiên tri sẽ kết thúc”.

Vua Maya nghe xong vô cùng chấn động, ông xem một lượt cuốn sách tiên tri, liên tục mấy ngày ăn ngủ rất ít, tập trung toàn bộ tinh thần xem từng chương từng đoạn của cuốn sách tiên tri. Mấy ngày sau, hoàng hậu Maya lâm bệnh nặng, phải nằm liệt giường không dậy được. Sau hơn chục ngày, vua Maya đến thăm hoàng hậu, vừa ngồi xuống thì thấy hoàng hậu tinh thần tươi tỉnh hơn so với những ngày trước, vua Maya rất vui mừng. Hoàng hậu nói: “Đại vương, thiếp thỉnh cầu ngài giao cuốn sách tiên tri này cho một vị pháp sư đại đức gìn giữ, lưu truyền cho hậu thế”. Vua Maya gật đầu đồng ý. Hoàng hậu lại nói tiếp: “Đại vương, nơi đây sắp trở thành vùng đất bị nguyền rủa, sau khi thiếp qua đời, thỉnh cầu ngài lập tức rời đô để duy trì nòi giống con cháu người Maya”.

Vua Maya nói: “Vương hậu nói gì vậy, nàng sẽ nhanh chóng khỏe lại thôi”. Minh Nguyệt chỉ khẽ cười, tiếp tục nói: “Đừng vì sự ra đi của thiếp mà bi thương, có thể vì người mà thiếp yêu, vì những người dân mà thiếp đã nhiệt thành yêu mến mà phó xuất sinh mệnh của mình, đối với thiếp thì đó đã là một điều hạnh phúc rồi. Mặc dù biệt ly nhưng sẽ có ngày gặp lại. Ngài sẽ vĩnh viễn sống trong tim thiếp!” Nói xong hoàng hậu Maya chỉ lặng lẽ nhìn vua Maya, ánh mắt của nàng rất chăm chú, như muốn vĩnh viễn khắc ghi hình ảnh của vua Maya trong tim mình. Trong khoảnh khắc, đôi mắt cô phát ra ánh sáng kỳ lạ, cô mỉm cười, nụ cười của cô giống như ánh mặt trời sưởi ấm trái tim của nhà vua. Cứ như thế, hoàng hậu Maya mang theo nụ cười rạng rỡ như ánh mặt trời rời xa tất cả mọi thứ mà cô đã yêu mến.

Sau lễ quốc tang của hoàng hậu, vua Maya rời đô đến đại lục Bắc Mỹ, thuộc địa phận của Mexico ngày nay, xây dựng lại kinh đô mới. Kể từ khi hoàng hậu qua đời, cuộc sống hàng ngày của vua Maya đều chìm trong nỗi nhớ nhung da diết, bất cứ sự việc gì cũng không thể làm ông vui vẻ trở lại. Nhiều năm sau, khi vua Maya đã về già, ông đến quỳ trước tượng Phật, nhớ đến nỗi đau mất đi con gái yêu và hoàng hậu mà không cầm được nước mắt, than rằng: “Phật đà vĩ đại! Con biết con phạm tội nghiệp sâu nặng, con xin thành tâm sám hối trước mặt người vì tất cả những tội nghiệp của con. Con tuy là đế vương, nắm giữ tất cả mọi quyền lực và tài sản trong thiên hạ, nhưng con lại không thể giữ được người mà con yêu! Con không còn muốn làm một con người bình thường nơi trần thế nữa, xin ngài ban cho con trí huệ và sức mạnh để con có thể cứu vãn được sinh mệnh của những người khác. Ngay cả khi con không còn gì cả, con cũng muốn có năng lực cứu người”.

Vài năm sau, vua Maya qua đời, thế hệ sau của ông sinh sống tại đại lục Bắc Mỹ rộng lớn, cuốn sách ghi lại những lời tiên tri của hoàng hậu Maya được lưu truyền rộng rãi trong những người Maya. Trong số những người lưu truyền cuốn sách các đời sau có một số là người tu luyện trong tôn giáo đã đạt đến cảnh giới rất cao, họ đã thêm một số lời tiên tri của mình vào cuốn sách tiên tri này. Cho đến ngày nay, nhân loại chúng ta thời kỳ này gọi nó là lời tiên tri Maya, trong suốt mấy vạn năm lưu truyền, một số nội dung đã bị mất đi, nhưng những nội dung chủ yếu vẫn còn được lưu truyền đến ngày nay.

13.000 năm sau khi vua Maya qua đời, một vương tộc người Maya nắm giữ ma pháp hắc ám đã sử dụng năng lực thần giao cách cảm của ma pháp để liên hệ với những sinh mệnh đến từ hành tinh Orion, họ đã ký kết với ma giới. Người ngoài hành tinh dùng khoa học kỹ thuật ngoài hành tinh giúp vương tộc này phát triển quân sự, gây chiến với các nước xung quanh, họ bắt rất nhiều tù binh và các loại động thực vật, cung cấp cho người ngoài hành tinh làm mẫu vật sống nghiên cứu. Ngoài ra, họ còn sử dụng ma pháp hắc ám để kéo dài tuổi thọ cho những người ngoài hành tinh cao cấp. Người ngoài hành tinh cao cấp để tỏ lòng cảm ơn, đã tặng cho vương tộc Maya một chiếc hộp sọ pha lê. Trong tầng nguyên tử của chiếc hộp so pha lê này có lưu trữ lịch sử phát triển của người ngoài hành tinh, một số lý luận và thành quả về vũ trụ mà người ngoài hành tinh tìm hiểu và nhận biết được. Về sau, một số người tu luyện chính pháp thấy rằng hộp sọ pha lê là một phương tiện lưu giữ thông tin rất tốt, nên một số người tu luyện ở cảnh giới cao đã sử dụng khoa học ngoài hành tinh mà con người lúc bấy giờ nắm vững được để chế tạo ra một số hộp sọ thủy tinh nữa, họ dùng công năng đưa những pháp lý vũ trụ mà mình chứng ngộ được lưu vào trong hộp sọ pha lê. Họ dùng chúng làm pháp khí tôn giáo lưu lại cho những người tu luyện hậu thế; cũng có một số hộp sọ pha lê là do đế vương đời sau nhờ các pháp sư trong tôn giáo chế tạo để kỷ niệm những vĩ nhân hoặc một thời kỳ lịch sử đặc thù nào đó trong quá khứ.

Chỉ có 13 hộp sọ pha lê được lưu truyền đến ngày nay. 13 hộp sọ pha lê này được những người khác nhau chế tạo trong các thời kỳ khác nhau với các mục đích khác nhau. Người Maya ký kết giao ước với người ngoài hành tinh đã phát triển gần 5000 năm, họ muốn dùng khoa học kỹ thuật của người ngoài hành tinh để thoát khỏi sự khống chế của người ngoài hành tinh nhưng họ đã bị người ngoài hành tinh tiêu diệt hoàn toàn bằng vũ khí biến đổi gien và vũ khí hạt nhân. Trước khi họ bị tiêu diệt, căn cứ cuối cùng của họ ở khu vực trung và hạ lưu sông Amazon.

Năm tháng vô tình. Hôm nay sau hàng vạn năm, hoàng hậu Maya đã chuyển sinh thành một đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp, cô vẫn thừa hưởng vẻ đẹp mỹ lệ truyền kỳ thời tiền sử, chỉ là đôi mắt to đẹp luôn u sầu, bất cứ ai từng gặp cô đều không khỏi chấn động trước khí chất của cô, thân thể cô vẫn tỏa ra mùi hương rất kỳ diệu như trước đây. Cô tích cực tham gia các hạng mục Chính Pháp của đệ tử Đại Pháp và đạt hiệu quả rất tốt. Vua Maya cũng là một đệ tử Chính Pháp, anh ấy thực sự có được năng lực cứu người mà Đại Pháp ban cho, nhưng cũng đúng như thệ ước của anh: đời này anh đúng là không có gì cả, chỉ có năng lực cứu người. Có lúc hồi tưởng lại từng giai đoạn sinh mệnh mà đồng tu đã trải qua trong lịch sử, quả thực khiến người ta cảm xúc thăng trầm, xúc động tận tâm can.

Đứng từ giác độ con người ngày nay để tìm hiểu lịch sử, chúng ta không còn thấy được đế quốc Maya hùng mạnh đã từng xuất hiện tại đại lục Châu Mỹ nữa, chỉ có thể qua một số di tích cổ đại mà cảm nhận được sự huy hoàng của thời đại Maya tiền sử. Tôi phảng phất nhìn thấy những cung điện hùng vĩ, những tường thành, cột trụ và lăng mộ, dường như vẫn đứng sừng sững qua những năm tháng lịch sử đau thương, hiển hiện cho chúng ta thấy sự phồn hoa năm xưa.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/118575

The post Bầu trời của lịch sử: Cái chết của hoàng hậu Maya first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bầu trời của lịch sử: Tu luyện Đông Chu Đại Đạohttps://chanhkien.org/2018/12/bau-troi-cua-lich-su-tu-luyen-dong-chu-dai-dao.htmlWed, 26 Dec 2018 03:44:31 +0000http://chanhkien.org/?p=25519Tác giả: Thiện Dũng [ChanhKien.org] Lời dẫn Bài viết này do một đồng tu nhờ tôi viết và chỉnh lý, kể lại quá trình tu luyện mà đồng tu đó đã trải qua trong đời trước. Vào thời Trung Quốc cổ đại, người tu luyện phải trải qua rất nhiều gian khổ. Chúng ta, những […]

The post Bầu trời của lịch sử: Tu luyện Đông Chu Đại Đạo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[ChanhKien.org]

Lời dẫn

Bài viết này do một đồng tu nhờ tôi viết và chỉnh lý, kể lại quá trình tu luyện mà đồng tu đó đã trải qua trong đời trước. Vào thời Trung Quốc cổ đại, người tu luyện phải trải qua rất nhiều gian khổ. Chúng ta, những người tu luyện Đại Pháp của vũ trụ, được Sư tôn từ bi chăm sóc, chỉ trong vòng mấy chục năm tu luyện ngắn ngủi có thể có hi vọng tu thành đạo, so với họ thì chúng ta quả là vô cùng may mắn.

Tu luyện Đông Chu Đại Đạo

Phần thứ nhất

Vào những năm cuối thời Đông Chu, vua quan vô đạo, chư hầu cát cứ, quần hùng tranh giành Trung Nguyên. Thiên tai, nhân họa hoành hành, dân chúng thống khổ, lầm than.

Tôi chuyển sinh vào một gia đình nô lệ ở vùng núi Thái Sơn, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Khi mới lớn lên, 12 tuổi tôi phải chăn dê cho nhà chủ. Vào mùa hè trong một trận mưa bão, số lượng đàn dê bị thất lạc quá nửa, vì sợ bị đánh phạt nên tôi không dám về nhà chủ nữa. Khi lên núi tìm đàn dê, tôi bị lạc trong rừng sâu, đi bộ ba ngày, vừa đói vừa giá rét, tôi ngã gục dưới một gốc cây cổ thụ. Bỗng tôi nghe thấy một tiếng động lạ trong bụi rậm, ngoảnh đầu lại thấy một con mãnh hổ trắng đang tiến lại gần. Nó chuẩn bị nhe nanh cắn tôi, bỗng nhiên có một người quát: “Lục Nhi, dừng lại”, con hổ trắng ngoan ngoãn chạy về nơi phát ra tiếng nói và nằm phủ phục ở đó.

Một kỳ nhân mặc trang phục kỳ dị từ trong bụi rậm đi ra. Nhìn thấy tôi nằm dưới gốc cây, người đó hỏi: “Cậu bé, tại sao lại ở đây?” Tôi đáp: “Cháu làm mất đàn dê của ông chủ nên phải vào rừng tìm dê, cháu bị lạc trong rừng đã ba ngày rồi”. Vị kỳ nhân búi tóc cao trên đỉnh đầu và cài một cái trâm bằng trúc, ông nói: “Hãy theo ta”. Thế là tôi đi theo ông ấy vào rừng, con hổ trắng cũng đi theo hai người chúng tôi. Đi được nửa ngày, chúng tôi đến một căn nhà cỏ tranh ở giữa rừng, căn nhà có hai phòng. Kỳ nhân lấy nước cho tôi, rồi sắp xếp chỗ ngủ cho tôi. Con hổ trắng đứng ở ngoài cửa không vào trong, nó cứ nhìn tôi tỏ vẻ hiếu kỳ. Một lúc lâu sau, nó vẫn nằm ở cửa và quan sát tôi. Kỳ nhân bước vào trong phòng, rồi hỏi tôi: “Cháu bé, cháu tên gì?” Tôi đáp: “Cháu không có tên”. Kỳ nhân trầm mặc suy nghĩ, ánh mắt lóe lên, nói: “Ta là Thần tiên, con và ta có duyên. Con có thể ở lại đây để tu luyện thành tiên, nếu con không muốn, ta có thể đưa con trở về nhà”. Tôi nghĩ: “Mình làm mất của chủ nhân 74 con dê non, nếu quay về thì thể nào cũng bị chủ nhân trách phạt, sống chết thế nào còn chưa biết, mình quyết sẽ không quay về”. Tôi đứng dậy hành lễ với kỳ nhân, tôi quỳ xuống nói: “Thưa Thần tiên, con quyết không trở về, xin ngài thu nhận con làm đồ đệ, con nguyện đi theo Thần tiên”. Kỳ nhân vuốt râu, mỉm cười nói: “Được, ngày mai ta sẽ thu con làm đồ đệ. Con không phải sợ con hổ này, con hổ này tên là Lục Nhi, nó cũng là Thần thú”. Kỳ nhân vẫy tay với Lục Nhi, con hổ đi vào phòng và bước đến trước mặt ông, ông chỉ tay vào tôi và nói với con hổ rằng: “Đây là đồ đệ của ta, ngươi hãy chăm sóc cho cậu ấy”. Con hổ như hiểu tiếng người, quay người bước đến dựa vào tôi biểu thị sự thân thiết, tôi rất vui mừng, lấy tay vuốt lưng nó, nó cũng dịu dàng dụi đầu vào tôi.

Ngày hôm sau, sư phụ chính thức thu nhận tôi làm đồ đệ, sau khi tôi bái tổ sư của các thời đại, hành đại lễ với sư phụ, sư phụ nói: “Pháp môn tu luyện của chúng ta là pháp môn Vô Cực của Tiên Thiên Đại Đạo. Vũ trụ bản nguyên hỗn độn gọi là vô cực; sau đó sinh ra vân khí gọi là hữu cực; thanh khí (khí tốt) thăng lên, trọc khí (khí xấu) hạ xuống gọi là thái cực, thái cực sinh ra vạn vật… Ta là chưởng môn đời thứ 374 của pháp môn Vô Cực, pháp hiệu là “Tịnh Huyền”, con là đệ tử đời thứ 375, pháp hiệu là “Đạo Minh”, hãy nhớ kỹ!” Sư phụ lấy ra một thanh kiếm màu đen đưa cho tôi và nói: “Kiếm này có tên là ‘Tịch Thiên Kiếm’, có nghĩa là khai thiên tịch địa. Kiếm mà ta sử dụng mang tên ‘Thánh Thiên Kiếm’, có nghĩa là thánh kiếm mà thánh nhân sử dụng để thay trời hành đạo”. Sư phụ nói tiếp: “Pháp môn chúng là pháp môn tính mệnh song tu thượng thừa của Đạo gia. Trước tiên con phải tu luyện ngoại công bổ trợ cho nội lực. Ta sẽ truyền cho con Ngũ Hành quyền”. Sư phụ lấy một viên đan màu đỏ đưa cho tôi uống và nói: “Sau này cứ một tháng uống một viên. Đan dược này ta đã dùng các dược liệu quý của thiên hạ, mất gần 100 năm mới luyện thành, nó có tác dụng thông kinh hoạt lạc, nâng cao tố chất thân thể. Người thường dùng ba viên có thể sống thọ đến trăm tuổi. Sau khi uống vào, tôi cảm thấy bụng ấm nóng, rồi dần dần lan ra khắp tứ chi, không còn cảm thấy buồn ngủ và đói nữa.

Ngày tiếp theo, sư phụ dạy tôi Ngũ Hành quyền. Buổi chiều, Lục Nhi bắt được hai con thỏ rừng, tôi nhặt một ít củi khô, hầm chín thịt thỏ và mời sư phụ cùng ăn, sư phụ nói: “Ta không ăn”. Ông lấy một viên đan dược hòa với nước uống, sau đó vào trong phòng ngồi đả tọa không nói gì. Tôi lại mang một ít thịt ra ăn cùng với Lục Nhi, nhưng nó cũng không ăn, ăn xong tôi đi ngủ. Cứ như thế, tôi luyện quyền và luyện trạm trang hơn 100 ngày, sư phụ lại dạy tôi một số phương pháp đả tọa điều tức. Vài ngày sau, sư phụ dựng một cây cọc gỗ lớn trước nhà cỏ, sau đó gọi tôi đến và nói: “Con cần luyện thông kinh điều tức, không được để bị can nhiễu, cũng không được cử động, nên ta phải trói con lên cây cọc gỗ này để phòng bất trắc. Tôi đặt chân song bàn, lấy vải buộc lại, hai tay kết ấn, thân trên buộc chặt vào cọc gỗ. Sư phụ nói: “Ta đi vào núi sâu tìm thuốc, ba ngày sau sẽ về”, nói xong nhẹ nhàng bay đi. Chỉ còn Lục Nhi ở lại nằm ngủ say bên cạnh.

Cứ cách năm ngày tôi lại phải luyện song bàn thông kinh ba ngày như thế. Lúc đầu không đủ sức duy trì được, sau đó có thể duy trì được, cuối cùng không còn cảm thấy khổ nữa. Ban ngày thì luyện tập ngoại công trạm trang, đến chiều và tối cũng không ngơi nghỉ, lại ngồi đả tọa điều tức, tuy không ngủ nhưng tinh thần lại rất phấn chấn.

Năm thứ hai tôi đã luyện tập thành thục Ngũ Hành quyền, sư phụ lại dạy tôi thương pháp 13 đường.

Năm thứ ba Sư phụ bắt đầu dạy tôi luyện tập kiếm pháp, kiếm pháp này có tên là “Ngự kiếm thuật”, phân thành hai bộ là “Thủ kiếm thuật” và “Thần kiếm thuật”. Thần kiếm thuật tức là dùng thần thông để điều khiển kiếm từ khoảng cách xa diệt trừ yêu quái.

Hàng ngày, ngoài việc dạy ngoại công và điều tức, sư phụ còn giảng pháp lý tu Đạo về vận hành kinh mạch trên thân thể, sự chuyển vận của các ngôi sao, những bí mật về các hành tinh, mối liên hệ giữa thân thể người và tự nhiên, các quan hệ đối ứng giữa chúng; làm thế nào để đồng hóa, thuận theo tự nhiên.

Tám, chín năm sau, tôi luyện ngoại công ngày càng thành thục, pháp lực thần thông cũng dần dần triển hiện.

Một ngày nọ, sư phụ nói: “Con vào núi theo ta tu Đạo đã được gần 10 năm, ngoại công đã bắt đầu có thành tựu, từ hôm nay cần phải trú trọng vào điều tức định lực. Sinh mệnh vạn vật vì Đạo mà sinh, không có Đạo sẽ vong. Nhân pháp địa, trầm trầm bất động, vi địa tiên; nhân pháp thiên, lãng lãng không minh, vi thiên tiên; nhân pháp đạo, nhất thiết tẫn vô, tắc vi thần tiên (Người thuận theo pháp của đất, thâm trầm ổn định, chính là địa tiên, người thuận theo pháp của trời, sáng sủa minh không, chính là thiên tiên, người thuận theo đạo, hết thảy vô vi, thì chính là thần tiên).

Thuận theo định lực tăng trưởng, mỗi lần tôi có thể ngồi đả tọa liền mấy ngày không ăn không uống, thân thể và tinh thần vẫn an định, khỏe khoắn. Một vài năm sau, vào mùa đông, tôi cùng Lục Nhi mang da lông động vật và các loại thảo mộc xuống chợ dưới chân núi để đổi lấy lương thực và dầu. Khi quay về, đi qua một làng ở trên núi, Lục Nhi có biểu hiện bồn chồn khác thường, tôi nghĩ ở làng này chắc chắn có yêu quái. Đi vào làng, tôi được biết gần một năm nay trong làng bị hồ tinh quấy nhiễu, đã có bảy nam thanh niên bị hồ tinh hại chết. Nhớ đạo pháp mà sư phụ dạy phải thay trời hành đạo, diệt trừ tà yêu, duy trì đạo lý của con người, tôi cùng Lục Nhi yên lặng chờ đợi trong núi. Nửa đêm canh ba, từ phía tây nam có một làn yêu khí màu xanh bay vào trong làng, đến trước cửa một ngôi nhà trong làng, làn yêu khí tụ lại thành hình một thiếu phụ, xuyên qua tường đi vào trong nhà. Tôi và Lục Nhi nhanh chóng tiến đến trước cửa và quát lớn: “Yêu nghiệt dám gây họa loạn nhân gian, còn không mau ra chịu chết”. Một lúc sau, nghe thấy tiếng đẩy cửa, một mỹ nhân mặc y phục màu trắng đứng trước cửa, một tay chống nạnh, một tay cầm một cây trùy gỗ, định nói gì đó. Đột nhiên, Lục Nhi gầm lên một tiếng rồi lao lên phía trước, người phụ nữ áo trắng nhìn thấy tình hình bất ổn, quay đầu lập tức hóa thành một làn khí xanh, bỏ chạy về phía tây nam. Tôi rút Tịch Thiên kiếm phóng lên không trung, rồi vận pháp lực điều khiển Tịch Thiên kiếm bay nhanh đuổi theo, tôi nghe thấy trong không trung một tiếng kêu bi thương, lần theo âm thanh, tôi thấy Lục Nhi đang đi quanh con hồ ly lông màu bạc bị thương, liên tục gầm gào. Con hồ ly bị trọng thương chỉ còn thoi thóp. Tôi thu lại Tịch Thiên kiếm, bỏ con hồ ly vào túi, mang về cho sư phụ xử lý.

Sư phụ nhìn nó rồi nói: “Thật tội nghiệp, con yêu hồ ly này đã tu luyện 1300 năm, cũng là linh vật. Chỉ tiếc là không đi theo chính đạo, lại hấp thu tinh huyết của con người, làm hại chết bảy người, gây tội nghiệp”. Sư phụ thở dài, giao cho tôi mang con yêu hồ đã chết này đi chôn phía sau núi. Ngày hôm đó, Lục Nhi hưng phấn lạ thường như được ban cho chức tướng quân vậy, nó lắc đầu vẫy đuôi, đi qua đi lại trước mặt tôi.

Những ngày tháng vô ưu vô lo sống trong núi thấm thoắt lại qua bốn năm nữa. Một hôm, sư phụ gọi tôi vào trong nhà cỏ, thần sắc nghiêm trang nói với tôi: “Đồ nhi, con theo sư phụ tu Đạo đã được 20 năm, đã có một chút thành tựu, đã đến trạng thái bách mạch giai thông. Nếu muốn trường sinh bất tử, tiêu diêu trong vũ trụ thì còn phải đi vân du thế gian, nếm trải đủ mọi nỗi khổ trên thế gian, ma luyện tâm tính, thì mới của thể có thành tựu Đại Đạo”. Tôi hợp thập đáp: “Con xin tuân theo mệnh lệnh của sư phụ”. Sư phụ nói tiếp: “Đi vân du thế gian không thể đi một cách bình thường. Thứ nhất là phải đi xin ăn, không được xin nhiều, mỗi ngày chỉ ăn một bữa; thứ hai là không được thuê nhà trọ, không được ở nhà người thường và đền miếu; thứ ba là thời gian đi vân du là 81 năm. Đồ nhi, con có yêu cầu gì không?” Tôi đáp: “Con không”. Sư phụ nói: “Con về chuẩn bị lên đường đi”. Tôi đáp: “Vâng”.

Thế là tôi bắt đầu 81 năm vân du khổ tu.

Phần thứ hai

Từ biệt ân sư, tôi xuống núi đi vân du. Từ xa xa tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng gầm kéo dài của Lục Nhi, phảng phất nhìn thấy hình ảnh của Lục Nhi lưu luyến lúc chia tay.

Ngày thứ hai đi vân du, tôi vào một thôn sơn. Ngôi làng đổ nát thê lương, những người dân bị thổ phỉ cướp hết sạch của cải trong cảnh chiến tranh loạn lạc, xác chết đầy đường. Con người nơi nhân thế làm nhiều việc ác, nghiệp lực luân báo không bao giờ kết thúc. Điều này càng khiến tôi thêm kiên định tu Đạo. Không có gì ăn, tôi đành phải vào rừng tìm quả dại và rau dại ăn tạm. Ăn xong, tôi tìm một nơi kín gió ngồi đả tọa nhập định. Ngày hôm sau, trời đổ mưa, gió lạnh thấu xương, quần áo tôi ướt hết, tôi vẫn bất động, ba ngày sau tôi xuất định tiếp tục lên đường. Thời tiết dần dần trở nên mát mẻ, thu qua đông tới, những ngày mùa đông ở phương bắc lạnh lẽo khác thường, nước đóng thành băng. Từ sáng đến tối, gió tuyết ngày càng mạnh hơn, tôi nhìn xung quanh mờ mịt, không một bóng người, tôi ngồi trong tuyết tu luyện thiền định. Quần áo mỏng manh, phải chịu đựng đói rét. Tôi vận công điều hòa mạch lạc vài lần, rồi tiến nhập vào trạng thái nhập định thâm sâu, trong thân có đạo pháp, cái lạnh không thể cản trở nổi tôi. Mười mấy ngày sau tôi xuất định. Sau nhiều ngày bão tuyết, tuyết đã cao đến ngực tôi, chỉ có đầu ở trên mặt tuyết, sau này may mắn được người có duyên tặng cho cái áo bông, chịu khổ cực đợi đến mùa xuân. Lời ân sư dạy bảo luôn khắc ghi trong tâm tôi, tôi chưa bao giờ gián đoạn việc tập luyện công pháp, ngày qua ngày tiến bộ không ngừng.

Chớp mắt 20 năm vân du nơi nhân thế qua đi như cơn gió thổi. Tôi đi vân du tới cao nguyên Quý Châu, tại đây tôi gặp những người nước ngoài, xin ăn không được bao nhiêu lại còn chịu nhiều lời nhục mạ. Tôi tự nhủ trong tâm rằng: “Ta là người tu Đạo, một nửa là thần, không thể giống như người phàm tục được, nếu ta tranh cãi với họ thì chẳng khác chi người phàm tục, đạo pháp sẽ mất hết”. Nghĩ vậy tôi không để tâm đến họ nữa.

Đến tam phục (thời kì nóng nhất trong năm), tôi ở trong rừng trúc hóng mát. Một cô gái người nước ngoài đi qua mỉm cười hỏi thăm tôi, tôi đứng dậy hành lễ. Trước khi đi, tôi tìm một nơi yên tĩnh, luyện một lượt Ngũ Hành quyền và kiếm pháp, ngồi đả tọa điều tức đến chiều tối, rồi đi vào trong làng xin ăn. Nhìn thấy một ngôi lầu trúc, tôi đến gõ cửa, vừa hay là cô gái người nước ngoài gặp buổi sáng. Nhận ra tôi, cô ấy cho tôi rất nhiều đồ ăn, còn giới thiệu tôi với lão phu nhân và rất nhiều người. Sau khi ăn xong tôi lập tức rời đi, trở lại rừng trúc đả tọa nhập định tu luyện. Buổi trưa hôm sau, cô gái người nước ngoài đến trước mặt tôi, dùng hán ngữ nói với tôi: “Tôi là giáo chủ Thần Nữ giáo, anh có thể ở lại bản giáo làm rể không? Giáo chúng của Thần Nữ giáo của tôi cũng nguyện cung phụng tiên nhân”. Nghe cô gái nói những lời ấy, tôi lập tức nói: “Tôi là người tu đạo khổ tu, phải giới sắc, cảm ơn ý tốt của giáo chủ”. Giáo chủ Thần Nữ vẫn không đi, kiên trì ở lại thuyết phục, tôi không nói gì và cũng không cử động, đột nhiên cô ấy lấy từ trong túi ra một nắm thuốc bột ném lên không trung, tôi vội nín thở, ra tay điểm huyệt vào lưng cô ấy, tôi đứng dậy mang cô ấy về lầu trúc, hành lễ rồi rời đi.

Vì chiến tranh loạn lạc khắp nơi nên thiếu rất nhiều con trai để kế tục hương hỏa, nên tình huống này cũng hay xảy ra.

Người tu luyện phải giữ nghiêm giới luật, bài trừ sắc tâm. Nếu ở lại nhân gian sống cuộc sống của con người thì chính là người thường trong nhân gian, khí huyết khô kiệt thì phải chết, phải luân hồi trong tam giới, ở trong biển khổ vô tận, không thể giải thoát bản thân.

Hoa nở hoa tàn, năm này qua năm khác, mọi thứ đều hóa thành tro bụi. Đạo pháp của tôi ngày một tinh thâm, đã hiểu thấu nhân duyên của vạn sự trên thế gian. Một lần nhập định thâm sâu có thể nhập định vài năm, vài năm ngồi bất động như núi. Thời gian trôi qua như chớp, đông qua hè tới, vân du thế gian đã bình yên qua 20 năm.

Một hôm, tôi đi vân du đến vùng duyên hải Triết Giang. Vùng đất này sản vật phong phú, dân chúng an cư lạc nghiệp, ít xảy ra chiến tranh loạn lạc, trong chợ người người mua bán tấp nập. Tôi nghe thấy tiếng một người phụ nữ kêu khóc. Mọi người bàn tán: “Con của chị ta chơi trên bãi biển, đột nhiên bị một cơn sóng lớn cuốn đi, chị ta vì mong mỏi nhớ con mà trở nên điên điên rồ rồ như vậy”. Người ta lại nói: “Ở bờ biển dạo này có nhiều trẻ con bị bắt cóc, không biết vì sao”. Nghe mọi người nói, tôi nhìn về phía biển, vận dụng pháp nhãn thông trông thấy khí đen đầy trời, thấy một con giao long (là loài lai giữa hải long và giao long ở sông) chuyên ăn thịt trẻ con. Vào lúc nửa đêm, tôi đến bờ biển, dùng thần thông bắt con giao long ra khỏi mặt nước. Con giao long phủ phục dưới mặt đất, tôi hỏi nó: “Tại sao ngươi lại bắt trẻ con ăn thịt? Gây tội họa loạn nhân thế tất sẽ bị trời phạt!” Con giao long khẽ đáp: “Chân nhân có thể không biết đó, ngư dân vùng này gây tổn hại nghiêm trọng cho thủy tộc của tôi, lần này tôi đến đây chính là để đòi nợ”. “Nhân quả có quy luật, thiên lý rõ ràng, ngươi cũng không nên làm như thế. Nếu bắt trẻ con như thế, tất sẽ bị trừng phạt”. Giao long trả lời: “Tôi sẽ làm theo chỉ dạy của chân nhân”. Giao long chầm chậm lặn xuống nước. Ba ngày sau, nó hóa thành một đạo sĩ đi tới bờ sông, nói dối mọi người rằng: “Ba năm hạn hán ở đây là do ngư dân vùng này đã giết hại rất nhiều thủy tộc nên bị trời trách phạt. Phải cúng một đôi đồng nam đồng nữ cho Long vương thì mới có thể thoát tội”…

Tôi tu luyện thiền định trong núi, nhìn thấy con giao long  tính ác không hối cải, liền cầm Tịch Thiên kiếm định truy sát nó. Nhưng nhớ tới lời ân sư từng nói: “Yêu tà gây họa loạn nhân thế thì phải giết. Nhưng đối với long tộc thì khác, phải giao cho Thiên đình xử lý, vì đa phần chúng được Thần bảo hộ”. Tôi bèn dùng pháp lực bắt lấy nó, giao cho thiên thần trên Thiên đình thẩm tra xử lý. Nhờ vậy mà Thiên đình biết rõ căn nguyên và cử thiên nhân hỗ trợ.

Vài chục năm sau, tôi vẫn chuyên cần tu Đạo, Đạo pháp phát triển không ngừng. Có người ở Sắc Giới Thiên đến cầu pháp, tôi đã giảng Đạo pháp cho chúng tiên ở Sắc Giới Thiên một thời gian. Lại có rất nhiều thiên nhân đến cầu pháp, đáp ứng không xuể. Chúng tiên có ý muốn tôi lưu lại ở Thiên cung cùng chúng tiên hưởng thiên phúc. Tôi nghĩ trong tâm rằng Sắc Giới Thiên vẫn ở trong tam giới, vẫn phải nhập lục đạo luân hồi, không phải là vĩnh cửu, chỉ là tạm hưởng thiên phúc, khi thiên phúc hưởng hết thì vẫn phải xuống địa ngục, cũng không thể vĩnh viễn bất tử, vẫn nên rời đi. Tôi từ biệt chúng tiên trở về nhân thế, tiếp tục đi vân du khổ tu. Năm này qua năm khác, thời gian như thoi đưa, tính ra đi vân du cũng đã nhiều năm, cũng sắp đến thời hạn mà ân sư định ra rồi. Tôi lại đi vân du đến Hoa Sơn, tìm một động tiên để nhập định thâm sâu. Trong định, thân và tâm của tôi đều biến mất, tất cả mọi thứ hữu hình, vô hình trên thế giới đều biến thành hỗn độn, chỉ còn là hỗn độn vô tận.

Mấy năm sau, đã đến thời hạn, tôi xuất định chuẩn bị trở về theo ý lệnh của sư phụ. Bỗng nhiên nghe thấy ngoài động có tiếng của sư phụ: “Đồ nhi, sư phụ đến rồi”. Tôi vội ra ngoài động hành lễ với sư phụ. Sư phụ nói: “Đồ nhi, con đã vất vả rồi. Vô Cực pháp môn của chúng ta là tu luyện Đại Đạo. Tổ sư di huấn rằng: thế gian mỗi 800 năm mới xuất hiện một người đại đức có thể truyền thừa pháp môn đạo pháp của ta, cần phải khổ tu trăm năm mới có thể thành đạo. Tương lai, đệ tử của con 800 năm sau sẽ giáng sinh ở Hoa Sơn, hãy nhớ kỹ! Thời hạn ta định đã đến”. Nói xong sư phụ đơn thủ lập chưởng hành lễ với tôi nói: “Chúc mừng chân nhân thành đạo”. Trong nháy mắt, tôi cảm giác mình biết được mọi điều về quá khứ và tương lai, lên trời xuống đất không nơi nào không thể đi… Đây thực sự là đắc đạo rồi. Tôi thấy trên không trung mây trắng bồng bềnh, hương thơm lan tỏa khắp nơi, những cảnh tượng kỳ diệu chốn thần tiên hiện rõ ràng trước mắt. Có câu thơ rằng:

Chứng quả thánh nhân

Khán thế gian phong khởi vân dũng, tuế nguyệt thương tang,

Ngộ thiên cơ thần hành tự tại, vạn cổ trường tồn.

Tạm dịch:

Nhìn thế gian gió mưa vần vũ, trải qua năm tháng tang thương

Ngộ ra thiên cơ, tự tại trên con đường thành Thần, vạn cổ trường tồn.


Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/55568

The post Bầu trời của lịch sử: Tu luyện Đông Chu Đại Đạo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bầu trời lịch sử: Vương triều trên thiên quốchttps://chanhkien.org/2018/11/bau-troi-lich-su-vuong-trieu-tren-thien-quoc.htmlFri, 23 Nov 2018 03:57:58 +0000http://chanhkien.org/?p=25512Tác giả: Thiện Dũng  [ChanhKien.org] Phật Pháp đối với người tu luyện trong các tầng thứ khác nhau có các pháp tương ứng triển hiện trong các tầng thứ khác nhau. Khi tu luyện trong các trạng thái và tầng thứ khác nhau, hình thức diễn hóa của vật chất và sự tồn tại của […]

The post Bầu trời lịch sử: Vương triều trên thiên quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng 

[ChanhKien.org] Phật Pháp đối với người tu luyện trong các tầng thứ khác nhau có các pháp tương ứng triển hiện trong các tầng thứ khác nhau. Khi tu luyện trong các trạng thái và tầng thứ khác nhau, hình thức diễn hóa của vật chất và sự tồn tại của sinh mệnh trong các tầng thứ khác nhau mà Pháp triển hiện cho tôi vô cùng phong phú, tráng lệ và mỹ hảo, nhưng đó không phải là chân tướng căn bản của vũ trụ. Chỉ có kiên định chính niệm đối với chân lý vũ trụ nơi thế gian, chỉ khi ở cùng Sư tôn vĩ đại trong thời kỳ Chính pháp, trợ Sư chính Pháp, đây mới là sự việc vĩ đại nhất và có ý nghĩa nhất không có bất kỳ sự việc nào sánh được.

Trong một lần nhập định, Pháp đã triển hiện cho tôi thế giới thiên quốc trong một tầng rất thâm sâu ở không gian khác đối ứng với thân thể của tôi. Đó là một thế giới rộng lớn vô hạn được tạo nên bởi các loại đá quý (như thủy tinh, lưu ly, mã não…) và vàng. Tất cả mọi thứ trong thế giới thiên quốc đều lấp lánh ánh sáng, rực rỡ ánh vàng kim. Tất cả các sinh mệnh và vật chất trong thế giới đó đều có màu sắc vô cùng tươi sáng, mỹ diệu. Không khí nơi đây cực kỳ thuần tịnh, mây mù mờ mịt, biển mây bồng bềnh, các đám mây cuồn cuộn cao xa, những rặng núi mờ ảo, nhấp nhô, bầu trời xanh biếc, sâu thẳm.

Ở giữa những rặng núi trải dài, tôi kinh ngạc phát hiện có rất nhiều ngọn núi to lớn lơ lửng trong không trung, có ngọn núi bay cách mặt đất hàng trăm mét, đỉnh núi chìm trong mây mù, trên núi có nhiều loại cây cối, thực vật, kỳ hoa dị thảo và các loại động vật quý hiếm. Bỗng nhiên xuất hiện một con mãnh hổ chạy xuyên qua giữa rừng, nhảy một phát từ độ cao mấy trăm mét, từ từ hạ xuống mặt đất, rồi chạy vào trong rừng rậm. Bên dòng suối trong rừng, một con kỳ lân lông màu lam đang uống nước, toàn thân kỳ lân có vảy bao phủ, trên đầu có hai chiếc sừng, hai con mắt màu đỏ, thần thái an hòa, thư thái. Bên cạnh nó có vài con kỳ lân nhỏ đang chơi đùa đuổi bắt, tiếng kêu của chúng giống như tiếng hươu, nai. Trên ngọn cây cao đến mức tầm nhìn có thể thấy được, có một con phượng hoàng như trong truyền thuyết, toàn thân màu vàng kim giống như màu ngọn lửa đang bốc cháy, trông vô cùng rực rỡ. Con phượng hoàng vẫy vẫy đôi cánh và cái đuôi dài của nó, dang rộng đôi cánh lớn, hướng mỏ lên trời, cất tiếng hót trong trẻo, thánh thót, vang vọng cả núi rừng.

Khắp mặt đất nơi thiên quốc tràn đầy các loài hoa tươi đua nhau khoe sắc, muôn hình vạn trạng, như một dải hoa gấm trải đầy trên mặt đất xanh tươi. Nơi đây quả thực là một biển hoa! Trong không khí tràn đầy mùi thơm của các loài hoa, mùi hương bao phủ lấy con người. Quan sát kỹ trên mỗi cánh hoa trong suốt đều có một chữ nhỏ, giống như loại chữ triện trong các bài thơ cổ, những chữ này hòa cùng với các đường gân trên cánh hoa, vô cùng sống động, vừa thần kỳ, vừa mỹ diệu. Nội dung của các chữ này có lúc như là một bài kệ (lời hát trong kinh Phật), đó là triển hiện trong không gian này của các Pháp lý ở các tầng thứ khác nhau mà người tu luyện chứng ngộ được qua quá trình ma luyện kiên định và cực khổ ở thế gian.

Nơi ở của chúng Thần trong thiên quốc là những tòa tháp được xây dựng hoàn toàn bằng vàng, y phục của thiên nhân và phong cách kiến trúc ở thiên quốc giống với phong cách triều Đường vào thời kỳ thịnh thế. Lầu các nguy nga, tầng tầng trùng điệp, phía sau các ngôi nhà chính có hoa viên, bên trong có đình đài, ao hồ, rừng cây, vườn trúc. Trong nhà có bàn, giường, đàn, kiếm, bếp lò, gấm, rương, sa, trướng… Đồ dùng ăn uống hầu hết được làm bằng vàng, bạc. Tôi thấy chúng Thần trên thiên quốc cũng đều đang học sách “Chuyển Pháp Luân”, nhưng cuốn sách “Chuyển Pháp Luân” mà chúng sinh trên thiên quốc học có những chữ triện màu vàng kim, cuốn sách là loại sách lật sang bên phải, nội dung và nội hàm văn tự trong sách hoàn toàn khác với cuốn sách “Chuyển Pháp Luân” tại nhân gian.

Trong thiên quốc không chỉ có những biển hoa đang nở rộ, những cây hoa màu sắc rực rỡ, mà còn có những cây ăn quả sai trĩu trịt, quả trên cây đều căng tròn. Quả chín sẽ tự rời khỏi cành và bay đến chỗ cành cây thấp mà tay có thể với tới được, xếp hàng ngay ngắn ở đó chờ được hái. Phía xa là những cánh đồng lúa gạo, lúa mạch màu vàng. Những cây lúa cao gần 2m, to như cánh tay, hạt lúa to như quả bóng bầu dục tại nhân gian. Hạt gạo nhỏ hơn hạt lúa mạch một chút.

Chúng sinh bách tính trong thế giới thiên quốc sinh sống trên mặt đất, còn các vị Thần có quả vị thì “sinh sống” trong một quần thể kiến trúc giống như cung điện ở trên không trung. Do cảnh giới quả vị khác nhau nên quy mô của cung điện cũng khác nhau.

Ở trung tâm của thế giới thiên quốc có một tòa thiên cung màu vàng rực rỡ, nguy nga, rộng lớn. Phòng ốc có đến mấy vạn gian, bên trong đó có các lâu đài cao đến trăm mét, ở giữa có các cây cầu hình vòm nối giữa các tầng lầu, ẩn hiện trong mây. Tất cả các tòa kiến trúc đều dùng đá trắng làm móng, bậc thềm bằng vàng. Bề mặt các cột trụ được phủ một lớp sơn mài màu đỏ, trên các bình phong và cánh cửa đều trạm khắc những hoa văn tinh xả, diễm lệ. Mái nhà được lợp bằng ngói lưu ly màu vàng, xung quanh các căn phòng được trang trí bằng ngọc lưu ly màu lam và xanh lục.

Trước thiên cung là một quảng trường rất rộng, được lát bằng bạch ngọc, đứng thủ hộ xung quanh là các thiên thần mặc giáp vàng trong tay cầm giáo dài. Phía trước là một cổng cung điện, được đặt trên đài lớn, hai bên cổng là hai tòa lầu gác, cờ bay phấp phới, canh phòng nghiêm ngặt. Đi thêm một đoạn là một tòa chính điện rộng lớn với mái nhà ba gác. Tòa chính điện được xây trên một cái đài hai tầng cao mấy chục mét, đài được trang trí tinh xảo, đẹp mắt, bên trên trạm khắc hình tượng các loài Thần thú. Nhìn ra phía sau của chính điện là vườn hoa của cung đình, xung quanh có các lầu gác cao, những hành lang có mái che, sân khấu biểu diễn, cây cối, hoa cỏ, sơn thủy đầy đủ mọi thứ. Các thiên nhân mặc các loại trang phục lộng lẫy, chân đạp trên mây, đi qua đi lại tấp nập. Bên trong các phòng ốc được trang trí trang nhã, quý phái, long lanh như châu ngọc, các bức tường hoa văn tinh xảo. Đồ dùng ăn uống đều là những đồ vật quý giá, đồ đựng rượu bằng ngọc bích, chén rượu bằng hổ phách, các đồ vật khác đều làm từ mã não, thủy tinh. Chúng Thần trong cung dường như rất bận rộn, trong thiên cung, các tấm màn trướng, màn sân khấu đều được thay thế bằng những tấm vải lụa lớn màu đỏ, phía trước cổng các cung treo các loại đèn cung đình và cờ quạt, khung cảnh tràn ngập không khí vui mừng.

Bên trong tất cả quần thể kiến trúc có một tòa kiến trúc rất đặc biệt, độc lập với các kiến trúc khác, nằm ở vị trí trung tâm của hậu cung, đây là một điện có mái hình tròn ba tầng và đỉnh nhọn, được lợp bằng ngói lưu ly màu lam. Hình dáng tương tự như điện Thiên đàn ở Bắc Kinh. Tên của điện này theo ngôn ngữ của con người gọi là “Điện Điển Tàng”. Bước vào trung tâm của điện có tám bức bình phong lớn hình chữ nhật, trên đó trạm khắc bản đồ núi non sông nước, được trang trí bằng ngọc bích và các loại đá quý. Phía trước bình phong là một chiếc bàn, trên bàn có một cuốn thư tịch rất dày, phía dưới bàn là một cái lư hương màu vàng tím, từ đỉnh lư hương bay ra một làn hương thoang thoảng. Khi tôi động niệm muốn xem cuốn thư tịch thì cuốn sách tự động bay lên và mở ra, từ cuốn sách phát ra một luồng sáng màu vàng, tạo thành một màn hình lập thể rất rộng trong không trung, tư duy của tôi lúc này là trạng thái tư tưởng của sinh mệnh tại không gian khác, nó có phần không giống với trạng thái tư duy của người thường tại nhân gian. “Tư tưởng” của tôi tiến nhập vào màn hình lập thể trong cuốn thư tịch, bên trong là một không gian cực kỳ rộng lớn, tất cả cảnh vật và con người đều trở nên “chân thực”. Thì ra trong cuốn thư tịch ghi chép lịch sử sinh mệnh của tôi vì để đắc Pháp mà đời đời kiếp kiếp chuyển sinh nơi hồng trần thế gian. Tôi thấy tôi đời đời kiếp kiếp đã phải chịu khổ vô số khổ nạn, thấy tôi từng trải qua vô số phong ba bão táp, cô đơn hiu quạnh, chìm nổi chốn quan trường, sinh ly tử biệt, khí thế hào hùng nắm giữ giang sơn.., các quá trình sinh mệnh đều trôi qua trước mắt như mây khói, như bừng tỉnh từ trong giấc mộng. Trang cuối cùng của cuốn thư tịch bỏ trống, là vì tôi hiện đang là đệ tử Đại Pháp còn đang ở thế gian trợ Sư chính Pháp.

Lúc này từ trên thiên không vọng tới từng hồi từng hồi trống hùng dũng, mạnh mẽ. Trước mắt tôi đột nhiên xuất hiện vô số thiên nhân và chúng Thần, nhiều không kể xiết, tất cả đều lặng lẽ ngóng trông tôi, trong ánh mắt vui mừng của họ có chút buồn rầu, lo âu, tràn đầy hy vọng, họ đã ngóng trông tôi như vậy rất lâu, rất lâu rồi. Cùng lúc đó, trong thiên cung vọng ra một hồi âm thanh huyên náo, cửa thiên cung mở ra, một đội nghi lễ gần 1000 người đi ra. Đi cuối cùng là một nữ thiên nhân đoan trang, phong thái tao nhã. Cô trông khoảng 17-18 tuổi, mặc y phục màu xanh nhạt, thắt đai quay eo, trên đỉnh đầu cài một bông hoa mẫu đơn màu xanh lục, đeo một cái vòng màu trắng quanh đầu, quanh thân thể cô có một vòng hào quang rất lớn màu xanh lục, cô đứng trên một đóa hoa sen màu trắng rất lớn, trên cổ đeo một vòng khuyên màu vàng, tay đeo hai chiếc vòng ngọc, tai đeo khuyên tai bằng ngọc màu lục, trên đầu cài một cây trâm bằng ngọc bích, khuôn mặt mỉm cười, dung mạo cực kỳ xinh đẹp. Hai thị nữ đi bên cạnh cô, một người cầm trong tay một cái mâm tròn, bên trên trải một tấm vải lụa trắng, bên trái mâm đặt một cái trùy bằng kim cương, bên phải mâm đặt một cái chuôi như ý màu vàng, trong ký ức của tôi thì đây là những pháp khí mà tôi thường sử dụng khi ở thiên quốc. Vị thiên nhân đó nhẹ nhàng cúi chào tôi và cất giọng dịu dàng, thanh tao nói với tôi: “Thưa Vương của con! Ngài đã vì chúng con mà đã chịu rất nhiều đau khổ, chúng con luôn khắc ghi trong tim những hy sinh của ngài. Ngài mãi là niềm tự hào của thế giới chúng con. Trong những năm tháng tương lai lâu dài, ngài là niềm vinh hạnh của chúng con. Chúng con sẽ mãi tuyên tụng uy đức của ngài. Lúc Ngài trở lại Thiên quốc chính là lúc khởi đầu thực sự cho sinh mệnh của chúng con. Các con dân của ngài đang ngày đêm mong chờ ngày ngài trở về …”

Nói đến đây tôi nhìn thấy hai dòng nước mắt chảy ra từ đôi mắt trong sáng, mỹ lệ của cô, tuôn đầy trên đôi má thanh khiết, theo gió thổi rơi xuống mặt đất nơi thiên quốc, tại nơi nước mắt rơi xuống lập tức mọc lên hai đóa hoa màu lam nhạt, mỗi đóa hoa có bốn cánh hoa, trên cánh hoa có những hoa văn hình sóng nước, tỏa ra mùi hương thoang thoảng như mùi hoa nhài. Lúc này, trong tâm tôi cảm thấy một nỗi thống khổ mãnh liệt như bị kim châm, nhưng lại đau thấu tim gan! Mưa bắt đầu rơi trong thế giới của tôi, những giọt mưa rơi trên mặt đất thiên quốc, trong chốc lát mọc lên vô số bông hoa màu lam nhạt.

Tôi trông thấy thế giới của tôi nở đầy những bông hoa màu lam nhạt đó.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/114463

The post Bầu trời lịch sử: Vương triều trên thiên quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bầu trời của lịch sử: Công chúa Văn Thànhhttps://chanhkien.org/2018/11/bau-troi-cua-lich-su-cong-chua-van-thanh.htmlFri, 09 Nov 2018 04:52:06 +0000http://chanhkien.org/?p=25501Tác giả: Thiện Dũng [ChanhKien.org] Phần thứ nhất Núi Thần Sơn Thánh Hồ trên cao nguyên Thanh Tạng là núi Thần được thế giới công nhận, đồng thời được Phật giáo Tạng truyền, Ấn Độ giáo, tôn giáo nguyên thủy Tây Tạng coi là trung tâm của thế giới. Trong những năm Trinh Quán triều […]

The post Bầu trời của lịch sử: Công chúa Văn Thành first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[ChanhKien.org]

Phần thứ nhất

Núi Thần Sơn Thánh Hồ trên cao nguyên Thanh Tạng là núi Thần được thế giới công nhận, đồng thời được Phật giáo Tạng truyền, Ấn Độ giáo, tôn giáo nguyên thủy Tây Tạng coi là trung tâm của thế giới. Trong những năm Trinh Quán triều Đường, quân vương Tùng Tán Cán Bố của vương triều Thổ Phồn đã nổi dậy ở tại lưu vực sông Nhã Lỗ Tàng Bố. Sau khi thất bại trong việc xâm phạm biên giới Đại Đường, ông đã dâng thư lên Thiên triều Đại Đường xin chịu tội và cầu hôn công chúa Đại Đường, hy vọng có thể có thể bang giao hữu hảo, thuận hòa với Đại Đường. Thái tôn hoàng đế Đại Đường vì muốn ổn định biên cương, vì muốn nhân dân hai dân tộc Hán-Tạng tránh khỏi lầm than bởi chiến tranh, đã chọn từ trong hoàng thất ra Lý Uyển Nhi, một cô công chúa dịu dàng, đài các, đoan trang, phong cho công chúa hiệu là Văn Thành, để kết hôn với vua nước Thổ Phồn. Trước lúc lên đường, công chúa Văn Thành đến kim điện ở hoàng cung khấu tạ ân điển của hoàng thượng. Thái tôn hoàng đế nói: “Văn Thành, con đi Thổ Phồn chuyến này đường xá xa xôi, trách nhiệm nặng nề. Là công chúa của Thiên triều mà lại gả cho Thổ Phồn, hãy nhớ trách nhiệm của con là giữ cho hai nước bang giao hữu hảo, hoằng dương văn hóa của Thiên triều, giáo hóa dân tộc man rợ. Con hãy đừng để tâm đến được mất của cá nhân, hãy nên đặt hạnh phúc của bách tính Thổ Phồn và Thiên triều ở trong tâm. Ta sẽ phái vua của thành Giang Hạ và tùy tùng tiễn con vào Tây Tạng. Văn Thành, con còn mong cầu gì không?” Văn Thành đáp: “Con xin đa tạ ân điển của Thánh thượng. Văn Thành không có mong cầu nào khác, con sẽ dốc hết sức để báo đáp long ân của phụ hoàng…”

Công chúa Văn Thành đi vào Tây Tạng cùng với đội tùy tùng đưa dâu vô cùng long trọng, thiên tử Đại Đường ban cho cô rất nhiều của hồi môn và tư trang quý giá. Trong đó có tượng Phật Thích Ca Mâu Ni màu vàng đến nay vẫn được thờ cúng tại Đại Chiêu tự ở Lạp Tát (vùng đất của Thần). Đoàn tùy tùng đi theo công chúa Văn Thành vào Tây Tạng còn có các văn sỹ, nhạc sỹ, nông dân, thợ kiến trúc lành nghề của Đại Đường v.v.. Công chúa Văn Thành phải trèo đèo, lội suối cực khổ hàng tháng trời mới đến được tỉnh Thanh Hải nơi đầu nguồn của con sông Hoàng Hà. Vua Thổ Phồn đã chờ đợi công chúa ở đó một thời gian dài, bị thu hút bởi vẻ đoan trang, cao quý của công chúa, vua Thổ Phồn lập tức cho tổ chức đại hôn lễ tại kinh thành Lạp Tát. Nhân dân tưng bừng ca hát, nhảy múa chúc mừng hôn lễ, cả kinh thành tràn ngập niềm vui.

Thời gian trôi đi, công chúa Văn Thành hàng ngày tỉ mỉ chăm chút cho cuộc sống của Tùng Tán Cán Bố, nàng tự mình nấu các món ăn của Đại Đường và may các y phục của Đại Đường. Khi Tùng Tán Cán Bố ăn các món ăn tinh tế do đích thân công chúa nấu, khoác lên thân những y phục của Đại Đường, trong tâm ông vô cùng kinh ngạc, từ đó càng thêm kính trọng và yêu thương nàng công chúa đến từ Thiên triều này. Công chúa Văn Thành cũng thường dạy chữ Hán cho Tùng Tán Cán Bố, lúc quốc vương không bận việc triều chính, công chúa thường chơi đàn tỳ bà cho Tùng Tán Cán Bố nghe những khúc nhạc của triều Đường, kể cho Tùng Tán Cán Bố những giai thoại của Trung Nguyên, khiến cho Tùng Tán Cán Bố bị cuốn hút sâu sắc bởi văn hóa triều Đường. Công chúa Văn Thành quan sát tỷ mỉ cuộc sống của dân chúng Thổ Phồn, rồi đề xuất các kiến nghị hợp lý giúp vua Thổ Phồn điều hành quốc gia. Trước khi Tùng Tán Cát Bố đưa ra những quyết sách trọng đại quyết định vận mệnh của quốc gia, công chúa Văn Thành đều đóng góp những ý kiến chân thành và phù hợp, giúp vua Thổ Phồn trị vì tốt quốc gia. Tuy được Tùng Tán Cán Bố tin tưởng nhưng công chúa không cầu công danh địa vị, mà vẫn thiện đãi những thần dân xung quanh, mang lại nhiều lợi ích cho quảng đại dân chúng Tây Tạng, nhờ vậy mà cô nhận được sự ủng hộ của đa số các đại thần của vương triều Thổ Phồn.

Vẻ đẹp và trí tuệ của công chúa Văn Thành khiến cho đại phi (vợ cả) của Tùng Tán Cán Bố vô cùng đố kỵ, bà ta đã dùng rất nhiều tiền để mời hai pháp sư hãm hại công chúa. Vì công chúa chính khí lẫm liệt, từ bi, lương thiện, nên được thiên thần bảo hộ. Đại phi không những không thể làm hại được công chúa, mà bản thân còn bị Thần linh trừng phạt, bà đột nhiên mắc một căn bệnh quái ác, ban ngày bà thường thấy những ác quỷ vây xung quanh, ban đêm thì cả đêm không ngủ được, ngày một suy nhược, thời gian dài hô hấp khó khăn như có gì đó nghẹn trong họng. Công chúa Văn Thành biết chuyện đã hỏi ý kiến quốc y của Thiên triều đi theo mình. Quốc y nói: “Loại bệnh này dễ chữa, nhưng thuốc dẫn thì khó tìm!” Công chúa nói: “Xin hỏi cần loại thuốc dẫn gì?” Quốc y nét mặt tỏ vẻ miễn cưỡng, công chúa lại thúc giục, ông đành trả lời rằng: “Cần dùng máu của kim chi ngọc thể (con gái nhà quyền quý) làm thuốc dẫn”. Công chúa trầm tư rời đi, không bao lâu sau quay lại mang theo một bình máu nhỏ và nói: “Ta là công chúa, là kim chi ngọc thể, có thể dùng máu của ta làm thuốc dẫn, xin quốc y điều chế để trị bệnh cho đại phi”. Đại phi nhờ có thuốc dẫn mà bệnh tình mau chóng thuyên giảm, khi biết được nguyên nhân khỏi bệnh của mình, bà nước mắt đầm đìa, vội đến chỗ của công chúa xin tha tội. Công chúa nói: “Chúng ta là chị em, lẽ nào không nên giúp đỡ nhau, em hy vọng chị có thể nhanh chóng khỏi bệnh”. Đại phi cảm động không nói nên lời.

Từ khi công chúa vào đất Tạng sinh sống, để giúp công chúa sớm thích nghi với cuộc sống ở cao nguyên, vua Thổ Phồn đã ban cho nàng hai tỳ nữ. Trong đó có một tỳ nữ vì cha mắc trọng bệnh không có tiền chữa trị nên đã lấy trộm một ít trang sức bằng vàng của công chúa để chữa bệnh cho cha. Sự việc sau đó bị bại lộ, theo pháp luật của vương triều Thổ Phồn, nếu nông nô lấy trộm vật quý của chủ nhân thì sẽ bị lột da. Công chúa Văn Thành với lòng từ bi đã tha tội cho tỳ nữ đó, công chúa còn phái thầy thuốc chữa bệnh miễn phí cho cha cô ấy. Đó là hai sự việc được lưu truyền rộng rãi trong người Tạng.

Cứ cách vài tháng, công chúa lại đi vi hành đến các gia đình người Tạng để tìm hiểu những nỗi khổ của họ, quan tâm đến đời sống của họ, đồng thời dùng hết khả năng của mình để giúp đỡ họ. Đức hạnh cao thượng của công chúa khiến dân chúng Tây Tạng đều xem công chúa là người trời.

Thời ấy, ở Thổ Phồn có một tập tục xấu là nếu cha mẹ già yếu, không có khả năng lao động thì con cái có thể bỏ cha mẹ ở nơi hoang dã, phó mặc cho tự sinh sống và tự chết. Công chúa Văn Thành khi đi vi hành gặp sự việc này rất lo lắng, nàng đến nói với Tùng Tán Cán Bố rằng: “Thưa Tùng Phổ (Đại vương), đất nước chúng ta vì sao có thể lập quốc?” Tùng Tán Cán Bố trả lời: “Nhờ Phật Pháp”. Công chúa lại hỏi tiếp: “Vậy tại sao lại vứt bỏ cha mẹ ở nơi hoang dã không ai chăm sóc, giương mắt nhìn cha mẹ chết có phải là tàn nhẫn không?” Tùng Tán Cán Bố trả lời: “Tập tục này đã có từ thượng cổ, sinh tử luân hồi, con người chết đi thì cuối cùng cũng trở về với cát bụi”. Công chúa nói: “Cha mẹ sinh ra ta, nếu không hiếu thuận với cha mẹ, không phụng dưỡng cha mẹ lúc già cả thì có khác chi loài cầm thú? Thần Phật sáng tạo ra vạn vật, vạn vật đều tuân theo quy tắc của nó, mọi thứ đều phải thuận theo thiên lý. Nếu làm trái với thiên lý, làm sai việc nhỏ thì một người sẽ phải chết, làm sai việc lớn thì một quốc gia sẽ diệt vong, từ xưa đến nay đã có rất nhiều bài học về điều này. Người xưa có câu: Quân vi thần cương; Phụ vi tử cương; phu vi thê cương (ý nghĩa là người trên ‘quân, phụ, phu’ phải chăm sóc, bảo vệ, bao dung người dưới ‘thần, thê, tử’), đó là luân lý của con người, nếu không tuân theo đạo làm người thì không phải là con người, tất sẽ bị trời diệt. Quốc gia như vậy cũng là đi ngược lại với thiên ý và cũng không thể trường tồn. Xin Tùng Phổ suy nghĩ kỹ, lệnh cho thiên hạ từ nay trừ bỏ đi tập tục xấu này. Trên là thuận với thiên ý, dưới là hợp với lòng dân, có như thế vương triều của chúng ta mới có thể thiên thu vạn đại”. Vua Thổ Phồn trầm ngâm hồi lâu rồi nói: “Lời của công chúa rất phải, ta sẽ tức khắc ban bố pháp lệnh, người già trong gia đình cần phải được an hưởng tuổi già, con cháu cần phải tận tình chăm sóc cho đến lúc lâm chung”. Do công chúa dùng chính lý của Phật Pháp cứu được rất nhiều người nên ngày càng được thần dân yêu mến, kính trọng. Trong thời gian ở đất Tạng, công chúa Văn Thành đã phái thợ thủ công tham gia thiết kế, xây dựng Đại Chiêu Tự và Tiểu Chiêu Tự. Đồng thời, công chúa còn phái những người nông dân của Thiên triều đã cùng theo mình vào Tây Tạng dạy người Tạng cách khai hoang, cày ruộng, gieo trồng, nuôi tằm dệt vải. Những kỹ năng này đã giúp cải thiện cuộc sống của người Tạng. Vua Thổ Phồn tiếp thu ý kiến của công chúa, phái con cháu dòng dõi quý tộc đi sứ sang Đại Đường, đến kinh thành Trường An để học tập văn hóa triều Đường mang về Thổ Phồn. Trong 40 năm sống ở đất Tạng, công chúa Văn Thành đã nỗ lực hết sức nâng cao các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự của Thổ Phồn, giúp Thổ Phồn trở thành một quốc gia biên giới vô cùng quan trọng bảo vệ lãnh thổ Đại Đường.

Công chúa Văn Thành sau khi vào đất Tạng đã góp phần cải thiện rất nhiều mức sống và chất lượng cuộc sống của người dân Thổ Phồn, thúc đẩy xã hội Thổ Phồn phát triển, củng cố vùng biên thùy của Đại Đường. Dân chúng Tây Tạng coi công chúa như Thần tiên. Sau khi công chúa qua đời, dân chúng Tây Tạng đã lập miếu thờ tưởng niệm công chúa tại Thanh Hải Ngọc Thụ, thành phố Lạp Tát và nhiều nơi khác, các miều thờ vẫn được duy trì đến ngày nay.

Phần thứ hai

Trong lịch sử 5000 năm Hoa Hạ, từng màn kịch lịch sử lớn diễn ra trên vũ đài Trung Nguyên lần lượt hạ màn, các nhân vật trong màn kịch người buồn kẻ vui, người sống kẻ chết, tất cả cuối cùng đều tan biến theo khói mây lịch sử. Hôm nay, 1300 năm sau khi công chúa Văn Thành đến đất Tạng, Pháp Luân Đại Pháp đã hồng truyền khắp thế giới, rất nhiều nhân vật nổi tiếng trong lịch sử giờ đã trở thành đệ tử Đại Pháp. Trong một cơ duyên trùng hợp, tôi gặp một đồng tu tên là Hồng Liên (hóa danh), khi chia sẻ với cô ấy, tôi thấy được chính tín kiên định của Hồng Liên đối với Sư phụ và quá trình tu luyện Chính Pháp mà cô ấy đã trải qua, điều này khiến tôi chấn động sâu sắc.

Hồng Liên đắc pháp ngày 27/7/2000, ngày 29/9/2000 cô đã bắt đầu bước ra giảng thanh chân tướng trực diện và phát tài liệu Đại Pháp cho người dân. Sau khi Hồng Liên và đồng tu mở pháp hội giao lưu chia sẻ, cô cho rằng mình nên đến Bắc Kinh hộ Pháp. Nhưng cô còn lo lắng vì mình đắc Pháp muộn, nếu làm không tốt sẽ ảnh hưởng xấu đến hình ảnh Đại Pháp. Các đồng tu khích lệ cô ấy: “Tâm cô thuần tịnh như vậy chắc chắn sẽ không có vấn đề gì đâu, Sư phụ sẽ gia trì cho cô”. Thế là Hồng Liên hạ quyết tâm cùng bốn đồng tu giăng biểu ngữ tại quảng trường Thiên An Môn vào buổi trưa ngày 1/12/2000 để chứng thực Đại Pháp. Sau đó cô bị giam giữ phi pháp tại trại giam Triều Dương, Bắc Kinh. Trong thời gian bị giam giữ phi pháp, cô dẫn dắt các đồng tu tuyệt thực để kháng nghị việc bị bắt giữ phi pháp, cảnh sát sai các nữ tội phạm hình sự đánh đập tàn bạo các nữ đệ tử Đại Pháp. Vì để bảo vệ đồng tu, cô nói với họ rằng: “Chính tôi đã bảo mọi người tuyệt thực, các cô đừng đánh họ, hãy đánh tôi đây này!” Một nữ tội phạm hình sự nói: “Chúng tôi không đánh cô, chúng tôi phải đánh họ, tôi không ưa họ”, nói xong bốn nữ tội phạm hình sự không ngừng đánh vào mặt và đầu của một nữ đồng tu. Thấy tình huống nguy cấp, Hồng Liên gọi một nữ tội phạm hung ác nhất đến và nói với cô ấy đạo lý thiện ác hữu báo, chân tướng về Đại Pháp… Sau khi hiểu rõ sự thực, nữ tội phạm cảm động nói: “Nể mặt Hồng Liên, chúng ta đừng đánh nữa”. Trận bức hại này đã dừng lại. Trong các hoàn cảnh khác, Hồng Liên cũng nhiều lần bảo vệ các đồng tu, cuối cùng cô tuyệt thực, không chịu để tà ác bức thực, phản đối giám thị, không mặc áo tù, không làm lao dịch, cô liên tục giảng chân tướng Đại Pháp, chính niệm mà phá trừ bức hại của cựu thế lực, nhờ đó cô đã đường đường chính chính bước ra khỏi động quỷ.

Tháng 10 năm 2001, vì bị người xấu bán đứng, Hồng Liên bị tịch biên tài sản và bị đuổi việc, cô buộc phải sống lưu lạc, cô tham gia các công việc Đại Pháp ở vùng khác và đạt hiệu quả rõ rệt. Không may là do đồng tu có sơ hở bị cảnh sát lần ra tung tích, xông vào nơi ở Hồng Liên và đồng tu. Đồng tu tâm sợ hãi lớn, sau khi trốn thoát đã khóa mất lối ra duy nhất, khiến cho Hồng Liên không cách nào thoát thân. Tâm của cô trở nên rất nặng nề, nhưng cô lập tức lấy Pháp lý của Đại Pháp điều chỉnh lại tâm thái, quay lại đường đường chính chính đối diện với cảnh sát. Sau đó cô bị giam giữ phi pháp ở trại giam tà ác nhất trong vùng, hắc lao này được xem là nơi đạt 100% tỷ lệ chuyển hóa đệ tử Đại Pháp. Những hành vi bức hại tàn khốc đối với các đệ tử Đại Pháp ở trong hắc lao này đã nhiều lần được vạch trần trên internet.

Trước khi bị thẩm tra, Hồng Liên xuất ra một niệm cường đại: Tà ác không thể nhắc đến hai chữ “chuyển hóa” với ta, ta phải giảng chân tướng Đại Pháp cho chúng. Liên tục nhiều lần thẩm tra, Hồng Liên bằng tâm thái từ bi, không oán không hận đã nói cho cảnh sát về vẻ đẹp của Đại Pháp. Tất cả cảnh sát đều im lặng chăm chú nghe chân tướng Đại Pháp, lần nào cũng kết thúc cuộc thẩm tra bằng việc giảng chân tướng. Cuối cùng cảnh sát trong vùng phải thông báo cho công an ở nơi cư trú của Hồng Liên, họ đã cử ba người đến nơi Hồng Liên bị bắt giữ phi pháp để xác nhận thân phận của cô. Vì Hồng Liên liên tục nhiều ngày tuyệt thực, không phối hợp với cảnh sát, khiến họ thất bại trong việc chuyển hóa cô, cảnh sát ở quê nhà của Hồng Liên nói: “Người này thân phận không rõ ràng, chúng ta không chịu trách nhiệm, không quản được cô ấy”. Thế là cảnh sát trại giam giao Hồng Liên cho trạm trục xuất, tuy đã tuyệt thực nhiều ngày nhưng cô vẫn từ bi giảng chân tướng Đại Pháp cho những người mà cô gặp. Buổi trưa hôm sau, cảnh sát ở trạm trục xuất chỉ nói với Hồng Liên một câu: “Cô đi đi”. Vậy là đến ngày thứ chín, dưới sự từ bi coi sóc của Sư tôn, Hồng Liên đã được phóng thích vô điều kiện. Nhưng nhiều đồng tu cùng bị bắt với cô đã bị kết án phi pháp lên đến trên 10 năm, tối đa bị kết án 18 năm. Hôm đó là ngày 23/7/2002, khi đó Hồng Liên mới đắc Pháp vỏn vẹn hai năm.

Tháng 4 năm 2004, Hồng Liên trở về quê nhà nơi cô đã xa cách nhiều năm. Để cứu độ chúng sinh, phá trừ bức hại của cựu thế lực về kinh tế, Hồng Liên bắt đầu một quá trình khó khăn giảng chân tướng để được quay trở lại đơn vị công tác. Trải qua bốn tháng giảng chân tướng kiên trì không nản và liên tục tu chính bản thân, cô đã khiến cho đơn vị công tác cũ từ lãnh đạo cấp cao cho đến đa số các đồng nghiệp xung quanh minh bạch chân tướng Đại Pháp, cuối cùng đã phá trừ được tầng tầng ngăn cản và bức hại của cựu thế lực, Hồng Liên chính thức được trở lại vị trí công tác cũ với mức lương không thay đổi, và còn được truy lĩnh tất cả số tiền lương trong thời gian cô phải đi lưu lạc. Đồng thời thông qua quá trình giảng chân tướng, Hồng Liên còn giúp những đồng tu khác tại đơn vị công tác cũng bị bức hại đòi được tiền lương đã bị lấy mất.

Hồng Liên cũng thường xuyên giúp những đồng tu bên cạnh mình viên dung hoàn cảnh gia đình, khai sáng hoàn cảnh tu luyện trong gia đình của họ. Một lần một đồng tu vì bình thường làm việc không lý trí mà không viên dung được hoàn cảnh gia đình, khiến cho người nhà không thể lý giải được Đại Pháp, thậm chí công kích Đại Pháp, lên mạng bôi nhọ Đại Pháp. Sau khi biết chuyện, Hồng Liên lập tức quyết định tổ chức một bữa tiệc nhỏ mời đồng tu và gia đình đến, phá trừ những hiểu lầm của người nhà đồng tu đối với Đại Pháp, chứng thực Đại Pháp, cứu độ chúng sinh.

Trong bữa tiệc, người nhà đồng tu hỏi Hồng Liên rằng: “Các cô tu luyện Đại Pháp mà sao ích kỷ thế, làm việc nhà thì cẩu thả, nói năng bất thiện, điên điên rồ rồ?” Hồng Liên từ bi, ôn tồn nói: “Người tu luyện giống như đi học vậy, chúng tôi chắc chắn có chỗ tu chưa tốt, mong mọi người thông cảm. Chúng tôi có điểm nào chưa tốt cũng mong mọi người tha thứ! Sư Phụ của chúng tôi dạy chúng tôi phải vô tư vô ngã, tiên tha hậu ngã. Bây giờ chúng tôi chưa làm được, nhưng tương lai nhất định sẽ làm được, bởi vì chúng tôi đang không ngừng tu chính bản thân. Mọi người hãy yên tâm, chúng tôi sẽ làm được tốt. Chỉ cần chúng tôi làm theo yêu cầu của Đại Pháp thì nhất định sẽ khiến cho mọi người hài lòng”. Sự đoan chính, thiện lương cùng cử chỉ, lời nói lễ phép của Hồng Liên đã gây ấn tượng cho người nhà của đồng tu, chính niệm của cô đã thay đổi cái nhìn không tốt của người nhà đồng tu đối với đệ tử Đại Pháp, giúp đồng tu có một hoàn cảnh tu luyện tốt hơn.

Chính niệm chính hành của Hồng Liên thể hiện trong mọi hoàn cảnh sinh hoạt, từ ăn mặc, đối nhân xử thế, thói quen sinh hoạt, thói quen làm việc đều khiến những người xung quanh và đồng tu khen ngợi. Sự từ bi, lương thiện, quang minh chính đại, chính niệm kiên định vào Đại Pháp của cô đã khích lệ các đồng tu xung quanh, cải biến nhận thức của đồng nghiệp, bạn bè, người thân quanh cô về Đại Pháp. Cô rất ít nói, nhưng lại khiến cho mọi người cảm thấy cô rất thiện lương và cao thượng. Trong khi chia sẻ, tôi hỏi Hồng Liên: “Vì sao cô có thể làm được như vậy?” Hồng Liên đáp: “Kiên định tin vào Sư Phụ, tin vào Đại Pháp! Tôi là một lạp tử của Đại Pháp, tôi nên làm những việc ấy, đó cũng là những việc tôi phải làm”. Nghe xong lời ấy, tôi bất giác xúc động rưng rưng nước mắt. (Trên đây chỉ là một phần quá trình tu luyện mà Hồng Liên kể lại cho tôi)

Nhìn nụ cười rạng ngời của Hồng Liên, tôi phảng phất trông thấy Văn Thành, nàng công chúa lặng lẽ cầu nguyện cho chúng sinh trong ánh nắng ban mai. Cô giống như bông tuyết liên nở rộ trên cao nguyên, lặng lẽ tỏa hương thơm ngát. Khoảnh khắc thần thánh ấy sẽ tồn tại vĩnh viễn trong dòng chảy cuồn cuộn của lịch sử, vĩnh viễn tồn tại trong ký ức của tôi…

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/68526

 

The post Bầu trời của lịch sử: Công chúa Văn Thành first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bầu trời của lịch sử: Những điều nhìn thấy trong không gian khác khi nghe Sư phụ giảng Pháphttps://chanhkien.org/2018/10/bau-troi-cua-lich-su-nhung-dieu-nhin-thay-trong-khong-gian-khac-khi-nghe-su-phu-giang-phap.htmlWed, 24 Oct 2018 02:40:17 +0000http://chanhkien.org/?p=25496Tác giả: Thiện dũng [ChanhKien.org] Từ nhỏ, tôi rất ít khi chơi đùa với các bạn đồng trang lứa mà chỉ thích đọc sách. Trong số các sách mà tôi đọc có một số kinh sách của Đạo gia và Phật gia, những nội dung trong đó khiến tôi suy ngẫm nhiều về ý nghĩa […]

The post Bầu trời của lịch sử: Những điều nhìn thấy trong không gian khác khi nghe Sư phụ giảng Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện dũng

[ChanhKien.org] Từ nhỏ, tôi rất ít khi chơi đùa với các bạn đồng trang lứa mà chỉ thích đọc sách. Trong số các sách mà tôi đọc có một số kinh sách của Đạo gia và Phật gia, những nội dung trong đó khiến tôi suy ngẫm nhiều về ý nghĩa nhân sinh. Vào học kỳ hai của năm thứ nhất đại học, tôi đã mua một cuốn tạp chí khí công. Trên trang bìa của cuốn tạp chí là bức ảnh của Sư phụ đang ngồi đả tọa. Cuốn tạp chí giới thiệu sơ lược các bài công pháp của Pháp Luân Công. Sau khi xem xong, tôi cảm thấy vô cùng hứng thú, vì vậy tôi đã tự học các động tác Pháp Luân Công theo các hình ảnh và giải thích trong bài viết. Tôi cảm thấy toàn thân ấm nóng, thân thể căng lên và tràn đầy năng lượng, tôi nhận ra công pháp này không tầm thường. Khi tôi tự học Pháp Luân Công, đôi khi tôi có thể nhìn thấy trên đỉnh đầu có một cột ánh sáng màu vàng kim thông thẳng lên trời.

Sau đó, tôi nghe nói rằng Sư phụ Lý sắp đến Cáp Nhĩ Tân giảng Pháp, vì vậy tôi đã mua vé sớm một tháng để không bỏ lỡ cơ hội đó, đồng thời tôi còn được cấp một thẻ học viên.

Ngày 05 tháng 08 năm 1994 là ngày đầu tiên tôi tham gia khóa học, từ sáng sớm tôi đã đến hội trường khúc côn cầu Phi Trì nơi Sư phụ truyền Pháp. Vì Cáp Nhĩ Tân sắp tổ chức thế vận hội châu Á, nên hội trường phía tây đang được cải tạo mở rộng, phải dùng tấm vải ngũ sắc lớn để che phần công trình đang thi công. Chỗ tôi ngồi ở giữa hội trường phía nam, lúc này các học viên tham gia lớp học đang lần lượt đến, ước tính có khoảng 4000 người. Đột nhiên tôi nghe thấy tiếng vỗ tay vang lên như sấm ở phía cửa ra vào hội trường, một dáng hình cao lớn xuất hiện giữa hội trường, tôi nhìn thấy Sư phụ với gương mặt thân thiết và uy nghiêm, mái tóc đen nháy, Ngài bước lên bục giảng, sau khi thử hệ thống âm thanh, Sư phụ bắt đầu giảng bài. Nghe những lời giảng giải đơn giản, dễ hiểu mà nội hàm thâm sâu của Sư phụ, tôi bỗng nhiên minh bạch ra được những vấn đề nhân sinh mà tôi đã suy ngẫm bao lâu nay. Trước khi tham gia lớp học, nhận thức thông thường về tu luyện của tôi là con người nếu muốn tu thành Phật trong một số Pháp môn, ít thì phải mất vài đời, nhiều thì phải mất mười mấy đời, mà vẫn cần phải xuất gia tu luyện mới có thể giải thoát khỏi nỗi khổ luân hồi trong tam giới. Nhưng tu luyện Pháp Luân Đại Pháp lại không cần xuất gia, chỉ cần tu luyện tại thế tục mà vẫn đạt đến viên mãn trong một đời, chứng ngộ Phật quả, đây quả là cơ duyên vạn năm khó gặp.

Hàng ngày, lớp học Pháp bắt đầu lúc 06 giờ tối và kết thúc lúc 08 giờ tối, vì lúc đó trường học đang nghỉ hè nên tôi đăng ký ở lại trường, nhà trường tập trung những nam sinh nghỉ lại trong một phòng ngủ lớn, hàng ngày tôi đều đạp xe đến hội trường nghe Sư phụ giảng Pháp.

Ngày đầu tiên nghe Sư phụ giảng Pháp, tôi đã hiểu rõ rằng Pháp Luân Công là Đại Pháp tu Phật chân chính, trong giảng đường có tới gần 4000 người nhưng rất yên tĩnh, chỉ có lời giảng Pháp của Sư phụ từ bi vang vọng. Trong khi nghe Pháp, tôi có cảm giác những luồng khí lạnh trong cơ thể mình không ngừng bài xuất ra ngoài, thân thể ngày càng nhẹ nhàng. Khi Sư phụ giảng Pháp xong, một học viên nam đứng trên bục giảng biểu diễn động tác làm mẫu, Sư phụ đi xuốn hội trường sửa động tác cho các học viên. Sau khi trở lại phòng ngủ chung, tôi luyện lại một lần bài công pháp thứ nhất, và ngủ thiếp đi ngay sau đó. Ngày hôm sau tôi dậy rất sớm, tôi thấy tâm trí của mình thanh tỉnh lạ thường.

Vào ngày thứ hai khi Sư phụ giảng về chủ đề khai mở thiên mục, tôi cảm thấy đầu của mình sưng lên và tê, tiếp đó ở trước trán tôi xuất hiện một màn hình màu, trên đó có phản chiếu một số hình ảnh. Một số trạng thái, hiện tượng về công năng mà Sư phụ giảng sau đó đều phản ánh trên thân thể tôi. Nhưng điều khiến tôi kinh ngạc nhất là đa số học viên căn bản không nghe Sư phụ giảng Pháp trong không gian của người thường, mà được Sư phụ dùng pháp lực gia trì tiến nhập vào thế giới thiên quốc của Sư phụ để nghe giảng Pháp. Những sinh mệnh nghe giảng Pháp không chỉ có học viên mà còn có rất nhiều “Thiên nhân” ở các tầng thứ khác nhau, sinh mệnh trong các thế giới vi quan của mỗi lạp tử không khí đều nghe Sư phụ giảng Pháp. Có sinh mệnh có hình tượng Phật, hình tượng Đạo, hình tượng Thần phương Tây trong các sách cổ; có một số hình tượng Thần chưa từng xuất hiện trong các ghi chép lịch sử; một loại nữ Thần có hình tượng tóc màu tím nhạt, đồng tử có màu nho chín, xung quanh đầu có vầng hào quang màu trắng, toàn bộ thân thể họ bao phủ một vầng hào quang lớn màu tím. Họ mặc y phục màu trắng, hai bên y phục có thêu những hình thêu màu vàng kim trông rất đẹp mắt, trên đầu đội một vương miện thủy tinh màu tím nhạt, cổ và cánh tay đều đeo những đồ trang sức rất tinh xảo, tạo nên cảm giác vừa thần thánh vừa mỹ lệ, khác hẳn người thường, không ngôn ngữ nào của nhân loại có thể miêu tả được. Còn có những vị Thần không mang hình tượng nhân loại mà là hình tượng kim cương nhưng cũng uy nghiêm và thần thánh vô tỷ. Tôi phát hiện rằng mặc dù các chúng Thần, thiên nhân ở vô số tầng thứ đang nghe Sư phụ giảng Pháp nhưng tuyệt nhiên không có vị nào đứng hoặc ngồi, tất cả đều quỳ để nghe Sư phụ giảng Pháp, chỉ có học viên Đại Pháp trong hội trường là ngồi nghe giảng Pháp, điều này khiến trong thâm tâm tôi cảm thấy bất an! Để không bỏ lỡ cơ hội quý giá được nghe Phật Pháp này, tôi rất căng thẳng cố gắng hết sức ghi nhớ từng lời giảng của Sư phụ, tập trung toàn bộ tinh thần để không bị quên bất cứ điều gì. Sau này khi có được cuốn sách quý “Pháp Luân Công Trung Quốc” từ một người bạn đồng tu khác, lúc đó tôi mới bớt được tâm trạng căng thẳng.

Ngày thứ ba khi nghe Sư phụ giảng Pháp, tôi phát hiện rằng tuy thân thể Sư phụ đang giảng Pháp tại đây nhưng Phật thể của Ngài trong các tầng thứ khác nhau ở không gian khác thì vừa giảng Pháp, vừa đả đại thủ ấn trong các không gian khác nhau, đồng thời từ trong thân thể Sư phụ phát ra rất nhiều công, rất nhiều công năng màu vàng kim, Pháp Luân rơi lên thân thể tại các không gian khác nhau của học viên, có một số học viên xuất hiện Pháp Luân ở vị trí bụng dưới. Sau khi trở về phòng ngủ chung, tôi một mình luyện bài công pháp thứ hai, một Pháp Luân lớn chầm chậm xoay chuyển giữa hai cánh tay, khi Pháp Luân xoay chuyển thì giống như có một luồng điện chạy qua hai cánh tay và thân thể, có cảm giác tê như bị điện giật. Khi tôi luyện công, có 48 vị Thiên Thần có hình tượng binh sỹ thời cổ đại, đầu đội mũ giáp đứng xung quanh tôi, họ trông rất cung kính, ánh mắt đầy thần thái, tay cầm các loại binh khí sắc nhọn, sáng loáng đứng bên cạnh bảo vệ tôi. Tám vị Thần Kim Giáp đứng gần tôi nhất mặt hướng ra ngoài, tay cầm đao sắc đứng canh gác, ở vòng ngoài cùng xa nhất là 16 Thần long nhiều màu sắc, mỗi con chân dài mấy chục mét, phần lớn có màu vàng kim và màu xanh lục, vảy phủ toàn thân, ánh mắt sáng chói, liên tục bay lượn xung quanh và canh giữ nghiêm ngặt, thân thể của rồng có thể tùy ý biến lớn thu nhỏ. Tại không gian khác, trong một phạm vi rất to lớn nhìn không đến tận cùng, không có sinh mệnh nào khác, chỉ có Pháp thân của Sư phụ đứng giữa không trung, khuôn mặt mỉm cười hiền từ coi sóc tôi luyện công. Lúc đó, trong tâm tôi không thể bình tĩnh được, nước mắt hạnh phúc tuôn từ trong tim, tôi biết rằng cuộc đời này của tôi đã định là một đời tu luyện, tôi thực sự đang đi trên con đường trở về nhà.

Ngày thứ tư nghe Sư phụ giảng Pháp, tôi xuất hiện hiện tượng buồn ngủ, tôi hiểu được rằng đó là để thanh lý nghiệp bệnh, tôi mở to mắt, mạnh mẽ áp chế cơn buồn ngủ, sau khi kiên trì một thời gian, tôi thấy Pháp thân của Sư phụ lấy ra một con rết dài khoảng 5cm từ trong đầu tôi, nó liên tục dãy dụa, miệng phun ra rất nhiều chất dịch và phát ra tiếng kêu chít chít. Lúc đó tôi cảm thấy đầu mình nhẽ bẫng, không còn chút buồn ngủ nào hết. Khi Sư phụ giảng Pháp xong, tôi nhìn thấy trong thân thể của một nữ học viên đi ngang qua tôi có một nguyên anh cao cỡ khoảng đứa trẻ 13-14 tuổi, nguyên anh này cũng có hình tượng nữ, trông vô cùng thuần khiết và thần thánh. Tôi rất kinh ngạc, khi dùng công năng túc mệnh thông để xem xét kỹ mới biết cô ấy đã đắc Pháp vào mùa xuân năm 1993, mới tu luyện chưa đầy hai năm mà đã đạt đến cảnh giới cao như vậy, Đại Pháp quả thật là vĩ đại! Điều này căn bản là không thể xảy ra trong các pháp môn “tu luyện” khác.

Vào ngày thứ năm tham gia khóa học, tôi được khai mở một phần ký ức về các đời chuyển sinh của mình, một số sự việc trong các đời chuyển sinh lần lượt hiện ra rõ mồn một trước mắt, một sự việc làm tôi ấn tượng sâu sắc nhất đó là vào triều Minh tôi đã theo Sư phụ tu luyện, Sư phụ đã thọ ký cho tôi ở hai vị trí: thiên mục và trái tim. Tôi phát hiện một nam đồng tu đến từ nhà máy sắt thép Lăng Nguyên, tỉnh Liêu Ninh ngồi bên cạnh tôi đã từng là đệ tử thân truyền của Phật Thích Ca Mâu Ni khi Ngài còn tại thế, anh đến từ một thiên quốc rất xa xôi và mỹ lệ.

Trong thời gian diễn ra lớp học, có một ngày Sư phụ vừa mới ngồi lên bục giảng thì một nhân viên tới báo cáo việc cần xử lý, Sư phụ vội vàng rời đi, một lúc sau Ngài quay lại. Hóa ra có một học viên từng tham gia lớp học đã chết vài ngày, gia đình học viên này đã rất vô lý yêu cầu Sư phụ cứu sống người đó, còn nói những lời bất kính với Pháp. Tôi nghe vậy nghĩ đây rõ ràng là ma can nhiễu Sư phụ truyền Pháp, can nhiễu học viên đắc Pháp, tôi kiên quyết không nhận loại can nhiễu này, tôi ngầm hạ quyết tâm dù bất kể tình huống khó khăn thế nào tôi vẫn sẽ kiên định tu luyện Đại Pháp cho đến khi viên mãn. Khi tôi quay trở lại ký túc xá và bắt đầu luyện bài công pháp thứ ba Quán Thông Lưỡng Cực pháp, tôi thấy các cơ thể của mình trong các không gian khác trở nên vô cùng to lớn, đứng trong vũ trụ, đỉnh thiên lập địa, không có khái niệm nhục thân của con người nữa.

Vào ngày thứ sáu nghe giảng Pháp, tôi cảm thấy thân thể của mình trong không gian khác trở nên ngày càng to lớn, tâm và thân của tôi được gột rửa trong ánh Phật quang tường hòa và dễ chịu, tôi ước thời gian vĩnh viễn định lại ở thời khắc đó để có thể vĩnh viễn ở bên cạnh Sư phụ. Khi nghe Sư phụ giảng Pháp, trên đỉnh đầu của một số học viên mới đã xuất hiện công trụ, quang trụ trên đỉnh đầu một số học viên cũ cũng trở nên sáng hơn. Học viên tham gia khóa học lúc đó thực sự được uy đức vĩ đại và pháp lực của Sư phụ gia trì, đẩy lên đến cảnh giới cao siêu thường.

Trong hai ngày tiếp theo, mỗi ngày Sư phụ giảng hai bài Pháp, khi luyện bài công pháp Pháp Luân chu thiên Pháp, tôi phát hiện rằng không chỉ các khí cơ trên bề mặt thân thể vận chuyển, mà các thiên thể to lớn tại không gian ở tầng thâm sâu hơn cũng vận chuyển, lấp lánh ánh sáng, cảnh tượng vô cùng ngoạn mục, khiến con người phải kinh ngạc.

Khi Sư phụ giảng đến Pháp lý “Ai luyện công thì đắc công”, tôi càng thêm kiên định tín tâm tu luyện Đại Pháp. Lúc tôi học bài công pháp thứ năm Thần Thông Gia Trì Pháp, tôi tình cờ phát hiện ở vị trí bụng dưới của tôi đã xuất hiện một nguyên anh cao cỡ 5-7cm, nguyên anh mang hình tượng Phật gia, lấp lánh ánh vàng kim ngồi trên tòa sen, tóc màu xanh lam, mặc áo cà sa, trông vô cùng thánh khiết.

Vào ngày cuối cùng, Sư phụ trả lời câu hỏi của các học viên, sau khi các học viên ba lần thỉnh cầu Sư phụ đả đại thủ ấn, Ngài đã đồng ý. Khi Sư phụ đả thủ ấn, Phật thể trong các tầng không gian phát ra những luồng ánh sáng cường đại màu vàng kim tiến nhập vào thân thể học viên, gần như thân thể của tất cả học viên đều phát sinh biến đổi to lớn, biến thành thân thể trong suốt, được Sư phụ gia trì, thân thể của các học viên đều phát ra những tia sáng chói mắt. Sư phụ đả thủ ấn xong, tiếng vỗ tay trong hội trường lại vang lên như sấm.

Sau khi khóa giảng Pháp lần thứ nhất tại Cáp Nhĩ Tân kết thúc, các học viên đến từ khắp nơi trên toàn quốc không muốn rời đi. Lúc tôi sắp rời đi, tôi thấy các vị Phật, Đạo, Thần trong các tầng không gian với lòng tôn kính sâu sắc thành tâm khấu tạ Sư phụ, từ trên không trung những cánh hoa ngũ sắc rơi xuống như mưa, hương thơm thấm vào tận tâm can của con người. Vài ngày sau, tôi vẫn thấy thân thể của tôi tỏa mùi hoa thơm. Những bạn học ở cùng phòng tôi đều nói rằng: “Bạn bôi gì lên mặt mà trông trắng vậy, lại còn thơm nữa!” Chúng Thần đến để đắc Pháp đều vui vẻ trở về thiên quốc của họ.

Bước ra khỏi hội trường, tôi thấy nhiều học viên các nơi phần lớn vẫn chưa rời đi, họ vẫn còn ở đó chia sẻ giao lưu thể hội khi nghe Sư phụ giảng Pháp, một số chuẩn bị đi Diên Cát để tham dự khóa học tiếp theo của Sư phụ, lúc đó tôi nhìn thấy trên không trung có hai vị Bồ Tát đang nói chuyện, trong đó một vị nói: “Những chúng sinh có thể chân chính đắc Pháp thật không tầm thường!” Một vị khác nói: “Đúng vậy, họ đã trải qua vô số khổ nạn, trong hàng vạn người mới có một người được chọn làm đệ tử Đại Pháp…”

Lúc đó, tôi đã không hoàn toàn hiểu hết được nội hàm trong những lời mà các vị Bồ Tát nói. Mãi sau này trải qua rất nhiều năm tu luyện trong thời kỳ Chính Pháp, tôi mới cảm ngộ được nội hàm của những lời nói ấy. Lúc đó, tôi chỉ cảm thấy mình quả thực rất may mắn khi được đắc Pháp.

Mội vài năm sau, trong một lần trở về thăm quê, tôi đến thăm hội trường năm đó Sư phụ truyền Pháp, tôi đã “nhìn thấy” Sư phụ vẫn đang giảng Pháp tại đó, thiên nhân ở các thiên giới và học viên vẫn ở đó thành kính nghe Pháp, và tôi vẫn ở đó tập trung nghe Sư phụ giảng Pháp, trong tâm rất căng thẳng lo rằng sẽ bỏ sót từng lời giảng của Sư phụ… Cảm giác như mọi chuyện mới xảy ra ngày hôm qua.

Thời gian như dòng nước lặng lẽ chảy qua sinh mệnh của chúng ta. Mười tám năm đã trôi qua. Những ký ức khắc cốt ghi tâm lúc bấy giờ thỉnh thoảng lại hiện ra trong tâm trí tôi. Trải qua 18 năm qua tu luyện muôn vàn khó khăn, trải qua những khảo nghiệm sinh tử, tôi phát hiện rằng tôi đã chuyển biến từ một sinh mệnh tự tư thành một sinh mệnh có thể vứt bỏ tự ngã, biết suy nghĩ cho người khác; để duy hộ Pháp, vì lợi ích của chúng sinh, tôi có thể không do dự phó xuất tất cả sinh mệnh cao thượng của mình. Hôm nay, tôi dùng ngòi bút ghi lại những ký ức khó quên này để chia sẻ với các đồng tu, để tưởng nhớ thời kỳ Chính Pháp khi chúng ta cùng chính Pháp với Sư phụ vĩ đại, tưởng nhớ những năm tháng chói lọi mà 100 triệu đệ tử Chính Pháp vĩ đại đã cùng nhau bước qua.

Ân Sư khó quên, khó quên ân Sư!

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/113769

The post Bầu trời của lịch sử: Những điều nhìn thấy trong không gian khác khi nghe Sư phụ giảng Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bầu trời của lịch sử: Phủ định hoàn toàn an bài của cựu thế lựchttps://chanhkien.org/2018/10/bau-troi-cua-lich-su-phu-dinh-hoan-toan-an-bai-cua-cuu-the-luc.htmlTue, 09 Oct 2018 10:45:35 +0000http://chanhkien.org/?p=25471Tác giả: Thiện Dũng [ChanhKien.org] Lời nói đầu Gần đây, ở thành phố chúng tôi có nhiều đồng tu bị cảnh sát bắt cóc, cũng có một số đồng tu bị tà ác bức hại qua đời vì nghiệp bệnh, những điều này luôn khiến tôi phải suy nghĩ. Qua bài viết này, tôi muốn […]

The post Bầu trời của lịch sử: Phủ định hoàn toàn an bài của cựu thế lực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[ChanhKien.org]

Lời nói đầu

Gần đây, ở thành phố chúng tôi có nhiều đồng tu bị cảnh sát bắt cóc, cũng có một số đồng tu bị tà ác bức hại qua đời vì nghiệp bệnh, những điều này luôn khiến tôi phải suy nghĩ. Qua bài viết này, tôi muốn chia sẻ với các đồng tu việc làm thế nào phủ định hoàn toàn an bài của cựu thể lực để đi đến đích cuối cùng trên con đường Chính Pháp. Cảnh giới tu luyện cá nhân có hạn, mong các đồng tu từ bi chỉ những thiếu sót.

Phủ định hoàn toàn an bài của cựu thế lực

Con đường tu luyện Chính Pháp của đệ tử Đại Pháp đã qua hơn 10 năm, nhìn lại 10 năm bão táp đó, thực sự cảm giác như đã trải qua vạn năm. Tất cả những nhân tố vật chất và sinh mệnh không phù hợp với Đại Pháp của cựu vũ trụ đã bị giải thể theo tiến trình lịch sử khi vũ trụ Chính Pháp. Nhưng những sinh mệnh bại hoại còn lưu tồn trong không gian vật chất bề mặt trong tam giới của nhân tố cựu thế lực vẫn sẽ lợi dụng những sơ hở trong tu luyện của các đồng tu để gây bức hại nghiêm trọng, thậm chí lấy đi sinh mệnh của các đồng tu. Tuy nhiên, cho dù các đồng tu có sơ hở thì cũng sẽ được quy chính trong Đại Pháp, nhất quyết không cho phép tà ác bức hại. Thuận theo tiến trình Chính Pháp không ngừng tiến tiếp, trong quá trình liên tục đồng hóa với Pháp, Đại Pháp đã triển hiện cho tôi thấy tầng tầng nội hàm những Pháp lý trong cảnh giới tu luyện của tôi, tôi đã thấy được một số tín tức tồn dư mà cựu thế lực từng an bài (Đây là an bài của hệ thống cựu thế lực, đệ tử Đại Pháp phải hoàn toàn phủ định). Trọng điểm bức hại của lạn quỷ loạn Pháp nhắm vào các đệ tử Đại Pháp thực hiện không tốt ở các phương diện: 1) Không thể buông bỏ được sinh tử, một mặt nắm chặt danh, lợi, tình không buông, mặt khác vẫn nói là đang tu luyện; 2) Tạo nghiệp trong quan hệ nam nữ; 3) Tâm tật đố nghiêm trọng không tu bỏ, gây tổn thất cho đồng tu trong tu luyện và cứu độ chúng sinh; 4) Cố tình hoặc vô tình chiếm dụng, lạm dụng các khoản tiền quyên góp của đệ tử Đại Pháp để chứng thực Pháp, cứu độ chúng sinh dùng vào việc riêng.

Là một đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp, tôi ngộ được rằng hết thảy mọi thứ của sinh mệnh chúng ta cũng như mọi thứ chúng ta có trong tương lai đều do Đại Pháp ban cho, nếu không có Phật Pháp vĩ đại này thì sẽ không có bất kỳ thứ gì trong vũ trụ. Mọi thứ đã do Đại Pháp ban cho thì đều nên “trả về” cho Đại Pháp quản. Sinh mệnh cũng nên được sử dụng vô điều kiện cho Pháp, chứng thực Đại Pháp, cứu độ chúng sinh và viên dung theo yêu cầu của Sư tôn. Mọi chấp trước căn bản của chúng ta đều bắt nguồn từ tư tâm, tư tâm càng lớn thì phiền não càng nhiều, hình thức tồn tại của sinh mệnh càng thấp. Ngược lại khi một sinh mệnh chân tính vô tư, phó xuất vì người khác thì người nhận được lợi ích lớn nhất chính là bản thân người đó. Tâm một người tu luyện càng bao dung bao nhiêu thì thế giới của người ấy sẽ càng rộng lớn bấy nhiêu.

Trừ hết nhân tâm

Người tu luyện trong lúc gặp mâu thuẫn, phiền não khi vượt quan lại không thể coi bản thân là người luyện công, mà đối đãi bằng cách tư duy của người thường, giải quyết vấn đề bằng phương thức của người thường, người như vậy cho dù ngoài miệng nói mình là người tu luyện, kỳ thực họ vẫn chỉ là người thường. Người thường thì phải chịu sinh, lão, bệnh, tử, người thường thì thiếu mạng phải đền mạng, đây là Thiên Lý. Từ không gian khác mà nhìn những người tu luyện như vậy, tại không gian vi quan của thân thể trong tam giới đối ứng với tâm chấp trước của họ có một lỗ đen cực lớn, nước đen không ngừng tuôn ra từ lỗ đen đó, nhấn chìm toàn bộ không gian của họ. Chính niệm Thần của người tu luyện lúc này như một ngọn hải đăng giữa sóng to gió lớn trong không gian đen tối mờ mịt, lúc ẩn lúc hiện. Chúng sinh trong không gian của họ giống như những sinh mệnh đáng thương trên hòn đảo cô độc giữa biển lớn, dòng nước đen như là một vùng biển rộng lớn vô tận không ngừng dâng lên, không ngừng nuốt chửng các sinh mệnh trên hòn đảo. Khi người tu luyện hoàn toàn vứt bỏ đi chính niệm thì ngọn hải đăng tắt ngấm, hòn đảo cô độc hoàn toàn bị dòng nước đen nhấn chìm, trong không gian của họ sẽ tràn ngập nước đen. Biểu hiện phía mặt con người là người tu luyện sẽ từ bỏ việc vượt quan hoặc đến bệnh viện chữa bệnh hoặc rơi vào tình trạng nghiêm trọng hơn. Trong khi vượt quan nếu coi bản thân là người tu luyện, dĩ Pháp vi Sư, kiên định chính niệm, thể hiện ra trạng thái của người tu luyện tại các tầng thứ khác nhau, thì Đại Pháp vĩ đại sẽ triển hiện ra uy đức vĩ đại vô tỷ, mọi nghiệp duyên đều sẽ được Đại Pháp thiện giải, đây là “phương pháp” giải quyết vấn đề đơn giản mà hiệu quả nhất. Người tu luyện mang nhân tâm càng nặng thì phiền phức càng lớn, càng phải chịu khổ nhiều, thậm chí còn mất đi sinh mệnh.

Trường năng lượng phát ra trên thân thể người bình thường nhìn tại không gian khác có màu trắng nhạt hoặc màu xám trắng. Khi nam nữ bình thường phát sinh quan hệ tình cảm, thân thể sẽ phát ra ánh sáng màu hồng nhạt hoặc màu hồng phấn. Là một đệ tử Đại Pháp, nếu làm trái với yêu cầu của Đại Pháp, phạm vào sắc giới mà làm những việc đệ tử Đại Pháp tuyệt đối không được làm, thì trường năng lượng mà thân thể mang theo sẽ biến thành màu tím đen như màu máu của động vật chết chảy ra. Tất cả các sinh mệnh không gian khác, bao gồm cả lạn quỷ loạn pháp, đều có thể nhìn thấy và đều biết được nguyên nhân gây ra tình trạng này. Nếu những “đệ tử Đại Pháp” này vẫn cứ làm những hành vi không chính đáng này trong thời gian dài thì thân thể ở không gian khác sẽ lột xác thành hình dạng quỷ với thân mình cao không đến 1m, vành mắt đen, tròng mắt đỏ, sắc mặt trắng bệch. Có người thậm chí còn biến dị thành ma quỷ, hậu quả có thể thấy rõ. Trong không gian vi quan đối ứng với thân thể các sinh mệnh này, đâu đâu cũng là yêu thú nửa thân trên là chó, nửa thân dưới là người, chúng tập hợp thành bầy đàn đi cắn xé, nghiền ngấu các chúng sinh có hình dạng người trong thế giới của họ, nam nữ dâm loạn tạo nghiệp càng lớn thì ma thú như thế càng nhiều.

Vật chất và tinh thần là nhất tính. Từ không gian khác mà nhìn những chủng vật chất mà thân thể mang theo cũng là các tâm chấp trước đối ứng. Nếu người tu luyện không nghiêm khắc yêu cầu tu luyện tâm tính của mình thì trong phạm vi trường không gian quanh đầu người đó thông thường sẽ sinh ra một linh thể giống như con bạch tuộc màu xám đen, những cái vòi của tà linh sẽ vươn ra bao chặt lấy đầu của người tu luyện. Khi các đồng tu khác chỉ ra thiếu sót của đồng tu này thì linh thể hình bạch tuộc sẽ lập tức tiết ra rất nhiều chất nhờn kịch độc phủ khắp toàn thân người đó, khống chế người đó nói ra những lời xúc phạm đồng tu và ngăn cản đồng tu chính niệm nhận rõ tâm chấp trước của mình. Thể hiện trong không gian người thường là họ không chỉ không hướng nội tìm mà còn phẫn nộ, chỉ trích đồng tu, gây mâu thuẫn với đồng tu, thậm chí gây gián cách nghiêm trong thời gian dài, phá hoại việc đề cao và phối hợp chỉnh thể, ảnh hưởng đến việc cứu độ chúng sinh.

Trạng thái hay cáu giận, nóng nảy ở không gian khác sẽ sinh ra một loại vật chất ma tính màu tím than. Vật chất ma tính ở không gian khác đối ứng với tâm hoan hỉ, tâm hiển thị là màu đỏ hung; vật chất đối ứng của tâm sợ hãi là màu xám. Người tu luyện không chiểu theo tiêu chuẩn tâm tính của Đại Pháp mà tự yêu cầu bản thân mình, tâm chấp trước trong thời gian dài không tu bỏ, thì vật chất xấu và lạn quỷ loạn Pháp trong không gian vi quan đối ứng với các tâm chấp trước sẽ tích tụ lại càng ngày càng nhiều. Những vật chất và linh thể ấy không chỉ can nhiễu đến việc tu luyện cá nhân của bản thân đồng tu mà còn can nhiễu đến việc tu luyện Chính Pháp của các đồng tu khác. Cho nên các đồng tu phải chú ý dĩ Pháp vi Sư, nghiêm khắc yêu cầu tâm tính của bản thân, như vậy không chỉ vì trách nhiệm đối với tu luyện cá nhân của mình, mà còn vì trách nhiệm với tu luyện Chính Pháp của đồng tu, tránh để những nhân tố tàn dư của cựu thế lực dùi vào sơ hở, gây ra tổn thất không cần thiết.

Tại một tầng thứ nhất định trong vũ trụ có một tầng không gian mà ở đó ghi lại toàn bộ quá trình sinh mệnh của tất cả các sinh mệnh có linh tính trên Trái đất, bao gồm tất cả hành vi, lời nói của mỗi đệ tử Chính Pháp trên Trái đất. Tôi phát hiện ra trong tầng không gian đó, trong danh sách tên của những sinh mệnh khởi tác dụng phụ diện trong Chính Pháp còn có tên của những “người tu luyện”. Bên dưới tên của một người có đoạn viết như sau: hành vi, lời nói ngụy thiện, kéo bè kết cánh, phá hoại Đại Pháp; vì cầu danh cầu lợi, tự ca ngợi bản thân, gây sai lầm can nhiễu đến việc tu luyện Chính Pháp của đệ tử Chính Pháp; lạm dụng, chiếm dụng, gây thất thoát các khoản tiền quyên góp mà đệ tử Đại Pháp chủ động tiết kiệm chi tiêu để cứu độ chúng sinh (tổng cộng là 212.000 tệ); có vợ mà vẫn quan hệ bất chính với nhiều phụ nữ chưa kết hôn hoặc đã kết hôn; thời gian dài nhận tiền và vật của đệ tử Đại Pháp… Trong danh sách, tên của người này đặt ngang hàng với tên của rất nhiều kẻ ác là người thường đã bị đệ tử Đại Pháp vạch trần.

Làm một đệ tử Chính Pháp, dùng tiền tích góp mà bản thân khó nhọc kiếm ra để chứng thực Đại Pháp, cứu độ chúng sinh là trách nhiệm không thể thoái thác. Số tiền 212.000 tệ tài nguyên của Đại Pháp bị lãng phí, tôi dùng công năng để ước tính thì số tài nguyên này có thể mang tới cơ hội được nghe chân tướng Đại Pháp cho hàng vạn người, nhờ đó họ có thể có cơ hội sắp xếp vị trí cho bản thân. Một khi cơ hội được đắc cứu của hàng vạn người này bị một cá nhân hủy đi thì người gây ra sự phá hoại này làm sao có thể bù đắp được, tổn thất hữu hình và vô hình gây ra vĩnh viễn không thể vãn hồi. Trong không gian khác đối ứng với sinh mệnh này là không gian đen tối, hoang vu vô tận. Hình dạng của sinh mệnh trong không gian đó là những ma quỷ và quái thú xấu xí, hung ác. Những tà linh cộng sản và những loạn quỷ loạn Pháp thường xuyên chạy vào trường không gian của người này để trốn tránh Chính Pháp.

Tôi còn nhìn thấy một số đồng tu trong xã hội người thường không giữ gìn lời nói và hành vi của mình, không thực tu bản thân, lời nói và cử chỉ không bình thường, khiến người khác không thể lý giải được, dẫn đến hiểu lầm về Đại Pháp và đệ tử Đại Pháp. Điều này khiến người đó phải đối mặt với hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm trong tương lai, người gây ra những hành động bôi nhọ Đại Pháp và đệ tử Đại Pháp này sẽ phải bồi hoàn và chịu trách nhiệm cho hành động của mình. Một khi gây ra tổn thất nghiêm trọng cho việc cứu độ chúng sinh, từ một tầng thấp mà nhìn thì thế giới ở không gian khác đối ứng với những đồng tu này là những sa mạc rộng lớn vô tận, không có dấu hiệu của sự sống; lên đến tầng cao hơn mà nhìn thì không gian vũ trụ ở một tầng thứ nhất định đối ứng với đồng tu trông như trong kỷ băng hà, toàn bộ lãnh thổ đều đóng băng, tất cả các sinh mệnh trong không gian này như đang ngủ vùi trong tuyết trắng, sinh mệnh đối mặt với nguy hiểm bất cứ lúc nào. Tu luyện là cực kỳ nghiêm túc, Thần đang chăm chú nhìn chúng ta từ không gian khác, từng hành vi từng lời nói của đệ tử Đại Pháp đều được ghi chép lại. Đệ tử Đại Pháp cần phải có trách nhiệm với lời nói và hành vi của mình.

Sư tôn giảng:

Nếu là chính bản thân học viên [Đại Pháp] làm không tốt, thì không chỉ cựu thế lực, mà tất cả chư Thần trong vũ trụ đều không lượng thứ. Thời gian đối với chư vị, đối với vô lượng chúng sinh vũ trụ đều là khẩn bách rồi; có lẽ lời này của Sư phụ nói ra là nặng, nhưng những học viên hồ đồ thời gian lâu ấy, chư vị thật sự suy nghĩ nghiêm túc cho kỹ là đi đâu về đâu chưa? Mong chiếc chuỳ nặng gõ xuống sẽ khiến giật mình tỉnh ra; vì chư vị, chứ không phải vì tôi, Sư phụ, càng không phải là vì những đồng tu khiến chư vị không hài lòng. Hãy tinh tấn! Đó là thệ ước của chư vị, đó là trách nhiệm của chư vị, đó là con đường chính bản thân chư vị tiến về viên mãn! (Gửi Pháp hội Châu Âu [2009])

Cứu độ chúng sinh

Năm phút đầu tiên phát chính niệm là thanh lý trong phạm vi trường không gian của bản thân. Có đồng tu mà thể hệ vũ trụ trong không gian khác đối ứng với không gian của bản thân là không thuần tịnh, trong chốc lát từ âm u trở nên trong sáng. Không gian dần dần biến dị trong lịch sử vũ trụ dài đằng đẵng giống như thế giới lạnh lẽo, hoang vu ở bắc cực, nhờ uy lực chính niệm của các đồng tu mà có thể khiến băng tan tuyết chảy, hoa mọc khắp mọi nơi, rừng cây xanh tốt, suối chảy róc rách, vạn vật bừng bừng sinh cơ. Những sinh mệnh trong phạm vi không gian này cũng đồng thời được Đại Pháp tịnh hóa, đồng hóa thành những sinh mệnh tốt đẹp. Những sinh mệnh được quy chính trong các tầng thứ không gian nhiều không thể tính được, vô lượng sinh mệnh được đắc cứu này đều vô cùng vui sướng, hân hoan, cảm tạ sự từ bi cứu độ của Đại Pháp.

Lúc đồng tu phát chính niệm tập thể, tôi sử dụng công năng nhìn thấy khi đồng tu đả thủ ấn đại liên hoa, một đóa hoa sen màu vàng kim bay lên giữa hai bàn tay, không ngừng xoay chuyển. Nếu như thế tay của đồng tu không chuẩn hoặc mê mờ buồn ngủ thì trong tay sẽ không có hoa sen, năng lượng phát ra cũng rất yếu, thậm chí không có năng lượng phát ra. Năng lượng do các đồng tu phát ra khi phát chính niệm sẽ tập hợp thành một chùm năng lượng cực lớn nhiều màu sắc, từ không gian vi quan đến hoành quan, đều đang chính lại hết thảy những nhân tố bất chính trong mỗi tầng không gian, đồng thời chùm năng lượng này cũng đang chính lại các nhân tố vật chất bất chính trong các tầng không gian của đồng tu. Thông qua phát chính niệm, tôi hiểu được một đạo lý rằng bản thân đệ tử Đại Pháp thực hiện tốt việc phát chính niệm chính là đang cứu độ vô lượng chúng sinh. Toàn bộ phần Thần đã tu tốt của các đệ tử Đại Pháp đều hợp thành một thể, không có sự khác biệt, trong bạn có tôi, trong tôi có bạn, đều là một lạp tử giống nhau trong Đại Pháp.

Giảng rõ chân tướng

Một số đồng tu trong tu luyện Chính Pháp không coi trọng việc giảng rõ chân tướng, không làm tròn thệ ước tiền sử của mình, thậm chí đến bây giờ vẫn trốn trong nhà “độc tu”. Không gian đối ứng với thể hệ vũ trụ mà họ đại biểu không có chút ánh sáng, hoàn toàn âm u, đen tối, mặt đất không có chút sinh khí, cây cối chỉ còn những cành khô khẳng khiu. Những sinh mệnh trong không gian này sắc mặt thê thảm, đôi mắt vô hồn, có sinh mệnh thân thể bắt đầu phát sinh biến dị, thế giới của họ cũng đang biến dị, dần dần biến thành nham thạch, dần dần bị phong hóa; có tầng không gian mà mọi thứ trong đó đều đang bốc cháy, thậm chí “không khí” cũng đang bốc cháy, mà những ngọn lửa này đến từ thế giới vi quan; nghiêm trọng hơn là một tầng thứ nhất định trong thể hệ vũ trụ đối ứng với họ đang trong quá trình giải thể. Vô số chúng sinh của họ đang rơi lệ nghĩ rằng: “Vương của chúng ta nhất định sẽ quay về, nhất định sẽ cứu được chúng ta. Vương của chúng con! Hãy cứu lấy chúng con!…” Dù những chúng sinh trung thành và hy vọng vô hạn vào vương của mình, nhưng trong nháy mắt tất cả đều tan vỡ, toàn bộ tầng thiên thể vũ trụ tan thành mây khói, vĩnh viễn biến mất trong lịch sử vũ trụ. Vậy mà những tổn thất này lại gây ra do các đệ tử Đại Pháp vì tâm chấp trước, tâm sợ hãi trong người thường, nhất thời không thể thực hiện được trách nhiệm vĩ đại mà đệ tử Chính Pháp phải đảm nhận, vì thế mà khiến vô lượng chúng sinh bị hủy diệt. Tôi ngộ được rằng tiến trình Chính Pháp vũ trụ của Sư tôn là đồng thời với việc tu luyện của đệ tử Đại Pháp, nếu đệ tử Đại Pháp thời Chính Pháp không thể theo kịp tiến trình Chính Pháp của Sư tôn thì phần không phù hợp với Pháp của đồng tu sẽ bị đào thải khỏi lịch sử vũ trụ. Tương lai có một ngày khi họ rời khỏi trần thế, làm sao họ có thể đối diện với sự kỳ vọng vô hạn của chúng sinh đối với họ?

Những đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp đang tinh tấn trong mọi hoàn cảnh, dùng toàn bộ tinh thần và sức lực để chứng thực Đại Pháp, có những đồng tu khi gặp người đi trên đường, chỉ tranh thủ vài phút ít ỏi giảng thanh chân tướng Đại Pháp có thể giúp thế nhân tam thoái, được Đại Pháp cứu độ. Khi thế nhân chân thành cảm tạ đệ tử Đại Pháp, tôi kinh ngạc trông thấy những Phật, Đạo, Thần đại biểu cho tầng tầng vô lượng vô số không gian phía sau lưng họ đều đang cung kính quỳ xuống cảm tạ ân cứu độ của Đại Pháp, cho đến khi đồng đi xa lẫn vào trong biển người mới thôi. Tuy vậy, biểu hiện tại tầng không gian của con người vẫn bình thường như không có chuyện gì xảy ra. Đối với một đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp mà nói, đây là nghĩa vụ và trách nhiệm nên làm hết sức mình, nhìn từ không gian khác thì thật vĩ đại, ánh sáng chân lý phóng ra từ Thần thể của đệ tử Đại Pháp làm chấn động toàn vũ trụ!

Thời kỳ tu luyện Chính Pháp đã gần đến cuối cùng, Những đệ tử Đại Pháp Chính Pháp tinh tấn trợ Sư Chính Pháp, cứu độ chúng sinh, uy đức mà họ gây dựng vô cùng thù thắng không ngôn từ nào tả xiết. Phật, Đạo, Thần trong các tầng thiên thể đều dùng những ngôn ngữ mỹ lệ nhất để tán dương cơ duyên vạn cổ và uy đức vĩ đại của đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp. Cảnh giới tu luyện của một số đệ tử Đại Pháp đã đột phá đến tầng thứ cực kỳ cao thâm: một số đệ tử Đại Pháp có hình thức diễn hóa công biểu hiện ra mỗi tế bào đều là hình tượng của một vị Phật; một số thậm chí còn vượt rất xa khái niệm đó, dùng công năng để nhìn thì không gian của họ hoàn toàn trong suốt, hoàn toàn “không”, giống như con người nhìn xuyên qua pha lê vậy, hoàn toàn là trạng thái “vô”; còn có những đệ tử Đại Pháp có cảnh giới tu luyện cao thâm hơn mà không thể dùng ngôn ngữ của con người để miêu tả, cũng không cho phép dùng ngôn ngữ của con người để lưu lại thế gian.

Quá trình tu luyện mà đệ tử Chính Pháp đã đi qua, chỉ có thể vào thời khắc thực sự thành tựu, viên mãn quả vị vĩ đại mới có thể thực sự nhìn thấy được sự vĩ đại thần thánh nhất đó. Quá trình tu luyện của đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp sẽ là tham chiếu cho các trạng thái khác nhau của vô lượng chúng sinh ở các tầng thứ khác nhau trong tương lai. Đệ tử Đại Pháp có thể ở trong thời kỳ Chính Pháp trợ Sư Chính Pháp, cứu độ chúng sinh, đây là vinh diệu vô cùng trân quý vạn cổ mới có, đây là sự nghiệp thần thánh đáng để phó xuất tất cả sinh mệnh của mình để hoàn thành.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/69130

The post Bầu trời của lịch sử: Phủ định hoàn toàn an bài của cựu thế lực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bầu trời của lịch sử: Thành Cát Tư Hãnhttps://chanhkien.org/2018/10/bau-troi-cua-lich-su-thanh-cat-tu-han.htmlWed, 03 Oct 2018 05:11:09 +0000http://chanhkien.org/?p=25452Tác giả: Thiện Dũng [ChanhKien.org] Thời gian giống như một dòng sông dài chất chứa những vinh nhục, ai lạc trong suốt 5000 năm của dân tộc Trung Hoa, nó cũng như một bức tranh ghi lại sự hưng thịnh và suy vong của mỗi triều đại. Hôm nay tôi xin kể lại một câu […]

The post Bầu trời của lịch sử: Thành Cát Tư Hãn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[ChanhKien.org] Thời gian giống như một dòng sông dài chất chứa những vinh nhục, ai lạc trong suốt 5000 năm của dân tộc Trung Hoa, nó cũng như một bức tranh ghi lại sự hưng thịnh và suy vong của mỗi triều đại. Hôm nay tôi xin kể lại một câu chuyện chân thực nhằm hé mở một trang sử thi hào hùng trong tiến trình lịch sử lâu dài ấy.

Đối với tôi, Thành Cát Tư Hãn là một vị phụ vương nhân từ, trí huệ và kiên cường, dưới sự dẫn dắt của ông, con cháu của ông chỉ trong mấy chục năm ngắn ngủi đã thống nhất phần lớn lãnh thổ lục địa châu Âu và châu Á. Vào thời kỳ thịnh vượng nhất, dân số của đất nước Mông Cổ chiếm 80% dân số toàn thế giới.

Đất nước Mông Cổ khi mới thành lập, vùng biên giới vẫn có rất nhiều bộ lạc phản loạn lưu vong, còn bị các quốc gia đối địch như Kim Quốc, Tây Hạ, Thổ Phiên nhòm ngó, tìm cớ phát động chiến tranh bất cứ lúc nào. Trước tình cảnh thù trong giặc ngoài này, phụ vương trước tiên bình định các bộ tộc phản loạn, sau đó chuẩn bị sách lược chiến tranh theo lối tấn công. Ông thường dẫn các anh trai tôi liên tục chiến đấu ở những nơi mà các bộ tộc phản loạn qua lại.

Mỗi khi thấy các anh trai cùng phụ vương xuất chinh, tôi rất lo lắng. Một lần sau khi phụ vương bình định phản loạn xong, từ xa trông thấy phụ vương dẫn quân trở về doanh trại, tôi cầm một cây cung nhỏ đứng đợi trước đại trướng. Nhìn thấy phụ vương, tôi hỏi: “Thưa phụ vương, con có thể cùng người xuất chinh được không?” Phụ vương quay đầu nhìn các tướng lĩnh, mỉm cười hỏi: “Con trai của ta, con có tài cán gì nào?” Tôi trả lời: “Con có thể bắn trúng một con dao trong vòng 15 bước chân, con còn có thể bắn được một con sóc hoang đang chạy rất nhanh trên thảo nguyên”. Tôi vừa nói xong, các tướng lĩnh phía sau phụ vương đồng thanh cười lớn, cả phụ vương cũng cười. Tôi đỏ mặt nhìn phụ vương, phụ vương ôm chặt tôi một lúc rồi nhìn lên bầu trời, chỉ vào con đại bàng đang bay lượn trên trời rồi nói: “Con trai của ta, nếu con có thể bắn hạ nó thì con có thể theo ta xuất chinh”. Từ đó tôi thường hay nhìn lên bầu trời nghĩ ngợi, mong ước đến một ngày có thể cùng phụ vương xuất chinh. Cũng từ thời khắc đó, tôi bắt đầu tăng cường khổ luyện kỹ thuật bắn cung, tôi đã học hỏi và luyện tập bắn cung từ rất nhiều cung thủ tài giỏi ở Mông Cổ.

Khi tôi lớn hơn, phụ vương lệnh cho người chế tạo riêng cho tôi cung và tên đặc biệt. Thông thường cây cung của một chiến binh Mông Cổ cần 150 cân khí lực mới có thể kéo được, với quân địch mang áo giáp nặng, chiến binh Mông Cổ có thể bắn hạ ở độ xa hơn 100 bước, còn với quân địch mang áo giáp nhẹ có thể bắn hạ ở độ xa hơn 200 bước. Nhưng cung tên của tôi phải cần hơn 200 cân khí lực mới có thể kéo được, trong chiến trận tôi có thể bắn trúng 70 mũi tên. Trong cuốn “Marco Polo du ký” có ghi chép việc Marco Polo không thể kéo nổi cây cung của quân đội Mông Cổ.

Trước khi tấn công nước Tây Hạ, tôi cùng phụ vương thị sát tuyến đường hành quân, khi đi đến một sơn cốc, tôi nhìn thấy một con chim đại bàng lớn màu vàng đang lượn vòng phía trên đàn dê của người du mục Mông Cổ, khiến những con dê non đang ăn cỏ sợ hãi chạy tứ tung, phụ vương thấy vậy cau mày. Tôi phi ngựa lên trước nói: “Xin phụ vương cho phép con bắn hạ con đại bàng xuống để nó không bắt đàn dê nữa”. Phụ vương nhìn tôi nghi ngờ một lúc rồi gật đầu nói: “Bắn đi”. Tôi vừa thúc ngựa chạy vừa giương cung nhắm bắn vào ngực con chim, con chim bị trúng tên, chao đảo trên không trung một lúc rồi rơi xuống. Các binh sĩ nhanh chóng mang con đại bàng dâng lên phụ vương, phụ vương nhìn con đại bàng bị trúng tên, cười hài lòng, năm đó tôi 17 tuổi.

Bốn anh em chúng tôi thường đi theo phụ vương nên ảnh hưởng sâu sắc bởi những lời dạy bảo của phụ vương. Anh hai thường nói nhiều, có lúc xảy ra mâu thuẫn với anh cả. Biết chuyện, phụ vương đã gọi bốn anh em chúng tôi vào trướng của ông, nói với chúng tôi những lời sâu sắc và thấm thía: “Các con có biết sau này các con sẽ trở thành những người như thế nào không? Các con giống như bốn trụ cột của quốc gia, trụ cột mà bất ổn thì quốc gia ắt sẽ diệt vong. Tương lai ta sẽ giao nước Hãn cho các con cai quản, nếu anh em các con bất hòa thì sẽ gây họa binh đao, người dân sẽ gặp tai họa rất lớn, sẽ mất đi cuộc sống yên bình mà tự tàn sát lẫn nhau, thương vong vô số. Chẳng phải chỉ vì các con nhất thời trong lòng không vui sao? Tất cả mọi người đặt hết hy vọng và hạnh phúc lên vai chúng ta, hạnh phúc của một cá nhân so với hạnh phúc của ngàn vạn người thì có đáng là gì không? Cho nên làm bất kể việc gì cũng nhất định phải nghĩ đến hậu quả, không được phụ sự tín nhiệm của người dân đối với chúng ta!” Phụ vương còn giảng cho chúng tôi rất nhiều chuyện, bốn anh em chúng tôi rất cảm động. Anh hai đã chân thành xin lỗi anh cả. Tình cảm của bốn anh em chúng tôi càng thêm khăng khít. Những lời giáo huấn của phụ vương khiến cho mỗi binh lính Mông Cổ chúng tôi đều hiểu rõ rằng: Chúng tôi là con dân của vị Thần vĩ đại nhất, Thần đã tuyển chọn chúng tôi, hành động của chúng tôi thể hiện ý chí của Thần tại nhân gian. Dù có hi sinh cũng chẳng qua chỉ là bắt đầu cuộc sống mới trở về với vòng tay ấm áp và yêu thương của Thần mà thôi. Cho nên mỗi binh sĩ Mông Cổ đều là một dũng sĩ không sợ hãi đang sống tại trần gian.

Được rèn luyện qua chiến tranh tàn khốc, bốn anh em chúng tôi đều trở nên thành thục và kiên cường. Trong lần thứ ba tiến đánh nước Tây Hạ, phụ vương không may mắc bệnh qua đời, trước khi lâm chung, phụ vương đã để lại cho chúng tôi sách lược tiêu diệt nước Kim và Tây Hạ, một con người vĩ đại như vậy đã kết thúc cuộc đời truyền kỳ của mình ở tỉnh Cam Túc. Sau khi phụ vương qua đời, thi thể của ông được bí mật mai táng trên đỉnh núi nơi mà ông có thể quan sát được toàn bộ cao nguyên Mông Cổ. Tôi hạ lệnh cấm người ngoài đi vào phạm vi 30 km xung quanh mộ của phụ vương, đồng thời chọn ra bộ tộc dũng mãnh, thiện chiến nhất trong quân đội Mông Cổ để canh gác, bảo vệ vĩnh viễn lăng mộ của phụ vương.

Anh ba kế thừa ngai vị, tiếp tục thực hiện quốc sách mà phụ vương để lại, tiêu diệt nước Kim và Tây Hạ. Trong quá trình tấn công nước Kim, tôi thống lĩnh 7 vạn quân Mông Cổ tiêu diệt toàn bộ 20 vạn quân tinh nhuệ nước Kim tại Hà Nam, khiến cho nước Kim tổn thương nguyên khí trầm trọng, không còn khả năng kháng cự, 3 năm sau mất nước. Đến giữa thế kỷ thứ 13, con trai của tôi là Mông Ca kế thừa ngai vị, đã phái em trai là Hốt Tất Liệt đánh chiếm Nam Tống; phái Húc Liệt Ngột chinh chiến về phía tây, chinh phục thủ đô Baghdad của Ả Rập; tiêu diệt vương quốc Abbas; chiếm lĩnh thủ đô Damascus của Syria ngày nay, thành lập nước Y Nhi Hãn. Con trai thứ của anh cả là Bạt Đô tiêu diệt nước Nga, tấn công Ba Lan và Hungary sáng lập nên nước Kim Trướng Hãn. Trong chiến dịch đánh Ba Lan, con trai thứ tư của anh cả là Long Khắc Lực thống lĩnh hai đạo quân bao vây đội kỵ sỹ Ba Lan, trong lúc chiến đấu cực kỳ ác liệt, tướng Bố Lỗ Suất dẫn đội kỵ binh áo giáp dày gồm ngàn quân chia thành bảy nhánh triển khai đột kích vào trung tâm quân địch từ nhiều hướng, trong trận chiến khốc liệt này, quân Mông Cổ đã đâm xuyên áo giáp của quốc vương Ba Lan, chặt đứt đầu quốc vương Ba Lan mang về doanh trại. Trong chiến dịch Ba Lan, đội kỵ sỹ hoàng gia Pháp, đội thập tự của đoàn kỵ sĩ Teuton (Kị sĩ dòng German), đoàn kỵ sỹ Ba Lan cùng tham gia chiến đấu đều bị tiêu diệt hoàn toàn, gần như không ai sống sót.

Từ xưa tới nay, những người dân du mục Mông Cổ vẫn lưu truyền một câu dự ngôn như sau: Tương lai Thành Cát Tư Hãn sẽ dẫn dắt con cháu của ông quay trở lại nhân gian, vượt qua trùng trùng khó khăn mà người thường không thể tưởng tượng được để lập nên sự nghiệp vĩ đại hơn.

Thật may mắn là tôi cũng sống tại thời đại vĩ đại đó!

Là một đệ tử Đại Pháp trong thời kỳ chính Pháp, gánh vác sứ mệnh lịch sử còn vĩ đại hơn, vũ trụ đều đang đặt kỳ vọng vào chúng ta, chúng ta cần phó xuất hết thảy. Cuối cùng xin kết thúc bằng một câu thơ trong bài thơ “Chanh vanh tuế nguyệt”:

Nhất đại thiên kiêu thần vũ tư, đao cung bách chiến triều tứ di

Hạo khí quân uy nhiếp địch đảm, kim tài thiết mã bình thiên hạ

Dịch nghĩa:

Một thời đại con của Trời thế võ của Thần, đao cung trăm trận chiến khắp bốn phương

Chính khí quân binh khiến kẻ địch khiếp sợ, khí thế hào hùng bình thiên hạ

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/55567

The post Bầu trời của lịch sử: Thành Cát Tư Hãn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bầu trời của lịch sử: Diệt trừ tâm tật đốhttps://chanhkien.org/2014/05/bau-troi-cua-lich-su-diet-tru-tam-tat-do.htmlhttps://chanhkien.org/2014/05/bau-troi-cua-lich-su-diet-tru-tam-tat-do.html#respondThu, 29 May 2014 01:44:12 +0000http://chanhkien.org/?p=21741Thời gian gần đây, giữa các đồng tu bên cạnh tôi phát sinh một số mâu thuẫn, biểu hiện tại phương diện tu khẩu, chỉ trích đồng tu.

The post Bầu trời của lịch sử: Diệt trừ tâm tật đố first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[Chanhkien.org] Trong kinh văn «Phật tính và ma tính», Sư tôn giảng: “Phật tính của con người là Thiện, biểu hiện từ bi, làm các việc thì trước tiên nghĩ cho người khác, có thể nhẫn chịu thống khổ. Ma tính của con người là ác, biểu hiện sát sinh, trộm cướp, tự tư, tà niệm, khuấy đảo thị phi, phiến động đồn đại, tật đố, độc ác, phát cuồng, lười biếng, loạn luân, v.v.

Thời gian gần đây, giữa các đồng tu bên cạnh tôi phát sinh một số mâu thuẫn, biểu hiện tại phương diện tu khẩu, chỉ trích đồng tu. Nghĩ đến vấn đề này, tôi muốn giao lưu cùng các đồng tu, sau đây là thể hội tu luyện của tôi, có chỗ nào thiếu sót mong quý đồng tu từ bi chỉ rõ.

Tu luyện của đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp không phải là tu luyện cá nhân, mỗi một suy nghĩ, mỗi một ý niệm đều rất trọng yếu. Tu luyện Chính Pháp không có chuyện nhỏ, mà đều là việc hết sức to lớn vĩ đại, bởi vì tu luyện Chính Pháp của đệ tử Đại Pháp liên quan đến vận mệnh sinh-tử của vô lượng chúng sinh từ các thể hệ vũ trụ xa xôi.

Có đồng tu cá biệt do chịu ô nhiễm của quan niệm hậu thiên chưa bị tu bỏ đi, chịu can nhiễu của nhân tố văn hóa đảng lưu lại nhiều năm trong tư tưởng, bởi vậy ưa thích bàn luận sau lưng các đồng tu mà không phù hợp với quan niệm bản thân, thậm chí cố ý hoặc vô ý bịa chuyện tung tin, tạo nên gián cách giữa các đồng tu, hành động này rất có thể gây tổn thất rất lớn cho tu luyện Chính Pháp của bản thân và đồng tu. Triển hiện của Pháp tại cảnh giới tu luyện của tôi là: Do nhân tâm thời gian dài không bỏ, trong không gian vi quan đối ứng với thân thể đồng tu, tâm tật đố sinh ra một loại ma thú cá sấu; loại ma thú này có mình người, nhưng tứ chi và đầu là hình cá sấu, mặt ngoài da phủ lớp vảy rất cứng, con ngươi màu vàng xanh, phóng ra ánh sáng ác nghiệt hung tàn. Khi vị đồng tu này không tu khẩu, nói với các đồng tu khác những lời không phù hợp với Pháp xuất phát từ tâm tật đố, nếu như những đồng tu kia không thể dùng Pháp đo lường, bị dẫn động thậm chí nhận đồng [theo lời thị phi], thì con ma thú cá sấu ấy sẽ tiến nhập vào trường không gian đồng tu kia qua đường thông đạo hình thành bởi năng lượng ngôn ngữ, biểu hiện tại không gian người thường là người tu luyện dễ dàng nóng nảy, không có thiện tâm với người khác, hung ác độc địa, học Pháp buồn ngủ, tạp niệm nảy sinh.

Trải qua 12 năm tu luyện Chính Pháp, tuy rằng đệ tử Chính Pháp vẫn ở trong mê, nhưng cảnh giới tu luyện đã đột phá đến tầng thứ cao phi thường. Nếu như có đồng tu không tu khẩu, xuất phát từ tâm tật đố truyền bá khắp nơi chỗ thiếu sót của đồng tu, thậm chí bịa đặt, gây chuyện thị phi, tạo nên gián cách giữa các đồng tu, phá hoại phối hợp chỉnh thể của các đồng tu, khiến đồng tu ấy vì thế mà tạm thời chưa vượt quan, tu luyện chậm trễ, tư tưởng dao động, rơi rớt tầng thứ, vậy thì đồng tu không tu khẩu kia đã khởi tác dụng phụ diện đối với tu luyện của đệ tử Chính Pháp. Nhân tố cựu thế lực còn sót lại ở không gian khác, loạn Pháp lạn quỷ lập tức chú ý đến đồng tu không tu khẩu này, bắt đầu tụ tập lượng lớn trong trường không gian của vị đồng tu này, đồng thời tăng cường tư tưởng bất hảo của đồng tu, lấy đó làm cớ để khống chế kẻ ác, cảnh sát tà ác quanh đó bức hại đồng tu, hoặc lấy phương thức nghiệp bệnh trực tiếp bức hại đồng tu, tình huống mười phần nguy hiểm. Loại việc như thế này đã xảy ra rồi hoặc vẫn đang phát sinh.

Một biểu hiện khác của tâm tật đố không bỏ là trong tâm cứ luôn căm phẫn bất bình, cực kỳ oán hận, luôn luôn chỉ trích người khác. Tôi nhìn thấy khi đồng tu cực kỳ oán hận, tâm không đặt trong Pháp, thì ở không gian khác đối ứng với thân thể đồng tu đột nhiên bốc lên âm hỏa cao mấy mét, không ngừng thiêu cháy, đốt sạch hết thảy vật chất, sinh mệnh chưa đồng hóa với Pháp trong thế giới đối ứng với thân thể đồng tu ở vi quan: rất nhiều chúng sinh hình người và các sinh mệnh hữu hình khác bị thứ lửa oán hận này thiêu thành xác chết nhìn không rõ mặt; nhà cửa, cung điện, lâu đài bị thiêu hủy đổ sụp; một diện tích lớn vườn cây, rừng rậm cũng bị đốt cháy sạch; khắp nơi toàn một màu đỏ, sinh linh oán thán, thương vong vô kể. Biểu hiện tại không gian người thường là đồng tu ấy toàn thân rét run, mệt mỏi, đau đầu; lúc nghiêm trọng, trường vật chất âm tính này sẽ chiêu dẫn sinh mệnh phụ diện có năng lượng—tà linh dị hình sẽ tiến nhập vào trường không gian của người này, dẫn tới nghiệp bệnh nghiêm trọng. Sư tôn giảng: “Kẻ ác do tâm tật đố sai khiến, ích kỷ, nóng giận, mà tự thấy bất công. Người Thiện thường trong tâm từ bi, không oán, không hận, lấy khổ làm vui. Bậc Giác Giả không có tâm chấp trước, tĩnh nhìn thế nhân đang lấy điều huyễn hoặc làm cõi mê.” (“Cảnh giới”, Tinh Tấn Yếu Chỉ)

Người tu luyện là có Sư phụ chăm nom bảo hộ, những đồng tu tạo nghiệp vì không tu khẩu khi đối đãi với tu luyện Chính Pháp, Pháp triển hiện tại cảnh giới tu luyện của tôi chính là: Vì để những đồng tu tạo nghiệp có thể không chịu bức hại của loạn Pháp lạn quỷ, vì để đồng tu có thể phản bổn quy chân và tiếp tục tu luyện, tội nghiệp mà đồng tu gây ra đã được Sư tôn chịu thay, Sư tôn bị roi da có gai đánh đến tàn khốc. Mỗi lần đồng tu tạo nghiệp, Sư tôn lại một lần gánh chịu thay; đồng thời, vô lượng chúng sinh trong thể hệ vũ trụ đối ứng với đồng tu đều quỳ trên mặt đất, không ngừng cầu khẩn Vương của họ thức tỉnh, khuôn mặt đẫm lệ, tiếng khóc chấn động khắp thiên thể rộng lớn! Dẫu Sư tôn phải chịu thống khổ to lớn không cách nào hình dung ấy, ánh mắt Ngài vẫn từ bi như vậy, tràn đầy hy vọng nhìn vào những đồng tu không chịu thua kém này. Khi đồng tu chấp mê bất ngộ, tiếp tục nói ra những lời không phù hợp với Pháp, trong đôi mắt từ bi của Sư tôn nhỏ xuống những giọt lệ thương tâm vô cùng; nước mắt này hóa thành [sương ngọt] cam lộ tưới lên nội tâm của đồng tu, tẩy rửa ác niệm trong tâm đồng tu, khải ngộ bản tính Giác Giả của đồng tu.

Các bạn đồng tu ơi! Mau thanh tỉnh đi thôi!

Làm đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp, các đồng tu chúng ta đã cùng nhau đối diện 12 năm bức hại tàn khốc của tà ác, một số đồng tu trong chúng ta vì thế mà mất đi sinh mệnh, chúng ta đúng là vì chứng thực chân lý vũ trụ mà sống chết cùng nhau! Trong nạn lớn, chúng ta là đệ tử đồng môn, là có Pháp duyên thần thánh vượt qua bất cứ quan hệ mật thiết nào trên thế gian. Có lẽ trong các đồng tu bên cạnh chúng ta, có những người đã từng là người thân thiết nhất với bạn trong các đời trước.

Các đệ tử chân tu Đại Pháp, trong quá trình tu luyện, khi đồng hóa với tiêu chuẩn chân lý ở các tầng thứ khác nhau trong vũ trụ, chính là thể hiện của Pháp ở các tầng thứ khác nhau, thì bảo vệ đồng tu chính là duy hộ Pháp tại các hình thức tồn tại ở các tầng thứ khác nhau, là duy hộ một loại thể hiện của Pháp, cũng là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp.

Đối với thiếu sót của đồng tu hoặc với các đồng tu đang trong ma nạn, các đồng tu xung quanh nhất định phải dùng chính niệm mà đối đãi đồng tu, thiện đãi đồng tu. Khi đồng tu chỉ trích, oán trách các đồng tu đang trong nạn, tôi nhìn thấy thuận theo lời chỉ trích của đồng tu, trong trường không gian chưa đồng hóa với Pháp của đồng tu trong nạn sẽ sản sinh ra một loại vật chất tối màu đỏ hoặc lam, hình dạng giống như sợi bông, phiêu đãng lơ lửng trong không gian ấy; lúc nghiêm trọng sẽ sản sinh từng khối vật chất bẩn thỉu dinh dính như đờm, chất đống trong trường không gian của đồng tu, biểu hiện tại cõi người là đồng tu tâm phiền ý loạn, toàn thân mệt mỏi, đau nhức, đầu não u mê. Bởi vậy xin nhắc nhở các đồng tu, nhất định phải đứng tại Pháp mà giúp đỡ đồng tu, bất cứ cái tình hay nhân tâm nào đều sẽ tạo thành can nhiễu đối với đồng tu đang ở trong nạn. Càng không thể lấy quan niệm bản thân để áp đặt lên đồng tu, cưỡng bách đồng tu phải làm như thế nào; đệ tử Đại Pháp đều là lấy Pháp làm Thầy, chỉ có thể khuyến thiện, còn tu hay không là việc của cá nhân. Nếu như khăng khăng cưỡng ép đồng tu theo ý mình mà làm, thì đây là một loại biểu hiện của tự tâm sinh ma.

Sư tôn giảng: “Là sinh mệnh của cựu vũ trụ, bao gồm hết thảy các nhân tố sinh mệnh, thì trong sự kiện Chính Pháp này, trong sự tuyển trạch của tôi, thì tất cả các sinh mệnh đều chiểu theo điều tôi tuyển trạch mà viên dung nó, chọn ra biện pháp tốt nhất của chư vị, không phải là để biến đổi những gì mà tôi muốn, mà là chiểu theo [lời] mà tôi nói để rồi viên dung nó; đấy là Thiện niệm to lớn nhất của các sinh mệnh trong vũ trụ.” (Giảng Pháp tại Pháp hội miền Tây ở Mỹ quốc vào tiết Nguyên Tiêu, 2003). Tôi ngộ được rằng: Điều mà Sư phụ yêu cầu chính là đệ tử Đại Pháp hướng nội tìm vô điều kiện, làm tốt ba việc, chứng thực Đại Pháp, cứu độ chúng sinh; điều mà Sư phụ cần chính là các đệ tử Đại Pháp lấy Pháp làm Thầy, bao dung đồng tu, loại trừ gián cách, chỉnh thể đề cao, cộng đồng tinh tấn, giữa các đệ tử Đại Pháp hình thành một chỉnh thể vững chắc không thể phá. Có như vậy mới có thể phát huy tác dụng lớn hơn nữa trong chứng thực Đại Pháp và cứu độ chúng sinh.

Có một vị đồng tu nói: Không phải mỗi ngày tham gia nhóm nhỏ học Pháp, làm hạng mục Chính Pháp mới là hòa vào chỉnh thể, mà coi việc của đồng tu cũng là việc của mình mới là hòa vào chỉnh thể, mới có thể thực sự cộng đồng tinh tấn.

Trong tương lai không xa, lịch sử sẽ lật sang một trang mới. Tu luyện Chính Pháp trong suốt những năm qua, chúng ta đã trải qua rất nhiều khó khăn và gian khổ, nhưng tôi vẫn mong trải qua xuân hạ thu đông cùng các đồng tu. Đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp không sợ sinh-tử, chính niệm chính hành, sẽ trở thành truyền tụng mãi mãi của chúng Thần trong những thiên thể vũ trụ ở các tầng thứ khác nhau; cho dù trải qua năm tháng dài đằng đẵng của lịch sử vũ trụ, chúng Thần sẽ vẫn kể mãi sự tích các đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp, vẫn sẽ cảm động khôn nguôi với đôi hàng lệ tuôn rơi.

Xin hãy lắng nghe—âm thanh xa xăm truyền tới bài hát ca tụng của chúng Thần, đó là lời tán tụng tinh thần bất hủ không ngại sinh-tử để chứng thực chân lý vũ trụ và cứu độ chúng sinh của các đệ tử Đại Pháp. Trong vũ trụ mới, vinh diệu và quang huy vĩ đại nhất mà Sư tôn ban cho các đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp sẽ mãi đi theo sinh mệnh chúng ta cho tới vĩnh viễn……

Các bạn đồng tu, xin hãy cùng nhau tinh tấn!!

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/110222

The post Bầu trời của lịch sử: Diệt trừ tâm tật đố first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2014/05/bau-troi-cua-lich-su-diet-tru-tam-tat-do.html/feed0
Bầu trời của lịch sử: Diệt trừ tâm sắc dụchttps://chanhkien.org/2013/09/bau-troi-cua-lich-su-diet-tru-tam-sac-duc.htmlhttps://chanhkien.org/2013/09/bau-troi-cua-lich-su-diet-tru-tam-sac-duc.html#respondFri, 13 Sep 2013 14:11:26 +0000http://chanhkien.org/?p=21574Gần đây nhìn thấy hai bài chia sẻ của đồng tu về loại bỏ tình cảm nam nữ, tôi có cảm nghĩ, viết ra giao lưu cùng các đồng tu, có chỗ thiếu sót mong quý đồng tu từ bi chỉ rõ.

The post Bầu trời của lịch sử: Diệt trừ tâm sắc dục first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[Chanhkien.org] Lời nói đầu: Gần đây nhìn thấy hai bài chia sẻ của đồng tu về loại bỏ tình cảm nam nữ, tôi có cảm nghĩ, viết ra giao lưu cùng các đồng tu, có chỗ thiếu sót mong quý đồng tu từ bi chỉ rõ.

Có thể loại bỏ tình cảm nam nữ hay không là quan đầu tiên từ người thường hướng về người tu luyện chân chính. Loại bỏ tình cảm nam nữ ra sao, đối với mỗi người tu luyện có trạng thái khác nhau, cảm ngộ khác nhau của các tầng thứ khác nhau. Tôi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp từ năm 1994, khi ấy là sinh viên đại học. Hồi đầu mới đắc Pháp tư tưởng thường có tình cảm nam nữ phản ánh ra, can nhiễu tôi tinh tấn tu luyện, tuy nhiên trong tư tưởng tôi kịch liệt bài xích nó, nghĩ rằng nó không phải tôi, nhưng hiệu quả không tốt lắm, khiến tôi rất khổ não. Thông qua học Pháp, tôi đã có nhận thức minh xác rõ ràng khi đối đãi vấn đề này. Đọc kinh sách «Pháp Luân Đại Pháp nghĩa giải» trong đó viết: “Do đó niệm đọc sách của tôi là có thể tiêu bỏ chúng, khi đọc niệm sách của tôi thì những gì xuất ra đều là công, xuất ra đều là Pháp, nên có thể khởi tác dụng tiêu nghiệp” (Kiến nghị tại Hội nghị Phụ đạo viên Pháp Luân Đại Pháp Bắc Kinh [1994]). Trong tâm tôi sáng tỏ thông suốt, bỗng nhiên ngộ được cách tống khứ tâm sắc dục và vật chất xấu của tất cả các tâm chấp trước, đó là niệm Pháp. Niệm Pháp! Khi học tập giảng Pháp của Sư tôn, lại có tâm sắc dục phản ánh ra, tôi bèn học thuộc đoạn giảng Pháp trong bài giảng thứ sáu «Chuyển Pháp Luân»: “‘Dục’ và ‘sắc’ những thứ ấy đều thuộc về tâm chấp trước của con người; những thứ ấy đều nên tống khứ.” Liên tục niệm 81 lần, nếu tư tưởng còn có tạp niệm chấp trước sắc dục, lại niệm 81 lần nữa, mãi cho đến khi tâm tĩnh như nước.

Qua học Pháp, tôi phát hiện đối với mỗi tâm chấp trước của con người, trong giảng Pháp Sư tôn đều giảng vì sao phải bỏ tâm chấp trước, loại bỏ tâm chấp trước ra sao, chỉ cần nghiêm túc học Pháp đều có thể nhận thức được. Khi đả tọa niệm Pháp, tôi nhìn thấy tâm chấp trước sắc dục đối ứng ở không gian khác chính là một vật chất to lớn như bạch huyết của động vật hay khối u ung thư vậy. Thuận theo tôi không ngừng niệm Pháp, loại vật chất xấu xí này không ngừng thu nhỏ, không ngừng thu nhỏ, tới khi giải thể hóa thành nước đen, cuối cùng nước đen cũng bị Đại Pháp tịnh hóa tiêu trừ đi. Biểu hiện trong không gian người thường, tư tưởng đột nhiên trở nên bình tĩnh, hòa ái vô cùng, thân thể cũng cảm giác phi thường nhẹ nhõm. Trong thực tiễn tu luyện, trên cơ sở học Pháp lượng lớn và hướng nội tìm, mỗi ngày tăng thời gian bão luân, kéo dài thời gian đả tọa, số lần đả tọa đều có thể khởi tác dụng phụ trợ loại bỏ các chủng tâm chấp trước.

Do nguyên nhân công tác, tại xã hội và hoàn cảnh sinh hoạt, tôi tiếp xúc rất nhiều đồng nghiệp nữ. Trong đó có một cô tên là Phi Phi công tác cùng tôi ở bên ngoài, tiếp xúc khá nhiều, lại đều xa quê, độc thân bên ngoài, chịu ô nhiễm của nếp sống đạo đức bại hoại ngoài xã hội, cô vẫn luôn hy vọng cùng tôi phát triển quan hệ “sống chung”. Thông qua học Pháp tôi ngộ rằng hành vi giới tính ngoài vợ chồng là đi ngược lại tiêu chuẩn quy phạm đạo đức mà Thần cấp cho con người, người thường sau khi nam nữ loạn tính tạo nghiệp ở thế gian xong phải xuống địa ngục để hoàn trả tội nghiệp, người tu luyện càng không nên có hành vi này. Đại sự hôn nhân, đối với đệ tử chân tu thì đều được Sư tôn an bài tốt cả, hết thảy tùy kỳ tự nhiên. Không lâu sau khi xếp đặt cho chính quan hệ với Phi Phi, Phi Phi rời công ty về quê công tác.

Sau năm 1999, đệ tử Đại Pháp toàn diện chuyển sang tu luyện Chính Pháp. Đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp gánh vác sứ mệnh lịch sử vĩ đại là chứng thực Pháp, cứu độ chúng sinh. Trong «Giảng Pháp luân lưu tại Bắc Mỹ» Sư tôn giảng: “Bởi vì các thiên thể to lớn ấy là ở dưới chư vị, hầu như giống với thân thể của chư vị, bởi vì chư vị cũng to lớn như thế. Bên trong đó có vô số chúng sinh, có số lượng bất tận những khung thể vũ trụ; sự tu luyện của chư vị, là quyết định sự tốt hay xấu, lưu hay bỏ của các quần [thể] sinh mệnh to lớn ấy!” Thông qua học Pháp tôi ngộ được rằng: Tu luyện Chính Pháp là lấy tu luyện cá nhân làm tiền đề, đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp tu tốt bản thân, loại bỏ tâm chấp trước của bản thân cũng là cứu độ vô lượng chúng sinh. Trong tu luyện Chính Pháp, do coi nhẹ tâm chấp trước con người, đặc biệt tình cảm nam nữ, có hai lần đối diện bức hại của cảnh sát do sinh mệnh tà ác thao túng, tôi vẫn thản nhiên bất động, dưới coi sóc từ bi của Sư tôn dùng chính niệm và trí huệ phá trừ can nhiễu, khiến bức hại tà ác tan thành tro bụi. Đệ tử Chính Pháp chỉ có diệt trừ tâm chấp trước sắc dục, trong chính niệm mới có thể vận dụng như ý công năng mà Đại Pháp ban cho, chứng thực Đại Pháp, phá trừ bức hại của nhân tố cựu thế lực sót lại. Cũng có đồng tu vì tạo nghiệp tình cảm nam nữ, bị tà ác dùi vào sơ hở tạo thành tổn thất rất lớn cho tu luyện bản thân và cứu độ chúng sinh. Có vị bị loạn Pháp lạn quỷ thao túng cảnh sát tà ác bắt giữ, có vị bị nhân tố tà ác dùng nghiệp bệnh bức hại lấy đi nhục thân, tôi nghĩ bài học xương máu về phương diện này đã đủ để chúng ta thanh tỉnh rồi.

Một lần cùng đồng tu giao lưu, tôi gặp một vị nữ đồng tu trẻ tuổi, vừa trượt ngã do tạo nghiệp trong tình cảm nam nữ, loạn Pháp lạn quỷ lấy đó làm cớ, mưu đồ dùng phương thức nghiệp bệnh bức hại chết đồng tu. Biểu hiện tại không gian người thường là: tâm tạng, trước ngực, phần lưng không ngừng đau buốt dữ dội, toàn thân phát lạnh, đồng thời nữ đồng tu nhìn thấy, cảm thấy rất nhiều sinh mệnh mặc y phục cổ trang lôi kéo nguyên thần cô ly thể. Lúc giao lưu tôi ngồi bên cạnh cô, cô yên lặng cúi đầu. Bỗng nhiên cô ngẩng đầu lên, đôi mắt mệt mỏi phóng ra màu sắc dị dạng, nhìn tôi nói: “Ôi chao, anh không có vật chất tình dục, tôi có thể cảm giác được! Ngồi cùng với anh, điều gì cũng không nghĩ nữa, chỉ là cảm giác rất dễ chịu, tôi biết tôi sai ở đâu rồi!” Tôi nói: “Đây là uy lực của Đại Pháp. Chúng ta là đệ tử Chính Pháp, là một lạp tử trong Đại Pháp, thân tâm hoàn toàn do đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn của vũ trụ cấu thành. Trong «Chuyển Pháp Luân» Sư tôn giảng: ‘Bởi vì [đứng] tại sinh mệnh cao cấp mà xét, thì sinh mệnh [đời] người không phải vì để làm người. Họ cho rằng sinh mệnh con người là [được] sản sinh trong không gian vũ trụ, có cùng tính chất với vũ trụ, là lương thiện, là cấu thành từ chủng vật chất Chân Thiện Nhẫn.’ Tôi ngộ rằng: Ngoại trừ Chân, Thiện, Nhẫn là tự ngã chân chính ra, hết thảy quan niệm trong tư tưởng không phù hợp với Pháp đều không phải là tự ngã, đều là quan niệm chấp trước, cần phải tận diệt, bao gồm quan niệm về ‘cái tôi’. Sinh mệnh chúng ta là thuộc về Đại Pháp, là vì chứng thực Đại Pháp, cứu độ chúng sinh mà tồn tại, không phải đến để chịu bức hại, cho dù chúng ta có chấp trước, thiếu sót thì quy chính trong Đại Pháp, Đại Pháp và Sư phụ không thừa nhận bức hại, chúng ta cũng kiên quyết không cần, không nhận nó”. Nữ đồng tu nói: “Đúng rồi”. Tôi nói tiếp: “Đại Pháp triển hiện tại cảnh giới tu luyện của tôi là: Từ không gian khác mà nhìn nhục thân con người, quả thực là một khối bùn nâu đậm hình người, trường vật chất mà nhục thân mang theo là dính dính, bẩn bẩn, có mùi tanh nồng. Thần hộ Pháp ở không gian khác đều bảo trì cự ly nhất định với trường vật chất mà nhục thân người tu luyện mang theo, không dám dùng ‘tay’ chạm vào trường vật chất này, đề phòng vật chất dơ bẩn ô nhiễm Thần thể. Nếu như nam nữ loạn tính tạo nghiệp nghiêm trọng, nhục thân con người từ không gian khác nhìn giống như một đám bùn nhão dơ dáy, xú khí ngút trời, sinh mệnh chính diện ở không gian khác đi qua sinh mệnh như vậy đều bịt mũi lại, chỉ có ma sắc, loạn quỷ mới thích thân thể vật chất và mùi vị này”. Chia sẻ xong, nữ đồng tu không ngừng dùng Pháp quy chính tư tưởng quan niệm bất chính của bản thân, bản tính của Thần “bắt đầu” tỉnh lại giác ngộ, lúc này không gian chưa đồng hóa với Pháp của cô cũng phát sinh rất nhiều biến hóa: Không gian đen tối bắt đầu có ánh sáng, cũng như mây đen không che khuất mặt trời được nữa; lượng lớn âm linh, sinh mệnh tà ác vì phần Thần đã giác ngộ của đồng tu chiếu hào quang chính niệm mà lập tức hóa thành bụi khói tiêu mất; những cơn hồng thủy màu đen mãnh liệt trong không gian bắt đầu rút lui. Tai nạn qua đi, chúng sinh trong trường không gian đối ứng của đồng tu từ sắc mặt trắng xanh đã nở nụ cười hy vọng, bắt đầu chỉnh trang quê nhà… Tôi tiếp tục nói: “Người tu luyện nhất định phải bỏ tâm chấp trước sắc dục. Khi trong tư tưởng tôi phản xuất tình cảm nam nữ, tôi liền niệm 81 lần giảng Pháp của Sư tôn, mãi cho đến khi triệt để diệt trừ can nhiễu nhân tâm. Lúc bỏ tâm chấp trước, đúng là đau đớn như khoét tim đục xương, nhưng chúng ta là đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp, nếu dùng thống khổ thân tâm mà chúng ta phải chịu trong tu luyện hoán đổi sinh mệnh của vô lượng chúng Thần, nếu dùng phó xuất thân tâm của chúng ta để khai sáng hoàn cảnh và phương thức sinh tồn tốt đẹp nhất cho chúng sinh trong vũ trụ mới, thì sự tình này có ý nghĩa biết nhường nào! Cái khổ mà chúng ta phải chịu đã đánh đổi được điều gì?” Rất nhanh, dưới gia trì bảo hộ của Sư tôn, trong phối hợp chính niệm của các đồng tu, nữ đồng tu vượt qua quan nghiệp bệnh, lại bắt đầu nhập vào dòng hồng lưu của Chính Pháp.

Sau này, tôi lại gặp lại vị nữ đồng tu này lần nữa; sau khi học Pháp cùng đồng tu, đồng tu tiễn tôi ra cửa. Tiễn được một đoạn, tôi lặng lẽ quay đầu lại, thấy đồng tu vẫn đứng giữa cơn gió lạnh, mái tóc dài tung bay trong gió. Khuôn mặt yên tĩnh, mơ màng nhỏ giọt lệ óng ánh, ánh mắt cô hàm chứa cảm động từ nội tâm, sung mãn tín tâm, kiên định nói lời tạm biệt tôi. Tôi biết rằng trong những năm tháng tương lai, trên con đường trợ Sư Chính Pháp, đồng tu nhất định sẽ làm tốt hơn nữa. Là người tu luyện, hễ động nhân tâm hễ động tình thì chính là ở trong chấp trước, sinh mệnh sẽ chịu ước chế, ràng buộc của nhân tố vật chất trong tam giới, thân tâm nằm trong luân hồi nghiệp lực của tam giới, sẽ có thống khổ, Sư tôn nói: “Không có bất cứ hoạt động ý niệm nào, bất cứ ý niệm nào đều là chấp trước.” (Giảng Pháp tại Pháp hội Sydney, bản dịch chưa chính thức)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/81964

The post Bầu trời của lịch sử: Diệt trừ tâm sắc dục first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2013/09/bau-troi-cua-lich-su-diet-tru-tam-sac-duc.html/feed0
Bầu trời của lịch sử: Thần hành tại thếhttps://chanhkien.org/2013/05/bau-troi-cua-lich-su-than-hanh-tai-the.htmlhttps://chanhkien.org/2013/05/bau-troi-cua-lich-su-than-hanh-tai-the.html#respondSun, 05 May 2013 16:24:14 +0000http://chanhkien.org/?p=21622Tôi là đệ tử Đại Pháp thông qua tu luyện Pháp Luân Đại Pháp mà đạt đến trạng thái tiệm ngộ.

The post Bầu trời của lịch sử: Thần hành tại thế first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[Chanhkien.org] Tôi là đệ tử Đại Pháp thông qua tu luyện Pháp Luân Đại Pháp mà đạt đến trạng thái tiệm ngộ. Qua 16 năm tu luyện thực tiễn trong Đại Pháp, trải qua rất nhiều sự việc thần kỳ siêu thường, nay viết ra một phần để giao lưu cùng các đồng tu. Dưới đây chỉ là thể hội chứng ngộ trong tu luyện Đại Pháp của cá nhân, có chỗ nào thiếu sót mong quý đồng tu chỉ giúp.

1. Chính niệm

Hết thảy những gì của đệ tử Chính Pháp đều bắt nguồn từ chính tín kiên định vào Phật Pháp vĩ đại, không có chính tín thì cũng không có chân tu, công năng chỉ là một chủng hiện tượng tất nhiên trong quá trình chứng ngộ chân lý Phật Pháp của đệ tử chân tu. Công năng thực ra là vì chứng thực Đại Pháp, dùng để phá trừ bức hại của cựu thế lực, cứu độ chúng sinh; nếu không, dùng bằng nhân tâm thì không có ý nghĩa gì cả, cũng như nhập ma đạo.

Từ sau 20-7-1999 trở đi, tôi cũng như hàng nghìn hàng vạn đệ tử Chính Pháp, sau khi giao lưu cùng các đồng tu trong vùng đã quyết định đi Bắc Kinh chứng thực Pháp và duy hộ Đại Pháp. Trong 9 vị đệ tử Đại Pháp lên Bắc Kinh chúng tôi, có một vị đồng tu mà chị gái là nhân viên công tác Phòng 610 của tà đảng tại địa phương, sau khi biết đồng tu đi Bắc Kinh, chị ta phối hợp với cảnh sát tà ác ở khu vực mưu đồ bắt giữ phi pháp các đồng tu đi Bắc Kinh chứng thực Pháp. Hôm ấy sau khi lên xe, tôi đợi các đồng tu khác đến, được một lúc thì chị gái đồng tu dẫn nhân viên tới chỉ vào tôi, nói: “Anh ta luyện Pháp Luân Công!” Đợi các đồng tu khác lần lượt lên xe, chị ta bắt em gái mình cưỡng chế đưa đi, còn nhân viên thừa hành dẫn rất nhiều cảnh sát tới kiểm tra nghiêm ngặt thùng xe ô-tô chúng tôi. Từng người bị chất vấn xem có phải tập Pháp Luân Công không, có mấy vị đồng tu bị cảnh sát dẫn đi. Lúc ấy tôi nghĩ: Ta là đệ tử Đại Pháp, con đường tu luyện của ta là do Sư phụ an bài, ai nói gì cũng không được tính. Khi cảnh sát dẫn các nhân viên thừa hành tới cạnh tôi, tôi bình tĩnh nhìn họ, tâm bình tĩnh như nước hồ, không chút gợn sóng. Cảnh sát liên tục hỏi những người xung quanh tôi, nhưng không hề hỏi tôi, các nhân viên thừa hành cũng tựa như không biết tôi vậy. Toán cảnh sát này đi rồi, lại một toán khác đến thẩm vấn những người quanh tôi, nhưng chỉ đi qua tôi như không nhìn thấy tôi vậy. Dưới sự bảo hộ từ bi của Sư tôn, vào 7 giờ 40 phút sáng ngày 03-01-2000, tôi và một vị đồng tu khác luyện công ôm bão luân chứng thực Đại Pháp trên quảng trường Thiên An Môn. Trong thời khắc ấy, cả thế giới tựa như ngừng thở, hết thảy thế gian đều tĩnh chỉ lại, không còn những tiếng huyên náo; tôi nhìn lên bầu trời, thấy vô lượng Thần Phật mắt không động đậy nhìn tôi và đồng tu, ánh mắt đầy quan tâm, nhưng hai hàng lệ chảy dài……

Tôi và một vị đồng tu, trong quá trình chứng thực Pháp, giảng thanh chân tướng, do đồng tu bị kẻ ác trình báo, đối diện trước mặt là cảnh sát tà ác bắt giữ phi pháp. Tôi chính niệm nhìn thẳng vào cảnh sát, nội tâm thản nhiên bất động, tâm như nước chết, phát xuất một niệm cường đại: “Điều ta làm là chân chính nhất, chứng thực Đại Pháp, tà ác không xứng bức hại ta”. Cảnh sát và ác nhân hoàn toàn bị chính niệm của tôi ức chế, cặp mắt ngây dại, tựa như nhìn không thấy tôi, tôi thản nhiên bước qua tà ác. Lại một lần nữa Sư tôn từ bi bảo hộ tôi thoát khỏi hiểm cảnh, sau đó toàn thành phố ra lệnh giới nghiêm. Dưới phối hợp chính niệm của chỉnh thể đồng tu, bức hại của tà ác đã triệt để giải thể.

2. Dự báo

Một lần giao lưu cùng đồng tu, tôi gặp một vị điều phối viên đang lưu lạc. Trong khi chia sẻ, cô nói tối định về nhà thăm hỏi chồng, nhưng các đồng tu đều không đồng ý. Khi phát chính niệm đồng bộ toàn cầu, trong định tôi nhìn thấy trường không gian của vị nữ đồng tu này chứa đầy vật chất tình, loạn Pháp lạn quỷ mưu đồ viện cớ đó khống chế cảnh sát tà ác, chuẩn bị rình bắt vị đồng tu này. Phát chính niệm xong, tôi kể với cô cảnh tượng mà tôi nhìn thấy, giao lưu dựa trên Pháp với vị đồng tu này, giúp đồng tu nhận ra cái tình của mình với chồng, hiểu rõ người tu luyện cần đối đãi vấn đề này như thế nào, cũng như tính nguy hại mà tình mang tới. Lúc này, tâm tính đồng tu thăng hoa thực chất trong Pháp, trường không gian tự thân vốn vẩn đục nay trở nên thuần tịnh, quanh đầu đồng tu xuất hiện một vòng hào quang màu xanh lam, ánh sáng trí tuệ tỏa khắp bốn phía. Chúng tôi cùng nhau học Pháp, phát chính niệm, đến 8 giờ sáng ngày hôm sau, chồng nữ đồng tu đến chỗ chúng tôi, nói: “Ái chà, may mà tối qua em không về nhà, nếu không cảnh sát đến bắt em và cả nhà đi rồi”. Nữ đồng tu nghe xong mỉm cười.

Loại tình huống như thế này tôi đã gặp qua nhiều lần, người tu luyện là phải trừ bỏ hết thảy nhân tâm nhân tình, trong tu luyện mang theo bất cứ thứ tình nào mà không bỏ thì đều cực kỳ nguy hiểm.

3. Tha tâm thông

Bên cạnh tôi có một vị nam đồng tu trẻ tuổi chưa kết hôn, do công tác bận rộn nên có lúc học Pháp buông lơi. Là đồng tu bên cạnh anh, tôi thường xuyên đốc thúc anh. Một đoạn thời gian học Pháp luyện công và làm công tác chứng thực Pháp cùng anh, cứ cảm thấy anh có điều gì đó là lạ, hiệu quả khi chia sẻ cùng anh cũng không tốt. Tôi tĩnh tâm lại, dùng công năng tha tâm thông quan sát tư tưởng anh, xem nút thắt trong tâm anh là gì, nhìn thấy trong tư tưởng anh có một hình tượng cô gái mặc áo trắng, hơn nữa vị nam đồng tu này rất nhớ nhung cô gái áo trắng đó, tựa như ngày đêm tơ tưởng, không thể tự thoát ra được. Đồng thời tôi nhìn thấy trong trường không gian của đồng tu có một con ma sắc màu xanh đen, xấu xí hung ác, toàn thân tiết ra chất dịch tanh tưởi, không ngừng nôn ra rất nhiều vật chất bẩn thỉu xú uế màu đen lên đầu đồng tu. Tôi lập tức phát chính niệm thanh lý can nhiễu bức hại của ma sắc lên đồng tu. Khi ma sắc bị chính niệm cường đại của tôi giải thể rồi, biểu hiện bên ngoài của đồng tu giống như trút được gánh nặng, đôi mắt lờ đờ biến thành trong suốt. Tôi nói với anh: “Con đường của người tu luyện đều được Sư phụ an bài tốt đẹp cả rồi, đối với lợi ích vật chất thế gian cần tùy kỳ tự nhiên, tình cảm nam nữ xử lý không khéo rất dễ tạo đại nghiệp, bị tà ác dùi vào sơ hở, bài học xương máu về vấn đề này đã quá nhiều rồi. Duyên phận thế gian của cô gái áo trắng kia với anh rất bạc, chỉ như bèo nước gặp nhau, cô ấy không lâu nữa sẽ rời bỏ anh. Anh là người tu luyện thì nên buông bỏ ảo tưởng không thực tế kia đi, cần phải hiểu rõ sứ mệnh của một đệ tử Chính Pháp—tu luyện của chúng ta quyết định sống chết của vô lượng chúng sinh”. Nam đồng tu vừa nghe tôi nói đã thất kinh, cúi đầu trầm tư. Thông qua chia sẻ, đồng tu nhận thức được rằng làm người tu luyện trước tiên phải loại bỏ chấp trước vào tình cảm nam nữ, mới có thể phản bổn quy chân, triệt để giải thoát khỏi nỗi khổ vô tận của luân hồi; thứ nữa, làm đệ tử Chính Pháp thì ắt phải làm tốt ba việc Sư tôn yêu cầu, nếu không hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Đồng tu không ngừng học Pháp, hướng nội tìm, quy chính thiếu sót; không lâu sau, cô gái áo trắng kia biến mất khỏi cuộc sống của nam đồng tu, không còn bất cứ liên hệ gì nữa.

Người tu luyện đứng tại góc độ của Pháp mà đối đãi vấn đề, xử lý mâu thuẫn, thì điều Đại Pháp cấp cho đều là tốt đẹp nhất. Đối với lợi ích vật chất thế gian, người tu luyện ôm mãi không buông, thì rất dễ mất đi hết thảy những gì cần có.

4. Dao thị

Một vị nữ đồng tu trẻ tuổi, do chướng ngại chấp trước vào tình thân quyến với cha mẹ, nên rốt cuộc vẫn chưa bước ra. Trong thời gian đi công tác, cô gặp một vị đồng tu đã quen từ trước, vì thế bắt đầu tu luyện trở lại. Cha mẹ cô biết được bèn tìm mọi cách ngăn cản nữ đồng tu tu luyện, mẹ cô tuyên bố có khối u ác tính, để con gái phải trở về nhà, làm đồng tu rất phiền não. Chia sẻ cùng cô biết được tình huống này, tôi nói với cô: “Tu luyện khi làm việc phải dĩ Pháp vi Sư, chứ không phải theo tình cảm mà làm. Chấp trước vào tình thân quyến là quan mà mỗi người tu luyện đều phải vượt qua, gặp mâu thuẫn trước tiên hướng nội tìm. Không chỉ có chị, tôi cũng phải hướng nội tìm, vô lậu rồi can nhiễu tự diệt”. Đồng thời tôi vận dụng công năng dao thị, đoạn nói với cô cảnh tượng tôi nhìn thấy: “Thân thể mẫu thân chị rất kiện khang”. Nữ đồng tu hướng nội tìm, tìm thấy chấp trước vào tình thân quyến, bèn kiên định chính niệm của người tu luyện, đồng thời tôi cùng cô phát chính niệm thanh lý con ma có hình tượng yêu thú to lớn như trong truyền thuyết Tây phương đang khống chế mẹ cô. Sau đó họ hàng cô ở quê nói với cô, mẹ của cô không có bệnh có u gì hết, thân thể rất khỏe mạnh. Nhờ chính niệm của nữ đồng tu, can nhiễu đến từ mẹ cô đã chấm dứt, nữ đồng tu chứng thực Pháp cùng các đệ tử Đại Pháp khác trong hoàn cảnh tu luyện mới, không ngừng tinh tấn.

Vùng chúng tôi có một cặp vợ chồng trung niên bị cảnh sát bắt giữ, người nhà đồng tu rất lo lắng, định dùng tiền hối lộ cảnh sát. Mấy hôm ấy tôi cùng các đồng tu đến nhà vị đồng tu này, người nhà đồng tu hỏi tôi: “Tình huống vợ chồng họ trong hang ổ đen tối ấy như thế nào?” Tôi cân nhắc một lúc. Tôi cho rằng tôi nên dùng công năng nhìn xem tình huống ra sao để chia sẻ với các đồng tu, cũng tiện phối hợp chỉnh thể, phá trừ an bài của cựu thế lực. Nam đồng tu nhân tâm rất nhiều, không đứng tại Pháp, đã khai ra hết rồi, còn nữ đồng tu khá kiên định. Trước tình huống này, các đồng tu chúng tôi đều hướng nội tìm, giao lưu cùng nhau, cuối cùng có chung nhận thức: Trước tiên lên mạng nhờ các đồng tu ở địa phương gia trì chính niệm, sau đó người nhà đồng tu đến hang ổ giam giữ phi pháp đồng tu, tìm những nhân vật chủ chốt bức hại để phơi bày tà ác, giảng rõ chân tướng. Nhưng người nhà đồng tu chấp trước vào tình thân không buông được, thỏa thuận với người nhà không tu luyện dùng một lượng tiền lớn hối hộ cảnh sát. Sự tình xảy ra rồi, do người nhà đồng tu dùng tình thân đối đãi với bức hại của tà ác, chứ không dùng chính niệm của người tu luyện đối đãi, nên Pháp tại cảnh giới tu luyện của tôi triển hiện là: Tầng thứ không gian nhất định đối ứng với thân thể người nhà đồng tu đã phát sinh biến hóa cực kỳ đáng sợ. Thế giới nguyên ban đầu đẹp đẽ vô tỷ đã trở thành núi lở đất long, thây chết khắp đồng, không có ánh sáng, hoàn toàn bị “thế lực hắc ám” che phủ. Biểu hiện tại không gian người thường là thân thể xuất hiện bệnh nghiệp nghiêm trọng. Người nhà không tu luyện mà đã hối lộ cảnh sát tà ác, vì biến tướng trợ giúp tà ác, nên trường không gian khác đối ứng sản sinh một lượng vật chất màu đen to lớn, như núi như trời, tương lai sẽ đối diện với cảnh ngộ hết sức bi thảm. Nam đồng tu được dùng tiền chuộc ra rồi, trạng thái tu luyện dao động mãi không thôi, còn nữ đồng tu bị kẻ ác hãm hại oan ngục. Thông qua sự kiện này tôi ngộ được rằng tu luyện là nghiêm túc phi thường, người tu luyện dùng tình đối đãi với các đồng tu xung quanh, thì tương đương với can nhiễu đồng tu tu luyện; người tu luyện dùng tình đối đãi với người nhà không tu luyện, thì có lúc đúng là can nhiễu thế nhân được Đại Pháp cứu độ, thậm chí khởi tác dụng phụ diện mà không biết, quả là hại mình hại người.

5. Thấu thị

Tham gia nhóm học Pháp, một vị nữ đồng tu xuất hiện nghiệp bệnh can nhiễu, biểu hiện là một bên lưng xuất hiện chấm đỏ, sau đó là bóng nước, đồng thời đau như kim châm. Dùng tầng nông của thiên mục mà nhìn, vị trí nghiệp bệnh đầy ắp khí đen, âm khí xanh sẫm, hướng vào sâu mà nhìn thì là một linh thể như con gấu đen. Sau đó tôi kể cho mọi người quan hệ nhân duyên giữa linh thể gấu đen này với vị nữ đồng tu trong lịch sử xa xưa. Sau khi các đồng tu chia sẻ với vị nữ đồng tu này, nữ đồng tu hướng nội tìm, thấy rằng khi gặp khảo nghiệm tâm tính thì không thể thực hiện cái Nhẫn của người tu luyện, bực mình tức giận. Cô phát xuất một niệm: Nợ thiếu phải hoàn trả, nhưng cô tu Đại Pháp rồi, hết thảy can nhiễu đều là trái với Đại Pháp, nhân tố tà ác can nhiễu tu luyện của đệ tử Chính Pháp đều phải diệt tận. Thông qua nhiều lần phát chính niệm, linh thể gấu đen ở không gian khác đã bị Đại Pháp triệt để thanh lý. Nữ đồng tu khỏi bệnh rồi, chỗ da nơi nghiệp bệnh lưu lại một vết bàn chân gấu, móng vuốt có thể nhìn thấy rõ ràng.

6. Túc mệnh thông

Trong quá trình giảng thanh chân tướng, do cơ duyên thế gian dẫn dắt, tôi gặp rất nhiều người cả đời chỉ gặp một lần. Một lần dùng cơm ở một quán ăn tại Tân Cương, chủ quán là một cô gái trẻ người tộc Duy Ngô Nhĩ, chiêu đãi khách rất ân cần nhiệt tình. Nhìn vẻ tươi cười trên khuôn mặt lương thiện của cô, tôi có cảm giác rất thân quen, vậy là tôi dùng công năng túc mệnh thông nhìn cô gái này, thấy rằng quá khứ cô từng có thế duyên rất sâu với tôi. Để chờ đợi vị Thần vĩ đại nhất trong vũ trụ hạ xuống nhân gian cứu độ, trong lục đạo luân hồi, cô đã khổ đợi 7.000 năm, trải đủ ma nạn. Lúc này khách trong quán ăn xong liền ra đi, nữ chủ quán đứng cách tôi không xa đang dọn dẹp bát đĩa, trong vô ý tôi phát hiện ở không gian khác xuất hiện một cô gái giống như cô đang khóc, quỳ lạy hướng về bầu trời phía Tây nơi có Pháp thân Sư tôn. Pháp thân Sư tôn từ bi nhìn tôi và cô, tôi hỏi: “Cô tin đạo Hồi phải không?” Cô đáp: “Vâng, tin chứ, anh thì sao?” Tôi nói: “Tôi là người tu Phật, nhưng tôi tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo của cô. Người có tín ngưỡng là người lương thiện, là có Thần trông nom”. Nữ chủ quán nói: “Đúng vậy!” Tôi nói: “Đảng cộng sản theo thuyết vô thần, không để người ta tin Thần, rất xấu xa”. Nữ chủ quán nói: “Đảng cộng sản rất xấu”. Tiếp đó tôi giảng về Cửu Bình, tiên tri dự ngôn trong lịch sử, tam thoái, v.v. Nữ chủ quán nghe chân tướng Đại Pháp xong, không chỉ tự mình tam thoái, mà còn gọi người thân tới nghe chân tướng Đại Pháp và làm tam thoái. Cuối cùng cô nói với tôi tên cô là A Y Cổ Lệ, nghĩa là hoa mặt trăng. Lúc tôi ra đi, cô và người nhà đều rất thành khẩn cảm tạ tôi, tiễn tôi một đoạn rất xa.

Đệ tử Chính Pháp cần nắm chắc mỗi cơ hội giảng chân tướng, rất nhiều thế nhân chỉ có một lần cơ duyên lắng nghe chân tướng Đại Pháp. Chờ đợi mấy nghìn năm, chúng ta không thể có trách nhiệm với con người thế gian hay sao? Công năng Đại Pháp ban cho là một loại thể hiện khác của Phật Pháp trang nghiêm, vận dụng thế nào cho chính, cho Thiện là lựa chọn của mỗi vị đệ tử Chính Pháp.

Sinh mệnh trải qua lịch sử vũ trụ dài đằng đẵng đi đến ngày hôm nay, trong thời khắc then chốt của lịch sử, mỗi sinh mệnh đều tuyển chọn con đường tương lai của bản thân mình. Người đời trầm mê trong cõi hồng trần, còn đệ tử Chính Pháp kiên định chính niệm kim cương bất động vào chân lý vũ trụ, chính niệm chính hành, dùng sinh mệnh và máu viết nên bài văn Chính Pháp, như một tấm bia phát sáng, mãi mãi tỏa sáng bầu trời của lịch sử vũ trụ tương lai.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/70996

The post Bầu trời của lịch sử: Thần hành tại thế first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2013/05/bau-troi-cua-lich-su-than-hanh-tai-the.html/feed0
Bầu trời của lịch sử: Pháp duyên (Phần 2)https://chanhkien.org/2013/03/bau-troi-cua-lich-su-phap-duyen-phan-2.htmlhttps://chanhkien.org/2013/03/bau-troi-cua-lich-su-phap-duyen-phan-2.html#respondSat, 09 Mar 2013 08:26:43 +0000http://chanhkien.org/?p=21503Thời gian trôi nhanh, thế sự chuyển dời, trăm ngàn năm qua, con người thế gian không có gì thay đổi, trong sự tranh danh đoạt lợi chỉ biết ái tình.

The post Bầu trời của lịch sử: Pháp duyên (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[Chanhkien.org] Thời gian trôi nhanh, thế sự chuyển dời, trăm ngàn năm qua, con người thế gian không có gì thay đổi, trong sự tranh danh đoạt lợi chỉ biết ái tình, trong lục đạo luân hồi, chấp mê tạo nghiệp, nào biết sợ sẽ rớt sâu xuống địa ngục đâu.

Vào triều Đường, tôi chuyển sinh đến Tây Tạng, khi chuyển sinh đến Hồng giáo Tạng mật để tu luyện đời thứ hai, một lần nọ [tôi] cùng các lạt-ma đi đến phía nam Tây Tạng để tham gia một buổi Pháp hội lớn. Dọc đường đi gặp phải một người điên đang ở bên đường kêu hò ầm ĩ về phía chúng tôi. Trông mặt anh ta có vẻ quen quen. Tôi bèn dừng ngựa lại, khai mở công năng túc mệnh thông nhìn vào người điên ấy. Sau khi xem xong, mọi nhân duyên trước đây của tôi và anh ta [được] tận giải. Tôi xuống ngựa đi đến cạnh anh, người điên nhìn tôi một cách mơ hồ, tôi dùng Phật Pháp thần thông đả khai một bộ phận đã bị khóa kín của anh, rồi hỏi: “Anh, có còn nhớ tôi không?” Đôi mắt mơ hồ của người điên dần dần trở nên sáng lên, từ đôi mắt ấy tuôn ra hai hàng lệ, [anh] nắm lấy tay tôi nói: “Hãy cứu tôi!” Tôi trịnh trọng gật đầu một cái, căn dặn các tiểu lạt-ma bên cạnh dẫn người điên về tu viện Hồng giáo.

Thì ra người điên này chính là Pháp Hoàng Tử, người đã cùng tôi ký nguyện ước Chính Pháp với Sư tôn tại thiên quốc, là quốc vương Thái Dương quốc trước đây. Anh chuyển sinh làm tướng quân triều Tùy, Vũ Văn Thành Đô, vào những năm cuối triều Tùy do danh lợi mà tạo phải tội nghiệp lớn, kiếp này chịu quả báo như thế. Do vào triều Tùy anh đã tạo nghiệp to lớn không thể thọ Pháp tu luyện, chỉ có thể khổ hạnh để tiêu đi tội nghiệp trước. Một đời tu không thành được, phải tu tám đời mới có thể hoàn toàn ngộ lại được bản tính cảnh giới Như Lai.

Tôi căn dặn các lạt-ma giao những việc nặng nhọc nhất, dơ bẩn nhất ở trong tu viện cho người điên làm. Mỗi ngày chỉ cho ăn no, nằm ngủ trong chuồng súc vật, cứ như thế trong 7 năm. Một hôm, tôi hỏi người điên: “Này phong tử, anh có vui không?” Người điên trả lời: “Xin thượng sư truyền Pháp độ tôi đến Pháp giới bỉ ngạn”. Tôi nói: “Tội nghiệp của anh rất nặng, một đời không tu thành được”. Người điên nói: “Xin nghe theo mọi điều dạy bảo của thượng sư”. Tôi thấy Phật tính anh ta hiển hiện, cơ duyên đã thành thục, bèn quán đỉnh, truyền Pháp cho anh, chính thức truyền dạy tu luyện Hồng giáo của Tạng mật cho anh. Sau khi truyền thụ một số Pháp lý tu luyện cơ bản của Tạng mật, [tôi] đưa anh ta vào một sơn động bế quan khổ tu, tụng kinh, hối lỗi nghiệp tội. 13 năm sau, tôi lại truyền dạy phương pháp tu định Hồng giáo Mật tông cho Pháp Hoàng Tử—[gọi là] Chuyết hỏa định. 30 năm sau, có một lần tôi đả tọa tu định, nhìn thấy Pháp Hoàng Tử ác nghiệp đầy người, không lâu nữa sẽ rời khỏi thế gian. Vài ngày sau, Pháp Hoàng Tử xuất hiện bệnh trạng nghiêm trọng, trong khi đi ăn xin ở dưới núi, đã gặp phải cướp rồi vô tình mất mạng.

Tiếp đó, Pháp Hoàng Tử chuyển sinh đến một gia đình dân du mục ở Tây Tạng, đợi đến khi Pháp Hoàng Tử 7 tuổi, tôi đón anh về tu viện Hồng giáo để tiếp tục tu luyện. Do tôi chỉ định một vị đại lạt-ma dạy chữ cho anh, học tập kinh điển của Tạng mật, tuy nhiên các kiếp sống trước đây của anh đã tạo nghiệp to lớn, sau khi thành niên rồi vẫn khổ tu ở trong sơn động, cả đời khổ tu cho đến khi hết thọ mệnh. Đời thứ ba Pháp Hoàng Tử chuyển sinh để tiếp tục tu luyện, và vẫn như thế, khổ tu ở trong sơn động, thuận theo thọ mệnh trời định. Tôi cùng các đại lạt-ma dùng Phật Pháp thần thông để quan trắc sự nghiệp cứu độ chúng sinh trong tương lai ở Tạng địa, thấy được tương lai 33 năm sau sẽ có dị tộc tà giáo xâm lược khu vực Tây Tạng, làm hại chúng sinh. Pháp Hoàng Tử chuyển sinh đến làm con trưởng trong một gia đình hoàng tộc ở Thổ Phồn, do một vị đại lạt-ma phụ trách truyền dạy cho anh công phu bộ hạ, mã thượng, học tập phương pháp bài binh bố trận, đồng thời cũng học tập một số kinh điển Tạng mật. 33 năm sau, năm Mộc Thử của lịch Tây Tạng, Pháp Hoàng Tử đánh bại kẻ địch xâm lược dị tộc, cuộc chiến này đã mang lại 480 năm thái bình thịnh vượng cho khu vực Tây Tạng. Vài năm sau Pháp Hoàng Tử mắc trọng bệnh, rời khỏi nhân thế, đại lạt-ma dẫn đạo vong linh của anh chuyển thế, tiếp tục lịch trình tu luyện.

Dưới đất thềm lục địa trái đất nơi chúng ta sinh sống cũng có nhân loại, chỉ là hình dáng lớn nhỏ có sự khác biệt với nhân loại chúng ta. Bề mặt lục địa dưới chân chúng ta có [chằng chịt như mạng nhện] các đường thông đạo xuống lòng đất ở bên dưới, các lạt-ma Tây Tạng ở các thời đại trước nắm rõ được cánh cửa mạch thông đến thế giới dưới lòng đất tại núi Himalaya. Vào thời cổ đại những người dưới lòng đất thường họp mặt định kỳ với các lạt-ma tại miệng thông đạo đưa đến thế giới lòng đất ở giữa các rặng núi, đôi khi những người dưới lòng đất sẽ xin thức ăn từ các lạt-ma. Người lòng đất đặc biệt thích ăn thịt bò y-ắc (giống bò ở vùng Thanh Hải-Tây Tạng); để báo đáp lại, những người dưới lòng đất sẽ tặng các lạt-ma một túi vàng thỏi quặng, có khi nặng đến trên 100 cân (1 cân là 0,5 kg); đây là những thứ họ phát hiện được ở dưới đất, vàng thỏi đối với họ mà nói là không có ý nghĩa gì cả. Đa số những người dưới lòng đất sống dựa trên thị tộc duy trì mối quan hệ huyết duyên. Vào thời cận đại thì loại tiếp xúc này hầu như đã rất ít.

Dưới lòng đất có hồ nước, có dòng sông, các động vật máu nóng cổ xưa, có các thực vật lòng đất… Trên các truyền thông phim ảnh có một số các hồ nước dòng sông của khu vực con người xuất hiện quái thú. Đại đa số là bởi vì những hồ nước, dòng sông này tương thông với các hồ nước dòng sông ở dưới lòng đất. Sẽ có quái thú dưới lòng đất thông qua đường thủy tương thông để lên trên bề mặt, có khi vừa lên đến thì bị con người phát hiện.

Rất nhiều năm nữa lại trôi qua, trải qua bảy đời khổ tu trong Hồng giáo Tạng mật, tôi chuẩn bị viên mãn. Tôi triệu tập tất cả tín đồ, cư sĩ, lạt-ma trong Hồng giáo lại, tổ chức lần Pháp hội cuối cùng của tôi trong kiếp sống này.

Trước lúc mọi người đến, tôi cho triệu Pháp Hoàng Tử đến trước mặt rồi nói: “Trong tương lai, Phật Chủ Di Lặc vì lợi ích của chúng sinh vũ trụ sẽ chuyển sinh đến đất Hán, chuyển Đại Pháp Luân, phổ độ chúng sinh. Đến lúc đó nhân thế sẽ xuất hiện ma vương dẫn theo con cháu đội lốt người để làm loạn nhân gian, nguy hại chúng sinh. Anh và tôi là Giác Giả chính giác của Phật Pháp, nên trợ giúp Phật Chủ Di Lặc chuyển Đại Pháp Luân, Pháp chính càn khôn tại nhân gian. Dù có phải hy sinh sinh mệnh, cũng quyết không chùn bước. Anh còn phải khổ tu hai đời nữa mới có thể viên mãn được. Tôi đã hoàn thành lịch trình tu luyện Hồng giáo, không lâu nữa sẽ chuyển sinh đến đất Hán để làm một số chuẩn bị cho đại sự mai sau”. Pháp Hoàng Tử song thủ hợp thập nói: “Sẽ không phụ kỳ vọng của tôn giả”.

Sau đó Pháp Hoàng Tử lại trải qua hai đời khổ tu, tính tổng cộng là tám đời, hao tốn 538 năm để tu luyện viên mãn trong Hồng giáo.

Tôi cùng vị đồng tu này, chỉ riêng thời gian Pháp duyên thế gian đã bước qua trăm ngàn năm rồi. Tất cả các đệ tử Chính Pháp của chúng ta đã cùng nhau trải qua vô số tháng năm gian khổ, sinh tử cùng nhau, chưa từng từ bỏ nhau. Có lẽ với vô số các khảo nghiệm sinh tử mà chúng ta cùng đi qua đó, một số đồng tu ở trong mê đã phai nhòa đi, bị lịch sử phong bế trong ký ức xa xôi thăm thẳm, tuy nhiên những ký ức này sẽ không thật sự mất đi. Tôi trân trọng Pháp duyên trân quý vô tỷ với các đồng tu, chúng ta cần phải giúp đỡ các đồng tu đã mê mờ trong nhân thế. Họ đã từng cùng chúng ta trải qua vô số các tháng năm gian khổ, sinh tử có nhau. Chúng ta không thể bỏ rơi họ trong thời khắc lịch sử như thế này. Chúng ta hãy cùng tay trong tay trở về nơi thiên quốc quê nhà tốt đẹp vô tỷ đó. Mãi mãi sống trong thế giới huy hoàng thần thánh. Mãi mãi.

(Hết)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/60180

The post Bầu trời của lịch sử: Pháp duyên (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2013/03/bau-troi-cua-lich-su-phap-duyen-phan-2.html/feed0
Bầu trời của lịch sử: Pháp duyên (Phần 1)https://chanhkien.org/2013/03/bau-troi-cua-lich-su-phap-duyen-phan-1.htmlhttps://chanhkien.org/2013/03/bau-troi-cua-lich-su-phap-duyen-phan-1.html#respondSat, 02 Mar 2013 03:26:33 +0000http://chanhkien.org/?p=21500Trong lịch sử vũ trụ dài đằng đẵng, không một sinh mệnh nào thoát khỏi sự câu thúc của Pháp lý "thành-trụ-hoại-diệt" của vũ trụ cũ.

The post Bầu trời của lịch sử: Pháp duyên (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[Chanhkien.org] Trong lịch sử vũ trụ dài đằng đẵng, không một sinh mệnh nào thoát khỏi sự câu thúc của Pháp lý “thành-trụ-hoại-diệt” của vũ trụ cũ. Các vị Thần tại cảnh giới cao thấy được sự biến dị và bại hoại theo tháng năm dài đằng đẵng của các nhân tố vật chất ở tầng thứ của các sinh mệnh tại cảnh giới thấp mà lo lắng bất an. Không chỉ một vị Đại Giác Giả vì để cứu vãn chúng sinh của mình, vì để chứng ngộ Phật Pháp kim cương bất hoại đã liều mình trước nguy hiểm, đầu thai đến thế giới thập ác, [với mục đích] tôi luyện Phật Pháp “tối chính” để mang về thiên quốc của mình. Ngờ đâu nhân thế hiểm ác, chính mình cũng bị hủy tại nơi con người mà không về được nữa. Các vị Thiên Chủ, Như Lai tại các tầng thứ khác nhau đang không ngừng quan sát, suy nghĩ cách giải quyết căn bản với kiếp nạn cuối cùng mà chúng sinh trong vũ trụ đang phải cùng nhau đối diện.

Bấy giờ Sư tôn vĩ đại xuất hiện tại tầng cao của vũ trụ. Trong quá trình chuyển sinh đi xuống tại các tầng, đã khai truyền “Đại Giác chi Pháp” bất khả tư nghị tại các tầng khác nhau trong đại khung vũ trụ. Tuyệt đại đa số các Phật, Đạo, Thần vẫn đang không ngừng quan sát sự biến hóa, phát triển của thế cuộc. Một số Giác Giả quyết tâm trợ giúp Sư tôn chuyển động Pháp Luân, Pháp chính càn khôn tại nhân gian. Sư tôn xuống đến tầng thứ thiên thể vũ trụ [nơi] sinh mệnh tôi đang tồn tại, giảng một lần Pháp cho tất cả Đại Pháp Vương, Thiên Chủ tại tầng thứ đó của tôi. Sau khi nghe Sư tôn giảng Pháp xong, tôi càng hiểu rõ thêm nội hàm thâm sâu của sự tồn tại của sinh mệnh, quyết tâm trợ Sư Chính Pháp. Thế là tôi và bốn vị Đại Pháp Vương trong cảnh giới đó của tôi cùng theo Sư tôn đi xuống nhân thế. Khi xuống đến một nơi gọi là thế giới thiên quốc Đại Quang Minh, bên bờ núi xanh khe suối, trông thấy người con trai của Pháp Vương Như Lai ở cảnh giới đó đang khổ tâm nghĩ cách giải cứu kiếp nạn cho chúng sinh. Tôi liền bay đến bên cạnh của Pháp Hoàng Tử và nói với anh: “Phật Chủ sẽ giáng hạ xuống phàm, chuyển Đại Pháp Luân, phổ độ chúng sinh. Đây là cơ hội tốt nhất, tại sao không theo Phật Chủ cùng nhau đi xuống thế gian tôi luyện, đúc nên Pháp kim cương bất hoại?” Pháp Hoàng Tử không chút lưỡng lự, nói: “Mong được thượng thần dẫn kiến, bái kiến Phật Chủ, để bày tỏ tâm ý”. Tôi nói: “Hãy theo tôi”. Tôi và Pháp Hoàng Tử đi đến thiên cung Đại Minh Uyển của Sư tôn.

Sư tôn ngồi trên đài sen cao, Pháp tướng thần thánh trang nghiêm vô tỷ. Khấu đầu xong, tôi nói: “Thưa Phật Chủ, hai người chúng con nguyện cùng Ngài đi xuống nhân thế, trợ giúp Ngài hồng dương Phật Pháp, cứu độ chúng sinh”. “Hai người phải biết nhân thế hiểm ác, con đường gian khổ?” Tôi nói: “Hai người chúng con nguyện dựa vào Pháp lực của Phật Chủ, không sợ sống chết. Để bày tỏ quyết tâm, xin dùng thệ ước làm chứng”. Sư tôn từ bi nhìn chúng tôi, vẫy tay một cái, trước mắt liền xuất hiện hai chiếc bàn, trên bàn có hai cuộn giấy giống như lụa màu vàng. Tôi viết lên, thệ ước: “Một, dùng chính niệm để chứng thực Phật Pháp vĩ đại. Hai, nếu như có tà ác phá hoại Đại Pháp, nhất định sẽ dùng tính mạng để duy hộ, bảo vệ Pháp điển vĩ đại trang nghiêm. Ba, nếu có làm trái thệ ước, tất sẽ gặp ác báo hình thần toàn diệt”. Trong số các đệ tử Đại Pháp, một số đồng tu ở các tầng thứ thiên quốc khác nhau đã từng ký thệ ước với Sư tôn. Nội dung cơ bản không khác nhau nhiều, chỉ là trọng điểm không giống nhau.

Sau khi từ biệt Sư tôn, ra khỏi Đại Minh Uyển, Pháp Hoàng Tử nói với tôi: “Nhân thế gian nan hiểm ác, năm tháng dài đằng đẵng, nếu có mê mất cũng mong thượng thần gia hộ cho”. Tôi nói: “Tôi chắc chắn sẽ duy hộ, không để mê mất. Nếu như tôi có mê mờ trong nhân thế, cũng hy vọng Pháp Hoàng Tử cứu tôi khỏi phút sinh tử”. Pháp Hoàng Tử nói: “Tôi chắc chắn cũng phải dùng sinh mệnh để duy hộ”.

Pháp Hoàng Tử sắp phải đi xuống, Như Lai và chúng Thần thân thiết nơi thiên quốc Đại Quang Minh lưu luyến không nỡ, lệ tuôn đầy mặt, sợ rằng lần ly biệt này sẽ không còn ngày gặp lại Pháp Hoàng Tử. Pháp Hoàng Tử nhìn chúng Thần kiên định mà nói: “Tôi nhất định sẽ trở về, đây là một hạt giống Thiên diệp cúc, khi cánh hoa màu vàng thứ 1.000 của Thiên diệp cúc khai nở, thì chính là thời khắc tôi sẽ trở về!” Nói xong bèn mang hạt giống Thiên diệp cúc để vào trong đất của thiên quốc, rồi kiên quyết quay lưng đi xuống. Hai người chúng tôi cùng chúng Thần theo Sư tôn tiếp tục đi xuống nhân thế. Quá trình từ thiên quốc đi xuống đến tam giới, dùng quan niệm thời gian của con người cũng là tháng năm cực kỳ dài đằng đẵng không cách nào hình dung được.

Khoảng 67 triệu năm trước, quỹ đạo vận hành của trái đất không phải như hiện nay, nó gần với mặt trời hơn, nhiệt độ trên trái đất hàng năm cao hơn, nhiệt độ bề mặt bình quân hàng năm là 45 độ C trở lên. Khi đó nhân loại đa số là sống trong các hang động hoặc trong lòng đất. Thềm lục địa cũng không phải hình dáng như hiện nay. Khi đó bắc bán cầu của trái đất có hai thềm lục địa lớn chủ yếu, là nơi cư ngụ của tộc người khổng lồ, dáng người trông khoảng 3 mét. Còn nam bán cầu có bốn thềm lục địa, đa số là do người tầm trung, người thấp bé cư ngụ, ở giữa nam bắc bán cầu còn có một số hòn đảo và quần đảo với hình thù to lớn. Do đó cự nhân, trung nhân, tiểu nhân sống xen kẽ với nhau.

Động, thực vật trên lục địa có sự khác biệt to lớn so với các động thực vật đang tồn tại trên trái đất hiện nay. Khoảng 67 triệu năm trước, trên lục địa, trên bầu trời, trong lòng biển của trái đất có đầy các loại hình quần thể khủng long. Thực vật trên lục địa chủ yếu là các loại cây lớn nhiệt đới và tảo. Trái đất vào lúc đó đã từng là khu vườn lạc thú của loài khủng long. Trong lòng đại dương cũng có mấy chủng nhân loại. Khi đó chủng tộc mỹ nhân ngư đã tồn tại ở trong lòng đại dương. Dưới biển còn có một loại nhân ngư, tính tình hung tàn. Có cả hai loại hệ thống hô hấp bằng phổi và bằng mang, bề mặt thân thể phủ chi chít vảy, màu xám thép. Hai con mắt ở phần đầu chiếm 1/3 khuôn mặt, phần mũi có 2 lỗ, miệng giống như của cá chép, ở trong trải đầy các răng sắc nhọn, dáng cao gần 2 mét. Có màng giữa các ngón tay, và chân. Loại nhân ngư này thường xuyên bò lên mặt đất để ăn thịt [chủng] người tầm trung và các loại khủng long ở lục địa. Vũ khí của chúng là xương sườn của các di hài động vật khổng lồ được mài sắc. Tại hai thềm lục địa lớn của bắc bán cầu, nơi chủng người khổng lồ tập trung sống chủ yếu, có 13 quốc gia vương quốc, khi đó tôi sống tại vương quốc tộc người khổng lồ ở vùng phía đông nhất. Vì [là nơi] thấy mặt trời sớm nhất, nên quốc gia này được gọi là Thái Dương chi quốc, có 13 loại tín ngưỡng tôn giáo trong 4 quốc gia. Do bất đồng tín ngường mà thường xuyên xảy ra chiến tranh.

Theo tập tục khi đó, ngay từ lúc còn nhỏ (mới bỏ sữa mẹ), tôi đã được Đại Tế tư của Thái Dương quốc lựa chọn, tiến hành học tập tôn giáo, tu luyện, đồng thời làm người kế tục của ông. Tác dụng của Đại Tế tư là quan sát thiên tượng, dự đoán thịnh suy của quốc gia, dự báo thiên tai tự nhiên, phụ tá quốc vương, lấy đức trị quốc, thừa tiếp Thiên ý, giáo hóa dân chúng, khôi phục nguyên khí. Trải qua 35 năm gian khổ độc tu trong tôn giáo, tôi tiến nhập vào trạng thái tiệm ngộ cao độ, chiếu theo Thiên ý, bắt đầu hồng dương Phật Pháp. Phật Pháp mà tôi chứng ngộ, hồng dương có tên là Pháp Đại Nhật Giác. Trên dưới người dân trong Thái Dương quốc, bao gồm cả quốc vương đều là tín đồ của Phật Pháp. Các chiến sĩ của bộ tộc thống nhất việc ăn ở, thống nhất kỹ năng luyện tập quân sự, cũng thống nhất tiến hành tu luyện tôn giáo, giống như là các võ tăng Thiếu Lâm thời xưa vậy, quyền thiền hợp nhất. Quốc vương của Thái Dương quốc, Hakan Achilles (đứa con của chúng Thần) thường xuyên mời tôi đến hoàng cung để cùng với các chúng đại thần nghe tôi tuyên giảng Phật Pháp, người quốc vương này chính là vị Pháp Hoàng Tử của thế giới Đại Quang Minh đã nói đến ở trên. Có một khoảng thời gian, tôi vào cung nhiều lần trông thấy Hakan Achilles bỏ bê triều chính, suốt ngày lấy rượu làm niềm vui, thấy vậy tôi đã nói với quốc vương Thái Dương quốc: “Thưa đại vương, những tháng ngày qua, ý chí của ngài sao lại chùng xuống. Ban đêm tôi quan sát thiên văn, thấy được quốc gia tà giáo Tư Mễ Đảo đang liên kết với các vương quốc lân cận có ý đồ đại quy mô xâm chiếm nước ta, không biết đại vương đã có dự tính gì chưa?” Hakan Achilles cười nói: “Nước chúng ta quốc phú dân cường, chiến sĩ quân đội dũng mãnh, người Tư Mễ Đảo sao dám đến tấn công, ta đã chán mệt với việc đánh nhau chém giết, nên an hưởng sự phồn hoa thịnh vượng”.

Tôi nói: “Hạnh phúc của một người đối với bản thân anh ta mà nói là rất quan trọng, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều người đang bị tà giáo mê hoặc. Sự sống chết giống như một con cừu lạc treo trên dây, trời cao đã giao phó cho đại vương trách nhiệm lịch sử vĩ đại, đại vương cần phải cứu chúng sinh thiên hạ trước cơn nước sôi lửa bỏng. Giữa hạnh phúc cá nhân và lợi ích của chúng sinh thiên hạ đại vương cần phải có sự lựa chọn, hy vọng đại vương hãy lấy chúng sinh thiên hạ làm trọng, tu kỷ trị quốc, vì chúng sinh thiên hạ mà khai sáng cơ nghiệp thiên cổ, vĩnh viễn vui hưởng thái bình thịnh vượng”. Quốc vương Thái Dương mặt đầy nét hổ thẹn, nói: “Ta nhất định sẽ ghi nhớ lời nói của ông, vì để dân chúng thiên hạ hạnh phúc vĩnh cửu, ta sẽ cống hiến mọi thứ của ta”. Từ đó, quốc vương Thái Dương quốc Hakan Achilles nghiêm khắc với chính mình, chăm lo trị quốc, toàn lực tận tâm trị vì đất nước, trải qua cố gắng gian khổ đã đánh bại liên minh của tà ác, thống nhất được hai thềm lục địa của tộc người khổng lồ.

Sau khi tất cả chiến sự kết thúc, Hakan Achilles, vị vua của quốc gia người khổng lồ đứng trên đỉnh của một ngọn núi, ngón tay chỉ về phía đường chân trời xa xôi và nói với tôi: “Những vùng đất mà ta đã đi qua, tất cả quốc thổ của ta, đều là những nơi ông sẽ hồng dương Phật Pháp. Nếu như cần sự giúp đỡ, ta sẽ toàn tâm tận sức. Ta trao quyền cho ông, hãy giáo hóa muôn dân của ta nhé!” Tôi nói: “Thưa đại vương, tôi nhất định không phụ sứ mệnh….” Bảy nghìn năm sau, Phật Pháp mà tôi hồng truyền đi vào thời kỳ mạt pháp.

Một buổi sáng yên bình, khi con người mới thức dậy sau giấc ngủ say, giữa bầu trời con thằn lằn bay đang vươn đôi cánh dài gần 10 mét kèm theo tiếng kêu chói tai nhằm về phía con mồi. Trong khu rừng lá rộng nhiệt đới một con kiếm long đang dẫn theo con nhỏ của nó uống nước bên dòng nước yên tĩnh, không xa đó một con khủng long bạo chúa háu ăn đang nhăm nhe mẹ con của kiếm long. Bất chợt từ nơi xa truyền đến một loại âm thanh đặc biệt, âm vang, tất cả đám khủng long trong rừng đều vểnh tai lên hướng về nơi mà âm thanh truyền đến, mọi người sợ hãi ngẩng đầu nhìn về nơi góc trời; một tiểu hành tinh với đường kính 25 km (bằng với một thành phố nhỏ) mang theo âm thanh ầm ầm dữ dội do sự ma sát với không khí phát ra, đang đâm vào trái đất với tốc độ 30 km/giây. Không lâu sau truyền đến một tiếng nổ lớn kinh thiên động địa, toàn bộ trái đất đều đang rung chuyển. Trái đất bị đâm lệch khỏi quỹ đạo vốn có, bay xa ra khỏi mặt trời. Sau khi tiểu hành tinh này đâm trúng trái đất, cùng với sự va đập của tiểu hành tinh, mấy thềm lục địa lập tức chìm xuống đáy biển. Sau va chạm các mảnh vụn của đá, bụi, cộng thêm nước biển bị khí hóa đã hình thành nên một đám mây hình nấm khổng lồ, không ngừng, không ngừng dâng cao bao phủ cả bề mặt của trái đất, che lấp ánh mặt trời, trái đất rơi vào trong đêm tối. Đồng thời cơn sóng thần khổng lồ cao đến 5 km, cuốn quanh cả trái đất, tiếp theo đó là các trận mưa lớn không ngớt liên tục cả mấy ngày. Đáng sợ hơn nữa chính là do sự va chạm của tiểu hành tinh đưa đến đại biến động của lớp vỏ trái đất và thềm lục địa. Một số hòn đảo lục địa chìm xuống đại dương. Một số lục địa dưới biển vụt khỏi mặt biển hướng thẳng lên trời theo lực va chạm của tiểu hành tinh. Đại dương trước đây biến thành lục địa, còn lục địa trước đây cùng tất cả sinh mệnh, văn minh trên bề mặt của nó chìm sâu xuống dưới biển. Do thềm lục địa và vỏ trái đất không ổn định, không ngừng dịch chuyển, sự va chạm đã đưa đến vô số sự phun trào liên tục của các núi lửa lớn nhỏ, trái đất khói bụi cuồn cuộn cả ngày, tay giơ ra không thấy được 5 ngón. Tro núi lửa dày đặc bốc lên bao phủ cả bề mặt trái đất, tình trạng này kéo dài 32 năm. Do trên trái đất không có đủ ánh sáng mặt trời, các động thực vật gần như là chết hết, loài khủng long cũng do đó mà dần dần tuyệt chủng, trái đất bước vào thời kỳ băng hà. Và như vậy nhân loại của thời kỳ này đi đến sự kết thúc. Những người còn sống sót bước vào một thời kỳ văn minh tiếp theo.

Trong quá trình đại biến động của thềm lục địa, một ngọn núi nằm kề bờ biển ở dưới đáy biển đã nhô lên khỏi mặt biển hơn 8.000 mét, vùng bờ biển đó kết hợp với lục địa vươn cao lên mấy ngàn mét so với mực nước biển. Nhân loại ngày nay của chúng ta gọi ngọn núi ấy là núi Chomolungma, còn cao nguyên do vùng bờ biển ấy hình thành gọi là cao nguyên Thanh Tạng.

(còn tiếp…)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/60179

The post Bầu trời của lịch sử: Pháp duyên (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2013/03/bau-troi-cua-lich-su-phap-duyen-phan-1.html/feed0
Bầu trời của lịch sử: Luyện tốt động tĩnh cônghttps://chanhkien.org/2013/02/bau-troi-cua-lich-su-luyen-tot-dong-tinh-cong.htmlhttps://chanhkien.org/2013/02/bau-troi-cua-lich-su-luyen-tot-dong-tinh-cong.html#respondSat, 23 Feb 2013 01:44:38 +0000http://chanhkien.org/?p=21541Trong thời gian dài, tôi để ý có đồng tu cá biệt bên cạnh mỗi ngày không thể kiên trì luyện tốt động tĩnh công, xuất hiện nhục thân suy lão ở các mức độ khác nhau.

The post Bầu trời của lịch sử: Luyện tốt động tĩnh công first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[ChanhKien.org] Trong thời gian dài, tôi để ý có đồng tu cá biệt bên cạnh mỗi ngày không thể kiên trì luyện tốt động tĩnh công, xuất hiện nhục thân suy lão ở các mức độ khác nhau, cũng có đồng tu trường kỳ gặp nghiệp bệnh can nhiễu. Tuy loại trạng thái không đúng đắn này có rất nhiều nguyên nhân, nhưng không thể kiên trì luyện tốt năm bài công pháp rõ ràng là một nguyên nhân. Bởi vậy tôi muốn cùng các đồng tu giao lưu thể hội tu luyện về luyện năm bài công pháp, có thiếu sót gì, xin từ bi chỉ giúp.

Trong «Đại Viên Mãn Pháp», Sư tôn giảng:

“Không tu tâm tính, chỉ luyện động tác thì không thể tăng công; chỉ tu tâm mà không luyện Đại Viên Mãn Pháp, thì công lực bị [ngăn] trở, và không cách nào cải biến được bản thể.”

Trong thực tiễn tu luyện, tôi ngộ ra rằng nếu như lười biếng luyện công, thì nhục thân dễ dàng mệt mỏi, từ không gian khác mà nhìn, Pháp tại cảnh giới tu luyện của tôi triển hiện là: Do thân ở trong xã hội người thường, chịu ô nhiễm của quan niệm đạo đức biến dị của người thường, mỗi ngày qua cảm quan mà hữu ý hoặc vô ý tiếp thụ, tích tồn vật chất bất hảo, thất tình lục dục của người thường, can nhiễu của quan niệm đạo đức biến dị và tà linh không gian khác khiến thân thể vật chất cấu thành từ các lạp tử khác nhau trong tam giới vốn chưa đồng hóa với Pháp bị ô nhiễm rất nghiêm trọng. Nếu không thể kiên trì học Pháp, luyện công mỗi ngày, hoặc học Pháp không nhập tâm, thì dần dần các nhân tố ô nhiễm này tích lại ngày càng nhiều, trường vật chất không gian khác đối ứng với nhục thân con người trông như một bãi rác, bẩn thỉu dơ dáy, từ tầng thấp của thiên mục mà nhìn thì loại trường vật chất này chứa đầy âm khí, quỷ khí xanh đen. Người tu luyện như thế rất dễ gặp can nhiễu của loạn Pháp lạn quỷ hoặc bức hại nghiệp bệnh.

Thông qua học Pháp tôi ngộ được rằng, nhục thân là Pháp khí chứng thực Pháp cứu độ chúng sinh mà Đại Pháp cấp cho người tu luyện, không thuộc về sở hữu cá nhân. Đệ tử Chính Pháp là đại biểu vô lượng chúng sinh tại vô số thể hệ tầng thứ vũ trụ đến thế gian đồng hóa Đại Pháp, dựa vào uy đức vô biên cứu độ chúng sinh của Phật Pháp, vì thế làm người tu luyện phải tu Thiện cái thân, nghiêm khắc yêu cầu mỗi lời nói mỗi hành vi của bản thân.

Trong một đoạn thời gian, do yêu cầu công tác, tôi phải luân phiên trực đêm, 8 giờ sáng tan ca mới về nhà, về nhà trước tiên luyện bài công pháp thứ hai. Thường rất buồn ngủ, nhưng tôi ngậm chặt hàm răng, quyết không dao động, niệm chín lần câu “nan nhẫn năng nhẫn, nan hành năng hành” của Sư tôn, không ngừng niệm không ngừng niệm. Có lần luyện công cực kỳ buồn ngủ, vừa niệm Pháp xong liền nhìn thấy một con tà linh mặt đỏ chân trần, mình khoác bào đen, đầu tóc rối bời, tay cầm một bát hương sắt màu đen, không ngừng thổi hương về phía tôi, muốn dùng “mê hương” để khiến tôi mê man. Nhưng tôi hễ niệm Pháp, thân thể phóng ra vạn đạo kim quang, tà linh mặt đỏ lập tức rút lui rất xa, quanh quẩn bên ngoài trường không gian của tôi mà không chịu đi. Tôi tiếp tục niệm Pháp, Pháp thân Sư tôn huơ tay một cái, tà linh biến mất vô ảnh vô tung. Quá trình này kéo dài khoảng 10 phút. Luyện công xong, tôi ngủ khoảng 3 tiếng, tỉnh dậy đầu não thanh tỉnh, sinh lực tràn trề, so với ngủ một đêm còn phấn chấn hơn.

Sư tôn giảng:

“Chư vị đã từng nghĩ chưa, tu luyện chính là sự nghỉ ngơi tốt nhất. Loại nghỉ ngơi mà có thể đạt đến [trạng thái] mà chư vị ngủ cũng không đạt được, không có ai nói rằng tôi luyện công mệt quá, hôm nay không làm được gì cả.”. (Giảng Pháp tại Pháp hội Bắc Mỹ lần đầu [1998])

Tôi luyện công thường bão luân (ôm Pháp Luân) 2 tiếng đồng hồ, da dẻ bề mặt nhục thân trở nên rất mịn, đồng tu nói da tôi nhẵn bóng như đồ gốm vậy, hơn nữa thể lực tốt phi thường, hai tay có thể nhẹ nhàng xách vật nặng 240 cân (1 cân = 0,5 kg), đôi vai có thể gánh vật nặng 300 cân không trở ngại. Đồng thời do xem nhẹ tình cảm nam nữ, giữ chắc khí tinh huyết, nên thường 5, 6 ngày không ăn không uống, có lúc mười mấy ngày không ăn uống gì, mà công tác, sinh hoạt hết thảy đều bình thường. Cảm giác thân thể nhẹ nhõm bay bổng, tư tưởng thuần tịnh, tư duy sắc bén, lúc phát chính niệm đả xuất ra công, công năng uy lực rất lớn, công năng Đại Pháp cấp cho vận dụng càng đầy đủ, như ý.

Trong quá trình không ngừng học Pháp tu tâm hướng nội tìm, định lực cũng tùy theo tâm tính đề cao mà không ngừng tăng trưởng, luyện “Đại Viên Mãn Pháp” bài công pháp thứ năm, cố gắng kéo dài thời gian đả tọa hết mức, có lúc một đêm luyện hai lần tĩnh công. Trong định, luyện công lúc đầu “thấy” nhục thân giống như hoàn toàn do vật chất như nước cấu thành; sau khi đề cao tâm tính, “thấy” nhục thân và thế gian hết thảy tựa như do vật chất như “sương mù” cấu thành; từ trạng thái cao hơn nữa thấy vật chất hết thảy sinh mệnh trên thế gian là Pháp lý do Pháp vũ trụ tại một tầng thứ nhất định triển hiện —các nhân tố vật chất chính phụ đối ứng tạo thành.

Tăng cường luyện bài công pháp thứ năm —Thần Thông Gia Trì pháp, thể hiện rõ ràng nhất là bình thường tâm thái từ bi hòa ái, tạp niệm trong tư tưởng rất ít. Có lúc thể hiện trong hoàn cảnh công tác sinh hoạt ở xã hội người thường, một số đồng tu hoặc đồng sự trong công tác có chuyện tìm tôi, nhưng gặp mặt xong, thường không nghĩ ra phải nói gì nữa, một lúc mới nhớ ra. Có một vị nam đồng tu do nguyên nhân trạng thái tu luyện cá nhân, phát chính niệm rất ít khi thực sự nhập tĩnh nhập định; một lần tôi phát chính niệm cùng anh, phát chính niệm xong, anh nói: “Phát chính niệm cùng anh cảm giác thật tốt, vừa bắt đầu phát chính niệm, thì tay, thân thể đã định lại không động đậy nữa, tư tưởng an tĩnh tường hòa không có tạp niệm, một mạch đến khi kết thúc, cực kỳ mỹ diệu, cảm giác định thật là hay quá…”

Tôi từng gặp một vị nữ đồng tu trung niên, chân bị bệnh nghiệp can nhiễu gần nửa năm, tư thế đi đường rất bất bình thường, cũng can nhiễu bà chứng thực Pháp, cứu độ chúng sinh. Tôi cùng bà giao lưu về vấn đề này, cùng nhau hướng nội tìm, sau đó cùng phát chính niệm thanh lý can nhiễu nghiệp bệnh, liên tục phát chính niệm 1 giờ đồng hồ, sau đó đồng tu xuống giường thử đi mấy bước, mặt đầy vui sướng nói: “Trời ơi, thần kỳ quá, chân tôi khỏi rồi!” Tôi nói: “Đây là uy lực của Đại Pháp”.

Trong khoảng thời gian đi công tác phía Nam, tôi gặp một vị nam đồng tu trẻ tuổi đã quen nhau từ trước. Anh đắc Pháp năm 1999, sau ngày 20/7, do bức hại của tà ác đã mất đi hoàn cảnh tu luyện, cộng thêm cơ sở tu luyện cá nhân tương đối yếu kém, đến thành phố cải cách mở cửa miền duyên hải này, bị cuốn theo dòng, lẫn lộn với người thường, nam nữ loạn tính tạo nghiệp nghiêm trọng. Sau khi giao lưu cùng anh, đồng tu kiên quyết trở về con đường tu luyện, thế nhưng tôi dùng công năng thấu thị nhìn thấy do tạo nghiệp nghiêm trọng, hệ thống tiết niệu của anh bị lây nhiễm nghiêm trọng, hai bên tạng thận xuất hiện chứng viêm phù thũng, một bên tạng thận sưng phù rất nghiêm trọng, tạng gan có chứng viêm, cũng xuất hiện phù thũng, virus trong máu nồng độ rất cao, biểu hiện bề ngoài là lớp màng khoang miệng lở loét diện tích lớn. Hướng vào không gian thâm sâu đối ứng với thân thể anh mà nhìn, nghiệp lực như đám mây đen sắp trút cơn mưa lớn, che khuất mặt trời, rất nhiều âm linh tương tự quỷ hút máu có cánh trong truyền thuyết Tây phương đang bay lượn khắp bầu trời mặt đất. Âm linh da màu trắng xám, hai mắt đỏ đen, bốn chiếc răng nanh nhọn hoắt chìa ra ngoài môi, lại phát ra tiếng rít chói tai, có âm linh đang gặm rỉa thân xác của sinh mệnh hình người trong không gian ấy. Tôi nói qua với anh cảnh tượng đáng sợ mà tôi nhìn thấy, đồng tu nghe xong rất lo lắng, hỏi tôi: “Làm sao bây giờ?” Tôi đáp: “Chỉ có chân tu! Chỉ có chân tu!…”

Thông qua bàn bạc, chúng tôi cùng nhau thuê một căn nhà trọ, mỗi ngày học ít nhất một bài giảng Pháp, mỗi giờ phát chính niệm một lần, bão luân 2 tiếng đồng hồ, cùng nhau luyện tĩnh công 1 tiếng trở lên. Nam đồng tu ngoài lúc công tác ra, thời gian còn lại đều dùng vào học Pháp hướng nội tìm, tăng cường tu luyện Đại Pháp động tĩnh công.

Đồng tu không ngừng tinh tấn đề cao trong Pháp, khi tôi bão luân cùng anh, nhìn thấy trong các không gian khác nhau đối ứng với nhục thân của đồng tu, thỉnh thoảng có một “anh” khác do nghiệp lực cấu thành chết đi, dần dần tiêu tán trong đám mây đen rợp trời cấu thành bởi nghiệp lực. Khi đồng tu đọc nhẩm Pháp, trong tư tưởng đồng tu phát xuất Pháp Luân lớn, phân thể thành vô số Pháp Luân nhỏ màu vàng kim, không ngừng tiêu diệt đám âm linh “quỷ hút máu” với đôi cánh dài, vô số âm linh bị thiêu cháy rớt xác từ không trung. Dần dần, trường không gian của đồng tu trở thành sáng sủa, thế giới hắc ám với nghiệp lực cuồn cuộn cùng sự quy chính của đồng tu đã trở nên đẹp đẽ với những rặng núi xanh mướt, những dòng sông êm đềm, hiền hòa, ánh sáng chiếu rọi khắp mặt đất, một cảnh tượng phồn vinh thịnh vượng. Chỉ trong vòng mấy tháng, sắc mặt đồng tu từ xanh đen trở nên hồng hào, thể lực suy nhược trở nên cường tráng, thân thể cao 1,8 mét từ cân nặng 70 kg tăng lên gần 100 kg.

Hiện giờ nam đồng tu bão luân đã lên tới 4 tiếng đồng hồ, tại công ty anh công tác, từ tổng giám đốc tới nhân viên gần như đã toàn bộ tam thoái. Có đồng nghiệp còn đặc biệt mời đồng tu về nhà, giúp người nhà tam thoái; một nữ đồng sự của anh không chỉ tự mình tam thoái, mà còn dùng lý giải của bản thân khuyên mười mấy người tam thoái.

Từ lý của thế gian tam giới mà giảng, trong các ngành các nghề của xã hội, nhân tài là tại công tác, còn thiên tài là do tạo hóa. Là đệ tử Chính Pháp, Sư tôn đã dẫn chúng ta một mạch “khai sáng” tương lai của vũ trụ mới, tu luyện của mỗi vị đệ tử Chính Pháp chính là đặt định, gây dựng hoàn cảnh, phương thức sinh tồn của vô lượng chúng sinh trong tương lai vĩnh cửu, ý nghĩa tu luyện của đệ tử Chính Pháp có ảnh hưởng vô cùng vĩ đại và sâu xa. Cuối cùng xin trích giảng Pháp của Sư tôn để chúng ta cùng nhau nỗ lực:

“Chỉ có học Pháp tu tâm, thêm vào đó phương tiện viên mãn là luyện công nữa, thật sự thay đổi chính mình từ căn bản, tâm tính đang đề cao, tầng thứ đang đề cao, đó mới là tu luyện chân chính.” (“Thế nào là tu luyện”, Tinh Tấn Yếu Chỉ)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/114325

The post Bầu trời của lịch sử: Luyện tốt động tĩnh công first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2013/02/bau-troi-cua-lich-su-luyen-tot-dong-tinh-cong.html/feed0
Bầu trời của lịch sử: Thiên quốchttps://chanhkien.org/2013/02/bau-troi-cua-lich-su-thien-quoc.htmlhttps://chanhkien.org/2013/02/bau-troi-cua-lich-su-thien-quoc.html#respondSat, 09 Feb 2013 15:00:42 +0000http://chanhkien.org/?p=21481Thiên quốc của Thần là thế giới vô cùng phồn vinh, thần thánh, trang nghiêm.

The post Bầu trời của lịch sử: Thiên quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[Chanhkien.org] Thiên quốc của Thần là thế giới vô cùng phồn vinh, thần thánh, trang nghiêm. Dùng ngôn ngữ của bất kỳ một ai cũng không thể biểu đạt được một cách chính xác sự tốt đẹp trên thế giới của Thần.

Thế giới thiên quốc có quy định nghiêm ngặt, chúng sinh căn cứ theo cảnh giới, quả vị của chính mình mà phải gánh vác những trách nhiệm tương ứng trên thế giới thiên quốc, luôn tận hết sức để làm tốt vai trò của bản thân, vì để duy hộ hình thức biểu hiện cụ thể của Pháp tại cảnh giới đó, vì sự hạnh phúc của chúng sinh thiên quốc, mà cống hiến mọi thứ của mình một cách không tư lợi. Trong đại khung vũ trụ có vô số thế giới thiên quốc. Bởi vì cảnh giới khác biệt, lạp tử vi quan cấu thành không giống nhau, nên hình thức diễn hóa tồn tại của vật chất, phương thức tồn tại của sinh mệnh trong các thế giới thiên quốc tại các tầng khác nhau cũng có sự chệnh lệch rất lớn.

Trong một lần trao đổi thể hội tu luyện với một vị đồng tu, đồng tu đó hỏi tôi rằng: Thiên quốc của đệ tử Đại Pháp tu luyện thời Chính Pháp là như thế nào? Tôi nói: Thực chất thì chân tướng vốn có [của nó], cảnh giới hiện tại là không nhìn thấy được, tuy nhiên Pháp tại cảnh giới tu luyện của tôi có thể là có những điều triển hiện. Thế là tôi tịnh tâm lại, dùng công năng để nhìn về không gian vi quan đối ứng với cơ thể được cấu thành từ lạp tử vi quan ở không gian khác của đồng tu, vượt xuyên qua tầng tầng các thời không, rồi nhìn thấy được thế giới thiên quốc của đồng tu.

Đó là một thế giới hoàn toàn được cấu thành bởi bạch kim. Tại tiên cảnh thiên quốc, mặt đất trải đầy các sắc màu ngọc bích, những cánh đồng cỏ ngọc bích, mênh mông vô tận, tựa như một khối bảo thạch màu xanh, phát sáng lấp lánh, phía trên nở đầy các loại hoa tươi đủ màu sắc. Không khí hết sức trong lành. Xa xa là các ngọn núi trùng điệp, những khu rừng với rất nhiều cây cối xanh tươi. Dòng sông tựa như một dây đai bằng ngọc, khảm trên mặt đất bao la. Ở giữa rừng, các chú sóc đang rượt đuổi nhau tạo nên sự huyên náo, [chúng] nhảy từ cành cây này sang cành cây khác. Trên bầu trời, một bầy những chú chim lông dài mà ở thế gian không có đang bay lướt qua, chúng phát ra những tiếng kêu êm tai, màu sắc là màu vàng kim, nhưng thân thể lại là trong suốt. Thông qua vật thể từ bên này đều có thể nhìn thấy được vật thể ở phía bên kia.

Xa xa ở giữa bầu trời truyền đến từng đợt những giọng hát du dương, thuận theo tiếng hát ấy mà nhìn, là mấy ngàn chúng Thần thiên quốc đang ca hát ở giữa một kiến trúc to lớn tương tự như miếu thần của Hy Lạp. Thần điện này là do những tinh thể bạch ngọc xếp đặt nên, cửa chính có 7 cột trụ bạch ngọc to lớn từ nóc nhà đến phía dưới mặt đất. Trên cột trụ có khắc các hoa văn tinh tế. Hình tượng của chúng Thần là cách ăn mặc của La Mã cổ đại. Tóc là màu nâu nhạt. Thân thể quấn một miếng vải trắng tựa như tơ lụa, rất có quy cách, phát ra ánh sáng rực rỡ như pha lê. Hình tướng đều là khoảng 20 tuổi, làn da cực kỳ trắng mịn, khuôn mặt cũng hết sức xinh đẹp. Tóc của các vị Thần mang hình tượng nam tính là tóc ngắn hơi quăn, còn tóc của các vị Thần mang hình tương nữ tính đều là tóc dài, búi lên. Giai điệu của giọng hát rất uyển chuyển và du dương.

……

Vương [chủ] của tôi, Ngài hãy mau trở về.
Ngài còn nhớ chăng những đóa hoa tươi nở rộ nơi thế giới của chúng ta?
Ngài còn nhớ chăng nụ cười của chúng tôi?
Chúng tôi nhớ Ngài lắm.
Vương [chủ] của chúng tôi, Ngài hãy mau trở về.
Ngài còn nhớ chăng lời Ngài đã nói trước lúc chia tay;
Ngài còn nhớ chăng con đường Ngài đã đi qua.
Vì sự hạnh phúc của thiên quốc,
Ngài đã chịu tận nỗi khổ ở trên đời, chịu tận nỗi khổ ở trên đời.
Vì chân lý của vũ trụ,
Ngài đã không màng sống chết, không màng sống chết.
Vương [chủ] vĩ đại ơi,
Ngài có biết rằng chúng tôi ngày đêm mong nhớ Ngài.

……

Chúng Thần của thiên quốc gọi tên ca khúc này là “Vương giả quy lai”.

Hoàng cung to lớn và hoa lệ trải dài cả mấy chục dặm, bên trong có các hồ nước, có đồi xanh, có những dòng suối phun trào… Phong cách tương tự như phong cách kiến trúc của La Mã cổ, cực kỳ hùng vĩ và tráng lệ.

Xung quanh hoàng cung có phát ra các tia bức xạ, chúng sinh thiên quốc sống tại các khu đất được bố cục cân đối, ngôi nhà mà mỗi chúng sinh cư ngụ giống như là biệt thự hào hoa vậy, cũng là dùng vật liệu bạch ngọc để xây dựng nên. Chiếc bàn, cái giường cùng mọi loại vật dụng sinh hoạt hằng ngày trong căn nhà, đều nhất loạt có đủ cả. Lúc nào không dùng đến, thì có thể động niệm để nó biến đi mất, đến khi cần dùng lại, tùy theo tâm động niệm, sẽ tự động hiện ra để đáp ứng nhu cầu. Bốn phía xung quanh bên trong và bên ngoài biệt thự đều là cỏ xanh, hoa tươi. Ở phần giữa hoàng thành bên cạnh hoàng cung có một quảng trường to lớn. Bốn phía có các loại cây phong diệp, cây tùng, cây bạch dương giống như của xã hội con người vậy… Các chủng loại hoa tươi trên thiên quốc có khoảng mấy ngàn loại, cánh của những đóa hoa là trong suốt, mỏng như cánh ong, hương thơm không bao giờ dứt, đung đưa theo gió, hết sức mỹ lệ. Trên những cánh đồng xanh, là những chú thỏ nhỏ, những con linh dương, cáo đỏ, các chú sư tử vâng lời cùng các chủng loại dã thú lương thiện. Trong đó còn có một loại sinh mệnh, tương tự như con ngựa của nhân loại chúng ta, toàn thân trên dưới là lông màu trắng, đỉnh đầu có một cái sừng, cũng đang tự do chạy nhảy ở trong rừng.

Những vị Thần có quả vị trên thế giới thiên quốc muốn gì thì giơ tay là có ngay, muốn gì được nấy. Hoa sen dưới chân họ là một thứ tượng trưng cho uy đức của quả vị. Bách tính, chúng sinh trên thiên quốc không có quả vị, do đó năng lực là có hạn, dưới chân không có hoa sen, tuy nhiên khi đi lại trên thiên quốc có thể chân không chạm đất.

Thế giới thiên quốc cũng có rất nhiều những công trình công cộng, phòng trưng bày tranh, có nơi dành cho các vị Thần cùng nhau ca hát. Còn có một nơi mà dùng ngôn ngữ của con người gọi là thực điện. Trong đó có rất nhiều đồ ăn uống, bánh ngọt trái cây, mùi vị tươi ngon, chúng sinh thiên quốc có thể tùy ý mà lấy. Ở giữa cũng có món thịt giống như của con người thế gian, tuy nhiên nguyên liệu là làm từ bột mì. Chúng Thần trên thiên quốc uống các loại thức uống có màu sắc giống như là của nước ép trái cây, mùi vị giống như là vị ngọt của mật ong vậy.

Dân chúng trên thiên quốc căn cứ theo sở thích của chính mình mà lựa chọn để làm một ngành nghề có thể phục vụ, giúp đỡ được cho người khác. Toàn tâm toàn ý, không tư lợi để phục vụ cho dân chúng trên thiên quốc của họ.

Thế giới thiên quốc có phân chia ban ngày, ban đêm, vào ban đêm chúng Thần sẽ lấy một loại quặng tự nhiên để vào bên trong các chụp đèn. Vật chất quặng không giống nhau, sẽ phát ra ánh sáng có màu sắc không giống nhau. Thế giới thiên quốc cũng có phân chia bốn mùa, đối với chúng Thần trên thiên quốc mà nói là không có sự khác biệt về cái nóng và cái lạnh.

Lúc này chúng Thần của thế giới thiên quốc bắt đầu hướng về tụ tập trên quảng trường trung tâm hoàng thành, tầng tầng các bầu trời đều phân bố đầy các chúng sinh của thiên quốc, càng tụ tập càng nhiều.

Nghi lễ trọng đại đã được chuẩn bị xong cả. Các chúng sinh của vị Vương [chủ] được Đại Pháp cứu độ, ăn mặc lộng lẫy, hòa cùng những thứ trang sức hiếm có, mỹ lệ nhất. Họ đang âm thầm chờ đợi vị Vương [chủ] của họ trở về. Bắt đầu từ giây phút các đệ tử Chính Pháp tu luyện viên mãn trong thời Chính Pháp trở về đến thiên quốc, thì thiên thể vũ trụ của họ sẽ lật sang một trang lịch sử hoàn toàn mới. Điều chờ đón họ trở về là những đóa hoa tươi, là những lời hân hoan, và cả những giọt nước mắt của chúng sinh, nhưng những giọt nước mắt này là do niềm vui sướng mà rơi lệ. Đó sẽ là một ngày khắp chốn cùng mừng vui.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/60181

The post Bầu trời của lịch sử: Thiên quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2013/02/bau-troi-cua-lich-su-thien-quoc.html/feed0