Danh sơn cổ tự: Thánh địa võ lâm – Bí mật về Thiếu Lâm Tự



Tác giả: Thiên Tân

[ChanhKien.org]

Chùa, miếu vốn là chốn tu hành, Thiếu Lâm Tự cũng không ngoại lệ. Các hoà thượng cổ đại thường nhấn mạnh rằng “tảo địa khủng thương cô nghĩ mệnh, ái tích phi nga sa tráo đăng” (quét sân sợ làm hại đến mạng con dế, thương tiếc con bướm đêm rơi vào cái chụp đèn). Nhưng quy tắc của các hòa thượng Thiếu Lâm Tự lại không giống những ngôi chùa khác, họ đánh võ, đi quyền, cầm gậy múa côn, trừ bạo an dân, phò trợ chính nghĩa. Điều này dường như không phù hợp với tôn chỉ của những người xuất gia. Thực ra ở đây có rất nhiều huyền cơ.

Thiếu Lâm Tự tọa lạc trên đỉnh Nhạc Tung sơn, một trong năm ngọn núi Ngũ Nhạc danh tiếng, nằm cách thành phố cấp huyện Đăng Phong tỉnh Hà Nam 13 km và nằm ở phía nam chân núi Thái Thất. Vì ngôi chùa được xây dựng trong rừng rậm nên được gọi là “Thiếu Lâm Tự”. Sách “Thuyết Tung” viết: “Thiếu Lâm giả, Thiếu Thất chi lâm dã” (Thiếu Lâm nghĩa là chùa được xây dựng trong rừng gần đỉnh Thiếu Thất). Thiếu Lâm Tự là cái nôi của phái Thiền Tông trong Phật giáo Trung Quốc và là nơi sản sinh ra môn võ Thiếu Lâm vang danh.

Câu nói “Thiên hạ võ công xuất Thiếu Lâm” (mọi môn võ thuật trong thiên hạ đều khởi phát từ Thiếu Lâm) dường như có phần cường điệu nhưng ít nhất nó cũng cho thấy tầm ảnh hưởng sâu rộng của võ Thiếu Lâm đối với võ thuật thế giới mà không một môn phái nào có thể sánh bằng. Quả không ngoa khi nói rằng võ thuật Thiếu Lâm là một danh từ mà nhà nhà đều biết, người người đều hay. Vì Thiếu Lâm Tự đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và truyền bá võ thuật nên môn võ đã được đặt tên theo địa danh sinh ra nó và ngôi chùa lại được đặt tên theo sự vinh hiển của võ phái, do đó Thiếu Lâm Tự cũng được xưng tụng là “thiên hạ đệ nhất tự”.

Thiếu Lâm Tự được xây dựng vào năm Thái Hòa thứ 19 triều Bắc Ngụy (năm 495), do Hiếu Văn Đế, một hoàng đế sùng tín Phật giáo dựng lên phía bắc núi Thiếu Thất để làm chỗ ở cho nhà sư Ấn Độ Bạt Đà đến thuyết Pháp. Bồ Đề Đạt Ma, hậu duệ đời thứ 28 của Ca Diếp, đại đệ tử của Thích Ca Mâu Ni đã dùng một cọng lau vượt sông Dương Tử về phía bắc đến Thiếu Lâm Tự ở Tung Sơn, nơi ông tập hợp các tín đồ và quảng truyền các pháp lý của Thiền Tông. Đạt Ma được xưng tụng là sơ tổ của phái Thiền Tông Trung Quốc, Thiếu Lâm Tự cũng được tôn xưng là cội nguồn của Thiền Tông Phật giáo Trung Quốc. Phái Thiền Tông trải qua sáu đời, trong đó có năm đời là ở Thiếu Lâm Tự: nhị tổ Tuệ Khả, tam tổ Tăng Xán, tứ tổ Đạo Tín, ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Lục Tổ Huệ Năng giảng về thuyết “đốn ngộ” ở chùa Nam Hoa ở Quảng Đông.

Trong Phật giáo người ta nói rằng tu tới các cảnh giới khác nhau có thể đạt được những quả vị khác nhau. Sau khi xuất khỏi thế gian pháp thì có những quả vị như La Hán, Bồ Tát, Phật v.v… Đạt Ma tu thành La Hán, quả vị đó thuộc về tầng thấp nhất ngoài tam giới. Mặc dù vậy trong lòng mọi người Đạt Ma cũng là vị Giác Giả rất đáng sùng kính rồi.

Công phu của Đạt Ma là phi phàm, thần tích dùng một cọng lau vượt sông đã đủ chứng minh việc Đạt Ma thi triển công phu khinh công, điển tích “diện bích cửu niên” (quay mặt vào vách đá chín năm) cho thấy định lực phi phàm của ông. Theo sách “Thiếu Lâm Tự chí” thời nhà Thanh ghi chép thì Bồ Đề Đạt Ma, người sáng lập phái Thiền Tông, vốn không có ý định nghiên cứu quyền thuật, chỉ là do ngồi xếp bằng tĩnh tọa trong thời gian lâu tay chân tê mỏi nên cần phải đứng dậy vận động tứ chi, thư giãn gân cốt. Tương truyền rằng Đạt Ma ban đầu đã truyền lại Tẩy Tủy Kinh, Dịch Cân Kinh cho đến Thập Bát La Hán quyền.

Đến thời Tùy Đường võ thuật Thiếu Lâm đã trở nên rất nổi tiếng, đến thời nhà Tống thì võ Thiếu Lâm dần hình thành thể hệ với phong cách độc đáo riêng, lịch sử gọi là “phái Thiếu Lâm”, trở thành trường phái dẫn đầu trong các phái võ thuật Trung Quốc. Vào thời Nguyên Minh, Thiếu Lâm Tự có hơn 2.000 tăng nhân và trở thành đại Phật tự nổi tiếng cả trong lẫn ngoài Trung Quốc, từ giữa triều Thanh về sau Thiếu Lâm Tự dần suy tàn.

Xưa nay các bậc đế vương Trung Hoa đều rất coi trọng Thiếu Lâm Tự. Trước tháp chuông của ngôi chùa danh tiếng này có một tấm bia đá tên là “Hoàng đế Tung Nhạc Thiếu Lâm Tự bia”, còn gọi là “Lý Thế Dân bia”, được dựng lên vào năm Khai Nguyên thứ 16 đời Đường Huyền Tông (năm 728). Mặt sau tấm bia có khắc dòng chữ “Tứ Thiếu Lâm Tự bách cốc trang ngự thư bi ký” mô tả lại câu chuyện 13 côn tăng cứu Tần vương.

Chuyện xảy ra vào năm 621, Tần vương Lý Thế Dân dẫn binh thảo phạt Vương Thế Sung, không may chiến bại. Trong lúc nguy khốn 13 vị võ tăng của Thiếu Lâm tự gồm Đàm Tông, Chí Thao, Huệ Tứ, Thiện Hộ, Phổ Huệ, Minh Tung, Linh Hiến, Phổ Thắng, Trí Thủ, Đạo Quảng, Trí Hưng, Mãn, Phong đã xuống núi trợ chiến, chặn đứt đường lui của Vương Thế Sung, đồng thời còn bắt cóc cháu trai của Vương Thế Sung là Vương Nhân Tắc, buộc Vương Thế Sung phải đầu hàng. Tần vương Lý Thế Dân lên ngôi trở thành hoàng đế Đường Thái Tông. Thái Tông luận công ban thưởng, đã phong cho hòa thượng Đàm Tăng làm đại tướng quân, những người còn lại “thời nguy khanh tác tướng, sự định phục vi tăng”, tức là vào thời nguy cấp thì làm tướng, khi bình ổn rồi thì quay lại làm tăng. Ngoài ra Đường Thái Tông còn ban cho Thiếu Lâm Tự 40 khoảnh đất, chiêu mộ đội tăng binh 500 người và cho phép các tăng nhân tập võ công khai. Cũng từ đó vị trí lịch sử đặc thù của các võ tăng Thiếu Lâm đã được xác lập.

Sơn môn, tức cổng chính của Thiếu Lâm Tự là một cổng tam quan kiểu hiết sơn (*) của kiến trúc thời nhà Thanh. Ba chữ lớn “Thiếu Lâm Tự” trên cổng là do Hoàng đế Khang Hy nhà Thanh đích thân viết tặng, trên đó còn có một con dấu hình vuông khắc dòng chữ “Khang Hy ngự bút chi bảo”. Ngày 30 tháng 9 năm Càn Long thứ 15 khi hoàng đế Càn Long du ngoạn đến Trung Nhạc miếu, đi ngang qua Thiếu Lâm Tự và đêm đó đã mượn phòng của phương trượng làm hành cung. Lúc hứng khởi nhà vua đã ngự bút đề một bài thơ ngũ ngôn: “Minh nhật chiêm Trung Nhạc, kim tiêu túc Thiếu Lâm. Tâm y lục thiền tĩnh, tự cư vạn sơn thâm. Thụ cổ phong lưu lại, địa linh tịch tác âm. Ứng giáo bán nham vũ, phát ngã dạ song ngâm” (Tạm dịch: Ngày mai ngoạn Trung Nhạc, Đêm nay ngụ Thiếu Lâm. Tâm theo lục thiền tĩnh, Chùa trong vạn núi sâu. Gió thổi cây thành tiếng, Đất linh đêm hoá trăng. Nên bảo mưa lưng vách, Khiến ta vịnh song ngâm).

Võ công Thiếu Lâm không chỉ có cơ sở là nội công thuần chính mà còn có 72 tuyệt kỹ công phu vang danh khắp bốn phương. Thiếu Lâm rất coi trọng việc tạo dựng nền tảng vững chắc và tiến bộ từng bước một, bất cứ tăng nhân nào xuất gia đều bắt đầu từ luyện võ công, chỉ khi có nền tảng tốt rồi mới được phép biết đến các món võ thâm hậu. Ví dụ như: nếu chọn La Hán quyền làm món võ công nhập môn thì món võ cao cấp có thể luyện chính là Đại Kim Cang quyền, việc luyện tập phần võ nhập môn tốt hay không sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ luyện môn võ cao cấp. Cuối cùng nếu được phép vào Tâm Thiền Đường tu hành thì người học có thể học được các nội công cao cấp của Thiếu Lâm.

Thiếu Lâm Tự qua các triều đại đã xuất hiện nhiều cao tăng và đệ tử tục gia nổi danh, trong đó nổi tiếng nhất là hòa thượng Đàm Tông thời Đường, thời Đường về sau có hoà thượng Quang Tông; thời Tống có Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận, thời Nguyên có đại thánh Khẩn Na La Vương và thiền sư Phúc Dụ, thời Minh có đại sư Giác Viễn, hòa thượng Tiểu Sơn, cuối thời Minh có hoà thượng Thống Thiền, thời Thanh có các hoà thượng Thiết Trai, Trí Thiện, Trí Quả, Thiên Hồng, Trạm Cử, Ngũ Mai, Cổ Luân v.v…

Dù là thời cổ đại hay hiện đại, võ thuật của Thiếu Lâm tự vẫn nổi danh khắp thiên hạ. Cùng với đó võ tăng Thiếu Lâm cũng đã trở thành một danh từ đặc biệt. Về lý thì tăng nhân là những hòa thượng xuất gia tu hành, cần tu tâm hướng thiện, vì sao các hòa thượng Thiếu Lâm lại còn cầm đao múa côn? Tại sao lại nói bàn về chuyện huyền diệu thì càng nên biểu diễn võ thuật, lễ Phật lại thích luận việc binh (đàm huyền cánh diễn võ, lễ Phật ái luận binh)?

Mọi người có thể nhìn thấy những công phu mà các nhà sư Thiếu Lâm luyện ra, đó là những thứ khiến con người thế gian phải ngưỡng mộ. Các công phu như nhất chỉ thiền, phi thiềm tẩu bích (chạy trên mái), bách bộ xuyên dương… khiến người ta cảm thấy thật huyền hoặc, nhưng đó là những điều có thể tiếp xúc đến được một cách hết sức thực tại. Tuy nhiên trong giới tu luyện võ thuật chúng lại là công phu ở tầng thấp nhất. Còn công phu ở tầng cao hơn thì không thể hiển thị cho con người, do vậy mới có câu “chân nhân bất lộ tướng”.

Thiếu Lâm Tự đã triển hiện cho con người những điều ảo diệu và thần bí của tu luyện, ngay cả một môn khí công võ thuật ở tầng thấp cũng đã thần kỳ như vậy, vậy thì những công phu tu luyện ở cao tầng sẽ càng thu hút con người hơn. Điều mà Đạt Ma truyền là Lý ở tầng La Hán, mà trên tầng La Hán còn có cảnh giới của Bồ Tát và Phật. Đối với giới tu luyện mà nói thì võ thuật Thiếu Lâm chỉ là bước đệm để tiếp tục tu luyện từ thấp dần lên cao, còn tu luyện thực sự lại là một môn học vấn bác đại tinh thâm.

Võ thuật Thiếu Lâm gợi mở cho con người một con đường hướng đến tu luyện, khám phá những ảo diệu thần bí và nội hàm của tu luyện. Còn những công phu cao thâm thực sự thì chỉ khi đạt được đến cảnh giới ở tầng thứ cao mới có thể có được.

Chú thích:

(*) Hiết sơn là một kiến trúc của Trung Quốc thời cổ đại, dạng kiến trúc này có rìa bờ mái chĩa ra khỏi tường.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/21127



Ngày đăng: 24-07-2024

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.