Thiên cổ anh hùng Hàn Tín (8): Công cao át chủ



[ChanhKien.org]

Tài thao lược quân sự trác việt và sự mưu trí dùng binh mà các binh gia hậu thế phải kính ngưỡng tôn sùng. (Ảnh: Tân Đường Nhân “Tiếu đàm phong vân” cung cấp)

Công cao chấn chủ, chung thất mông oan (công cao át chủ, bị oan ở nhà chuông)

1. Tề Vương tới Sở, kế du Vân Mộng

Lưu Bang được Hàn Tín cùng vua các chư hầu đề cử, bước lên ngôi vị Hoàng đế, xưng hiệu là Hán Cao Tổ. Đúng như Vũ Thiệp và Khoái Triệt dự đoán, sau khi Lưu Bang giành được ngôi báu, tình cảnh của Hàn Tín ngày càng thê thảm.

Chân dung của Hán Cao Tổ. (Ảnh: Wikipedia)

Kết thúc trận chiến Cai Hạ, quân Hán rút về phía Bắc tới Định Đào, Lưu Bang đã đột nhiên tập kích, xông vào trong doanh trại của Hàn Tín thu hết quyền bính trong tay ông, lại gấp rút đổi đất phong của Hàn Tín từ đất Tề phì nhiêu thành đất Sở, cách xa những vùng đất mà một tay Hàn Tín thu về là Nước Tề, nước Triệu, nước Yên.

Hàn Tín lòng dạ ngay thẳng, đối với sự tuyệt tình đoạn nghĩa của Lưu Bang cũng không oán thán, bình tĩnh trở về cố hương của mình là nước Sở.

Về đến quê nhà, trước tiên ông tìm ân nhân là Phiêu mẫu (người giặt đồ bên sông), tặng cho bà nghìn lượng vàng để hậu tạ. Sau đó lại tìm đến đình trưởng Nam Xương, cho ông ta một trăm tiền, gọi là trả tiền cơm năm xưa. Hàn Tín nói với đình trưởng: “Ngươi làm việc tốt nhưng có thủy mà không có chung (ý có đầu mà không có cuối), chỉ có thể xem là một kẻ tiểu nhân không hiểu nhân tình đại nghĩa.” Cuối cùng ông tìm đến người thanh niên đã bắt ông chui qua háng chịu nhục, người thanh niên này nghe nói tân Sở Vương chính là người bị ông ta làm nhục – Hàn Tín, cho rằng bản thân chết đến nơi rồi, nơm nớp lo sợ đến gặp Hàn Tín. Hàn Tín không làm khó ông ta, còn khen ông ta là tráng sĩ, phong cho ông ta chức “trung úy,” trông coi trị an của kinh thành.

Sau khi giải quyết xong những việc riêng tư này, Hàn Tín bắt đầu cai quản lãnh địa của mình. Ông trước tiên đi tuần tra thị sát đất Sở, giải quyết các vấn đề cấp thiết của người dân sau chiến tranh, thành lập một đội quân để bảo vệ thái ấp, kế hoạch của ông là xây dựng một nước Sở phồn vinh và hùng mạnh.

Hàn Tín và lời đề bạt trong cuốn “Vãn tiếu đường họa truyện” do Thượng Quan Châu khắc họa 120 nhân vật lịch sử. (Ảnh: Phạm vi công cộng)

Nhưng Lưu Bang không hề có ý định để Hàn Tín lên ngôi Vương. Hàn Tín là khai quốc công thần, để xóa bỏ ngôi vương của ông, Lưu Bang buộc cho Hàn Tín tội “mưu phản.”

Vào tháng 12 năm Hán Cao Tổ thứ 6 (201 TCN), Lưu Bang đột nhiên nói với các tướng lĩnh dưới trướng rằng: “Có người tố cáo Hàn Tín mưu phản. Các khanh nghĩ phải xử lý như thế nào?” Những tướng lĩnh này toàn thuộc loại hữu dũng vô mưu, đều hô to “lập tức xuất binh, giết chết tên tiểu tử này!” Lưu Bang tự biết là vô cớ xuất binh, nên trầm mặc hồi lâu, cuối cùng quay qua hỏi kế Trần Bình.

Trần Bình rất giỏi mưu lược, nhưng có tài vô đức. Ngay khi Lưu Bang lên tiếng, ông ta liền biết rằng Hàn Tín kỳ thực không có mưu phản. Sau khi chứng minh suy đoán của mình, ông nói với Lưu Bang: “Quân của bệ hạ không tinh nhuệ bằng quân của Hàn Tín, các tướng lĩnh cũng không ai vượt qua được Hàn Tín, dấy binh tấn công sẽ ép Hàn Tín quyết chiến, như vậy đối với bệ hạ đó là việc nguy hiểm.” Ông ta bày kế cho Lưu Bang giả vờ du ngoạn đi săn ở Vân Mộng, Hồ Bắc và lệnh cho chư hầu đến Trần Địa, Hà Nam để yết kiến. Trần Địa ở biên giới nước Sở, Hàn Tín đến thì có thể bắt ông ta dễ như trở bàn tay.

Lưu Bang vui mừng áp dụng kế sách của Trần Bình, liền cử người báo tin cho Hàn Tín đến Trần Địa tương kiến. Hàn Tín không mảy may nghi ngờ gì, đích thân đi yết kiến. Ngay khi gặp mặt, Lưu Bang đã thét ra lệnh cho các võ sĩ bắt Hàn Tín, Hàn Tín đang kinh ngạc thảng thốt, thì đã phải thúc thủ chịu trói.

Bấy giờ mục tiêu đã đạt được, Lưu Bang cũng không đi săn ở Vân Mộng nữa, mà lập tức dọn đường hồi cung. Hàn Tín khi đó mới nhận ra rằng chuyến đi của Lưu Bang là dành riêng cho mình. Ông vô cùng tức giận hô to rằng: “Quả như người ta nói: “Thỏ chết, chó săn bị hầm; chim cao đã hết, cung tốt bị giấu; kẻ địch bị diệt, mưu thần vong.’ Thiên hạ đã định, ta nay chắc chết!”

Lưu Bang nghe xong, mặt đỏ tía tai mãi không nói lên lời, suy nghĩ hồi lâu mới nói, “Có người tố ngươi mưu phản.”

Lưu Bang thừa biết không có lý do chính đáng mà bắt khai quốc công thần, tất nhiên không thể khiến lòng người khâm phục. Cho nên vừa về đến Lạc Dương ông liền đại xá thiên hạ, nhân đó tha bổng Hàn Tín nhưng không cho về Sở, giáng xuống là Hoài Âm Hầu giữ lại ở đô thành, không thể quay về đất phong, cũng không có quân đội, thực tế là giam lỏng Hàn Tín.

2. Vong Tướng chi tử (cái chết của tướng quân chạy trốn)

Sau khi Hạng Vũ chết, tướng nước Sở là Chung Ly Muội vì tránh họa đã trốn khắp nơi. Lưu Bang do mấy lần bại dưới tay Chung Ly Muội nên ghi nhớ mối hận trong lòng, xuống lệnh truy bắt. Bởi vì Hàn Tín đã từng đầu quân cho Hạng Vũ, trong “Sử ký, Hoài Âm Hầu liệt truyện” của Tư Mã Thiên đã đưa Chung Ly Muội và Hàn Tín liên hệ với nhau, nói Chung trên đường chạy trốn đã quy thuận Hàn Tín. Lưu Bang lệnh cho Hàn Tín bắt giữ Chung Ly Muội, Hàn Tín kháng lệnh bất tuân. Khi Lưu Bang du ngoạn đi săn ở Vân Mộng, Hàn Tín vì sự an toàn của mình đã ép Chung Ly Muội tự sát. Con cháu họ Chung khi biên soạn “gia phả họ Chung” cũng theo cách nói đó, càng làm tăng thêm sự hiểu lầm của người đời. Khảo sát tỉ mỉ, phát hiện thực tế không phải như vậy.

Trong “Sử ký: Tần Sở chi tế nguyệt biểu” (ghi chép sử trong thời kỳ Tần Sở) ghi rõ: “Tháng 9 năm thứ 5, Vương [Hàn Tín] bắt được tướng cũ của Hạng Vũ Chung Ly Muội, trảm ông ta.” Điều này chứng tỏ Chung Ly Muội bị bắt vào tháng 9 năm thứ 5 Hán Cao Tổ. Mà cái gọi là Hàn Tín “mưu phản” được ghi là “nhà Hán năm thứ 6.” Cho nên khi Lưu Bang du ngoạn đi săn ở Vân Mộng, Chung Ly Muội đã chết được hơn một năm rồi, không có chuyện Hàn Tín vì bảo toàn tính mạng của mình mà bức Chung Ly Muội tự sát.

Như vậy có hay không có chuyện Hàn Tín vì thu giữ Chung Ly Muội mà dẫn đến họa sát thân? Đáp án cũng là không. Hai người tuy cùng là thuộc hạ dưới trướng của Hạng Vũ, nhưng một người là đại tướng cao sang, một người là lang trung cầm kích thấp kém, thật khó tưởng tượng giữa hai người này có quan hệ qua lại. Từ đoạn đối thoại Lưu Bang hỏi kế Trần Bình mà nhận định, thì thấy tự thân bọn họ cũng hiểu rất rõ là Hàn Tín chưa có bất kỳ hành vi hổ thẹn nào với Lưu Bang, đây cũng là tiền đề cho kế Vân Mộng thành công. Kế Vân Mộng trên bề mặt xem ra không có sai sót, kỳ thực lại rất nhiều kẽ hở. Vân Mộng cũng chính là động Đình Hồ, tại Hồ Na. Đất phong của Hàn Tín tại Sở, tức là một dải Giang Tô. Lưu Bang từ Quan Trung (thung lũng Quan Trung, Tần Lĩnh, Thiểm Tây) đến Vân Mộng hướng về phía nam, còn đất Sở là hướng đông, hoàn toàn không phải thuận đường. Nếu như Hàn Tín có lưu giữ Chung Ly Muội thì khi Lưu Bang đến, ông nhất định sẽ không thể không phòng bị gì mà ra nghênh đón. Cho nên giả thuyết Hàn Tín “trảm Muội yết thượng” hoàn toàn không đúng.

Bản đồ các nước cuối thời Xuân Thu. (Ảnh: Sholokhov, Benjamin Trovato/ Wikipedia)

3. Sắp xếp lại binh thư

Hàn Tín văn võ song toàn, khi cưỡi ngựa là Thần soái, khi cầm bút như Thái Đẩu. Ông đã cùng Tiêu Hà chỉnh sửa lại luật pháp trong quân, cũng đã cùng với Trương Lương chỉnh lý lại binh pháp để lại từ thời tiên Tần. Trong “Hán thư: Cao Đế ký” còn ghi rõ “Hàn Tín và Trương Lương” chỉnh lý lại binh pháp, từ 182 gia, lược bỏ đi chỉ lấy chỗ cần thiết, định lại còn 35 gia. Điều gọi là “sắp xếp” chính là sắp xếp thứ tự các mục và hiệu đính văn bản. Đây là lần chỉnh lý binh thư cổ đại có quy mô lớn đầu tiên trong lịch sử.

Hàn Tín căn cứ vào “Tư Mã pháp” (binh pháp của Tư Mã Nhương Thư) để phân loại các tư tưởng của binh gia, đem binh pháp phân thành 4 loại: “quyền mưu, hình thái, âm dương, kỹ xảo.” Sau này “Kỷ tấu binh lục” (ghi chép các bài tấu về dùng binh) của Dương Bộc thời kỳ Vũ Đế và những người như Nhậm Hoằng, Lưu Hướng và Lưu Hâm thời kỳ Thành Đế khi hiệu đính chỉnh lý binh thư đều không thoát ly khỏi quy chế mà Hàn Tín đã thiết lập. Loại phương pháp phân loại này đã được hậu thế coi là kinh điển, trở thành quy chuẩn mẫu mực về biên soạn binh thư và lý luận binh pháp.

Hàn Tín cũng đã dùng khoảng thời gian bị quản thúc và ở nhà để viết sách. Ông đã làm được ba thiên binh pháp “Hàn Tín,” tổng kết và dung hợp binh học thời Tiên Tần, khiến cho binh thư thời trước nhà Hán có thể được lưu giữ lại cho đời sau một cách tương đối hoàn chỉnh. Cuốn sách này thuộc về một trong mười ba gia của “Binh quyền mưu.”

Ban Cố giải thích về “Binh quyền mưu”: “quyền mưu giả, dĩ chính thủ quốc, dĩ kỳ dụng binh, tiên kế nhi hậu chiến, kiêm hình thế, bao âm dương, dụng kỹ xảo giả dã.” Nghĩa là “người quyền mưu, lấy ngay chính để giữ nước, lấy mưu kế kỳ lạ để dụng binh, mưu kế trước đánh trận sau, nắm bắt được hình thế, am hiểu âm dương, biết dùng người tài.” Đó chính là điểm tinh túy thực sự trong binh pháp Trung Quốc.

(Đón xem Phần cuối: Hàn Tín – Oan khuất ở nhà chuông)

Bản gốc: https://www.epochtimes.com/gb/16/4/15/n7559802.htm

Do nhóm nghiên cứu về các nhân vật thiên cổ anh hùng của 5,000 năm văn hóa Thần truyền thực hiện



Ngày đăng: 13-08-2022

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.