Giải mã bài thơ “Thủy điệu ca đầu – Vầng trăng sáng có tự khi nào”



Tác giả: Thanh Phong

[ChanhKien.org]

Trung thu năm Bính Thìn, vui vẻ uống rượu thâu đêm, say khướt, làm bài thơ này. Đồng thời nhớ Tử Do.

Minh nguyệt kỷ thời hữu, Bả tửu vấn thanh thiên. Bất tri thiên thượng cung khuyết, Kim tịch thị hà niên? Ngã dục thừa phong quy khứ, Duy khủng quỳnh lâu ngọc vũ, Cao xứ bất thắng hàn. Khởi vũ lộng thanh ảnh, Hà tự tại nhân gian!

Chuyển chu các, Đê ỷ hộ, Chiếu vô miên. Bất ưng hữu hận, Hà sự trường hướng biệt thời viên? Nhân hữu bi hoan ly hợp, Nguyệt hữu âm tình viên khuyết, Thử sự cổ nan toàn. Đãn nguyện nhân trường cửu, Thiên lý cộng thiền quyên.

Tạm dịch:

Vầng trăng sáng có tự khi nào, Nâng chén rượu lên hỏi trời cao. Chẳng biết cung điện trên chốn ấy, Đêm nay đã là đêm năm nào? Ta muốn cưỡi mây quay về, Lại sợ lầu quỳnh điện ngọc, Nơi cao không tránh khỏi lạnh lẽo? Đứng múa với ánh trăng, Khác nào tại nhân gian.

Xoay gác tía, ghé nơi màn gấm, rọi chiếu nơi người không ngủ. Chẳng nên cừu hận, Cớ sao trăng tròn lúc biệt ly? Người có bi hoan ly hợp, Trăng có mờ tỏ tròn khuyết, Tự xưa khó vẹn toàn. Chỉ nguyện người trường cửu, Ngàn dặm chung bóng yêu kiều.

Bài thơ này là kiệt tác nổi tiếng “Thủy điệu ca đầu – Vầng trăng sáng có tự khi nào” của Tô Thức, một bài từ được đánh giá cao qua nhiều thời đại. Ở đây, tôi muốn từ góc độ tu luyện để nghiên cứu bài từ này.

Chúng ta biết rằng Tô Thức cũng là một người tu luyện, do đó điều mà bài từ này thực sự muốn tiết lộ và biểu đạt là khát vọng phản bổn quy chân, đồng thời cũng thể hiện sự tiếc nuối và tự an ủi bản thân khi chưa thể hoàn toàn dứt bỏ tình cảm của người thường.

Phần đầu bài từ “Vầng trăng sáng có tự khi nào, Nâng chén rượu lên hỏi trời cao. Chẳng biết cung điện trên chốn ấy, Đêm nay đã là đêm năm nào?” là phía mặt minh bạch của Tô Thức đang nhớ về ngôi nhà thực sự của mình ở không gian cao tầng, ông đã xa nhà không biết bao nhiêu vạn năm rồi, chẳng biết điện đài lầu các và chúng sinh nơi ấy bây giờ ra sao, vầng trăng sáng ở đây đã thay thế cho ngôi nhà thực sự của tác giả, người thường từ trên mặt chữ nhìn không ra, cho rằng ông đang nói về mặt trăng.

“Ta muốn cưỡi mây quay về, Lại sợ lầu quỳnh điện ngọc, Nơi cao không tránh khỏi lạnh lẽo? Đứng múa với ánh trăng, Khác nào tại nhân gian”. Ở đây đã thể hiện rất rõ, tác giả hy vọng mình có thể quay trở về, nhưng tầng thứ tu luyện của bản thân không đủ, không thể quay về được, chỉ đành an ủi bản thân, tu luyện là nghiêm túc, kém một chút cũng không được, nếu tâm tính không đạt đến vị trí thì e rằng dù có thực sự đưa lên trên đó cũng không thể trụ vững được.

Ở phần sau “Xoay gác tía, ghé nơi màn gấm, rọi chiếu nơi người không ngủ. Chẳng nên cừu hận, Cớ sao trăng tròn lúc biệt ly?”, những câu thơ này tả cảnh vật, cũng là tả tình, thể hiện nỗi tiếc nuối của tác giả khi không thể đoàn tụ với người thân. Bài thơ sử dụng kỹ thuật viết rất cao siêu, nhưng từ góc độ tu luyện, có thể thấy rõ rằng tác giả vẫn chưa buông bỏ được chấp trước vào tình thân nên mới có những câu tiếp theo “Người có bi hoan ly hợp, Trăng có mờ tỏ tròn khuyết, Tự xưa khó vẹn toàn. Chỉ nguyện người trường cửu, Ngàn dặm chung bóng yêu kiều”. Đây cũng là lời tự an ủi của tác giả.

Có thân thể xác thịt này, có đôi mắt bị mê mờ này, rất khó cắt bỏ chấp trước vào tình cảm, không cách nào đạt đến cảnh giới đại tự tại của sinh mệnh. Con người ở trong đó không cảm giác được, bị tình vây khốn, hoặc vui hoặc buồn, có hàng nghìn vạn cảm thụ, thơ từ là một phương tiện để bày tỏ những cảm xúc này. Đối với một người thường mà nói đương nhiên không có gì sai, nhưng nhân gian rốt cuộc không phải là ngôi nhà thực sự, tu luyện chân chính cuối cùng có thể nhảy thoát ra được mới có thể cảm nhận được điều tốt đẹp thực sự của sinh mệnh.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/254084



Ngày đăng: 21-02-2025

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.