Nhận thức đối với con đường khoa học trong tương lai (1)



Tác giả: Linh Tử

[ChanhKien.org]

Khoa học nhân loại hiện đại nếu so sánh với các tinh cầu có trí huệ cao cấp hay với các nền văn minh tiền sử thì tương đối lạc hậu. Đồng thời, kẻ cầm quyền còn dùng từ “khoa học” để làm cây gậy đánh người, gọi khoa học chân chính mà nhân loại chưa biết đến là “ngụy khoa học”, chụp lên cái mũ lớn “mê tín”, càng làm kìm hãm sự phát triển của khoa học.

Xã hội nhân loại trong tương lai sẽ đổi mới, là vô cùng tốt đẹp, khoa học tương lai cũng sẽ đạt đến trình độ rất cao. Khoa học của tương lai sẽ đi theo con đường như thế nào? Điều quan trọng là phải có tư tưởng chỉ đạo mới. Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều người mang nặng tư tưởng cũ bảo thủ, đặc biệt là ở Trung Quốc đại lục từ tiểu học cho tới trung học, đại học, đều có môn học chính trị bắt buộc, đồng thời còn là một môn học bắt buộc phải thi trong kỳ thi đại học. Có người đã hình thành thế giới quan cứng nhắc và nghe không lọt những tiếng nói bất đồng; một số người tự cho mình là cao minh, cho rằng hiểu được một chút lý luận, còn nói ra một số quan điểm: gì mà “thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý”, “cái gì cũng có hai mặt”, “đấu tranh mâu thuẫn là động lực phát triển của sự vật”, “thuyết tiến hóa”, “thuyết duy vật”, “thuyết duy tâm”, “thuyết vô thần”,…

Kỳ thực, những ví dụ được liệt kê ở trên mới là “ngụy khoa học” thật sự! Về phương diện này cũng không trách mọi người, đây đều là kết quả của sự nhồi nhét lâu ngày của văn hóa đảng. Tác giả từng là Bộ trưởng Tuyên giáo trực thuộc ĐCSTQ, đã nhiều năm nghiên cứu và tuyên truyền chủ nghĩa tà ác của Marx và Mao, đã đầu độc bản thân và cũng đầu độc cả người khác, thực sự cảm thấy áy náy. Bây giờ đã đến lúc cần phải nhìn lại quá khứ, đưa những thứ oai lý tà thuyết này phơi bày trước ánh sáng mặt trời, từ đó quy chính lại tư tưởng con người, trả lại diện mục chân thực của vũ trụ. Có một lần, tôi gặp lại một người bạn cũ sau một thời gian dài xa cách, câu nói đầu tiên của ông ấy khi gặp mặt là: “Tri thức và IQ của chúng ta cũng không phải thấp, vậy mà lại bị đảng cộng sản Trung Quốc lừa dối mấy chục năm mà chẳng hề hay biết, quả là điều đáng tiếc!” Xem ra những người học rộng đa tài thực sự đã thức tỉnh rồi!

Liên quan đến vấn đề nhận thức về khoa học, người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp, Đại sư Lý Hồng Chí trong tác phẩm chính Chuyển Pháp Luân của mình, đã có lời giải thích sâu sắc, thấm thía. Đây là một cuốn thiên cổ kỳ thư, thiên thư mà trước giờ chưa từng có trong lịch sử nhân loại, là khoa học siêu thường bao hàm hết thảy khoa học của thế gian. Mở đầu cuốn Chuyển Pháp Luân là “Luận ngữ” (bản cũ) trong đó viết rõ ràng:

“Nếu như nhân loại có thể nhận thức lại mới bản thân và vũ trụ, thay đổi những quan niệm cứng nhắc của mình, nhân loại sẽ có một bước nhảy vọt. “Phật Pháp” có thể khiến nhân loại hiểu sâu sắc về thế giới vô lượng vô tế. Từ vạn cổ xưa cho tới nay, duy chỉ có ‘Phật Pháp’ mới có thể giải thích một cách đầy đủ và rõ ràng về nhân loại, các từng không gian tồn tại vật chất, sinh mệnh cho đến toàn bộ vũ trụ”.

Ở đây, tôi chỉ là viết ra những gì mà bản thân lĩnh hội và cảm ngộ được. Bởi vì khoa học phân thành hai loại lớn là khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, mà triết học lại là sự khái quát và tổng hợp của hai loại khoa học đó. Vì vậy bài viết này chỉ muốn từ góc độ triết học dùng một lý niệm mới để bàn luận về nhận thức đối với con đường khoa học trong tương lai. Tuy khả năng cảm nhận thực tế có hạn, nhưng tôi hy vọng có thể truyền cảm hứng cho những người khác.

Đầu tiên, cần phải từ căn bản mà cải biến quan niệm cũ cố hữu về “khoa học”

Có nhiều người cho rằng: Khoa học hiện nay rất phát triển, sự phát triển ứng dụng của máy tính, phóng tàu vũ trụ lên trời, điện thoại di động, MP4,… Kỳ thực, khoa học của nhân loại lần này, là khoa học thực chứng lạc hậu. Khoa học của Trung Quốc cổ đại rất phát triển, đi trên một con đường khoa học khác. Từ thế kỷ 16, 17 Tây phương đã sản sinh ra khoa học thực nghiệm cận đại, chính là khoa học thực chứng, sau này Trung Quốc cũng học theo.

Tư tưởng chỉ đạo của khoa học thực chứng là sai lầm, kiến lập dựa trên cơ điểm thuyết đối lập nhị nguyên và chủ nghĩa duy vật máy móc. Chia vũ trụ hữu cơ thành hai phạm trù độc lập: tách biệt chủ quan và khách quan, tinh thần và vật chất, thiên và nhân,… một cách máy móc và khiến chúng trở thành đối lập. Cho rằng chỉ những gì được xác minh qua các thí nghiệm lặp đi lặp lại mới là khoa học, còn những gì sờ không được nhìn không thấy thì không thừa nhận, điều này tạo thành tính hạn chế của khoa học thực chứng.

Những kẻ được gọi là “người theo chủ nghĩa duy vật”, còn ngạo mạn nói những gì như “đấu trời đấu đất, nhân định thắng thiên”, hiện nay chưa nói gì tới chiến thắng thiên tai, ngay cả dự báo, dự phòng thiên tai cũng đều chưa làm được. Do đó, không thay đổi những quan niệm cũ cố hữu, thì sẽ không thể tiếp thụ lý niệm khoa học hoàn toàn mới.

Ở cấp độ vĩ mô, nhiều người đánh giá cao ngành hàng không vũ trụ vì khám phá những bí ẩn của vũ trụ. Đến bây giờ con người mới có thể chạm tới Mặt Trăng, vệ tinh của Trái Đất (Mà không biết rằng Mặt Trăng được con người thời tiền sử tạo ra và đưa lên trời, đến hiện nay cộng đồng khoa học công nghệ mới xác nhận rằng bên trong Mặt Trăng là rỗng). Có người thậm chí còn cho rằng tàu vũ trụ quay quanh Trái Đất vài vòng quả là quá xuất sắc rồi, thực tế đều chưa ra khỏi trường không gian của địa cầu. Tốc độ của tàu vũ trụ mới đạt tới 8,33 km/giây, vẫn chưa đạt tốc độ vũ trụ thứ hai là 11,2 km/giây.

Tốc độ đẩy của loại nhiên liệu tốt nhất của nhân loại hiện nay là 30 km/giây, trong khi tốc độ ánh sáng là 300.000 km/giây, chênh lệch vừa đúng một vạn lần. Khoảng cách mà ánh sáng truyền đi trong một năm tức là một năm ánh sáng. Giả sử tốc độ của tàu vũ trụ đạt tới vận tốc ánh sáng là 300.000 km/giây thì con người sẽ phải mất 10.000 năm mới đến được chòm sao gần chúng ta nhất, Alpha Centauri. Vũ trụ bao la vô hạn, Trái Đất chỉ là một hạt bụi trong một hạt bụi trong một hạt bụi.

Ở cấp độ vi mô, vật chất nhỏ nhất nhỏ như thế nào? “Dây” là tên giả định của lạp tử nhỏ nhất (chú thích: Lý thuyết dây trong vật lý học). Dây nhỏ như thế nào? Nếu đem so sánh với proton thì khoảng cách giữa chúng tương đương với khoảng cách giữa proton và toàn bộ Hệ Mặt Trời. Để có thể nhận biết được lạp tử vật chất nhỏ hơn, nhân loại chỉ có thể kéo dài chu vi của máy gia tốc hạt từng chút một. Hiện tại, chu vi của máy gia tốc tiên tiến nhất thế giới đã đạt tới 54 km. Nếu như muốn thu được những hạt cực vi quan như dây, nhân loại phải chế tạo một máy gia tốc hạt có chu vi 1000 năm ánh sáng. Mà toàn bộ Hệ Mặt Trời thì ánh sáng chỉ cần một năm là có thể đi qua rồi. Dây mới chỉ là một loại giả tưởng của người thường, mà lạp tử nhỏ nhất bản nguyên vật chất thực sự còn nhỏ hơn nhỏ hơn nữa.

Cấp độ vĩ mô lớn đến đâu, cấp độ vi mô nhỏ tới mức nào? Nghiên cứu về cơ học lượng tử và thuyết tương đối rộng của Einstein cũng đi vào bế tắc về hai vấn đề cực đoan này. Hiện nay, nghiên cứu khoa học của nhân loại chỉ có thể hạn cục trong thế giới vật chất với những quan niệm cố hữu và cứng nhắc, những gì không dám thừa nhận thì không dám nghiên cứu. Ví dụ khoa học hiện đại không dám động chạm đến những thứ như trải nghiệm cận tử, công năng đặc dị, thời không khác, nước có tri giác, hiệu ứng Backster, mỏ quặng uranium ở Gabon, Tây Phi, nhục thân bất hoại của cao tăng viên tịch,… Linh hồn (nguyên thần) bị phụ thể như nguyên thần của con dâu bám trên thân của bố chồng được viết trong tiểu thuyết “Bạch Lộc Nguyên”, còn có những hiện tượng như động vật phụ thể,… là chuyện rất bình thường ở vùng nông thôn rộng lớn. Những ví dụ như thế này rất rõ ràng, nhưng chúng bị trói buộc bởi những quan niệm cũ cố hữu, không có ai nghiên cứu và chỉnh lý, những thành kiến cố chấp khiến cho những thứ tồn tại khách quan này trở thành vùng cấm của khoa học thực chứng.

Những lý luận ngăn trở sự chuyển biến quan niệm của con người là “thuyết vô thần”, “thuyết duy vật”,…, cơ sở lý luận của chúng là “thuyết tiến hóa”. “Thuyết tiến hóa” là một giả thuyết được Darwin đề xuất vào năm 1859: Ông ta cho rằng con người và loài vượn có nhiều điểm tương đồng, và rằng con người tiến hóa từ loài vượn, Darwin suy đoán rằng bằng chứng về sự chuyển đổi hóa thạch giữa các loài sẽ được tìm thấy vào thế kỷ 20. Nhưng, cho đến nay không có bằng chứng hóa thạch nào về các dạng chuyển tiếp giữa các loài trong quá trình tiến hóa được tìm thấy. Tuy nhiên, người ta đã tìm thấy bằng chứng về các nền văn minh đã tồn tại hàng triệu, hàng chục triệu hoặc thậm chí hàng trăm triệu năm trước, khác xa với thời đại tiến hóa địa chất. Trên thực tế, chúng đều là những nền văn minh tiền sử. Ngoài ra còn có Thái Cực, Hà Đồ, Lạc Thư, Chu Dịch, Kim Tự Tháp,… Những nội hàm thâm sâu của văn hóa tiền sử này, tại nhân loại lần này có mấy người có thể nghiên cứu một cách thấu triệt?

Ngày nay, nền tảng của “thuyết tiến hóa” đã sụp đổ, nhiều người trong cộng đồng khoa học kỹ thuật đã chứng thực “thuyết tiến hóa” là một giả thuyết sai lầm nên tôi sẽ không đi sâu vào chi tiết ở đây. Điều đáng buồn là một số người vẫn khăng khăng rằng “tổ tiên của con người là khỉ”, còn tiếp tục chiểu theo cách giáo dục này mà nối tiếp đời sau, quả thực là làm người ta lầm đường lạc lối.

Vũ trụ có tồn tại những sinh mệnh có trí huệ cao cấp ở rất nhiều thời không, điều này đã được minh chứng bởi rất nhiều sự thực.

Năm 1970, khi một máy bay Mỹ đang bay qua Bermuda, nó đột ngột biến mất khỏi màn hình radar trong 10 phút và mất liên lạc với mặt đất. Sau khi máy bay hạ cánh, người ta phát hiện đồng hồ trên máy bay và tất cả hành khách đều chậm mười phút. Những hiện tượng này không khó giải thích bằng các lý thuyết thời – không khác. Đây là khi một người hoặc vật thể đi vào thời gian và không gian khác, mà khái niệm thời gian ở không gian khác là không giống với thời gian trong không gian này của nhân loại. Mười phút trong không gian của chúng ta dường như không đáng kể trong trường thời gian đó và có thể không được phản ánh. Như vậy làm sao có thể kết luận rằng không có thời gian và không gian khác, không có sự sống nào có trí tuệ cao hơn con người?

Trong sách giáo khoa truyền thống viết rằng: Do năng suất thấp và khoa học kém phát triển, con người nguyên thủy không thể giải thích được một số hiện tượng tự nhiên nên mới tạo thành ngu muội, mê tín và tin vào thuyết Thần, Phật sáng thế. Vậy Newton và Einstein có kém cỏi về trình độ trí tuệ không? Những kẻ vô lại khoa học và phản đối khí công đó có thông minh hơn họ không?

Có một lần Einstein từng nói với một vị khách: “Bạn ban nãy vừa thấy tôi đặt tách trà này lên bàn, có điều tôi muốn hỏi lại bạn, ai đã đặt các ngôi sao và Mặt Trăng trên bầu trời? Trong vũ trụ có hằng hà sa số những Mặt Trời, Mặt Trăng và các vì sao, thời gian của quỹ đạo quay một vòng của chúng dường như không chút sai lệch, hơn nữa chúng không va chạm lẫn nhau, xin hỏi những điều này rốt cuộc là ai đã thiết kế và sắp đặt những thứ này? Nhân loại có lúc lại rất mâu thuẫn, họ thường là sau khi nhìn thấy những sự vật phức tạp, ảo diệu, thần kỳ hơn chiếc đồng hồ, lại cho rằng những thứ này đều là kết quả của sự ngẫu nhiên vô ý của đại tự nhiên, cũng là những sản vật theo lẽ tự nhiên. Chẳng hạn, lấy bất kỳ cơ quan nào của cơ thể con người làm ví dụ, chúng ta đều biết rằng cấu trúc của mắt ít nhất cũng phức tạp và khéo léo hơn gấp 1.000 lần so với những chiếc máy ảnh tốt nhất, cánh của một con muỗi có thể rung hơn 300 lần mỗi giây. Bạn có nghĩ rằng chúng ta có thể giải thích hợp lý hiện tượng này bằng “sự ngẫu hứng ngẫu nhiên” không? Thế giới tự nhiên của chúng ta dường như vô cùng phức tạp, nhưng chỉ cần bạn chú ý cẩn thận, bạn sẽ thấy nó rất hài hòa và rất có quy luật. Vì vậy, sự cân bằng mới có thể được duy trì liên tục và nó có thể không ngừng sinh cơ, những thứ này đều cần phải có một vị có trí huệ tối cao siêu việt tự nhiên tiến hành thiết kế và kiểm soát chỉnh thể. Xem ra không phải những người hữu Thần ngu muội vô tri mà ngược lại những người “vô thần” mới là quan niệm cứng nhắc, tri thức hạn hẹp, kiến thức nông cạn.

Sinh mệnh có trí huệ cao cấp đang chi phối vũ trụ, chiểu theo đặc tính của vũ trụ mà tạo nên vạn sự vạn vật ở thế gian con người, khoa học của nhân loại cũng là do Thần truyền cấp. Hiện tại, cựu vũ trụ từ một tầng thứ rất cao đều đã biến dị, Khoa học cũ đã tuyệt đối hóa các phương pháp nghiên cứu tìm hiểu bên ngoài, không chấp nhận các phương pháp nhận thức thế giới khác. Kiêu ngạo tự đại tự mình phong bế bản thân mình, đã hạn chế năng lực nhận thức của nhân loại. Khoa học thực chứng ngày nay không những phá hủy khoa học chân chính mà còn trở thành ma phản đối chính tín, chính giáo, loại khoa học này mới là tà giáo thực sự; cũng giống như cựu vũ trụ, khoa học thực chứng đã đi đến hồi kết.

Vậy thì, con đường khoa học trong tương lai sẽ phải như thế nào?

“Muốn hoàn toàn có thể tìm hiểu chỗ mê của vũ trụ, thời không, nhân thể thì chỉ có ‘Phật Pháp’, Ông có thể phân rõ thiện và ác, tốt và xấu thực sự, phá trừ hết thảy những nhận thức sai lầm mà giúp người ta có cái nhìn đúng đắn”. (Luận ngữ (bản cũ) – Chuyển Pháp Luân)

“Vậy Phật Pháp là gì? Đặc tính căn bản nhất trong vũ trụ này là Chân Thiện Nhẫn, Nó chính là thể hiện tối cao của Phật Pháp, Nó chính là Phật Pháp tối căn bản”. (Chuyển Pháp Luân)

Con đường khoa học trong tương lai của nhân loại, chính là con đường cần phải đi tuân theo đặc tính “Chân, Thiện, Nhẫn” của vũ trụ, tức Phật Pháp.

Có người hỏi: “Làm khoa học, còn phải coi trọng ‘Phật Pháp’, hành thiện tích đức ư? Điều này cũng không đúng!” Không thể lại tiếp tục ôm giữ quan niệm cũ để xét vấn đề, khoa học tương lai chính là như vậy! Bởi vì đặc tính “Chân, Thiện, Nhẫn” của vũ trụ – “Phật Pháp” đã tạo nên hết thảy trong vũ trụ. Do đó cần phải quay về chân diện mục của vũ trụ, chỉ có đặc tính tối cao của vũ trụ mới có thể tiết lộ được bí ẩn này. Khoa học của nhân loại trong vũ trụ mới của tương lai, hoàn toàn khác so với khoa học của cựu vũ trụ quá khứ. Quan niệm cũ cố hữu đã coi đó là bình thường rồi, hễ đề cập tới hai từ “khoa học”, dường như chính là khoa học tự nhiên, hoặc là trình độ khoa học công nghệ. Lẽ nào “Phật Pháp” có thể tiết lộ những bí ẩn của vũ trụ lại không được tính là khoa học sao? Đây mới là khoa học tối cao tinh thâm.

Chỉ riêng hàm nghĩa bao quát của hai từ “khoa học” và việc tuân theo “Phật Pháp” để nhận thức lại mới đã khác xa hoàn toàn lý niệm cũ: Định nghĩa và phân loại khoa học khác nhau rất lớn; mục đích, xuất phát điểm của làm khoa học khác biệt một trời một vực; việc lựa chọn đối tượng, dự án nghiên cứu khoa học có sự khác biệt lớn; phương pháp và phương tiện làm khoa học rất khác nhau; kết quả và hiệu quả đạt được cũng rất khác nhau; tại các phương diện đều có thể thể hiện ra đặc tính “Chân, Thiện, Nhẫn” của vũ trụ, đó mới là con đường khoa học chân chính cho tương lai.

Một, chủ quan và khách quan là đồng nhất, khai phát tiềm năng chủ quan

Định nghĩa “khoa học” trong từ điển là: Một hệ thống tri thức được phân loại phản ánh các quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội, tư duy,…

Ở đây, “phản ánh” và “quy luật khách quan” được nhấn mạnh, có nghĩa là thông qua các thí nghiệm lặp đi lặp lại, những sự vật khách quan được phản ánh vào bộ não con người và sau khi trải qua tư duy logic, suy luận, quy nạp và xử lý, sẽ hình thành nên những thứ lý thuyết như định lý và định luật,…; sau đó lý thuyết này được dùng để chỉ đạo các hoạt động thực tiễn của nhân loại.

Đây là quan điểm của khoa học thực chứng và chủ nghĩa duy vật. Nó cho rằng tính chủ quan và tính khách quan đối lập và tách biệt nhau; nó coi năng lực chủ quan của con người thành cứng nhắc và bất động, giống như một tấm gương chết chỉ có thể phản ánh khách quan một cách bị động; nó cho rằng ý thức được sinh ra chủ quan của con người thực chất là sự phản ánh của thế giới khách quan. Vì vậy, khoa học thực chứng chỉ có thể hướng ngoại tìm hiểu từ vật chất này sang vật chất khác. Trên phương diện vĩ mô và vi mô, nó dựa vào các công cụ hiện đại hóa, ngược lại nó không thừa nhận những gì con người không thể cảm nhận được. Kết quả là khoa học thực chứng đã phát triển đến giới hạn và đối với rất nhiều bí ẩn khoa học thì nó không còn khả năng lý giải được nữa. Vì vậy, chúng ta cần phải thay đổi sang một phương thức tư duy và lý niệm mới: Nhận thức đến được tính chủ quan và tính khách quan là đồng nhất, con người có tiềm năng chủ quan và tính chủ quan của con người có thể được phát huy tối đa.

Đối với định nghĩa “khoa học”, cũng cần có một hàm nghĩa mới: Tri thức mà con người có thể nhận thức thế giới khách quan một cách chủ động tiệm cận với chân lý nhất.

Nhưng trong quá khứ, năng lực nhận thức thế giới khách quan một cách chủ động của con người còn quá thấp, tri thức mà họ tìm hiểu được cách biệt quá xa với chân lý của vũ trụ. Trong thế giới tương lai, nhân loại sẽ nhận thức ra “Phật Pháp” và thức tỉnh.

Định nghĩa khoa học trong tương lai là: Trình độ nhận thức và đồng hóa với đặc tính “Chân, Thiện, Nhẫn” của vũ trụ.

Tại sao lại nói như vậy? Bởi vì đặc tính của vũ trụ là thể hiện tối cao của “Phật Pháp” và là khoa học căn bản, sâu sắc nhất trong vũ trụ. Con đường khoa học tương lai của nhân loại đòi hỏi phải hướng nội tìm và khai thác tiềm lực từ năng lực nhận thức chủ quan của con người. Vì vậy, sự phát triển của khoa học trong tương lai phụ thuộc vào mức độ con người có thể lĩnh ngộ và đồng hóa với đặc tính “Chân, Thiện, Nhẫn”.

Làm thế nào để đồng hóa và lĩnh ngộ? Tức là, bằng cách tu luyện Phật Pháp căn bản nhất – Pháp Luân Đại Pháp, tâm tính đề cao, cảnh giới thăng hoa, khai trí khai huệ, điều này có thể tiết lộ chân tướng về không gian vật chất này của chúng ta.

Khoa học của tương lai về cơ bản là khác với khoa học thực chứng. Thay vì hướng ngoại cầu, nó trực tiếp đề cao năng lực nhận thức chủ quan của con người. Khoa học của con người sẽ có một bước nhảy vọt mới. Hãy lấy một ví dụ đơn giản dễ hình dung: Giống như việc vượt qua một con sông không xác định được độ sâu, khoa học thực chứng dựa vào các thí nghiệm, “thực tiễn mang lại kiến thức chân chính”, chậm chạp tìm hiểu từng viên đá một; khoa học tương lai dựa vào việc khai phá tiềm năng chủ quan, dùng công năng thấu thị để xem, nhìn một cái liền thấy được độ sâu của nước sông rất dễ dàng. Hiển nhiên cái sau mới là khoa học tiên tiến thực sự.

Có người có thể hỏi: Liệu khả năng nhận thức chủ quan của con người có thể khai phát được không? Đây chính là ranh giới mà những người theo chủ nghĩa duy vật và những người theo chủ nghĩa thực tiễn không thể vượt qua. Họ đóng khung và hạn chế chết cứng năng lực nhận thức chủ quan của con người. Nói rằng “những tư tưởng đúng đắn của con người không phải từ trên trời rơi xuống mà chỉ có thể đến từ thực nghiệm, thực hành và tích lũy kiến thức lâu dài”. Nếu những quan niệm lỗi thời này không thay đổi, thì về căn bản sẽ không thể tin rằng mặt chủ quan của con người có năng lực tiềm tại, không tin rằng các loại tiềm năng có thể khai phát ra. Bởi vì đặc tính này của vũ trụ đã tạo nên hết thảy vạn vật trên thế gian, gồm cả nhân loại, con người sinh ra có cùng một tính với thế giới khách quan này của vũ trụ và đều có chung đặc tính Chân, Thiện, Nhẫn của vũ trụ. Vì tính chủ quan và khách quan của con người là đồng nhất nên con người tiên thiên đã được trang bị bản năng nhận thức các đặc tính của vũ trụ.

Khoa học thực chứng chỉ cục hạn trong thế giới vật chất. Bất cứ điều gì không được chứng minh bằng thực nghiệm đều không được thừa nhận là khoa học. Châm cứu huyệt đạo trong y học cổ truyền Trung Quốc, được trang bị những kiến thức y thuật về kinh lạc cổ truyền ưu việt này, là một trong những kho tàng văn hóa lâu đời của dân tộc Trung Hoa. Tuy có tác dụng chữa bệnh thần kỳ nhưng từ lâu nó vẫn chưa được khoa học thực chứng công nhận. Đó là bởi vì dù có giải phẫu nhân thể như thế nào đi nữa, cũng vẫn nhìn không thấy, sờ không được huyệt vị và kinh lạc của con người. Mãi cho tới những năm gần đây, giới khoa học công nghệ mới chứng thực sự tồn tại của nó. Thông qua các bức ảnh chụp cơ thể người bằng trường tần số cao, người ta thấy rằng những nơi sáng nhất trên cơ thể con người trùng khớp với 741 huyệt đạo trong thuyết kinh lạc cổ xưa của Trung Quốc. Tại sao những điều khoa học đã sớm được y học cổ truyền Trung Quốc ứng dụng rộng rãi từ 5000 năm trước thì nay khoa học hiện đại mới nhận thức đến? Điều này không phải đồng nghĩa với việc đã lạc hậu mấy chục thế kỷ rồi sao?! Tìm hiểu sâu hơn một chút, tại sao Viêm Hoàng tử tôn từ mấy nghìn năm trước đã biết một cách chuẩn xác châm cứu huyệt vị trên cơ thể? Rất đơn giản, là do người xưa có công năng thấu thị có thể thấy được. Phải chăng những người theo chủ nghĩa duy vật vẫn sử dụng cách giải thích cũ: “Là được phát hiện qua thực tiễn trong một thời gian dài!” Chẳng phải điều đó có nghĩa là chính họ cũng thừa nhận rằng bản thân khoa học thực chứng là một loại khoa học bò lê một cách chậm chạp sao?

Khoa học cổ đại của Trung Quốc vì sao lại phát triển? Là bởi vì con đường đi là hướng nội cầu, con đường khai phát năng lực tiềm tại chủ quan của con người.

“Thời ấy người đi học, đều phải chú trọng đả toạ, khi ngồi cũng giảng [phải] có tư thế; khi cầm bút viết cũng giảng [phải] vận khí hô hấp; các ngành các nghề đều giảng [phải] tịnh tâm, điều tức; toàn bộ xã hội đều đặt trong trạng thái như thế”. (Chuyển Pháp Luân)

Những người hành nghề y thuật trước hết phải chú trọng vào tự thân tu tâm dưỡng tính, sau đó mới học y thuật, từ đó đạt được khai trí khai huệ. Rất nhiều người đã nghe kể về những câu chuyện về những đại y học gia như Hoa Đà, Lý Thời Trân, Biển Thước sử dụng công năng đặc dị để chữa bệnh. Chỉ có chuyển biến những quan niệm cố chấp, chúng ta mới có thể trả lời chính xác những câu hỏi chưa có lời giải.

Tại sao các họa sĩ thời cổ đại có thể vẽ ra được hình tượng Phật một cách sống động chân thực, chính bởi vì họ có công năng, thông qua thiên mục liền nhìn thấy được sự tồn tại chân thực của Thần. Do các họa sĩ từ các nơi khác nhau có thể thấy được hình tượng của Thần là tương đồng, do đó, những hình tượng Thần mà họ vẽ ra cũng nhất quán. Văn minh truyền thống mấy nghìn năm của Trung Hoa là văn hóa Thần truyền, tại Trung Quốc cổ đại, do mọi người đều tin Thần, do đó con người và Thần cùng tồn tại ở thế gian. Tiêu chuẩn đạo đức của toàn bộ xã hội rất cao, có rất nhiều người bẩm sinh đã được trang bị bản năng của nhân thể. Thuận theo sự phát triển của xã hội nhân loại, con người càng ngày càng coi trọng hiện thực, ỷ lại vào cái gọi là công cụ hiện đại hóa, bản năng của con người càng ngày càng thoái hóa. Chỉ có tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, mới có thể phản hồi về bản tính nguyên thủy của bạn.

Trước đây, tại Trung Quốc báo chí từng đưa tin: Có người có công năng đặc dị có thể vận chuyển thuốc được niêm phong từ trong bình thủy tinh, chuyển nó ra ngoài bình, và sử dụng camera tốc độ cao để ghi lại rõ ràng toàn bộ quá trình mục tiêu di chuyển qua các rào cản không gian, thực nghiệm loại này đã có đến mấy ví dụ. Có hàng vạn loại công năng đặc dị chân chính trên cơ thể con người, hiện tại có sáu loại công năng được thế giới công nhận: công năng vận chuyển (ban vận công), không dùng mắt nhận biết hình ảnh, thấu thị, dao thị, dự đoán (túc mệnh thông), tâm linh truyền cảm (tha tâm thông),…

Sự tình loại này trên thế giới có rất nhiều rất nhiều, hãy lấy một ví dụ ở nơi bị hạn chế về tư tưởng như Trung Quốc đại lục: Nhật báo đô thị Sở Thiên của Hồ Bắc đưa tin vào ngày 14/3/2007, một cậu bé bảy tuổi tới từ Hán Xuyên tên là Dư Trác Tuyền có thể nhìn thấu bài poker và mạt chược. Sau khi các chuyên gia y học, những người nghiên cứu khoa học nhân thể và các pháp sư cùng nhau tiến hành nghiên cứu cậu bé, cho rằng cậu bé Trác Tuyền không dùng ma thuật gian lận, xác thực là có công năng cảm ứng.

Trong số các đệ tử Đại Pháp có rất nhiều người xuất hiện các loại công năng. Như huệ nhãn thông, nhìn thấy cảnh tượng ở các không gian khác nhau trong vũ trụ; có người có túc mệnh thông, nhìn thấy được quá khứ và tương lai của bản thân và xã hội; có người có công năng dao thị, thực sự có thể nhìn thấy ở cách xa ngàn dặm. Có vị đệ tử Đại Pháp ở Đông Bắc, đã nhìn thấy trận sóng thần ở Đông Nam Á vào năm đó. Còn có rất nhiều đệ tử Đại Pháp có thể nguyên thần ly thể. Có đệ tử Đại Pháp ở Duy Phường, tỉnh Sơn Đông, nguyên thần ngồi trên đĩa Pháp Luân tới Cát Lâm để trừ ác ma, còn có 19 đồng tu có công năng như vậy, thật sự giống như Tôn Ngộ Không vậy, có thể mời tới Sơn Thần, Thổ Địa, hỏi rõ xem yêu quái đi đâu rồi.

Kỳ thực, mỗi một đệ tử Đại Pháp đều có công năng, chỉ có ở trong mê mới có thể nhìn ra được thái độ chân thực của một người đối với đặc tính “Chân, Thiện, Nhẫn” của Đại Pháp vũ trụ; chỉ có ở trong mê tuyển chọn vị lai, mới có thể có hiệu quả hơn nữa. Những người cố chấp phản đối khí công kia, chính là đang dùi vào sơ hở này, nhảy lên nhảy xuống thậm chí hô hào: “Nhìn xem ai có công năng đặc dị, thưởng tiền bao nhiêu bao nhiêu!” Bởi vì người tu luyện giảng tâm tính, không chấp trước vào tiền, càng không có tâm tranh đấu và tâm hiển thị. Do đó, người có công năng cao thâm là có, chỉ là không để ý tới những nhóm người tiểu nhân, càng thể hiện rõ sự cách biệt rất lớn về cảnh giới.

Học viên Đại Pháp chúng ta trong quá trình tu luyện, cũng có trường hợp cá biệt xuất hiện công năng biểu lộ trong xã hội người thường. Ví dụ, kỹ sư trưởng của Nhà máy Gang thép Hàm Đan là Cảnh Chiến Nghĩa đã nhiều lần nhìn thấy nguyên thần của mình thoát ra khỏi vỏ bọc khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Nguyên thần tới chỗ có thép nóng chảy trong lò luyện thép, trực tiếp quan sát các phản ứng vật lý và hóa học ở vi quan trong quá trình thép nóng chảy, phát hiện ra phương trình phản ứng mới và từ đó áp dụng cho “Phương pháp sản xuất trực tiếp hợp kim sử dụng quặng Silicon-Nhôm-Bari-Canxi-Fe” và hai bằng sáng chế khác. Khi ông ấy đang trong đả tọa nhập định, nguyên thần tới bên ngoài Hệ Mặt Trời, nhìn thấy cảnh tượng, đặc điểm của một số hành tinh. Vào thời điểm đó, nhiều cơ sở như Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa, Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc,… đã mời ông đến giảng dạy, tất cả các buổi thuyết giảng đều có sự tham gia của các phó giáo sư trở lên. Sự việc này đã gây ra ảnh hưởng lớn trong cộng đồng khoa học công nghệ lúc bấy giờ, khiến quan niệm của con người phải thay đổi. Nghĩa là, sự phát triển và tiến bộ của khoa học không chỉ phải tìm kiếm bên ngoài (thực tiễn) mà còn phải tìm kiếm bên trong một cách chủ quan (tu luyện). Sau này, Cảnh Chiến Nghĩa đầu tư thành lập một nhà máy và sử dụng hai phát minh đã được cấp bằng sáng chế của mình. Những điều này đều là có nhân chứng vật chứng. Vậy mà sau khi tà ác bắt đầu bức hại Pháp Luân Công, “Phòng 610” Thiên Tân đã thực hiện những lời đe dọa và hăm dọa tàn ác, bắt ông phủ nhận rằng hai bằng sáng chế được phát minh là nhờ sau khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp trên chương trình “Phỏng vấn tiêu điểm” trên truyền hình, sau đó kết án ông ấy tám năm tù. Kiểu đàn áp cưỡng bức những ý tưởng khoa học mới này không phải là hiếm trong quá trình phát triển của lịch sử loài người. Tuy nhiên, trong thế giới ngày nay, điều đó chỉ có thể xảy ra ở Trung Quốc đại lục độc tài chuyên chế.

Liên quan đến nguyên thần ly thể, có rất nhiều ghi chép trong các phương pháp tu luyện của Phật gia, Đạo gia qua các thời kỳ lịch sử ở phương Đông, ở phương Tây cũng có một số lượng lớn các ví dụ chứng minh. Trong tương lai, khi hầu hết mọi người trong xã hội đều tu luyện Đại Pháp, những công năng đặc dị của con người sẽ ngày càng hiển lộ ra, lúc đó khoa học của nhân loại sẽ bước trên một con đường mới.

Trong những năm trước, Hoa Kỳ và Liên Xô đã bí mật bảo vệ một số người có công năng đặc dị, mục đích là muốn huấn luyện những người tài giỏi này thành những gián điệp đặc biệt, ví dụ như dùng “công năng dao thị” để đánh cắp thông tin tình báo quân sự từ các nước thù địch. Trung Quốc cũng từng làm qua việc này. Thế nhưng, công năng đặc dị của con người là siêu thường, không thể tùy tiện sử dụng bừa bãi trong xã hội người thường. Bởi vì phàm là người có công năng đặc dị, đều là những người có căn cơ tiên thiên tốt, hoặc là do tu luyện chính Pháp mới đắc được. Cũng tức là đã đồng hóa với đặc tính Chân – Thiện – Nhẫn của vũ trụ, mới có được công năng đặc dị. Nếu như vi phạm thiên lý mà loạn dùng, không những không dùng được mà còn mất hết tất cả công năng.

Có thể có người nói: “Cơ thể con người có thể tu luyện xuất công năng đặc dị, có căn cứ vật chất nào không?” Con người vẫn không thể thoát ra khỏi những quan niệm cũ cứng nhắc, mọi thứ đều phải được chứng thực bằng thực nghiệm của thuyết duy vật mới tin. Kỳ thực trong cơn sốt khí công vào những năm đó, đã có rất nhiều khí công sư đã làm qua các bài trắc định của Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc. Trong cuốn Chuyển Pháp Luân cũng viết:

“Trong nghiên cứu của môn vật lý cao năng lượng, người ta nhìn nhận rằng năng lượng chính là những thứ như neutron, nguyên tử. Nhiều khí công sư đã [làm] qua trắc [nghiệm], những khí công sư nổi tiếng cũng đều tham gia. Tôi cũng được đo, đo thấy tia phóng xạ gamma và neutron nhiệt phát ra nhiều hơn vật chất thông thường [phát ra] từ 80 đến 170 lần. Lúc ấy kim của thiết bị thí nghiệm trỏ đến hết mức rồi; vì kim đã trỏ đến tận cùng, [nên] rốt cuộc cũng không biết được [nó] lớn ngần nào. Neutron mạnh mẽ đến nhường ấy, thật quả là khó mà tin nổi! Người ta sao lại phát ra được neutron mạnh mẽ đến thế? Điều đó chứng minh rằng những khí công sư chúng tôi có tồn tại công, có tồn tại năng lượng; điểm này trong giới khoa học kỹ thuật đã chứng thực được”. (Chuyển Pháp Luân)

Đây đều là những sự thật đã được ghi lại vào những năm đó. Đáng buồn thay, những kết quả thực nghiệm này cũng đã bị phá hủy bởi những thiên kiến chính trị ở Trung Quốc đại lục. Giờ đây, các “nhân viên khoa học” của Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, trước “khủng bố đỏ”, cũng chỉ còn cách làm trái lương tâm và không còn dám thừa nhận nữa. Nhưng đây là sự thật lịch sử không ai có thể xóa bỏ được. Tà đảng Trung Cộng luôn hô hào khoa học cũng có tính giai cấp, khoa học cũng phải phục vụ cho đấu tranh giai cấp! Đây chính là “thế giới quan phát triển khoa học” mà tà đảng đang ca ngợi ngày nay.

Người ta hiện nay đều muốn cải thiện trí thông minh và chỉ số IQ của con cái mình. Mọi người đều biết rằng trong đại não của con người có 14 tỷ tế bào, nhưng những tế bào có thể sử dụng thì chưa đến 10%, do đó có nhiều người đang làm các việc như khai phát trí lực cho trẻ từ nhỏ. Thực chất đây chỉ là tích lũy tri thức sớm hơn một chút. Thực sự có thể khai phát tiềm năng của con người thì tu luyện Đại Pháp, trọng đức, tu tâm, trong tầng thứ thấp có thể khai trí khai huệ, xuất hiện công năng đặc dị. Ngày nay, tại các nơi trên thế giới người ta đang mở các trường học Minh Huệ, hàng chục ngôi trường đã được mở ra, kết quả đều rất rõ ràng. Các thiếu niên nhi đồng ở trong trường học Minh Huệ vừa học văn hóa vừa tu luyện Đại Pháp, thân tâm khỏe mạnh, chỉ số IQ được đề cao rõ ràng.

Muốn khai phát tiềm năng về phương diện chủ quan của con người, cần coi trọng hướng nội cầu, cần giảng hướng nội tu tâm. Có rất nhiều ví dụ chứng minh, những thanh thiếu niên học Đại Pháp thông minh nhanh nhẹn, thành tích học tập tăng nhanh và hầu hết đều đạt kết quả xuất sắc. Người cao tuổi học Đại Pháp thì tinh lực sung mãn, tư duy nhanh nhạy. Ở đây chúng tôi có một đồng tu lớn tuổi đã ngoài 80, ông có thể truy cập mạng Minh Huệ hàng ngày, còn có thể đạp xe để ra ngoài giảng chân tướng.

Những nhà dự ngôn trong lịch sử hầu hết đều là tiên tri hoặc người tu Đạo có cảnh giới cao thâm, họ đều có công năng túc mệnh thông, có thể nhìn thấy tương lai và quá khứ của xã hội nhân loại. Sở dĩ những lời dự ngôn được lưu truyền từ đời này sang đời khác có độ tin cậy là bởi vì chúng đã được kiểm chứng nhiều lần qua hàng ngàn năm lịch sử. Ví dụ “Các thế kỷ” của Nostradamus người Pháp, “Mã Tiền Khóa” của Gia Cát Lượng thời Đông Hán, “Thôi Bối Đồ” của Viên Thiên Cang thời Đường, “Mai Hoa Thi” của Thiệu Ung thời Bắc Tống, “Thôi Bi Đồ” của Lưu Bá Ôn thời Minh, còn có Thánh Kinh Khải Hoàn,… đều có thể tra được từ Internet. Điều thần kỳ hơn nữa của những dự ngôn này là, đều không hẹn mà cùng chỉ ra một điểm: Trái Đất ngày nay, nhân loại cho đến toàn thể vũ trụ đều sẽ đối mặt với một đại kiếp nạn, đến lúc đó có Chân Phật là Pháp Luân Thánh Vương hạ thế để cứu độ nhân loại, cũng có ma đỏ từ trong đó mà can nhiễu phá hoại, mà tà ác sẽ bị Trời diệt, chân tướng sẽ hiển lộ khắp thiên hạ. Những dự ngôn ngày còn cảnh tỉnh thế nhân: Trời sẽ diệt Trung Cộng, phàm là những ai hướng về lá cờ máu của ác long màu đỏ (tà đảng) mà phát ra lời thề độc, gia nhập vào tổ chức của nó, đều bị đóng dấu ấn thú. Do đó cần phải mau chóng “tam thoái”, tức là thoái xuất đảng, đoàn, đội của Trung Cộng, tránh trở thành vật tuẫn táng khi Thần diệt trừ tà đảng. Mọi người có thể chờ xem, lịch sử sẽ sớm chứng nghiệm rằng công năng túc mệnh thông là chuẩn xác phi thường.

Khi một người tu luyện ở tầng thứ thấp tức là trong tu luyện thế gian Pháp, công năng đặc dị xuất ra chỉ có thể khởi tác dụng trong không gian này; tu luyện tại tầng thứ cao tức là tu luyện xuất thế gian Pháp, sẽ xuất Phật Pháp thần thông, đó mới là thứ có uy lực vô tỷ, ước chế các tầng không gian; khi tu luyện viên mãn đắc chính quả, mới sẽ trở thành Giác Giả đại triệt đại ngộ, không gì không thể. Ý nghĩa của sinh mệnh con người là phản bổn quy chân, mục đích cuối cùng của tu luyện Đại Pháp là viên mãn đắc Phật quả.

Không lâu nữa Trời diệt Trung Cộng, chân tướng sẽ đại hiển, quan niệm truyền thống của con người sẽ triệt để cải biến, đại đa số con người sẽ tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Lúc đó, tiềm năng chủ quan của con người sẽ khai phát xuất lai, các chủng công năng, thần thông,… xuất ra trong tu luyện đều có thể vận dụng, tạo phúc cho nhân loại, khoa học của tương lai sẽ xuất hiện một diện mạo hoàn toàn mới.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/54246



Ngày đăng: 05-06-2024

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.