Kim Cương Kinh | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 24 Apr 2025 07:00:24 +0000en-UShourly1Luận giải “Kim Cương Kinh” (Phần 3)https://chanhkien.org/2025/03/luan-giai-kim-cuong-kinh-phan-3.htmlSun, 09 Mar 2025 03:03:09 +0000https://chanhkien.org/?p=36745Tác giả: Tần Chính [ChanhKien.org] Lời của Ban biên tập: Loạt bài này được viết dựa trên lý giải của tác giả đối với luận thuật trong “Kim Cương Kinh”. Chúng tôi cho rằng bài viết này có giá trị tham khảo nhất định đối với việc giảng chân tướng cho các nhân sĩ trong […]

The post Luận giải “Kim Cương Kinh” (Phần 3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tần Chính

[ChanhKien.org]

Lời của Ban biên tập: Loạt bài này được viết dựa trên lý giải của tác giả đối với luận thuật trong “Kim Cương Kinh”. Chúng tôi cho rằng bài viết này có giá trị tham khảo nhất định đối với việc giảng chân tướng cho các nhân sĩ trong giới tôn giáo nên đã đăng lại tại đây. Đối với các đệ tử Đại Pháp không có liên quan đến việc giảng chân tướng cho các nhân sĩ tôn giáo thì không cần thiết phải đọc. Hy vọng mọi người dĩ Pháp vi Sư, làm tốt ba việc mà Sư phụ yêu cầu chúng ta làm.

(Theo Ban biên tập báo Nhân Dân: “Luận giải Kim Cương Kinh” là những tâm đắc thảo luận nghiên cứu Kinh Kim Cương giữa tiên sinh Tần Chính với bạn bè trong giới Phật giáo).

Đàm luận thứ ba

1. Chúng ta hãy cùng xem phần “Đệ nhị phẩm thiện hiện khải thỉnh phân” (Đoạn thứ 2 phần Tu Bồ Đề thưa hỏi), như đã từng nói ở phần trước, việc phân chia kinh văn thành nhiều “phẩm” (đoạn) là do người đời sau thêm vào, trong đó đã thể hiện sự giải thích kinh văn của người đời sau. Việc này dường như tạo thuận tiện cho người đời sau đọc kinh, kỳ thực cũng đã đặt thêm cái khung giới hạn chúng ta lý giải ý nghĩa của kinh. Nếu chỉ hạn cuộc trong những lý giải ấy thì người đời sau vĩnh viễn bị nhốt trong cái khung ấy. Vì vậy thật ra không nên chia kinh văn thành các đoạn như vậy.

2. Chúng ta hãy xem đoạn kinh văn này: “Thời, Trưởng lão Tu Bồ Đề tại đại chúng trung, tức tùng tòa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng cung kính nhi bạch Phật ngôn: “Hy hữu Thế Tôn! Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phó chúc chư Bồ Tát! Thiện nam tử, thiện nữ nhân, phát A Nậu Đa La Tam miệu Tam bồ đề tâm, ưng vân hà trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?” (Tạm dịch: Khi ấy, Trưởng lão Tu-bồ-đề ở giữa đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, hạ vai phải, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay cung kính thưa với Phật rằng: “Thế Tôn! Đức Như Lai tận tâm bảo hộ tâm niệm các vị Bồ Tát, tận tâm căn dặn các vị Bồ Tát. Bạch Thế Tôn! Người thiện nam, người thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên làm sao trụ lại, làm sao hàng phục tâm kia?”). “Thời” chính là lúc Đức Phật đã chuẩn bị giảng Pháp cho chúng đệ tử, Trưởng lão Tu Bồ Đề đứng lên giữa đám đệ tử, đến trước Đức Phật, vì đệ tử của Phật mặc áo cà-sa là một tấm vải màu vàng dài khoảng một trượng, quấn lên thân thể, có người lộ vai, có người không lộ vai. Động tác ở đây cho thấy Trưởng lão Tu-bồ-đề mặc cà-sa không lộ vai, nhưng vì muốn thuận tiện hành lễ với Đức Phật, nên trước tiên đã tháo cánh áo cà-sa bên phải xuống, sau đó quỳ đầu gối bên phải chạm đất, quỳ lạy một chân, dùng nghi lễ kính Sư của đệ tử nhà Phật song thủ hợp thập cung kính thưa với Đức Phật: “Sư tôn, Bậc Tôn giác ngộ vĩ đại trong thế gian, Ngài vì độ chúng con mà đến thế giới Diêm Phù Đề này, đây là duyên phận hiếm có của chúng sinh, là cơ duyên vô cùng trân quý! Đúng như chúng con thấy, Ngài có Pháp vô lượng biết cách căn cứ vào trạng thái đặc điểm của chúng đệ tử mà chỉ đạo chúng con tu hành, khai thị chân lý cho chúng con. Thưa Sư tôn! Hiện có một vấn đề con cảm thấy nghi hoặc khó hiểu, đó là trong quá trình trợ Sư truyền Đạo truyền Pháp, khi gặp các thiện nam tín nữ phát thiện niệm muốn tu luyện, có thể phát tâm muốn tu luyện thành chính quả, vậy tâm của họ nên lấy đó làm căn cứ, nhưng dựa vào cái gì để kiềm chế được ham muốn và phiền não của con người? Ở đây rõ ràng điều Trưởng lão Tu-bồ-đề hỏi là “tâm thuật”. Lấy thí dụ, tôi phát tâm muốn nghiên cứu thế giới vi quan, vậy tôi dựa vào điều gì làm căn cứ lý luận cơ bản? Đại khái chính là ý nghĩa đó.

3. Phật Thích Ca nghe xong câu hỏi của Trưởng lão Tu-bồ-đề, trả lời rằng: “Thiện tai, thiện tai! Tu Bồ Đề, như nhữ sở thuyết, Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phó chúc chư Bồ Tát, nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết. Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát A Nậu Đa La Tam miệu Tam bồ đề tâm, ưng như thị trụ, như thị hàng phục kỳ tâm” (Tạm dịch: Thiện tai, thiện tai. Tu Bồ Đề, chính như ông nói, Như Lai biết hộ niệm các vị Bồ Tát, biết chỉ giáo các vị Bồ Tát. Bây giờ ông hãy lắng nghe, ta sẽ giải thích cho ông rõ ràng: Nếu như thiện nam thiện nữ thấy được cái tâm giác ngộ mà Như Lai chỉ giáo thì nên tự nhiên an trụ cái tâm đó, nếu như thấy được cái tâm đó thì nên chế ngự nó). Ở đây phải nói rõ rằng tu luyện trong quá khứ, dù là Đạo gia hay Phật gia đều độ phó nguyên thần của con người. Phó nguyên thần không nhập tam giới mà ở ngoài tam giới điều khiển thân thể người tu luyện, nhưng vì không thể tách rời khỏi sự phối hợp với chủ thể của con người, đương nhiên trong giảng Pháp cũng cần phải giảng các nguyên tắc cơ bản trên bề mặt thân thể này, giảng về con người cần tiến nhập vào thiền định tịch mịch, kỳ thực cũng chính là để chủ ý thức bề ngoài của con người không khởi tác dụng, khi đó bên kia (phó nguyên thần) có thể lợi dụng thân thể của chúng ta để tu luyện. Như thế câu “nhữ kim đế thính” (bây giờ chư vị hãy lắng nghe) ở đây, kỳ thực toàn bộ của cảnh giới chân thực đã giảng hết cho Trưởng lão Tu-bồ-đề. Tại sao thế? Vì sự câu thông giữa Phật và Bồ Tát hoàn toàn là một loại tư duy truyền cảm, đồng thời mang theo âm thanh lập thể, trong một nụ cười đã chứa một niệm, thì hoàn toàn đã minh bạch ý cần diễn đạt. Vì Trưởng lão Tu-bồ-đề là đệ tử đạt đến cảnh giới quả vị La Hán tinh tấn hướng đến cảnh giới Bồ Tát, khi Đức Phật nói những lời này thì ở trong không gian khác Ngài đã triển hiện cho trưởng lão biết nên làm thế nào. Vì vấn đề này thể hiện việc Tu-Bồ-Đề đã tìm hiểu đối với Phật Pháp, tập trung vào vấn đề tâm tính cốt yếu, nên Đức Phật rất vui mừng đối với câu hỏi như vậy. Không giống như những câu hỏi trước đây tập trung vào “Thế giới Cực Lạc như thế nào?” “Thế giới Phật quốc ra sao?” mà là tâm pháp trực chỉ Phật tính, đó là nền tảng căn bản của một người tu luyện chân chính, tức tâm Phật là như thế nào? Đó chính là một câu hỏi rất hay, đã hỏi đến thực chất vấn đề. Bởi vậy Phật khen ngợi họ rằng: “Thiện tai, thiện tai! Tu Bồ Đề, như nhữ sở thuyết, Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phó chúc chư Bồ Tát, nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết. Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát A Nậu Đa La Tam miệu Tam bồ đề tâm, ưng như thị trụ, như thị hàng phục kỳ tâm”. Ý nghĩa là như Ngài đã nói, Như Lai biết dựa theo căn cơ đặc điểm của các đệ tử mà dạy theo năng lực khiến con minh bạch Pháp lý, hiện giờ con cần dùng hết tinh thần để nghe! Ta đương nhiên trình bày rõ Pháp lý ấy một cách toàn diện cho con, người phát tâm tu Phật nên trụ tâm như vậy, mọi người nên chế ngự những phiền não ham muốn của mình. Cũng giống như hiện tại chúng ta biểu đạt thông thường: Nên phải là như vậy…

4. Tu-bồ-đề đã hoàn toàn minh bạch, nhưng người khác có minh bạch không? Không nhất định minh bạch. Nên để người khác cũng có thể minh bạch, và để người sau có thể nghe kinh điển như vậy, Tu-bồ-đề đã thỉnh cầu Đức Phật: “Duy nhiên, Thế Tôn! Nguyện lạc dục văn”. Ý là: Sư tôn, con đã minh bạch. Nhưng mà con hy vọng Ngài có thể khai thị diệu Pháp ấy bằng ngôn ngữ, con nghĩ không chỉ riêng con, chúng sinh đều sẽ nguyện ý và rất vui mừng nghe được kinh điển như vậy. Thật ra lúc này Ngài đã dùng tư duy truyền cảm giảng xong, vì Tu-bồ-đề thỉnh cầu Đức Phật dùng ngôn ngữ để biểu thị, nên mới có câu sau. Bởi vì dùng ngôn ngữ của người để biểu đạt Pháp lý cao thâm vốn rất khó, con người dùng cái gọi là suy xét tỉ mỉ để đo lường vấn đề, quyết định đúng sai, còn Phật thì suy xét và hành động đồng thời theo nhiều phương diện. Hơn nữa một sự việc sẽ phải nhìn thấu từ đầu đến cuối. Cho nên, bậc trí giả biết được điểm này, gọi trình tự tư duy của nhân loại là “lôgic nhỏ hẹp”.

5. Chúng ta hãy xem tiếp “Đệ tam phẩm Đại Thừa Chánh Tông Phân” (Đoạn thứ ba Chính Tông của Đại Thừa). Đoạn khái quát này có chút khiến người ta chẳng hiểu gì cả, theo tôi thấy nó hơi giống việc mở rộng cái lý của hệ Ngân Hà thành quy luật phổ biến của vũ trụ mà “có thể đạt được cùng quy luật”. Khái quát như vậy rất dễ hạn cuộc người đời sau, nên không thể áp dụng.

6. Đức Phật nói với Tu-bồ-đề: “Chư Bồ Tát ma ha tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm, sở hữu nhất thiết chúng sinh chi loại, nhược noãn sanh, nhược thai sanh, nhược thấp sanh, nhược hóa sanh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng, nhược phi vô tưởng, ngã giai linh nhập vô dư Niết Bàn nhi diệt độ chi. Như thị diệt độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh, thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu Bồ Đề, nhược Bồ Tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức phi Bồ Tát”. (Tạm dịch: “Đây là điều mà một Đại Bồ Tát nên khắc chế cái tâm ngông cuồng của mình: cái tâm của tất cả các loại chúng sinh, chẳng hạn như chim và côn trùng sinh ra từ trứng, con người và động vật sinh ra từ bào thai, động vật dưới nước sinh ra từ ẩm ướt, thiên nhân do sự chuyển hóa mà sinh ra, bốn loài đều có một cái tâm ham muốn sâu nặng. Ví dụ như chúng sinh ở cõi sắc giới tuy đã không còn cái tâm ham muốn ái dục nhưng vẫn còn sắc tâm. Chẳng hạn như chúng sinh ở cõi vô sắc giới không những không có tình dục mà còn không có sắc thân. Nếu nghĩ đến chúng sinh ở Thượng giới duy chỉ có một niệm; nếu không nghĩ đến chúng sinh trên Thượng giới thì ngay một niệm cũng không có, tĩnh lặng bất động; nếu như tâm cảnh của tất cả chúng sinh trên cõi trời phi hữu tưởng phi vô tưởng tĩnh lặng bất động, và lại không vô tri như gỗ đá v.v. Chúng đều là cái tâm vọng tưởng vô căn cứ, ta sẽ khiến chúng bước vào cảnh giới bất sinh bất diệt, tiêu trừ cái tâm ngông cuồng. Giống như chúng sinh vô lượng vô số vô biên viên tịch như vậy, tuy nhiên trên thực tế, tâm ngông cuồng là tồn tại hư ảo, chúng sinh cũng là tồn tại hư ảo, bản lai là không sinh không diệt, không cần hàng phục, cũng không cần viên tịch, không có bất kỳ chúng sinh nào có thể viên tịch. Ngươi có biết tại sao không? Tu-bồ-đề, phàm là ở cảnh giới nào thì có thể chứng ngộ được sự tồn tại của cái “tôi”, đều là ngã tưởng, chẳng hạn đau khổ hoặc vui sướng, để tự thân ý thức được sự tồn tại của cái tôi thì sẽ không cảm thấy đau khổ hay hạnh phúc. Nếu Bồ Tát có ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng thì không phải là Bồ Tát).

Từ đây trở đi bắt đầu bước vào phần xưa nay khiến người ta khó hiểu nhất của “Kim Cương Kinh”, có biết bao lý giải điên điên cuồng cuồng, biết bao giả tưởng kiêu ngạo hư vô, đều là do không hiểu được kinh này nên miễn cưỡng lấy ngôn ngữ con người để giải thích Pháp một cách không rõ ràng. Năm xưa Lão Tử nói: “Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề, liêu hề, độc lập nhi bất cải, chu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên địa mẫu. Ngô bất tri kì danh, tự chi viết đạo, cưỡng vị chi danh viết đại”. (Diễn nghĩa: Có một vật được sinh ra từ trong hỗn độn, nó tồn tại trước trời và đất, vắng lặng và yên tĩnh, đứng một mình và không thay đổi, vận hành khắp vũ trụ mà không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong trời đất. Ta không biết nó là gì, tạm đặt tên nó là Đạo, miễn cưỡng gọi nó là lớn vô cùng). Thật ra điều này tương tự với cảnh giới chân thực mà Thích Ca Mâu Ni giảng lúc đó chính là miễn cưỡng dùng ngôn ngữ con người mà đo lường Đạo và danh Pháp. Vì là giảng Pháp với các đệ tử thượng tọa bộ đã đạt đến quả vị Bồ Tát La Hán, trạng thái nghe Pháp của họ cũng đã quyết định hình thức giảng Pháp của Thích Ca Mâu Ni, kỳ thực là có biểu hiện trên dưới nhiều tầng. Bậc Giác Giả đã khai ngộ khi giảng Pháp, kỳ thực là tại tầng tầng dưới cảnh giới của Ngài đều đang giảng, nhất là hình thức phổ độ quảng truyền như vậy, đều là như thế, sau này các bậc thượng sư Mật Tông của Phật giáo Tây Tạng truyền Pháp đã lấy hình thức như khẩu quyết và hình vẽ Mandala, cũng đều được kế thừa từ đây. Cho nên, câu thứ nhất chư Bồ Tát ma ha tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm (Đây là điều mà một Đại Bồ Tát nên khắc chế cái tâm của mình!). Phàm là đệ tử của cảnh giới có quả vị đều hiểu rõ. Sở dĩ Đức Phật còn luận giảng điều ấy là vì ưng thuận thỉnh cầu của Trưởng lão Tu-bồ-đề, miễn cưỡng lấy ngôn ngữ con người mà tiết lộ Pháp lý ấy. Nhưng Phật giáo quá khứ cũng chỉ là vì đặt định nền văn hóa cho việc truyền Đại Pháp hôm nay, đồng thời vào thời kỳ ấy cũng không cho chúng sinh biết được nhiều như vậy, vì họ chú trọng tu luyện phó nguyên thần, còn chủ nguyên thần chân chính của con người thì biết được rất ít. Mặc dù họ đọc thấy rất mơ hồ không hiểu nhưng rất nhiều người vẫn thích đọc, càng đọc càng thấy hay, kỳ thực cũng chỉ là một chút cảm giác, tín tức của người ta mà thôi. Mà ý nghĩa chân chính là để phó nguyên thần có thể tu luyện một cách thuận lợi. Phật Pháp là viên dung, tất cả chúng sinh dưới cảnh giới của Ngài nghe được Phật Pháp cũng đều là phúc phận vô lượng, đều có thể giúp họ giác ngộ thăng lên. Mà năm xưa Thích Ca Mâu Ni khai sáng con đường tu luyện khai ngộ, chính là Niết Bàn, chiếu theo cách Ngài nói thì đó là một loại “diệt độ”.

7. Diệt độ là gì? Chúng ta cho thí dụ thì sẽ thấy rất rõ ràng. Vì sinh mệnh được sản sinh trong không gian vũ trụ. Ban đầu sinh mệnh sản sinh ra là phù hợp với đặc tính của vũ trụ, chính là đồng hóa với đặc tính của vũ trụ, nhưng sau khi thể sinh mệnh sản sinh nhiều, thì cũng giống như mối quan hệ giữa người với người, trong đó những sinh mệnh trở thành không tốt, trở nên ích kỷ, nên phải rớt xuống dưới. Khi tình huống ấy xuất hiện với số lượng lớn, các vị Thần ở cao tầng đã sáng tạo ra một không gian tương đối thấp hơn, và đem những sinh mệnh không tốt ấy phong tỏa trong một không gian với vật chất và năng lực tương đối thấp. Vì Thần từ bi nên đã cho họ một cơ hội quay trở về. Cứ như vậy, thuận theo quá trình diễn biến của vũ trụ, sinh mệnh ngày càng trụy lạc bại hoại, tầng thứ không gian ngày càng nhiều, cuối cùng rớt đến nơi con người này. Tam giới này từ trên một tầng diện mà nói chính là đống rác của vũ trụ, nằm ở tầng thứ bề ngoài nhất, thô ráp nhất của vũ trụ, sinh mệnh rớt đến nơi đây, vốn dĩ là bị tiêu hủy hoàn toàn. Nhưng sau này Thần lại phát tâm từ bi, quyết định cấp thêm một cơ hội cho những sinh mệnh ấy, nên đã tạo ra không gian con người này. Lúc ban đầu Thần cũng không nghĩ điều gì khác, chính là tạo một không gian mê nhất, khổ nhất, sinh mệnh bị phong tỏa vào nhục thân thấp kém này, năng lực rất thấp. Con người ở nơi đây thật đáng thương, từ khi sinh ra đều như vậy, mọi người đều như nhau, mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ý chỉ có năng lực thấp khiến con người không thể nhìn thấy không gian khác, việc gì cũng đều dùng phương thức thấp nhất để làm, dùng phương thức thấp để sinh sản nối tiếp đời sau. Thần đã cấp cho con người cơ hội cuối cùng, mong mỏi con người ở trong mê mà ngộ, ngộ được thì có thể quay trở về, ngộ không được thì rớt xuống và bị tiêu hủy. Tự con người rất khó biết được hoàn cảnh ấy, nhưng bậc Giác Ngộ rất biết và thương xót cho họ. Trang Tử từng kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: những con cá sắp chết trong cái ao nhỏ đã cạn nước, nhờ một chút hơi ẩm thổi từ miệng nhau để làm ẩm ướt vảy cá, ông nói, lấy “hơi ẩm để làm ướt lẫn nhau, nước bọt để thấm ướt lẫn nhau” cho là đạo đức và tốt đẹp, chẳng thà thực sự thăng hoa trở về, nhưng chúng “đã quên mất sông hồ rồi”. Sông hồ đối với cá có hàm ý gì? Có nghĩa là tài nguyên vô hạn và không gian tự tại. Con người cũng như vậy, thực sự thông qua tu luyện Chính Pháp để phản bổn quy chân, đó mới là hạnh phúc thật sự. Như vậy cũng chính là nói bản chất của con người trong quá trình rớt xuống, thì giống như viên kim cương rớt vào những thứ ô nhiễm khác nhau, vừa dính lên một lớp bơ, thêm vào một lớp mực, lại nhúng một lớp bùn lầy, cuối cùng dính lên một lớp phân, mỗi một tầng ô nhiễm thực ra chính là thêm một tầng phong tỏa cho linh tính tiên thiên chí thiện viên mãn của bản thân, vậy Thích Ca Mâu Ni áp dụng phương thức nào giúp bạn quay trở về? Chính là diệt độ Niết Bàn, chính là tẩy tịnh bạn, tầng thứ khác nhau cần dùng cách tẩy tịnh khác nhau, đó là cách lý giải tốt nhất về “Pháp vô định Pháp”. Dùng phương pháp rửa sạch phân mà tẩy bơ e rằng không có hiệu quả, mà dùng phương pháp lấy bơ tẩy sạch phân tất nhiên cũng sẽ không có công dụng. Cũng chính là nói Đại Giác Giả xưa nay dạy con người, cảnh giới nào thì dạy họ Pháp ấy, đó cũng là điều rất quan trọng. Con người sau này tại sao rất khó thành tựu? Rất nhiều người tham vọng cao siêu ngưỡng mộ xa vời, vừa vào liền dùng tâm danh lợi của con người muốn tu cao như ý muốn, Tiểu Thừa còn chưa tu được khá, đã nhắm mắt suốt ngày tụng kinh điển Đại Thừa, kết quả là uổng phí công lao, việc gì cũng không thành. Một người ngay cả nghi lễ ở bậc tiểu học cũng chưa trở thành thói quen, một người tâm pháp nhân lễ chưa khắc chế thành tự nhiên, mà đã ngông cuồng luận bàn việc trị quốc bình thiên hạ, bất quá cũng chỉ là kiêu ngạo thiếu hiểu biết mà thôi. Cũng giống như một người mà bốn phép tính cộng trừ nhân chia còn chưa biết, mới biết được vài chữ nghĩa lại muốn vừa vào đã thông suốt môn toán tích phân, sáng tác được những tác phẩm văn chương tuyệt diệu, thì đó là điều không thể làm được. Rất nhiều người còn giảng lung tung bừa bãi về “buông bỏ” ra sao, thật ra họ đâu từng cầm lên? Nói chi buông bỏ xuống?

8. Như vậy “Vô dư Niết Bàn nhi diệt độ chi” (không niết bàn mà là diệt độ) nói một cách đơn giản chính là tẩy sạch bản thân, hiện ra tiên thiên bản lai Phật tính, quá trình, viên mãn tự nhiên và con đường cốt lõi của nó là phương pháp “Giới Định Huệ” mà Thích Ca Mâu Ni đã truyền ra. Vào thời kỳ tu luyện chính thường tại vũ trụ, đây là một đại lộ Chính Pháp, nhưng phương pháp ấy không cách nào chuyển hóa thân thể của tầng thứ hậu thiên khác nhau thành những thứ tốt nhất để mang đi, đó là điều Thích Ca Mâu Ni giảng rõ ràng rằng “sự thực không có chúng sinh nào đắc được diệt độ”. Chúng ta vừa đưa thí dụ về ô nhiễm bơ, ô nhiễm cát bùn, thật ra đối với sinh mệnh mà nói không phải khái niệm là ở bề ngoài sinh mệnh bôi thêm một lớp, mà là những thứ ấy đều sẽ hình thành nên những thân thể tồn tại ở những tầng thứ khác nhau, giống như con người được cấu thành từ toàn bộ tế bào, có tầng diện nguyên tử, tầng diện neutrino v.v… Thí dụ như con người sẽ hình thành cái mà người Giác Ngộ cho là “thân xác thối tha”, công pháp của họ không tu mệnh (cũng chính là không chuyển hóa bản thể) nên đều vứt bỏ cái thân xác này, trong giây phút khai công khai ngộ lập tức bỏ lại cái thân thể được sinh ra từ hậu thiên, và nguyên thần mang theo công mà đi lên. Vậy hòa thượng khai ngộ lại có “Xá lợi tử”, thực chất là sau khi cái đan ấy nổ, toàn bộ các khóa và hàng trăm khiếu trên thân thể đều chấn động mở tung, tức thì bỏ đi bản thể mà viên mãn. Phương pháp ấy cũng chỉ là khai ngộ của cá thể mà nhảy ra khỏi Tam giới, không thể đổi mới triệt để vật chất vũ trụ và dung luyện sinh mệnh để đề cao thăng hoa lên các cảnh giới ở tầng thứ khác nhau.

9. “Hà dĩ cố? Tu Bồ Đề, nhược Bồ Tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng tức phi Bồ Tát”. (Tạm dịch: Vì cớ sao? Tu-bồ-đề, nếu Bồ Tát còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả ắt không phải là Bồ Tát). Đức Phật tiếp tục giải thích rằng tại sao như vậy? Vì con người thông thường có sự phân biệt lẫn nhau, nên tại thế gian con người đương nhiên để ý đến sự phân biệt này, giống như Trang Tử đã nói: Từ góc độ con người mà quan sát, vạn vật tự coi mình là quý trọng nhưng khinh bỉ lẫn nhau, từ góc độ Đạo mà quan sát, thì vạn vật không có phân biệt sang hèn. Gọi là Đạo tức là không có phân biệt cái này với cái kia, chính là cảnh giới thấu suốt toàn trí toàn năng và hoàn mỹ. Bồ Tát chân chính là bậc Giác Giả “Không Tính” cuối cùng viên mãn tự tại, không phải nói họ không có hiện tướng mà là họ đã đồng hóa với tiêu chuẩn Pháp lý của vũ trụ tầng ấy, không còn quan niệm và cách nhìn của con người ở tầng thứ ấy. Thí dụ, nếu có bản ngã thì họ sẽ tự nhiên chấp trước vào cái bản ngã ấy. Nếu chấp trước vào nhân tướng thì sẽ cảm thấy bảy nỗi khổ của con người như sinh lão bệnh tử mà chấp trước vào đó, vẫn chưa hiểu rõ Đạo. Những tình cảnh ta gặp phải trên thế gian đều có thể đem đến cảm xúc, nếu còn chấp trước vào tướng thì sẽ có sự phân biệt về diện mạo và thái độ của người này với người kia, từ đó mà trong tâm có sự đối xử khác nhau. Chấp trước vào thọ mệnh thời gian, tất sẽ không minh bạch được rằng tất cả chỉ là thể hiện trình tự diễn tiến của Pháp trong tầng thứ khác nhau mà thôi, sự viên mãn “Không Tính” cuối cùng của Bồ Tát tuyệt đối không có liên quan với những điều ấy. Vậy bạn phải dùng ngôn ngữ của con người chính là nói nên có một cột “trụ” ở trong tâm, giống như Lão Tử tìm hiểu về “Đạo” vậy, chỉ có thể miễn cưỡng đặt tên là “Không”. Nhưng Không ấy hiển nhiên hoàn toàn là hai sự việc khác nhau với cái mà con người gọi là “không có”, nếu như miễn cưỡng giải thích thì chính là “không chấp trước”. Hơn nữa là “vô lậu”. Tỷ dụ một người tẩy sạch một tầng đến tầng thứ cao hơn, như vậy bất cứ thứ gì của tầng dưới đều không còn nữa, những gì của tầng dưới chính là “không”, hoàn toàn triệt để không còn, nhưng lại là “có” và tồn tại ở tầng cao hơn.

10. Tiếp theo lại bàn về “Đệ tứ phẩm diệu hạnh vô trụ phân” (Phần thứ 4 Diệu hạnh vô trụ). Tại đây tôi dùng cách phân chia này, không phải là thừa nhận nó, mà là để cho thuận tiện, bởi mọi người đã quen với cách phân chia này rồi. “Phục thứ, Tu Bồ Đề, Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ, hành ư bố thí, bất trụ thanh hương vị xúc pháp bố thí. Tu Bồ Đề, Bồ Tát ưng như thị bố thí, bất trụ ư tướng. Hà dĩ cố? Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lượng. Tu Bồ Đề, ư ý vân hà? Đông phương hư không khả tư lượng bất? Phất dã, Thế Tôn! Tu Bồ Đề! Nam Tây Bắc phương tứ duy thượng hạ hư không, khả tư bất? Phất dã, Thế Tôn!” “Tu Bồ Đề! Bồ Tát vô trụ tướng bố thí, phúc đức diệc phục như thị bất khả tư lượng. Tu Bồ Đề, Bồ Tát đản ưng như sở giáo trụ”. (Tạm dịch: Lại nữa Tu-bồ-đề, Bồ Tát nên bố thí vô trước tướng của Pháp Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, cái gọi là bố thí bất trước tướng chính là lục căn phải thanh tịnh, bố thí ly khai sắc, thanh, hương, vị, xúc, phép thuật và hình tướng trần thế, cũng chính là người cho quên cho, người nhận quên nhận và vật cho cũng quên. Tu-bồ-đề! Bồ Tát nên không ngừng bố thí, tại sao vậy? Bởi vì bố thí hình tướng chỉ là giới hạn ở hình tướng, và hình tướng của chúng sinh chỉ là một hạt bụi, ngay cả khi hưởng phúc đức từ điều này cũng có hạn chế. Tu-bồ-đề, ý ngươi như thế nào? Hư không Đông phương có thể suy xét được không?” “Bạch Thế Tôn, không!” “Tu-bồ-đề! Hư không bên các phương Nam Tây Bắc và trên dưới có suy lường được không?” “Bạch Thế Tôn, không!” “Tu-bồ-đề! Bồ Tát bố thí vô chấp trước thì phúc đức cũng vô lượng như thế, chẳng thể suy lường. Tu-bồ-đề! Bồ Tát nên theo lời dạy của ta như ta đã bảo”).

Nhìn thấy Trưởng lão Tu-bồ-đề bước đầu đã lĩnh hội những Pháp lý mà Ngài đã giảng, tiếp theo Đức Phật giảng một cách thâm sâu hơn, nên có từ “phục thứ” (lại một lần nữa). Có thể thấy rằng Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử, Lão Tử, Chúa Giê Su và tất cả các bậc Đại Đức Đại Giác chân chính cũng đều là những bậc “Không Tính” trí huệ viên mãn, Ngài từng bước dẫn dắt, nhắm thẳng vào tình huống cụ thể của chúng sinh mà giảng Pháp phù hợp chứ không bị hãm trong đó. “Phương pháp huấn luyện” hiện đại do phương Tây phát triển kỳ thực không có gì mới, những lý niệm cốt lõi “phân tách, vị tha, khai sáng” thì trước đây các Giác Giả đã nhắc đến rồi, nhưng thế nào là “vị tha”? “Khai sáng” cái gì, nếu người “huấn luyện” không thật sự ngộ Đạo, mà chỉ quan tâm công danh lợi lộc hoặc lợi ích trước mắt, thì vận dụng phương pháp này hiệu quả cũng rất thấp. Giống như Yoga vốn là môn tu luyện của xã hội nhân loại thời kỳ trước, nhưng trong thời kỳ này cho đến hiện tại lại bị con người biến thành hoàn toàn khác hẳn, người ta đều cho rằng tập Yoga để tăng cường sức khỏe và giảm béo. Chân Pháp là đấng sáng tạo nguyên thủy có ở khắp mọi nơi, trong tất cả mọi vật, trong các trạng thái tồn tại của bản nguyên vật chất và Pháp tại mỗi một tầng, thật ra đó là thứ “không gì không bao hàm, không gì bị bỏ sót”. Đạt đến tầng ấy kỳ thực cũng chính là đồng hóa với Pháp lý của tầng ấy, công lực vũ trụ và trí tuệ của tầng ấy sẽ mở ra cho bạn dùng. Đó chính là thực chất vấn đề. Vậy đạt đến cảnh giới của Bồ Tát Pháp, đối với Pháp cần phải hiểu “vô sở trụ” là ý gì đây? Khổng Tử trong những năm cuối đời đã nói: “30 tuổi có thể tự lập, 40 tuổi không bị mê hoặc bởi những hiện tượng bề mặt của ngoại cảnh, 50 tuổi hiểu được thiên mệnh là gì, 60 tuổi có thể lắng nghe và đối đãi chính xác với những ý kiến khác nhau, 70 tuổi có thể làm theo ý muốn của mình mà không vượt ra ngoài khuôn phép”. Đối chiếu với những lời này, thật ra đó chính là một hình thức đồng hóa tự tại viên mãn thực sự, tất cả mọi thứ bên dưới tầng thứ của mình họ đều biết, đều có thể làm, đều biết được làm thế nào mới là tốt nhất. Pháp không còn là nguyên tắc quy định bề ngoài nữa mà là Phật tính bên trong, giống như nước vậy, nước không có hình dạng nhưng chứa trong vật nào thì có cùng hình dạng với vật ấy, có thể dung chứa tất cả mọi vật, cũng có thể viên dung tất cả. Đạt đến cảnh giới như thế quả thật không còn chấp trước nào nữa, ở trong cảnh giới ấy cũng sẽ thể hiện bản sự rất lớn, cái gì cũng làm được, cái gì cũng hài hòa. Tại đây, Đức Phật đề cập đến hư không, kỳ thực đó không chỉ là sự miêu tả mà cũng là phép tu từ tỷ dụ, nó chính là không nhưng chứa đựng tất cả các thứ hữu hình. Trạng thái ấy, chính là xả đắc bất trước tướng mà Phật giáo giảng, nhiều người không lý giải được “trước tướng” là gì, có những người ngay cả những thứ trước mắt cũng không hiểu, thực chất chính là chấp trước. Bất trước tướng chính là không chấp trước. Vậy giảng đến đây thì cũng rõ câu “Dung thiên dung địa vu nhân hà sở bất dung” (Bao dung với trời đất tại sao không bao dung với con người), ở trên cảnh giới Tự Không Tính Viên Mãn để phán xét tất cả thì tự nhiên sẽ nhìn thấy sự ngu dốt và đáng thương của chúng sinh trong các tướng khác nhau, đương nhiên Đức Phật viên mãn tối thượng sẽ siêu vượt lên cao đứng riêng ra mà “cười quá khứ, cười hiện tại, cười nhạo những kẻ nực cười ở nhân gian”. Phương Tây có câu ngạn ngữ: “Con người hễ suy nghĩ, Thượng Đế liền cười”, cũng là nói ý này. Tại cảnh giới hoàn toàn “Không Tính” và “toàn tri” (hiểu biết sâu sắc về mọi thứ) hoàn toàn khác với bất cứ lối nhận thức cục bộ nào. Lúc ấy sẽ biết được sự biến đổi thực sự của Thiên ý, chư Phật và Bồ Tát cũng phải hành sự theo ý trời, bản thân họ cũng là sản phẩm và người bảo vệ Đại Pháp của vũ trụ. Nhìn từ cảnh giới cao hơn, họ cũng chỉ là các lạp tử tồn tại của tầng thứ khác nhau trong Pháp vũ trụ. Giống như suy nghĩ của biển khác với suy nghĩ của cá voi dưới biển, cá voi tuy là sinh vật lớn nhất dưới biển, nhưng sự tồn tại của nó là sống nhờ vào biển, nó rất có thể cho rằng cách nghĩ của bản thân chính là cách nghĩ của biển cả, thật ra không phải. Đó là cách nhìn “Không Tính” ở tầng diện cao hơn. “Không Tính” không phải là không có thứ gì, mà là không chấp trước vào thứ gì. Lúc này có thể lý giải một chút ý nghĩa của lời Phật Chủ dạy “Chấp trước không còn mới là chân không”. “Xả bỏ hết thảy mới là Pháp lý cao nhất của vô lậu”. Nhưng Pháp của quá khứ là giảng cho phó nguyên thần, hôm nay chúng ta giải thích kinh này, không phải vì giảng giải kinh mà để hiểu nó, chính là để khôi phục trở lại mục đích chân chính của việc truyền bá Phật giáo, quy chính nhận thức của con người nhằm giải khai những sai lầm trong lịch sử, khiến chúng sinh được thức tỉnh. Bố thí ở đây cũng chính là giúp Phật truyền Pháp độ nhân.

11. Thế nào là “Bất trụ tướng bố thí”? Chúng ta có thể đưa vài thí dụ để nói rõ. Ví như người không ăn cơm sẽ chết đói, nhưng bạn yêu cầu họ ăn một tấn lương thực trong một bữa, cho dù toàn là nhân sâm, sơn hào hải vị thì họ cũng sẽ bị chết vì no. Một chiếc thuyền buồm nhỏ chỉ có thể chở năm người, nhưng bạn lại nói thuyền đã là dùng để chở người tại sao không thể chở 50 người? Vì có thể xảy ra tai nạn. Một người đưa cái ly nhỏ để xin một ly nước, bạn lại nói: Vâng, tôi sẽ đi về phía Đông đến Ngô Việt nhờ Long Vương dẫn nước ở biển Đông để cứu anh. Tủ lạnh là tốt, có thể bảo quản thực phẩm lâu hơn một chút, nhưng bạn mắc sai lầm khi đông lạnh tất cả những thứ không thích nghi với nhiệt độ đông lạnh, kết quả sẽ phát hiện ớt, cải bắp hỏng rất nhanh vì khi bạn cấp đông chúng thì còn hỏng nhanh hơn ở nhiệt độ bình thường. Bạn cũng không thể cho rằng đông lạnh sẽ giúp bảo quản tốt hơn, nếu làm trứng gà đông lạnh, có thể chúng hoàn toàn hỏng không thể ăn được. Trí tuệ ấy, kỳ thực Nho gia Đại Thành gọi là “Trung dung”, trung dung thực sự không đơn giản là ở ngay chính giữa, thậm chí là trung lập không thiên về phía nào, mà là “Không Tính” vô chấp trước. Vậy trí tuệ ấy thật sự mọi người đều có sẵn. Thí dụ nói về phương diện sinh hoạt hàng ngày như ăn, mặc, ở, đi lại, rất nhiều người hiểu được cư xử đúng mực và vừa phải, làm việc biết nhập gia tùy tục, không rập khuôn máy móc, lấy cái gọi là dầu cù là xoa để trị bách bệnh, hoặc nhận định nhân sâm chính là vị thuốc tốt nhất, dùng để trị tất cả các loại bệnh, đó đều là quan điểm cứng nhắc bảo thủ và thiếu hiểu biết. Thật ra trị bệnh cảm, có lẽ cây sài hồ không đáng giá lại có hiệu quả hơn nhân sâm. Trong công việc, trí tuệ của Trung Quốc xưa nay đều nói “Nhập hương tùy tục”, “Nhân địa đáo trực” (tương tự như “Nhập gia tùy tục, qua sông tùy khúc”) và “Đạo thuận theo tự nhiên”, thật ra là cùng một nội hàm với “Bất trụ tướng bố thí”, mà tâm thái của bố thí chính là hoàn toàn mở rộng ra, Trung Quốc cổ xưa gọi là “Công”. Đạo thuận theo tự nhiên và Pháp vận dụng tự nhiên, thân tâm chí công vô tư, chính là tâm thái ấy. Đã hiểu rõ điểm này thì sẽ không cứng nhắc mà dùng cảm tình của con người để xem xét đối đãi với trí tuệ chân chính. Đối với Đại Giác không tính viên minh, trí tuệ của Ông chính là vô hạn, dùng lời của Khổng Tử mà nói thì chính là “Quân tử vô sở bất dụng kỳ cực” (Quân tử khi làm một việc gì thì phải làm mọi cách để đạt được mức độ hoàn hảo). Tất cả mọi thứ xuất hiện đều có tác dụng của nó, đều có thể đem nó dùng đến mức tốt đa để “hiểu lý của tạo hóa thiên địa”, khiến sinh mệnh giác ngộ thăng hoa.

12. Hiểu rõ điểm này vậy thì chúng ta lại xem “Đệ ngũ phẩm như lý thực kiến phân” (Đoạn 4 thấy lẽ thật đúng lý). “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Khả dĩ thân tướng kiến Như Lai phủ? Phất dã, Thế Tôn! Bất khả dĩ thân tướng đắc kiến Như Lai. Hà dĩ cố? Như Lai sở thuyết thân tướng tức phi thân tướng. Phật cáo Tu Bồ Đề: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng tắc kiến Như Lai”. (Tạm dịch: Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Có thể do thân tướng mà thấy Như Lai chăng? Bạch Thế Tôn, không phải vậy. Không thể do thân tướng thấy được Như Lai. Vì cớ sao? Như Lai đã nói thân tướng tức không phải thân tướng. Phật bảo Tu-bồ-đề: Phàm những gì có tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai).

Giác Giả giảng Pháp dạy dỗ từng bước, “Tu-bồ-đề! Ư ý vân hà?” Ý là: Tu-bồ-đề, ông đã hiểu rõ rồi chứ? Có nghi vấn gì không? Thấy họ đã không có nghi hoặc, tiếp theo lại nêu vấn đề, kỳ thực quá trình triển khai của “Kim Cương Kinh”, về phương pháp và trí tuệ đó chính là “kỹ thuật huấn luyện” vô cùng hoàn mỹ, Đức Phật dùng nó để giúp Tu-bồ-đề làm sáng tỏ những suy nghĩ và ý tưởng của mình. Ông hỏi thêm “Khả dĩ thân tướng kiến Như Lai phủ?”. Ở đây có hai ý, thứ nhất là người tu luyện nếu bản thân còn chưa đạt đến viên mãn tối thượng Không Tính, thì luôn luôn sẽ dùng cách nghĩ của người (thông thường là tình cảm tôn kính của con người) để nghĩ về Đức Phật, đồng thời hy vọng có thể nhìn thấy hoặc được gia trì, thật ra cũng đều là hữu cầu, là một loại tham vọng không chính đáng, nhưng bản thân luôn luôn không nhận thức được. Đó là một chướng ngại. Mặt khác, trạng thái tồn tại tột cùng của Như Lai tại Pháp giới là gì? Điều mà mọi người nhìn thấy giống như tượng khắc vậy chăng? Vậy Pháp của Ông chẳng lẽ có thể lấy phương thức hạn định một cách hữu hình đó sao? Đó cũng là một chướng ngại về lý giải Phật Pháp của người tu luyện. Bởi vì “Lấy Đạo mà quan sát từ góc độ tự nhiên, vạn vật không phân biệt sang hèn”. Phật Chủ giảng: “Không phải nói sinh mệnh lớn mới đáng quý, nhỏ thì không đáng quý”. Thật ra tất cả sinh mệnh, tất cả vạn vật đều là biểu hiện trạng thái tồn tại của Pháp vũ trụ, sự diễn biến tiến hóa của chúng đều tuân theo nguyên tắc của Pháp. Nhưng mà, vì hạn chế bởi tầng thứ và cảnh giới của Tu-bồ-đề, đối với Pháp mà Đức Phật giảng lúc bấy giờ, chỉ có thể là một loại lĩnh hội và lý giải, vẫn còn chưa kịp chứng thực, cho nên họ nói như vậy “Như Lai sở thuyết thân tướng, tức phi thân tướng” (Tạm dịch: Thân tướng mà Như Lai nói tức là không phải thân tướng). Ý nghĩa là gì? Chẳng lẽ nói thân tướng của Như Lai là giả sao? Kỳ thực điều này có thể hiểu từ những câu kệ mà Phật Di Lặc đã nói trước khi Niết Bàn viên tịch, Di Lạc nói: “Di Lặc chân Di Lặc, hóa thân ngàn trăm ức, thời thời bả thị nhân, thế nhân tự bất thức” (Tạm dịch: Di Lặc Di Lặc chân chính, hóa thân trong hàng trăm tỷ người, luôn hiển lộ cho mọi người, nhưng con người thế gian lại không biết”. Trong tất cả mọi thứ đều có thể biểu hiện, mọi hình thức thể hiện đều có thể được vận dụng mà không chấp trước, Pháp của Như Lai dưới Ngài cũng là không gì không bao hàm, không gì bị bỏ sót, Ngài có thể ở dưới cảnh giới của Ngài triển hiện tầng tầng đều là Ngài, cũng có thể không triển hiện, cũng có thể lựa chọn triển hiện, Ngài là Tự Tại Không Tính Viên Dung. Thân tướng của Ngài là gì? Chân thân tướng của Ngài rất khó để người bình thường nhìn thấu. Cho nên Đức Phật bảo với Tu-bồ-đề rằng: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng, tắc kiến Như Lai” (Phàm có tướng đều là vô căn cứ. Nếu thấy các tướng không phải tướng thì tức là nhìn thấy Như Lai). Hư vọng, là hình tượng biến hóa do sự vọng tưởng của nhân tâm, nếu có thể thấy vẻ đẹp của thiên địa, bách khoa toàn thư của cổ kim, không gì không bỏ sót, lúc ấy mới biết thân tướng chân thực của Như Lai. Đó là một chứng minh thực tế, tuyệt đối không phải một cuộc nói chuyện, cũng tuyệt đối không phải hư không vọng tưởng của con người. Vì thành tựu cảnh giới của Phật Đà, nên thân thể của Ngài được cấu thành từ vật chất tốt nhất của vũ trụ, vũ trụ bất hoại Ngài bất hoại. Phật Chủ giảng: “Như Lai là tên gọi của thế nhân bước theo chân lý như ý mà đến”, và Đức Phật thật sự, Ngài là bậc bảo vệ vũ trụ, chịu trách nhiệm tất cả nhân tố chính diện trong vũ trụ”. Ngài là năng lực vô hạn, đồng thời cũng là Pháp Vương kiểm soát, điều khiển Pháp Lý chân thật như ý ở tầng của mình, mà cảnh giới này, lại không phải là cõi hư không mà mọi người nghĩ đến, mà lại là cảnh giới của bậc Giác Giả không chấp trước mà viên dung đối với tất cả cảnh giới phía dưới.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48443

The post Luận giải “Kim Cương Kinh” (Phần 3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luận giải “Kim Cương Kinh” (Phần 2)https://chanhkien.org/2024/10/luan-giai-kim-cuong-kinh-phan-2.htmlSat, 19 Oct 2024 23:53:17 +0000https://chanhkien.org/?p=34748Tác giả: Tần Chính [ChanhKien.org] Lời của Ban biên tập: Loạt bài này được viết dựa trên lý giải của tác giả đối với luận thuật trong “Kim Cương Kinh”. Chúng tôi cho rằng bài viết này có giá trị tham khảo nhất định đối với việc giảng chân tướng cho các nhân sĩ trong […]

The post Luận giải “Kim Cương Kinh” (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tần Chính

[ChanhKien.org]

Lời của Ban biên tập: Loạt bài này được viết dựa trên lý giải của tác giả đối với luận thuật trong “Kim Cương Kinh”. Chúng tôi cho rằng bài viết này có giá trị tham khảo nhất định đối với việc giảng chân tướng cho các nhân sĩ trong giới tôn giáo nên đã đăng lại tại đây. Đối với các đệ tử Đại Pháp không có liên quan đến việc giảng chân tướng cho các nhân sĩ tôn giáo thì không cần thiết phải đọc. Hy vọng mọi người dĩ Pháp vi Sư, làm tốt ba việc mà Sư phụ yêu cầu chúng ta làm.

(Theo Ban biên tập báo Nhân Dân: “Luận giải Kim Cương Kinh” là những tâm đắc thảo luận nghiên cứu Kinh Kim Cương giữa tiên sinh Tần Chính với bạn bè trong giới Phật giáo).

Đàm luận thứ hai

1. Tiếp theo chúng tôi sẽ giải thích cụ thể về “Kim Cương Kinh”. Giáo đồ chân chính của Đức Phật nhất định phải hiểu rõ rằng khi Đức Phật thuyết Pháp giảng Kinh, Ngài đều đã nói rõ rằng “Ngã thuyết pháp như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả hà huống phi pháp” (tạm dịch: Tất cả Pháp ta giảng ra giống như chiếc bè qua sông, Pháp còn nên xả huống chi không phải Pháp). Ngài chính là muốn mọi người nhận thức chân lý của vũ trụ mà Ngài giảng, dùng nó để tu luyện, thực sự hiểu Đạo và khai ngộ, chứ tuyệt đối không phải dùng tình cảm người thường mà làm theo lời Ngài giảng, còn bản thân không hiểu rõ ý nghĩa chân thật, chỉ biết mù quáng đọc thuộc lòng, không có cách nào hiểu được nội hàm chân chính của những lời Ngài giảng để tu thân luyện Đạo (người xưa làm như vậy là vì tu luyện phó nguyên thần, nói thẳng là không phải chủ ý thức tu luyện; trên thực tế trong lịch sử chưa từng có người tu thành, người tu thành chỉ là phó nguyên thần mượn cái thân người này để tu luyện chứ không nhập Tam giới, thành tựu trong lịch sử xưa nay đều như vậy). Khi thực sự có người có thể khai mở chính kiến, nhưng lại do đụng chạm đến danh lợi tình của con người, động đến tâm của người phàm tục mà phản đối một cách không lý tính, kỳ thực cũng bất quá là mượn danh nghĩa của Phật, thực chất bên trong cái mà họ luôn luôn duy hộ là lợi ích và hư danh của bản thân, là cảm tình và kiêu ngạo ngông cuồng của bản thân mà thôi. Từ xưa đến nay đã có rất nhiều người giải thích về bộ kinh này, nhưng người có trí tuệ cần phải biết rằng, chân lý là bất biến, không vì sự khác biệt về thời gian xưa nay mà giải thích khác nhau, những gì người xưa làm ra không nhất định đều là vàng ngọc tinh xảo, tất nhiên cũng có cả rác rưởi cặn bã, điều này bạn không thể không thừa nhận. Người thời nay nếu thấu hiểu chân lý của vũ trụ, thì điều họ nói ra cũng là lời đại Đạo còn mãi muôn đời. Cho nên Khổng Tử nói: “Thuật nhi bất tác, thiết tỉ ngã ư Lão Bành” (tạm dịch: Truyền lại Đạo của các bậc Tiên vương mà không tự mình sáng tác, tôi thầm tự ví bản thân với Lão Bành).

2. Trước hết chúng ta xem đoạn thứ nhất:

“Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại Xá Vệ quốc Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên, dữ đại tỳ kheo chúng thiên nhị bách ngũ thập nhân câu. Nhĩ thời Thế Tôn thực thời; trước y trì bát, nhập Xá Vệ đại thành khất thực, ư kỳ thành trung; thứ đệ khất dĩ, hoàn chí bổn xứ. Phạm thực ngật, thu ý bát, tẩy túc dĩ, phu tòa nhi tọa.” (Tạm dịch: “Tôi nghe như vậy: Một hôm đức Phật ở nước Xá Vệ tại rừng Kỳ Thọ trong vườn Cấp Cô Độc cùng với 2.500 chúng đại Tỳ Kheo. Khi ấy đến giờ ăn, Đức Thế Tôn, Ngài mặc y mang bát vào đại thành Xá Vệ khất thực. Trong thành ấy, ngài theo thứ tự ghé từng nhà khất thực xong rồi trở về tịnh xá. Ăn cơm xong Ngài dọn dẹp y bát, rửa chân tay, sắp xếp chỗ ngồi rồi tọa thiền”).

“Như thị ngã văn” có nghĩa là tôi đã nghe được bộ kinh này từ đức Phật vào khi đó. Tại sao phải thêm bốn chữ này ở đầu? Vì năm đó trong quá trình Thích Ca Mâu Ni dẫn theo các đệ tử truyền Pháp cũng đã phát hiện một vấn đề, đó là các đệ tử khi giúp Ngài truyền Pháp độ nhân luôn luôn thuận miệng nói ra Pháp mà đức Phật giảng, làm người khác không biết rõ lời đó là do ai nói. Như vậy một mặt điều này dẫn đến sự sùng bái sai lầm, mặt khác, bởi vì sự tu luyện của các đệ tử chưa cao, nên khi họ thuật lại lời của Thích Ca Mâu Ni mà không nêu rõ đó là lời Thầy giảng, vì vậy đã không có nhân tố và lực lượng của Phật Thích Ca Mâu Ni trong ấy. Bản thân họ được chúng sinh trong mê sùng bái cũng lại nảy sinh tâm lý hiển thị và hoan hỷ, đây là cái tâm rất xấu, vô tình làm trái với lời Thầy dẫn đến loạn Pháp. Theo thời gian lâu họ thậm chí còn trộn lẫn những điều mà họ đã ngộ được ở cảnh giới tương đối thấp vào Pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng, nên rất nhanh chóng làm rối loạn Pháp của Thích giáo. Cũng giống như Nho giáo sau khi Khổng Tử mất, một số đệ tử đưa Hữu Tử thay thế vị trí của Khổng Tử, vì họ cảm thấy lời nói của Hữu Tử giống như Khổng Tử, sau này mới phát hiện ra điều đó hoàn toàn sai lầm. Thạch anh và kim cương có ngoại hình giống nhau, dường như thể hiện cùng độ bóng nhưng tính chất thực tế là hoàn toàn khác nhau. Vì vậy trước khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni viên tịch niết bàn Ngài đã thuyết giảng cho Ananda đệ tử hầu cận bên cạnh Ngài một bộ kinh điển cuối cùng và cũng rất quan trọng trong cuộc đời Ngài, gọi là “Đại bát Niết Bàn Kinh” (Niết bàn Kinh). Trong bộ kinh này có những khai thị rất rõ ràng về việc truyền bá Thích giáo như thế nào sau khi Ngài nhập niết bàn và các đệ tử làm thế nào để nhận thức được tương lai của Phật giáo (“Niết Bàn Kinh” được truyền lại sau này, có những chùa đã cất giữ đến 36 quyển, kỳ thực hầu hết đều là người đời sau mượn danh làm giả, hãy thử nghĩ Phật Đà trước lúc lâm chung liệu có thể giảng nhiều lời như vậy chăng? Đâu có nhiều lời giảng như vậy? Giống như Chu Hy đã nói với đệ tử trước khi lâm chung, cũng chỉ là vài chục chữ, chủ yếu giảng đại ý làm sao để tu thân thành Thánh. Các bậc Thánh hiền xưa nay đều như vậy). Bộ kinh ấy có ba phương diện lớn mà người đời sau cần chú trọng. Thứ nhất chính là liên quan đến vấn đề lưu truyền Phật giáo, Thích Ca Mâu Ni biết Pháp của Ngài sẽ lưu truyền đến Trung Quốc, Ngài đã giảng rằng vùng đông thổ Trung Quốc sẽ là nơi thắng địa của Pháp của Ngài. Vấn đề thứ hai vô cùng quan trọng là vấn đề các tăng nhân Phật giáo phải tu như thế nào sau khi Ngài niết bàn và quản lý tăng đoàn ra sao. Ngài đã giảng ba điểm:

(1) Sau khi ta niết bàn, các đệ tử phải “lấy giới làm thầy”, nỗ lực tu hành dựa vào Giới Định Huệ;

(2) Mỗi khi trích dẫn Pháp của ta giảng, nhất định phải thêm “Như thị ngã văn” ở trước, để tránh sai sót hỗn loạn.

(3) Đối với những kẻ loạn Pháp hoại Giáo, tất cả phải áp dụng phương pháp “mặc tấn chi” (chính là mặc kệ họ, bài trừ họ, không cấp cho họ thị trường).

Bởi vì năm xưa Thích Ca Mâu Ni không giảng đến thể hiện chân thực của Pháp lý vũ trụ tại tầng của Ngài, cho nên đối với chủ thể bề ngoài của con người không hiểu rõ nguyên nhân mà nói thì đọc toàn bộ “Kim Cương Kinh” chỉ lờ mờ chẳng hiểu gì, vì chỉ có phó nguyên thần không nhập Tam giới mới hiểu rõ. Mà bề ngoài của con người chỉ có một chút cảm giác, bởi vì con người có tình cảm rất phong phú, tác dụng của tình cảm sẽ sinh ra định kiến rất mạnh mẽ, có những điều chúng ta không hiểu rõ nhưng vì mọi người bảo sao hay vậy nên chúng ta càng thần thánh hóa nó. Kỳ thực năm xưa Thích Ca Mâu Ni cũng vì chịu hạn chế bởi các nhân tố của cựu vũ trụ nên có rất nhiều việc còn chưa làm được, nhưng Ngài đã để lại cho con người giới luật. Nếu cứ theo giới luật mà làm thì kỳ thực con người đã có thể đạt được tiêu chuẩn của người tu luyện rồi. Mặc dù nói rằng chủ thể của các đệ tử đã chuyển sinh và tu luyện lặp đi lặp lại trong 2500 năm qua, nhưng họ chưa thực sự được cứu độ, những người được cứu độ đều là phó nguyên thần. Nhưng Phật Thích Ca Mâu Ni biết được việc Phật Chủ hạ thế Chính Pháp trong thời kỳ mạt pháp, nên Ngài đã an bài tất cả cho đệ tử của Ngài một cách tỉ mỉ cụ thể: các đệ tử chuyển sinh tu luyện lặp đi lặp lại, mỗi một đời đều rất khổ, vì mỗi một đời trong thân thể của họ đã tu xuất được một Đại Giác Giả, vậy nên uy đức đã tích tụ được là vô hạn. Sau khi viên mãn Ngài không bao giờ rời khỏi Tam giới, tại Vô Sắc giới, nơi cao nhất trong Tam giới, một tầng trời đã được sáng tạo ra, gọi là Đại Phạm Thiên, ở đó Ngài luôn luôn dõi theo đệ tử của Ngài. Đệ tử của Ngài đều có thọ ký, trên trán có một phù hiệu chữ 卍 của nhà Phật. Đến cuối cùng khi truyền Đại Pháp, Ngài đã an bài cho các đệ tử đồng hóa với Đại Pháp, cuối cùng Ngài sẽ dẫn đệ tử của Ngài rời khỏi Tam giới. Đệ tử của Ngài thấp nhất cũng phải tu đến thế giới Đại Phạm (ở trên tầng thứ sáu của vũ trụ), quả vị thành tựu được là phi phàm. Bộ phận quan trọng thứ ba, chính là trong bộ kinh ấy đã giảng về quá trình Thành Trụ Hoại của bộ Pháp do Thích Ca Mâu Ni truyền, tức là vấn đề vận mệnh của Phật Pháp. Trong 500 năm sau khi Thích Ca nhập niết bàn là thời kỳ “Chính Pháp” của Thích giáo, điều này hoàn toàn khác với Chính Pháp của cả vũ trụ mà chúng ta nói đến hôm nay. Lúc bấy giờ đó chỉ là sự quy chính của một bộ phận của tiểu vũ trụ, vả lại thể hiện tại thế gian chỉ là Bà La Môn giáo đã bại hoại rồi. Tại bộ phận này của Pháp giới, Phật Pháp do Phật Thích Ca Mâu Ni truyền ra là để quy chính. Nó giống như là đã thay bộ y phục mới, chỉ có thế thôi. Thí dụ, nếu một cô gái đang ở độ tuổi xinh đẹp nhất như nàng Tây Thi, lúc đó đổi bộ y phục tốt hơn cho cô, thay thế bộ y phục cũ của cô, đó là một việc thực sự tốt. Nhưng nếu như cô ấy đã già nua lụ khụ, thì dù đổi bộ y phục đẹp như tiên nữ cho cô cũng hoàn toàn vô nghĩa (không khiến cô ấy đẹp hơn được). Chính Pháp hôm nay đúng là canh tân tái tạo triệt để, hoàn toàn không có quan hệ gì với tất cả mọi thứ của cựu vũ trụ, hoàn toàn không có quan hệ gì với lịch sử của cựu vũ trụ, phương thức áp dụng cũng khác, đó chính là vì sự từ bi của Phật Chủ đã cấp cho các sinh mệnh của cựu vũ trụ một cơ hội để nhận thức và đồng hóa với Pháp mới, chứ không phải như quá khứ áp dụng biện pháp hủy diệt triệt để rồi làm lại từ đầu. Nghĩa là dựa vào những gì Thích Ca Mâu Ni giảng, thì Pháp của Ngài trong thời gian 500 năm sau khi Ngài niết bàn là thuộc về thời kỳ “Chính Pháp”, chính là Pháp này của Ngài đã được chúng Thần của vũ trụ xác lập thành Chính Đạo Chính Pháp để cứu độ chúng sinh trong Pháp giới. Trong giai đoạn này, người có căn khí vừa nghe Pháp của Ngài giảng thì có thể nảy sinh tâm tịnh tín, thụ trì tu hành, tinh tấn cầu chính quả, vì thời gian ấy Pháp chưa bại hoại. Thêm 500 năm nữa, lúc bấy giờ thuộc thời kỳ “Tượng Pháp”, ở giai đoạn này, trạng thái của chúng sinh không giống nhau, vì các quan niệm phức tạp và nhân tố khác, nhất định phải dựa vào những bức tượng hữu hình, những ngôi chùa Phật giáo trang nghiêm, các bài giảng Pháp rõ ràng thuận tiện hơn mới có thể khiến chúng sinh đắc được hàm ý sâu xa của Pháp để có thể tu hành, giai đoạn này chính là giai đoạn Phật giáo lưu truyền và thịnh hành tại Trung Quốc. Lại thêm 500 năm sau, Pháp mà Ngài giảng đi vào thời kỳ “Mạt Pháp”, chúng sinh nghiên cứu đến bạc đầu cũng rất khó mà thành tựu. Nguyên nhân căn bản là Pháp của Ngài đã đi vào giai đoạn hoại diệt, vậy đến hôm nay, thật ra đã là thời kỳ “Mạt kiếp” của mạt Pháp, cho nên nơi nào cũng thấy đều là “hòa thượng” tay đang lần chuỗi tràng hạt mà lại nghĩ đến đủ thứ âm nhạc đồi trụy, gái đẹp và đồ ăn ngon. Năm xưa ma quỷ cũng đã nói rõ ràng với Thích Ca Mâu Ni rằng đến lúc Pháp của Ngài đi vào thời kỳ mạt Pháp, chúng sẽ phái đồ tử đồ tôn xuất gia vào chùa, gây họa loạn Pháp của Ngài. Lúc đó Thích Ca Mâu Ni đã rơi lệ, đã mạt Pháp rồi, Ngài cũng không có cách nào nữa. Nhưng Ngài biết, đến thời kỳ mạt Pháp, Đức Phật Di Lặc sẽ hạ thế truyền Pháp mới. Bởi vì Phật cận kề Tam giới là mười năm thay đổi một lần. Năm đó một trong các đệ tử của Ngài sắp tu thành Di Lặc, điều này đã gây hỗn loạn trong tín đồ Phật giáo, vì Di Lặc vốn là Phật thừa (Phật quả, quả vị cao nhất), nhưng trong Phật giáo lại luôn luôn xem Ông là Bồ Tát, đó là chuyện gì vậy? Kỳ thực đó chính là thời kỳ mạt Pháp, Vô Thượng Vương vĩ đại của Vạn Vương chi Vương, Phật Chủ của vũ trụ sẽ lấy danh hiệu Di Lặc hạ thế truyền Pháp mới, đó là điều mà Pháp giới có thể biết được. Và “chức danh” của ngài tại Pháp giới, chính là “Chuyển Luân Thánh Vương” của “Vạn Vương chi Vương”, cũng được gọi “Pháp Luân Thánh Vương”. Lịch sử chính là như vậy, Pháp giới giống như luân phiên túc trực, nhưng hôm nay không phải là bản sao của quá khứ, mà là toàn bộ vũ trụ đang Chính Pháp, người tu luyện chân chính là đang tu luyện trong Chính Pháp, đã vượt rất xa vấn đề một cá nhân tu luyện. Hơn nữa các nhân tố được gắn liền với mỗi người tu luyện đã không còn là vấn đề viên mãn của cá nhân nữa, kỳ thực những điều ấy đều đã được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cho biết trước trong “Kinh Kim Cương”, chỉ là người ngày nay không hiểu rõ mà thôi, chúng ta sẽ nói đến ở phần tiếp theo.

3. Nguồn gốc của câu “Như thị ngã văn” đã là như vậy, câu nói này không chỉ thể hiện sự tôn trọng và nguyện ý khi trích dẫn lời giảng của Đức Phật, mà còn minh thị cho người đời sau một sự thực rõ ràng. Mọi người biết rằng, trong lịch sử ngoại trừ Lão Tử trực tiếp viết cuốn “Đạo Đức Kinh” 5.000 từ, Trang Tử viết hàng loạt bài phú để làm sáng tỏ Đạo ra, còn lại Pháp mà Thích Ca Mâu Ni, Giêsu và Khổng Tử giảng kỳ thực đều là được đệ tử của họ sau này dựa vào hồi ức mà ghi chép lại. Cho nên Phật giáo là “Như thị ngã văn” (ta nghe như vầy), Cơ Đốc Giáo dựa vào “Sách Phúc âm” do các đại đệ tử để ghi chép một cách vụn vặt sự tích truyền Pháp và những lời nói của Chúa Giêsu, Đại Thành Nho gia dựa vào “Sách Tử viết” để nhớ lại mà ghi chép lời của Khổng Tử. Điều này sẽ dẫn đến một vấn đề, các kinh sách đều được ghi lại dưới hình thức trích dẫn, ngoại trừ Kinh Thánh “Tân Ước” có những miêu tả chi tiết hơn về tình huống lúc nói, “Luận Ngữ” của Khổng Tử đa số thuần túy là những câu nói, hoàn toàn không có ngữ cảnh và ghi chép về tình huống lúc nói, và rất nhiều phần trong kinh sách Phật giáo cũng như vậy. Điều này gây ra rất nhiều hiểu lầm cho người đời sau, nhất là những người khi đọc những kinh sách đó mang theo chấp trước mạnh mẽ và tình cảm của con người thì lại càng dễ hiểu lầm hơn. Vậy điều tôi cần nói là ngữ cảnh rất quan trọng. Thí dụ khi nói chuyện với học sinh giỏi toán, có thể trực tiếp coi vi tích phân như một thuật ngữ phổ thông thì vừa đề cập đến các em đã hiểu rồi, nhưng đối với một học sinh không có kiến thức toán học cao cấp nhưng kiến thức lịch sử lại rất phong phú, thì có thể phải tốn nhiều thời gian hơn để giải thích nguyên lý vi tích phân. Vậy chẳng phải vì trước kia chưa giải thích vi tích phân mà thấy rằng vi tích phân không quan trọng, cũng không phải sau này vì đã giải thích vi tích phân tường tận mà thấy rằng vi tích phân hết sức quan trọng, vượt trên những thứ khác. Tu Bồ Đề và rất nhiều đại đệ tử, những đệ tử Thượng Tọa Bộ ấy luôn theo bên cạnh Thích Ca Mâu Ni. Trong quá trình truyền Pháp bảy lần bảy bốn mươi chín năm, rất nhiều người đều là mấy chục năm theo bên cạnh Đức Phật, họ đã nghe rất nhiều bài giảng Pháp của Đức Phật tại các tầng thứ khác nhau. Bởi vì Thích Ca Mâu Ni cũng từ khi khai ngộ “Kim Cương Tọa” dưới gốc cây Bồ Đề, một mạch thăng hoa, đến những năm cuối đời mới chứng ngộ được quả vị Như Lai. Như thế trong quá trình sau này Ngài liên tục giảng Pháp, liên tục thăng hoa, Ngài phát hiện ra rằng Pháp mà Ngài giảng trước đây có tính cuộc hạn, càng về sau tính cuộc hạn càng rõ, thậm chí lấy tiêu chuẩn của Pháp ở tầng cao hơn mà xét Pháp Ngài giảng năm đó thì có rất nhiều điều là sai, nhưng trong một tầng thứ lúc đó thì Pháp ấy lại có tác dụng chỉ đạo. Vì các đệ tử này đều đã theo Đức Phật mấy chục năm, đã nghe Ngài giảng Pháp rất nhiều, nên khó tránh khỏi chấp trước vào Pháp mà Ngài giảng trước kia và sinh ra nghi hoặc đối với Pháp mà Ngài giảng sau này. Lại bởi vì Tu Bồ Đề và các đại đệ tử trong giai đoạn này đã sớm trải qua những bài học căn bản năm xưa, họ đều đã nắm vững những điều ấy, cho nên khi Thích Ca Mâu Ni không còn nhấn mạnh sự quan trọng của Giới và Định, điều đó không thể nói Giới Định Huệ không quan trọng! Những người cả cuộc đời tụng “Kinh Kim Cương” mà không chiểu theo Giới Định Huệ để nghiêm khắc yêu cầu bản thân, tu luyện khổ hạnh, thì đọc một vạn lần cũng không hiểu ý nghĩa trong đó. Vì Đức Phật giảng Pháp tất nhiên là giảng có tính nhắm thẳng, giống như một danh y trị bệnh sẽ không đưa ra tất cả các toa thuốc cho mọi bệnh nhân, hoặc chuyên dùng một vị thuốc nào đó. Về trí huệ, tính không của viên mãn thì hoàn toàn là vị tha, hoàn toàn tách rời tính không, hoàn toàn vì để phá mê khai ngộ cho người khác mà giảng Đạo thuyết Pháp. Cho nên người đọc nhất định phải minh bạch bối cảnh, nguyên nhân giảng “Kinh Kim Cương” năm xưa mới có thể thật sự hiểu rõ được nguồn gốc của bộ kinh ấy. Người đời sau đem bộ kinh ấy phân thành 32 đoạn, kỳ thực cũng chỉ là lý giải của người đời sau thêm vào đó. Kỳ thực đây chính là một bộ Pháp được giảng có tính nhắm thẳng, chủ yếu là nhắm vào tâm Pháp chân thực ở cảnh giới cao hơn được giảng bởi các vị Bồ Tát, La Hán đã đạt đến xuất thế gian Pháp, đây là chương trình học ở giai tầng cao. Còn người đời sau nói tụng niệm bộ kinh này có thể được sự bảo hộ của Đức Phật, đương nhiên trong thời kỳ Phật giáo chính thường, bởi vì đằng sau Pháp của Thích Ca Mâu Ni là có Thần đang quản, nên đương nhiên là có sức mạnh, nhưng một người tu luyện chân chính không phải mong được một chút bảo hộ, mà là cần phải chân tu, vậy thì nhất định cần phải hiểu rõ ý nghĩa thực sự trong đó, dùng Pháp này để tu hành và giác ngộ, chứ không phải là để truy cầu một chút tín tức hay một sự bảo hộ thông thường.

4. Vì kinh điển của Phật giáo là 500 năm sau khi Thích Ca Mâu Ni không còn tại thế mới được người đời sau chỉnh lý lại, trải qua lịch sử ba lần thu thập đã cho thấy rất nhiều chỗ năm đó đã có chút sai sót rối rắm rồi. Không cần nói 500 năm, mà ngay cả trong cuộc sống hàng ngày, mọi người đều biết rằng nếu mười người lần lượt truyền một câu chuyện, truyền đến người cuối cùng thì có thể đã hoàn toàn không giống như lúc đầu rồi. Tuy nhiên người xưa tĩnh tâm hơn so với người hiện nay, những đồ đệ Phật giáo với căn cơ rất tốt có thể hiểu rộng nhớ giỏi, nhưng cũng là có hạn. Do tầng thứ tu hành có hạn, các giai đoạn của tu hành và can nhiễu của các nhân tố phức tạp. Có ba phương diện khiến những lời giảng của Thích Ca Mâu Ni được lưu truyền đến hôm nay đã xảy ra biến đổi rất lớn, rất nhiều chỗ đã không còn là nguyên nghĩa lời của Thích Ca Mâu Ni giảng nữa. Thứ nhất là vì các đệ tử có những lý giải khác nhau đối với ý nghĩa chân chính của Pháp mà Đức Phật giảng nên những ghi chép lúc ban đầu có biểu hiện sai biệt, điều này đặc biệt thể hiện nổi cộm ở sự trùng lặp từ đoạn thứ mười bảy về sau. Kỳ thực lúc ấy họ không hiểu rõ Thích Ca Mâu Ni đã nói những gì ban đầu, nên họ đã đính kèm thêm ở đằng sau một cách kiến giải khác có tính đại biểu để tham khảo. Vì vậy, ngay từ ban đầu khi chỉnh lý thành văn bộ kinh này thật ra đã không đầy đủ. Thứ hai chính là trong quá trình sao đi chép lại và lưu truyền đã xảy ra sai sót nhầm lẫn và người truyền bá đã gán thêm vào những lý giải của bản thân mình. Thứ ba là quá trình phiên dịch. “Kinh Kim Cương” được lưu truyền từ nơi này sang nơi khác, đầu tiên được Cưu Ma La Thập dịch đã có nhiều sai sót trong đó, khi Cưu Ma La Thập dịch Kinh, ông thường xuyên đọc lời dịch của mình và người khác ghi lại, quá trình này cũng rất dễ xảy ra sai sót, lẫn lộn hoặc thêm bớt câu chữ. Đến thời nhà Đường, nhà sư Huyền Trang đến chùa Na-lan-đà nơi huy hoàng cuối cùng của Phật giáo Ấn Độ để thỉnh Kinh, bộ “Kinh Kim Cương” ấy cũng đã không còn như lúc mới biên soạn nữa. Cũng có nghĩa là vào giai đoạn hậu kỳ của sự phát triển Phật giáo tại Ấn Độ, nhiều tăng nhân vì không buông bỏ được tâm danh lợi, tâm hiển thị nên việc thêm những đàm luận của bản thân vào trong kinh điển là chuyện thường. Cho dù Pháp sư Huyền Trang rất uyên bác, khảo chứng và đính chính tỉ mỉ chính xác, cũng khó tránh khỏi phân biệt không đầy đủ. Không lâu sau khi ông trở về Trung Quốc, Phật giáo Ấn Độ biến dị thêm một bước nữa, khiến cho diện mục hoàn toàn thay đổi, nó kết hợp với Bà La Môn giáo mà hình thành một chủng tôn giáo đầu Ngô mình Sở. Phật giáo đã tiêu mất tại Ấn Độ. Vậy nên trong quá trình phiên dịch này lại thêm vào những nhân tố như sự lý giải, tầng thứ của người phiên dịch và hoàn cảnh lịch sử đương thời, khiến cho Pháp do Thích Ca Mâu Ni giảng được lưu truyền đến hôm nay, kỳ thực những lời nói chân thực trong ấy không đến một phần mười. Người thực sự có công năng vừa nhìn vào kinh điển Phật giáo liền thấy rất nhiều thứ được gọi là “kinh điển” này hoàn toàn không phải do Thích Ca Mâu Ni giảng, mà đó là những thứ người đời sau gán ghép thêm vào. Lấy “Kinh Kim Cương” và “Tâm Kinh” ít sai lầm lẫn lộn nhất mà xét, thì cũng là pha trộn loang lổ khó chấp nhận. Những lời chân chính mà Đức Phật giảng thì chói sáng ánh vàng kim, trong quá trình phiên dịch tuy rằng tâm rất chính nhưng những từ ngữ mà ý nghĩa cảnh giới vốn không được dịch đúng thì phát ra ánh sáng âm u, còn những từ ngữ sai lầm lẫn lộn thì có màu đen đen. Thế thì tu sao đây? Có bao nhiêu người càng đọc càng mơ hồ, ngoài việc không hiểu rõ ý nghĩa của Kinh văn, một nguyên nhân nữa là năng lượng tạp nham của chính những Kinh văn hỗn loạn đó.

5. “Nhất thời”, là nói ngày ấy. Ngày nào? Chính là ngày giảng bộ kinh ấy. Lúc ấy Thích Ca Mâu Ni ở đâu? Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc rừng Kỳ Đà nước Xá Vệ, cùng với 2.500 đại Tỳ Kheo. Lúc ấy Ấn Độ giống như thời đại Xuân Thu của Trung Quốc, có hơn 270 quốc gia, nước Xá Vệ là một nước chư hầu tương đối lớn, trưỏng lão Cấp Cô Độc là một hành giả trợ Pháp rất nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo, kỳ thực ông là Đại Bàng Kim Sí Điểu (chim đại bàng cánh vàng) tọa tiền hộ Pháp của Đức Phật chuyển thế, chính là đến để hỗ trợ Đức Phật truyền Pháp. Lúc đó ông ở nước Xá Vệ, biết được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khai ngộ truyền Pháp, sau khi chuyển bánh xe Pháp tại vườn Lộc Uyển, cứu độ sáu người Kiều Trần Như thì bắt đầu truyền bá Pháp đến các nước khác, ông rất mong Đức Phật có thể đến nước Xá Vệ truyền Pháp. Bởi vì năm xưa rất nhiều quốc gia còn chưa hiểu rõ về Phật Thích Ca Mâu Ni và Pháp của Ngài, họ chỉ nghe được danh phận hoàng tử của Thích Ca Mâu Ni và truyền kỳ về Ngài, nhưng rất nhiều nơi vẫn là thiên hạ của Bà La Môn giáo vốn đã bại hoại. Trưởng lão Cấp Cô Độc nghĩ nếu có thể mời được Đức Phật thần thánh đến đây thì đó sẽ là một vinh diệu lớn biết mấy, nên ông muốn tìm một nơi cư ngụ rất tốt làm Pháp đàn, tìm kiếm mãi nơi đó chỉ có thể là hậu hoa viên của Thái tử nước Xá Vệ – vườn Kỳ Đà, nơi xinh đẹp thanh nhã nhất, liền đến gặp Thái tử, thỉnh cầu trang viên ấy. Thái tử đương nhiên luyến tiếc, nhưng lại không muốn người ta nói rằng ông không kính Phật Pháp, không hướng thiện Đạo. Thái tử đã nêu ra một điều khó khăn cho Trưởng lão Cấp Cô Độc, nói rằng phải trong vòng ba tháng nếu ông có thể chuyển gạch bằng vàng đến phủ kín vườn này của ta, thì ta sẽ bán vườn này cho ông. Trưởng lão Cấp Cô Độc ưng thuận ngay. Đó thực sự là một niệm tịnh tín (tin tưởng sâu sắc), sức mạnh ấy thật tuyệt vời, giống như Nặc Cự La, một vị Thần sức mạnh vô song trong 500 vị La Hán, theo lệnh sư phụ vân du đến núi Nhạn Đãng, hỏi tiều phu rằng: “Núi này tên gì?”, tiều phu trả lời: “Nhạn Đãng”; “Làng này tên gì?”, tiều phu trả lời: “Phù Dung”. Thế là ông vui mừng nói: “Đúng là điều sư phụ ta đã dặn”. Ông liền dựng nhà nơi đây, khổ tu giảng Đạo. Vì khi ông ra đi, sư phụ đã bảo ông: “Ngươi đi về hướng Đông, đến núi có tên chim, làng có tên hoa, hãy ở lại nơi đó, giảng Phật Pháp của ta”. Sau này thi tăng Quán Hưu đời Đường làm thơ khen rằng: “Nhạn Đãng kinh hành vân mạc mạc, vân tưu yến tọa vũ mông mông” (dịch nghĩa: Hành thiền ở núi Nhạn Đãng sương dày đặc, tĩnh tọa ở thác Vân Thu mưa lâm thâm), người đời sau hầu như chỉ để ý vẻ đẹp của ý cảnh, sự thanh nhã của sơn thủy, đâu biết người năm xưa đã chịu đựng trong hiu quạnh cô đơn mà khổ tu. Một bình một bát, không áo không đồ ăn, trong tâm chỉ có Pháp, chỉ có sư phụ, những điều sư phụ răn dạy, dù gian nan hiểm nghèo, nhất định tuân theo. Cái tâm như vậy, thực sự là bậc Kim Cương. Vì Trưởng lão Cấp Cô Độc có một khả năng Thần thông, có thể nhìn thấy những bảo vật dưới đất, nên trong vòng ba tháng đã gom đủ số vàng như thế, liền đến mua vườn Kỳ Đà của Thái tử. Thái tử kinh ngạc, con người ai cũng đều có Phật tính, Thái tử vô cùng cảm phục sự cao siêu xuất chúng và lòng kính tín đối với Đức Phật của Trưởng lão Cấp Cô Độc nên đã quyên tặng vườn hoa. Sau này vườn ấy chính là “Bố Kim Lâm” mà các tín đồ Phật giáo truyền tụng.

6. Con người trong thời đại theo chủ nghĩa duy vật ngày nay khó mà lý giải được cảnh giới thực tại của những sinh mệnh cao hơn và giá trị mà những sinh mệnh đó hướng tới. Giống như Trưởng lão Cấp Cô Độc, có người nghĩ, nếu như tôi có năng lực ấy thì chẳng phải tôi đã thành phú ông sao? Trong thế giới ngày nay, có người vì tư tâm của bản thân mà biện bạch nói rằng nếu tôi có nhiều tiền tôi sẽ làm công việc từ thiện. Kỳ thực những lời thiển cận ấy hoàn toàn ngược lại với đặc tính của vũ trụ, sở dĩ một sinh mệnh có năng lực siêu thường là vì họ có tâm tính siêu thường. Vì của cải vật chất trong vũ trụ, vốn cũng là biểu hiện ý chỉ của Thần, trong thời kỳ bình thường, những thứ ấy nên phụng sự cho Chính Pháp. Thái tử nước Xá Vệ một niệm động Phật tính mà đã hiến tặng vườn hoa này, sau này ông nghe Đức Phật giảng Pháp thì lập tức chứng ngộ được quả vị A La Hán, kỳ thực từ khía cạnh “xả đắc”, chúng sinh nên biết rằng quả báo chân chính của việc dùng đúng tài nguyên để trợ Pháp là vô lượng. Nhưng Đức Phật không để ý những điều này. Cho dù ở trong cung điện đẹp như vậy, cũng chỉ bất quá là Ngài lợi dụng nơi này ở nhân gian làm giảng đường, để cho đệ tử và chúng sinh có một nơi tốt đẹp để nghe Pháp mà thôi. Ngài quyết sẽ không như con người mà sinh bất cứ niệm tham nào đối với những thứ ở không gian này, thường thì Ngài ở một thời gian rồi đến nơi khác, tiếp tục giảng Pháp truyền Đạo, Pháp mà Ngài truyền sẽ không thay đổi. Cho nên dù ở trong cung điện đẹp đẽ, Ngài vẫn bưng bát đi khất thực hóa duyên, vẫn duy trì giới luật ngày ăn một bữa như thuở ban sơ khi khổ tu trong rừng rậm hay hang động, điều này sẽ thấy rất rõ ràng ở phần sau. “Dữ đại Tỳ Khưu thiên ngũ bách nhân câu” (tạm dịch: Ngài cùng 1.500 đại Tỳ Kheo tất cả đều đủ cả), điều đó chứng tỏ rằng ngày ấy Đức Phật đã mở “Pháp hội” cùng với đệ tử Thượng Tọa Bộ để chứng giải Pháp lý. Mà một chữ “câu” (đủ cả), nói lên sự giản dị dễ gần của Đức Phật và tình yêu thương gắn bó mật thiết của Ngài với các đệ tử. Kỳ thực chính là các đại hòa thượng đang luận bàn với nhau, còn Đức Phật vốn lúc đầu chủ yếu là nghe, xem xét những vấn đề nổi cộm chung tồn tại ở một số khía cạnh nào đó của các đệ tử. Bởi vì đều là đệ tử Thượng Tọa Bộ, rất nhiều trong số họ là các vị La Hán, Bồ Tát đã đạt được thành tựu ban đầu, cho nên nhắm vào họ mà giảng “Kinh Kim Cương” cũng là việc tự nhiên.

7. “Nhĩ thời, Thế Tôn thực thời, trước y trì bát, nhập Xá Vệ đại thành khất thực. Ư kỳ thành trung, thứ đệ khất dĩ, hoàn chí bổn xứ. Phạm thực ngật, thu y bát, tẫy túc dĩ, phu toà nhi tọa” (tạm dịch: Khi ấy đến giờ ăn, Đức Thế Tôn mặc y mang bát vào đại thành Xá Vệ khất thực. Trong thành ấy, Ngài theo thứ tự ghé từng nhà khất thực xong rồi trở về tịnh xá. Ăn cơm xong Ngài dọn dẹp y bát, rửa chân tay, sắp xếp chỗ ngồi rồi tọa thiền”). “Nhĩ thời” (Đến giờ) cũng chính là đến lúc quy định đi khất thực. Xin mời xem tiếp: “Thế Tôn thực thời, trước y trì bát, nhập Xá Vệ đại thành khất thực” (Khi Thế Tôn mặc y mang bát vào đại thành Xá Vệ khất thực), lời ghi chép này nói lên điều gì? Thứ nhất, Thích Ca Mâu Ni rất chú trọng hình ảnh của bản thân trước công chúng, mặc áo cà sa là để biểu thị sự khác biệt với người tại gia, cũng là đang tuyên truyền cho Phật giáo. Lúc ấy áo cà sa của Phật giáo là màu vàng rất tươi sáng rực rỡ, điểm này có sự khác biệt rất lớn với loại vải màu vàng đất sau này truyền đến Trung thổ và được các hòa thượng mặc ngày nay. Đó là vì người đời sau buông bỏ không được chấp trước đối với trang sức y phục, nên sau này mới cải thành màu sắc ấy. Thứ hai, Thích Ca Mâu Ni đã dùng tấm gương bản thân để dạy các đệ tử, bản thân không như một số người xuất gia sau này, Ngài không coi một chút chức vụ trong chùa là quan chức, không để đệ tử giúp Ngài đi khất thực, mà là bản thân tự đi làm việc ấy. Từng là hoàng tử nhưng Thích Ca Mâu Ni vẫn dẫn đệ tử đi khất thực, kiểu tu khổ hạnh và đạo làm thầy như vậy thực sự khiến người ta cảm thấy sự từ bi mà Đức Phật năm xưa đã phó xuất. Khất thực, chính là ăn xin. Vậy thời ấy, một mặt là vì mức sống của con người còn tương đối thấp, mặt khác, thế lực của Bà La Môn giáo còn rất lớn, người dân vẫn còn chưa hiểu biết sâu sắc đối với Phật giáo, có thể tưởng tượng rằng với sự tôn nghiêm của Đức Phật, Ngài cũng tất nhiên đương đầu với rất nhiều lời cự tuyệt, không hiểu thậm chí chỉ trích, tất cả đều được ghi lại trong những truyện cổ Phật giáo thời kỳ đầu. Nhưng khuôn mẫu mà Đức Phật tạo ra là gì? Một câu “thứ đệ khất dĩ” (theo thứ tự ghé từng nhà khất thực) đã nói rõ rằng Thích Ca Mâu Ni khất thực là đi từng nhà mà xin ăn, mỗi nhà có thể chỉ cho một chút ít, có lẽ một số nhà hoàn toàn không cho họ cơm ăn. Vậy cũng không phải mỗi ngày đều có thể xin được đủ cơm ăn, việc bữa no bữa đói cũng là chuyện thường tình. “Thứ tự khất thực”, từ góc độ Đức Phật kết duyên với chúng sinh, đó cũng là biểu đạt tính không của Phật, tính không phân biệt. Chỉ cần xin được vừa đủ cơm để ăn một bữa thì sẽ “hoàn chí bổn xứ” (trở về chỗ cũ), điều gì trên thế gian có thể động đến tâm của Đức Phật? Tôi không nói ở đó náo nhiệt lắm các bạn hãy xem đi, ở đó có điều kỳ lạ gây xúc động lòng người lắm. Xuất gia chính là đoạn tuyệt với nhân duyên ở thế gian, nỗ lực tinh tấn, chưa viên mãn thì không ngừng nghỉ, Đức Phật lấy đó làm tấm gương sáng cho các đệ tử, thời ấy làm đệ tử là phải nghiêm chỉnh tuân theo không được làm trái. Còn như những người được gọi là xuất gia ngày nay, họ được phân thành cấp bậc, có người còn được phân xe riêng, ra ngoài chỉ chọn nơi náo nhiệt mà đến, thậm chí biến Thánh địa Phật giáo thành nơi “thương mại kinh doanh”, không những đã hoàn toàn rời xa Phật Thích Ca Mâu Ni, mà lại còn lấy danh tiếng của Ngài để làm những việc bại hoại. Thời mạt thế tà sư đi rao giảng Pháp nhiều như cát sông Hằng, đây cũng là trạng thái của thời kỳ mạt pháp mà Thích Ca Mâu Ni tiên đoán năm xưa khi Ngài sắp nhập niết bàn. Hòa thượng ngày nay hỏi có mấy người thực sự từ bỏ danh lợi tình ở chốn nhân gian để toàn tâm toàn ý tu hành chứng ngộ?

Câu tiếp theo: “Phạn thực ngật, thu y bát, tẩy túc dĩ, phu tòa nhi tọa” (Ăn cơm xong Ngài dọn dẹp y bát, rửa chân tay, sắp xếp chỗ ngồi rồi tọa thiền). Đức Phật đã dùng cơm cùng với các đệ tử, đương nhiên đều là cơm có được từ việc đi hóa duyên, dùng cơm xong, thu dọn chén bát, gấp lại áo cà sa đã mặc khi ra ngoài, đều là đích thân Ngài làm việc ấy, Đức Phật không có bảo người nào đó rằng con là đệ tử của ta, con phải rửa bát xếp áo cho ta. So sánh với sự biến dị của các nhà sư có chức vụ sau này, điều đó thật tuyệt vời. Vì đã đi bộ rất nhiều khi ra ngoài, nên Ngài lấy nước rửa chân, sau đó ngồi xếp bằng, chuẩn bị giảng Pháp cho các đệ tử. Đoạn thứ nhất của phần mở đầu này, tuy chỉ vẻn vẹn vài chục chữ, nhưng đã kể ra trí tuệ, tính không của viên mãn và sự từ bi vô lượng của Đức Phật, người ta chẳng phải rất hiếu kỳ rằng Phật nghĩ như thế nào, làm việc thế nào sao? Từ bi bình đẳng là gì? Từ đoạn trên là có thể lĩnh ngộ được. Cho nên đặc biệt chú thích đơn giản rằng: Từ bi, bình đẳng, viên dung, tâm tính của tính không luôn rực rỡ mà là để tùy tự nhiên. Khi đạt đến cảnh giới Phật thì việc đi, ngồi, nằm của ông đều là Pháp.

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/9/18/48442.html

The post Luận giải “Kim Cương Kinh” (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luận giải “Kim Cương Kinh” (Phần 1)https://chanhkien.org/2024/09/luan-giai-kim-cuong-kinh-phan-1.htmlThu, 12 Sep 2024 03:57:58 +0000https://chanhkien.org/?p=34123Tác giả: Tần Chính [ChanhKien.org] Lời của Ban biên tập: Loạt bài này được viết dựa trên lý giải của tác giả đối với luận thuật trong “Kim Cương Kinh”. Chúng tôi cho rằng bài viết này có giá trị tham khảo nhất định đối với việc giảng chân tướng cho các nhân sĩ trong […]

The post Luận giải “Kim Cương Kinh” (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tần Chính

[ChanhKien.org]

Lời của Ban biên tập: Loạt bài này được viết dựa trên lý giải của tác giả đối với luận thuật trong “Kim Cương Kinh”. Chúng tôi cho rằng bài viết này có giá trị tham khảo nhất định đối với việc giảng chân tướng cho các nhân sĩ trong giới tôn giáo nên đã đăng lại tại đây. Đối với các đệ tử Đại Pháp không có liên quan đến việc giảng chân tướng cho các nhân sĩ tôn giáo thì không cần thiết phải đọc. Hy vọng mọi người dĩ Pháp vi Sư, làm tốt ba việc mà Sư phụ yêu cầu chúng ta làm.

(Theo Ban biên tập báo Nhân Dân: “Luận giải Kim Cương Kinh” là những tâm đắc thảo luận nghiên cứu Kinh Kim Cương giữa tiên sinh Tần Chính với bạn bè trong giới Phật giáo).

Lời nói đầu

Nhân loại rất khó tiếp thu những bài học kinh nghiệm trong lịch sử, cho dù luôn chú ý “tổng kết bài học kinh nghiệm”.

Năm xưa khi Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp, Bà La Môn giáo khi đó đã mạt Pháp vậy mà họ đã cản trở và thậm chí hãm hại Ngài và đệ tử của Ngài bằng nhiều cách.

Khi Giêsu giáng trần, những văn sĩ Do Thái giáo suy đồi đã gây ra sự thù hận của cả xã hội đối với ông, cuối cùng đóng đinh chúa Giêsu lên thập tự giá. Khổng Tử chu du lục quốc truyền bá tư tưởng Nho-Đạo của mình, bị vây hãm tại Khuông, bị nguy khốn tại Trần, ông bị mọi người chế giễu là “lang thang như con chó mất chủ”. Lão Tử nhìn thấu thói đời thay đổi nóng lạnh thất thường, nếu không có quan Doãn Hỷ một đệ tử kiên trì, e rằng Ngũ Thiên Ngôn (Đạo Đức Kinh) cũng coi như không có, không để lại được cho người đời sau. Tuy nhiên thời gian dần dần trôi đi, Phật giáo trong suốt quá trình hơn 2500 năm đã thịnh hành trên thế gian; Cơ Đốc giáo trải qua cuộc bức hại tàn khốc hơn 300 năm của đế quốc cổ La Mã đã trở thành tôn giáo trụ cột trong thế giới Tây phương ngày nay; tư tưởng Nho giáo của Khổng Tử đã trở thành tư tưởng cốt lõi của Trung Quốc mấy ngàn năm nay, còn Tiên pháp cao diệu của Đạo gia cũng được rất nhiều người say sưa bàn luận. Giờ đây, có lẽ con người đã quên mất những sự việc trong quá khứ của họ, càng không biết rút ra bài học kinh nghiệm để có thái độ đúng đắn với sự việc hiện nay.

Bài viết này giải mã “Kim Cương Kinh” và “Tâm Kinh” mà các môn đồ Phật giáo từ ngàn xưa đến nay coi là chuẩn tắc. Kỳ thực, việc diễn giải Kinh không phải là điều chúng tôi mong muốn, nhưng chúng sinh ngày nay đều bằng tình cảm chứ không phải lý tính mê đắm vào những luận thuật mà bản thân họ không hiểu. Thêm vào đó, những giải thích sai lầm và ngụy biện của nhiều kẻ có dụng tâm xấu khiến cho những luận thuật này trở thành định hướng giác ngộ cho mọi người, cản trở mọi người đưa ra chính kiến. Nhất là những nhân sĩ, cư sỹ trong Phật giáo, mong rằng họ có thể tịnh tâm suy xét lập trường của mình, dùng lý tính để cân nhắc sự lựa chọn hiện tại. Lịch sử cuối cùng sắp bước qua một thời đại hỗn loạn rối ren xưa nay chưa từng có, bước sang một kỷ nguyên tươi sáng và tráng lệ vô tỉ, nhưng sự thay đổi và đào thải lại là ranh giới liên quan đến vận mệnh cuối cùng của sinh mệnh. Vì thế có bài thơ rằng:

Diễn nghĩa:

Than ôi!…
Nguy thay chúng sinh!
Chính Pháp lăng trì, tà sư thuyết rằng
Thiên Địa không còn chính niệm, chỉ lấy tiền làm gốc.
Đâu biết sinh mệnh! Đâu biết thăng trầm!
Lời răn dạy đã quên, chỉ nhớ để đầu trọc.
Nước suối dơ bẩn muốn giặt áo, không phân biệt được đâu là vết bùn.
Cửa Phật đã không còn tịnh nữa,
Lấy gì để thanh tịnh? Lấy gì để gột rửa tâm?

Đã từng là kinh thành ngàn năm học tập, nay chỉ còn danh bóng.
Mưa gió từ đâu đến gõ cửa bình minh, ai có thể nhìn rõ?
Mây mù phảng phất kể chuyện ngàn năm, mấy người đã biết được Chân?
Lẽ nào luân hồi ba ngàn kiếp, vẫn còn chưa yên?
Mong được gió trời quét sạch tai họa, tái tạo tân địa cầu và thân thể!
Núi thu âm vang gọi cầu Chính Pháp,
Nước đục ầm ầm mong được trong xanh.
Tứ đại phong tục giáo hóa ai tái tạo?
Luân chuyển càn khôn thức tỉnh khỏi cơn mê.
Hãy quy chân, quy chân,
Cho tam tài trong sáng và thuần khiết!

Ván cờ sắp tàn cuộc, thang mây bắc lên trời.
Mà sao thiên hạ vẫn còn si mê, chỉ biết chơi bời mê mẩn.
Ai có thể đào hồ để gột rửa tâm, ta xin đổ máu vì chúng sinh.
Đổ đi dơ bẩn trả lại trong sạch, lại nghe bên tai tiếng Thiên nhạc âm vang!
Than ôi!
Hãy tỉnh! Hãy tỉnh! Hãy tỉnh!

Đàm luận thứ nhất

1. “Kim Cương Kinh” và “Tâm Kinh” vốn là những tác phẩm kinh điển mà Phật giáo Đại thừa coi trọng nhất, là sự khai thị của Đức Phật về chân lý vũ trụ mà đương thời Ngài đã lĩnh ngộ. Đối với các học giả mà nói, đó là tiêu chuẩn mà họ thường xuyên tham chiếu, xem xét để tu chính bản thân, đề cao bản thân. Bởi vì ý nghĩa ban đầu của Kinh là như vậy, không phải là thứ để con người đọc giải trí, mà cần lý giải và hấp thụ tâm Pháp rồi thực hành theo. Nếu như đọc không hiểu, cứ mãi mê muội không lý giải được, thì không chỉ uổng công vô ích, mà nếu nghe theo lý giải sai lầm sẽ khiến bản thân rơi vào ngục tù “mê châu” mà không biết, như vậy càng đáng buồn hơn. Bởi vậy, tác giả viết mười bài đàm luận về “Kim Cương Kinh”, mong muốn bắt đầu từ ý nghĩa nguyên gốc của kinh điển, kết nối quá khứ và tương lai, xin quý độc giả chớ vội dựa vào tình cảm mà cho rằng đó là điên khùng, nếu quý vị thực sự muốn tìm kiếm ý nghĩa của sinh mệnh, ý nghĩa thực sự của Phật Pháp, vậy thì hãy bình tĩnh đọc tiếp. Nếu chỉ dựa vào tình cảm sở thích thiên vị để duy hộ, bảo vệ người nào đó hay tôn giáo nào đó, vậy thì trong mắt của người tu Đạo chân chính, người như vậy thật ngu dốt, ngoan cố và nực cười, không đáng nhắc tới.

2. Tên đầy đủ của “Kim Cương Kinh” là “Kim Cương Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa Kinh”, xưa nay tín đồ Phật giáo giải thích hai chữ Kim Cương là “bất động”, lại có người gọi là “như như bất động” (giữ nguyên mãi không thay đổi), kỳ thực sinh mệnh mê trong tình, nói “bất động” ấy chỉ là sự miễn cưỡng, không tin thì quý vị hãy quan sát đối chiếu với tâm của mình. Một người chưa đạt đến cảnh giới hoàn toàn ở trong Pháp, vẫn đang hướng tới viên mãn mà lại nói mình “bất động tâm”, đây là nhìn mà không thấy, tự lừa dối hoặc tự đề cao chính mình. Kim cương là hình ảnh ẩn dụ mô tả cảnh giới chân thật của Phật tính bất biến, chứ không phải là đặc tính của “đá kim cương” mà mọi người nhận biết. Khái quát một cách đơn giản, đây là một loại cảnh giới viên mãn trống rỗng, tự tại, chứa đựng tất cả mà lại không hòa nhập vào tất cả, đối với người tu luyện mà nói đó là một loại trí huệ tối thượng, nên gọi là “Bát nhã”. Bởi vì loại cảnh giới ấy chỉ có thể đạt được bằng tự bản thân trải nghiệm, nếu không chân chính thực tu mà lại nói một ngàn kể một vạn, thì rốt cuộc cũng giống như tả mùi vị của quả lê cho người chưa từng ăn lê, tả về tuyết cho người chưa từng nhìn thấy cảnh tuyết, tả mùi thơm say mê, vị ngọt của quả mít cho người chưa từng thưởng thức mít vậy.

3. “Kim Cương Kinh” là cảnh giới chân thật của “tính không” tự tại siêu thoát ra ngoài Tam giới và Phật tính vô lậu đã được Tu Bồ Đề và các đại Tỳ Kheo giảng ra trong một lần giải thích Pháp. Người ta trong quá trình tu luyện, thông qua đại Đạo chính Pháp, kiên định thực tu, chỉ chăm chỉ tu hành, không nghĩ đến thành quả, thì tự nhiên có thể hiểu rõ và đạt được, đạt được thì tự nhiên minh bạch. Đó không phải là điều cầu được từ bên ngoài, mà là kết quả tự nhiên của quá trình tu chính Đạo để đạt được viên mãn. Tại tầng thứ ấy, hết thảy Phật Đạo Thần đều là đặc tính, giống như con người đều có hình tượng con người, cho nên cũng không phải như nhiều người không rõ tình huống cuối cùng chỉ dựa vào tình cảm để suy đoán.

4. Vì đây là lời giải thích Pháp, tức là giải thích Pháp lý khi trả lời thắc mắc của đệ tử, nên tất nhiên có tính nhắm thẳng. Giống như một giáo viên giỏi giải đáp những vấn đề vướng mắc cho học sinh, để họ buông bỏ sự ràng buộc của cái khung cố hữu khi họ sắp đột phá được giới hạn, giống như khai mở hành trình mới. Thí dụ, một thầy giáo vật lý trước tiên giảng về cơ học kinh điển của Newton, thầy đã giảng rất nhiều định nghĩa, định nghĩa ấy rất quan trọng để học sinh trong giai đoạn này dựa vào đó nắm vững các quy luật vật lý trong thế giới mặt phẳng, hơn nữa những định nghĩa này thực sự có thể giải quyết rất nhiều vấn đề trong thực tế. Tuy vậy bất kỳ định nghĩa có giới hạn nào cũng chỉ có tác dụng trong khuôn khổ của định nghĩa đó, khi vượt ra khỏi phạm vi của định nghĩa thì ngược lại trở thành chướng ngại to lớn đối với việc tiếp tục tìm tòi chân lý, cho nên phải “phá vỡ” nó. Ví dụ nói về “Thuyết tương đối” của Einstein, nhân tiện nói một chút, thuyết này rất sai lầm, đó không phải thuyết tương đối của Einstein, chỉ bất quá là ý Thần an bài để ông khai mở lý thuyết này cho mọi người, chẳng qua ông chỉ nói rõ một tầng diện chân lý nhất định mà thôi. Tương tự như thế, Thích Ca Mâu Ni giảng Như Lai Pháp, không phải là Như Lai Pháp của gia phái Thích Ca Mâu Ni, cũng chỉ bất quá là ý Thần an bài Ngài đến để giảng đạo lý này cho nhân loại, kỳ thực ở tầng thứ ấy ai ai cũng đều biết rõ Như Lai Pháp giống như người ta biết ăn cơm vậy. Thích Ca Mâu Ni cũng giảng rằng Như Lai có nhiều như số cát của sông Hằng, cho nên những người thông minh tuyệt đối sẽ không dùng tình cảm để cản trở chính mình, mà phân tích một cách bình tĩnh, lý trí, cầu được chân Đạo vì lợi ích của chính mình. Còn như những chúng sinh ngu muội bất quá chỉ suốt đời nghiên cứu Kinh sách, thì đến chết vẫn không đạt được điều gì.

5. Bởi vì giải thích Pháp, nên đối với đại Tỳ Kheo mà nói thì không cần phải giảng về tầm quan trọng của những bài học cơ bản như chịu khổ, hành thiện, tiêu nghiệp nữa… Năm xưa Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp, tất nhiên cũng là “dùng hình tượng con người mà hành tẩu tại thế gian, lấy ngôn ngữ con người mà hiển thị Pháp lý”. Đây là điều cần thiết do Thiên định, vì sinh mệnh của con người nơi này đã trở nên không còn tốt mà rơi rớt xuống, chính vì lòng từ bi mà Thần đã cấp cho con người thêm một cơ hội nữa, nên đã tạo ra không gian mê này, cho con người một nhục thân với năng lực thấp mà phải chịu nhiều phiền não, thần thức bị khóa lại, mong rằng con người ở trong mê mà ngộ được một chút, ngộ ra thì có thể quay trở về, ngộ không ra mà càng trở nên bại hoại hơn thì sẽ bị tiêu hủy. Vậy nên không có vị sư phụ chính truyền nào lại lấy phương thức thần thông đại hiển đến truyền Đạo truyền Pháp, nếu như vậy thì không có chuyện ở trong mê mà ngộ Đạo, nếu không còn mê nữa thì cả những kẻ thập ác bất xá cũng muốn đến tu, những ma làm loạn cũng sẽ tu theo, ai mà không muốn tu chứ? Nhưng mà, nếu làm như vậy thì trước hết người truyền Pháp truyền Đạo đã phá hoại Pháp lý của vũ trụ, người đó phải rớt xuống trước tiên, phải chịu hủy diệt. Ai dám làm như vậy? Vì trước đây con người chỉ được biết đến Phật ở cảnh giới cao nhất là Như Lai, cao hơn nữa thì không cho phép con người biết, vũ trụ có nguyên tắc “ẩn” mà. Người đời sau không hiểu vì sao nên cho rằng Như Lai là “Phật cao nhất”, họ dùng quan niệm đẳng cấp của con người, tâm biến dị háo danh để đo lường những việc ấy, luôn muốn hơn người một bậc, kết quả khiến bản thân càng thêm mê muội, nực cười. Họ đã không truy xét một câu hỏi: giả sử Như Lai là cao nhất thì Như Lai được tạo ra như thế nào? Nhất định còn có Pháp để tạo ra Như Lai phải không? Cho nên, sau này khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc thì luôn phát sinh tranh đấu với Nho giáo và Đạo giáo nguyên thủy của Trung Quốc, có lúc rất kịch liệt, ba cuộc đàn áp chống lại Phật giáo trong lịch sử Trung Quốc chính là trong thời điểm rất cực đoan này. Lúc bấy giờ tam giáo thường xuyên tranh luận lẫn nhau, các cuộc tranh luận diễn ra trong cung đình còn do Hoàng đế đích thân chủ trì, vậy nên những môn đồ Thích Giáo liền thêu dệt ra một số câu chuyện như Thích Ca Mâu Ni khi hạ thế chào đời đã đi liền bảy bước, nói rằng: “Trên trời dưới đất chỉ có ta là tôn quý nhất”. Đó là phỉ báng Phật Thích Ca Mâu Ni chứ không phải ca tụng Ngài. Nếu Ngài làm như vậy thì trước tiên Ngài sẽ rớt xuống. Huống chi việc dùng phương thức thông qua đầu thai chuyển sinh thành người còn ẩn chứa nội hàm viên dung vô cùng quan trọng: vì Ngài hiểu được nỗi khổ của con người cho nên mới từ bi; bản thân trải nghiệm việc “cùng sống” với con người, mới có thể hiểu rõ thế giới nội tâm của con người, thấu hiểu những nỗi khổ cùng trạng thái, đặc điểm, tính cách thực sự của họ, mới có thể trực tiếp cứu độ con người. Ở phương Tây có một câu chuyện kể về một Thiên thần và một cô bé, câu chuyện có rất nhiều điều bổ ích, có thể làm bằng chứng phản biện cho điều này. Chính vì sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni khai ngộ đắc Đạo, bề ngoài thì người thường nhìn không ra, vì con người mê trong hành động và nhận thức của nhục thân, năng lực rất thấp kém, cho dù tận mắt nhìn thấy thần thông thì ngay lúc đó chỉ kích động một chút, sau đó lại không tin. Chính vì vậy mà khi Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp, có người tin, có người không tin, thậm chí cũng có kẻ hãm hại Ngài. Ngay cả những người tin Ngài cũng phân thành thượng sỹ, trung sỹ, hạ sỹ. Những bậc thượng sỹ vừa nghe Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng chân Pháp, khởi nguồn từ tâm liền sinh ra tín tâm thanh tịnh, theo yêu cầu của Thích Ca Mâu Ni xuất gia tu hành, theo Đức Phật nỗ lực tinh tấn cầu chính giác viên mãn. Những đệ tử thường xuyên bên cạnh Thích Ca Mâu Ni này chính là các đại Tỳ Kheo thường được nhắc đến trong Kinh sách, chính là các đệ tử Thượng tọa bộ. Còn những bậc trung sỹ hoặc những người có đức tin thuần khiết nhưng vẫn còn đắn đo e ngại hay không buông bỏ được trách nhiệm nơi thế tục, chính là các đệ tử ở tầng thấp hơn vào thời điểm đó, còn có những người nửa tu nửa không theo kiểu ba ngày đánh cá hai ngày phơi lưới. Xưa nay các bậc Thánh giác truyền Pháp phổ độ cũng không tránh khỏi tình huống như vậy.

6. Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi đả tọa dưới cây bồ đề bảy bảy bốn mươi chín ngày dứt bỏ hết những dục vọng phiền não và chấp trước của con người và đạt khai ngộ, Ngài cũng không phải lập tức đạt đến quả vị Như Lai, trong 49 năm truyền Pháp tiếp theo, Ngài vẫn dần dần thăng hoa lên, mãi đến những năm cuối đời mới đạt đến cảnh giới Như Lai. Bộ Kinh này chính là ghi chép lại những lời Ngài giảng vào những năm cuối đời, do vậy đối với tín đồ Phật giáo mà nói đương nhiên rất quan trọng vì đó là lời Như Lai giảng Pháp. Rất nhiều người cho rằng Thích Ca Mâu Ni nhờ đả tọa bảy bảy bốn mươi chín ngày dưới cội bồ đề mà khai ngộ, nhưng họ đã quên mất quá trình tu hành và sáu năm tu khổ hạnh trước đó của Ngài, kỳ thực đó là hoàn thành quá trình tiêu giảm nghiệp lực của sinh mệnh. Sau khi Thích Ca Mâu Ni khai ngộ, Pháp đầu tiên Ngài truyền chính là La Hán Pháp, trong đó khổ hạnh là bài học rất cơ bản, con đường chủ yếu trong Pháp của Ngài chính là “Giới – Định – Huệ”. Khi Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, ở Ấn Độ còn chưa có chữ viết, năm xưa Thích Ca Mâu Ni dẫn dắt đệ tử cũng không cần họ đọc Kinh sách vì không có Kinh sách mà đọc, mỗi ngày có ba việc: Thích Ca Mâu Ni giảng Pháp, sau đó dẫn họ đi khất thực, kế tiếp là đả tọa thực tu, tu thiền định. Ngày ngày đều như vậy. Thời kỳ đầu, Thích Ca Mâu Ni dẫn các đệ tử tu hành trong rừng rậm và trong các sơn động, mỗi ngày ăn một bữa, ngủ đêm dưới gốc cây, mỗi ngày chỉ gần chính ngọ mới đi xin một bữa cơm, sau đó là trường kỳ đả tọa tập thể, nhập định thâm sâu. Đó là việc vô cùng vất vả khổ cực. Bởi vì khổ cực, một số đệ tử còn chịu không nổi nên ban đêm lén lút cởi bỏ áo cà sa chạy về nhà, đã có lúc xảy ra sự việc như vậy. Bất kỳ môn chính Pháp nào đều không ép buộc người ta phải ở lại đó, những điều này cũng tất yếu trở thành một phần trong cơ chế khảo nghiệm và đào thải: Đạo Pháp tự nhiên. Những điều này cũng tất yếu trở thành khảo nghiệm, chỉ có kiên định thực tu, ý chí kiên cường, cuối cùng mới có thể khai ngộ đắc chính quả. Thời đó do luyện công tập thể, thực phẩm xin được có lúc rất ít, thêm vào đó Ấn Độ vốn có khí hậu ẩm ướt, người ta rất thích ăn những đồ ăn như hành, gừng, tỏi. Lúc bình thường con người sinh sống nơi thế tục vẫn chưa cảm thấy có vấn đề gì lớn, chỉ là miệng có mùi lạ mà thôi, vì nhân tâm không tịnh. Nhưng một khi trường kỳ nhập định thâm sâu, tu thiền định trở thành bài học rất quan trọng, thì vấn đề này sẽ trở thành nổi cộm. Học thuyết ngũ hành cổ xưa của Trung Quốc giảng về ngũ hành phối hợp ngũ khí, vạn sự vạn vật trong cảnh giới này của thế giới chúng ta đều có thể được lý giải dựa trên cái lý này, người thường cảm thấy hành, gừng, tỏi giúp ích cho việc điều trị một số bệnh, bởi vì bản thân nó bao gồm chút độc tố, thuộc tính âm, khí của nó rất đục. Khi người ta thiền định thâm sâu, mùi vị vô cùng hắc ấy sẽ ảnh hưởng đến việc nhập định, nên năm xưa ngoại trừ việc giới cấm các hành vi ác đạo rõ ràng như tham, dâm, sát, thì hành, gừng, tỏi cũng được coi là “huân”, không cho phép ăn, huân chính là không trong sạch. Quả đúng thời đó không có cấm thịt, thịt cũng không bị coi là huân. Bởi vì dân số Ấn Độ lúc bấy giờ không như hiện tại, có rất ít người, toàn bộ tiểu lục địa Ấn Độ tổng cộng có hơn 200 quốc gia, rất nhiều nơi đều là rừng rậm nguyên thủy, phương thức canh tác nông nghiệp còn chưa phổ cập, thức ăn rất ít ỏi, thậm chí rất nhiều người dựa vào săn bắt để duy trì sự sống. Phật Thích Ca Mâu Ni muốn các đệ tử buông bỏ những suy nghĩ thế tục, nên đã dùng phương thức đoạn tuyệt để nhanh chóng cắt đứt tham sân si dục của con người, Ngài đã lập nên chế độ xuất gia một cách cực đoan. Để giải quyết vấn đề lương thực, Ngài dẫn các đệ tử đi xin ăn, đi hóa duyên, người xin ăn không thể lựa chọn đồ ăn, đương nhiên không thể chọn có thịt hay không.

7. Nói đến khất thực, Phật giáo sau này gọi là hóa duyên. Kỳ thực khái niệm hóa duyên rất lớn, xin ăn là phương pháp bất đắc dĩ mới chọn dùng để phù hợp với trạng thái tu luyện lúc đó, đồng thời trong quá trình khất thực, các đệ tử phải đề cao tâm tính, nối duyên kết duyên, dùng các phương thức khác nhau để kết thiện duyên với chúng sinh. Vì phương thức quản lý sinh mệnh mà tín đồ Phật giáo chọn dùng, nhất định sau khi họ tu thành sẽ có thể mang lại lợi ích cho nhiều chúng sinh hơn, nên trước mắt họ mượn người ta cái ơn một bữa cơm, sau này báo đáp lấy siêu thoát làm trọng, đó cũng là sự viên dung từ bi của Phật gia: vừa giải quyết được vấn đề về phương thức tu luyện, vừa kết được thiện duyên cứu độ chúng sinh trong tương lai. Sau đó Phật giáo truyền đến Trung Quốc, bởi vì các cao tăng Phật giáo Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đến Trung Thổ là được Minh Đế Lưu Trang thời Đông Hán mời đến, quan niệm phần đa ở Trung Quốc lại cho rằng “người khất thực” chung quy không thể nào là người đại đức đại trí, người Trung Quốc rất khinh thường, cho rằng đó là không làm mà có ăn, nên đã xuất hiện một số thay đổi về hình thức tu hành trong Phật giáo. Từ góc độ Hoàng thất mà nói, để cho các bậc Thánh giả được mời đến lại đi khất thực, quả là mất thể diện, vì vậy Quốc vương đã xây cho họ nơi cư ngụ, ban đất cho họ và cung dưỡng họ. Đầu tiên họ nghỉ ngơi tại Hồng Lư Tự (cơ quan phụ trách việc tiếp đón và thể thức lễ nghi với những sứ đoàn từ các triều hoặc nước khác đến). Lưu Trang nằm mơ thấy một con ngựa trắng mang Kinh sách đi về phía Đông, nên đặt tên là “Bạch Mã Tự”, từ đó về sau nơi cư ngụ của hòa thượng đều thêm chữ “Tự” (chùa) vào. Vì muốn Phật Pháp được truyền bá rộng rãi hơn ở Trung Thổ, Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan cũng phải điều chỉnh để phù hợp với xu thế thời đại và tập tục địa phương, sau này chỉ khi đi vân du bốn phương thì các hòa thượng mới cầm bát đi xin ăn. Nhưng lúc ban đầu chế độ “vân du” rất nghiêm ngặt, cũng chỉ có “một bình một bát”, không mang theo thứ gì khác. Trong chùa Phật giáo yêu cầu xuất gia (tứ đại giai không mà Thích Ca giảng có nội hàm cao hơn, không phải không có, mà là hoàn toàn không chấp trước, sau này trở thành câu cửa miệng của họ). Xuất gia nghĩa là không có nhà, chùa không phải là nhà, cũng không được xem như nhà mà phải xem như trường học. Chùa chính là trường đại học của Phật giáo, tu viện chính là lớp học của Phật gia, đó mới là thực chất. Đã là trường học thì cần có một quá trình dạy học và thăng cấp, chế độ trong chùa thời đó rất nghiêm khắc, cũng quy định ngày ăn một bữa, đọc Kinh trong thiền đường, đả tọa trong thiền phòng, thiền phòng đều là giường chung, mọi người đều cùng nhau tinh tấn. Để phổ cập kiến thức mới, hai tôn giả đem bộ phận then chốt trong giáo nghĩa của Phật Thích Ca Mâu Ni dịch thành một bản Kinh sách đơn giản khái quát, đó chính là cuốn “Tứ Thập Nhị Chương Kinh” (Kinh Bốn Mươi Hai Chương). Bởi vì khi đã nhập Phật môn thì mục đích rất minh xác, chính là phải kiên định, dũng mãnh cầu chính giác, tận sức nhanh chóng phá mê khai ngộ, chịu khổ thực tu, đoạn tục diệt dục đương nhiên chính là ý nghĩa tất yếu, không được lựa chọn thực phẩm hay nơi cư ngụ. Chùa chiền xưa kia cũng không có nhiều tượng như bây giờ, chủ yếu là Kinh sách, sau này dần dần Phật giáo đi vào giai đoạn “tướng Pháp” (chính là con người chưa có ngộ tính và trí huệ cao như trước nữa, ngày càng bị hậu thiên ô nhiễm, nên phải xây dựng một hình mẫu, dùng sự trang nghiêm bề ngoài mà thu hút chúng sinh đến tu học Phật Pháp), vì vậy các bậc đại đức trong các triều đại đều không ngừng góp phần hoàn thiện các kiến trúc của chùa chiền, tăng thêm giáo cụ và hoàn thiện thêm giới luật. Trước đây hòa thượng không nấu ăn, nhưng sau này xây chùa, khi nấu ăn mùi thịt thơm ngon bay đến rất hấp dẫn người ta, vấn đề này cũng trở nên nổi cộm, vì để bảo đảm không gian thanh tịnh cho việc thiền định và đọc Kinh, sau này đã quy định không cho phép ăn thịt. Thịt dần dần bị loại khỏi bàn ăn của tín đồ Phật giáo, việc này tất nhiên cũng nảy sinh một số tranh luận, đó cũng là thể hiện khả năng viên dung của Phật Pháp, nhưng ý nghĩa của việc không cho ăn thịt là không để con người khởi chấp trước mạnh mẽ đối với thịt, chứ không phải không ăn thịt đại biểu cho điều gì. Bởi vì bản thân việc chấp trước đối với đồ ăn ở thế gian chính là một chướng ngại to lớn, nuôi dưỡng sự ngu muội của nhục thân, cho nên sau này có những tín đồ Phật giáo đã làm ra các món ăn chay nào là “Đại tiệc hoàng gia Mãn-Hán”, “Hoa bầu dục xào chay”, “Thịt nạc hầm chay” v.v., còn nói hùng hồn đầy lý lẽ rằng chúng ta không ăn thịt, thực sự hoàn toàn đảo lộn khái niệm về không ăn thịt. Chấp trước đối với mùi vị thức ăn của họ còn tệ hại hơn nữa, lại còn cảm thấy bản thân “tu được thanh tịnh”, trong mắt của người tu Đạo chân chính, đó là điều thật đáng cười. Giống như một người nghiện cờ bạc, sau này vì điều kiện hạn chế nên không đánh bạc nữa, nhưng vẫn còn lấy hạt ngô hay viên sỏi nhỏ thay tiền đánh bạc, trong tâm không có thay đổi. Ngoài miệng nói rằng tôi không đánh bạc nữa, nhưng then chốt ở chỗ tâm chấp vào đánh bạc của bạn có còn hay không. Không chấp vào ăn và mặc nơi thế gian đều là không chấp trước mà tự nhiên viên dung, cũng không thể nói mặc áo cà sa màu vàng xám như đất thì là “thanh tịnh”. Phật mặc cà sa màu vàng kim rực rỡ, Đạo mặc áo choàng màu tím hoa lệ, họ có chấp trước không? Họ vẫn là Phật, Đạo, họ không có những thứ khái niệm như chúng ta. Còn một người mà tâm phàm không thay đổi, thì cho dù mặc quần áo thô, ngủ giường đất, ăn cơm thừa, nhưng trong tâm không buông bỏ danh lợi tình thì đó bất quá chỉ là trạng thái ngụy tạo, giả tu.

8. Tiểu thừa là cơ sở của Đại thừa, giống như tiểu học là cơ sở của đại học. Đối với những người không hiểu rõ thì Tiểu thừa chú trọng “trước tướng” (vẫn còn hình dạng), Đại thừa chú trọng “không”, họ đứng trên góc độ tham lam và tư niệm của con người, đương nhiên tu Đại thừa “cao hơn”. Vậy, bạn mong muốn một bước lên đến đỉnh của tòa cao ốc 50 tầng, bạn chỉ thích lên tầng thứ 50 nhưng lẽ nào bạn không cần tốn công sức để trèo lên 49 tầng bên dưới sao? Đạo lý đơn giản như vậy! Giống như việc học Nho gia, “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện” (Mục đích của sự học rộng cốt làm sáng cái đức của mình, cốt khiến cho người ta tự đổi mới, cốt khiến cho người ta dừng ở chỗ chí thiện). Tốt biết mấy, một bước trở thành Thánh hiền. Nhưng nếu một người không có nền tảng học “tiểu học”, rèn luyện thành thục tâm Pháp, lễ nghĩa, đạo hiếu kính trở nên tự nhiên, chẳng qua chỉ thuộc lòng câu chữ, thì thực chất chỉ là kẻ tiểu nhân ngụy quân tử mà thôi. Vì vậy vào giai đoạn chính Pháp và tượng Pháp của Phật giáo, cũng chính là khi Pháp của Thích Ca Mâu Ni chưa bại hoại, những người chân tu đều biết rằng Đại thừa phải bắt đầu từ Tiểu thừa, chịu khổ hành thiện, khổ tu thiền định, chứ không phải là đàm luận bừa bãi về các giáo lý Phật giáo. Thiền chính là sự khái quát của cảnh giới Không, nhưng Không không phải là giả Không, cảnh giới của Không thực sự là sự viên mãn tràn đầy Pháp tính, đối với cảnh giới bên dưới là không gì không bao hàm, không gì bị bỏ sót, không gì không biết mà lại tự nhiên không gì chấp trước. Chẳng hạn tại cảnh giới của Như Lai, đối với tất cả những gì trong một nghìn thế giới bên dưới tầng thứ Như Lai, tất cả những suy nghĩ của chúng sinh, kể cả suy nghĩ của trâu ngựa Ngài đều biết, nhưng suy nghĩ của Ngài sẽ không tiến nhập vào trong đó. Như Lai cũng không đích thân cứu độ chúng sinh, Như Lai chỉ có nguyện vọng đó còn việc cụ thể là do Bồ Tát làm.

9. Khi mà Pháp của Thích Ca Mâu Ni chưa bị phá hoại, nếu vũ trụ không phải đang ở trong thời kỳ chỉnh thể Chính Pháp, vậy thì nếu nghiêm khắc chiểu theo Giới – Định – Huệ của Thích Ca Mâu Ni mà tu thì phó nguyên thần có thể tu thành. Vì Thích Ca Mâu Ni đến từ vũ trụ tầng thứ sáu, và thế giới Cực Lạc mà tín đồ Phật giáo nói đến nằm ở trung tâm của vũ trụ tầng thứ hai, cho nên người đời sau không lý giải được sự tu trì trong thế giới Cực Lạc, dường như chỉ dựa theo “A-Di-Đà Kinh” mà cải biến và tham ngộ ra Pháp môn Tịnh Độ, cho rằng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” là có thể khai ngộ, người ta lý giải một cách đơn giản như vậy, thậm chí có những tín đồ Phật giáo thời kỳ mạt Pháp không hiểu rõ lại đem nó ra gạt người gạt mình. Thật ra tầng thứ của Thích Ca Mâu Ni rất cao, Ngài trực tiếp xuyên qua sáu tầng vũ trụ mà xuống đây, mang theo Pháp thâm sâu của “thế giới Đại Phạm” mà Ngài sáng tạo từ vũ trụ tại tầng thứ sáu, đồng thời cũng phải cứu độ rất nhiều chúng sinh bị rớt xuống khỏi thế giới Phật ở cảnh giới bên dưới, đó là nguyên nhân mà Ngài giảng về những thế giới này và Kinh sách của thế giới ấy. Vì con người không biết, chúng sinh trước kia từ thế giới nào rơi xuống đương nhiên đều có khát vọng quay về cố hương, mà thế giới của các vị Thần và chư Phật khác với kết cấu bản nguyên của bạn. Ví như bạn sinh ra là người phương Đông đã quen với tư duy và lối sống của phương Đông, nếu cưỡng ép đưa bạn sang phương Tây sống, bạn sẽ không vừa ý, hơn nữa cha mẹ thực sự của bạn có thể không để bạn đi. Cho dù người khác có ý định tốt, muốn bạn có cuộc sống tốt hơn một chút, cha mẹ chẳng phải sẽ chạy theo họ đòi bạn sao? Vậy người kia rất có thể bị xem như kẻ buôn người. Lòng tốt đặt không đúng chỗ. Thần Phật không làm như vậy. Vậy thì Thích Ca đã giúp rất nhiều vị Phật ở tầng thứ mà Ngài đến, viên dung thế giới và nguyện vọng của họ, nhưng những vị Phật ấy có thể không đích thân đến thế gian làm sự nghiệp phổ độ như Thích Ca Mâu Ni, như thế thì toàn bộ con đường dường như là Thích Ca Mâu Ni tu vậy, mãi đến tầng thứ sáu của vũ trụ (tôi chỉ có thể nói như vậy), tiện đường thì rẽ qua thế giới Cực Lạc và thế giới Lưu Ly, rồi mang theo những thứ trong thế giới ấy trên đường trở về. Nếu trong tâm bạn luôn nhớ đến Phật A Di Đà thì Phật A Di Đà sẽ đến giúp bạn, Pháp thân của Ngài sẽ hộ pháp cho bạn, chăm sóc bạn, bảo hộ bạn, giúp bạn diễn hóa công, đến khi bạn phải ra đi, Ngài sẽ đón nhận bạn đến thế giới Cực Lạc. Nhưng vì đặc điểm và quy luật của toàn bộ con đường tu luyện này là do Thích Ca Mâu Ni mở ra, bạn phải theo Giới – Định – Huệ mà tu, cho dù niệm Phật hiệu bề ngoài rất đơn giản, nhưng tâm Pháp và tu luyện chân chính ắt phải tuân theo Giới – Định – Huệ, đó cũng là không nói mà tự hiểu. Hơn nữa, có một thiên cơ, đó là: Phật, Đạo, Thần chỉ độ người của thế giới họ rớt xuống. Không phải là Phật, Đạo, Thần có vẻ như bo bo giữ mình, kỳ thực là họ không thể giải quyết được vấn đề của các thế giới Phật khác, lấy ví dụ Phật ở tầng thứ Như Lai trên Thiên thượng giống như các đại luật sư, nhưng mà họ có phân chia công việc, có sở trường khác nhau, có người giỏi về vụ án loại này nhưng lại ít hiểu biết hoặc thiếu kinh nghiệm trong việc giải quyết vụ án loại kia. Nếu bạn tìm nhầm luật sư, thì tuy người đó có tiếng tăm nhưng không nhất định hiệu quả bằng luật sư bình thường xử lý vụ án của bạn. Chính là ý nghĩa này. Nên Phật, Đạo, Thần từ bi có thể giúp bạn, bạn tụng niệm tên họ, chân thành sùng bái họ, thì họ có thể điểm hóa hoặc an bài cơ duyên cho bạn. Điều thật sự có thể giải quyết được tất cả vấn đề, chính là việc hồng truyền Pháp của vũ trụ. Năm xưa trong phạm vi nhỏ, Thích Ca Mâu Ni từ tầng thứ sáu của vũ trụ xuống, cũng có thể tự nhiên viên dung Pháp của thế giới ở tầng tương đối thấp như thế giới Cực Lạc và thế giới Lưu Ly. Các Giác Giả không có những ý kiến luận bàn nực cười và ngu ngốc như của những người đó, nhưng nếu họ hiểu rằng nguồn gốc của Thích Ca Mâu Ni có thể được người ta biết thì họ sẽ không hồ đồ.

10. Thích Ca Mâu Ni giảng bộ Kinh này vào những năm cuối đời của Ngài, sau khi Ngài đã chứng ngộ quả vị Như Lai. Bởi vì khi giảng bộ Kinh này Ngài đã nhấn mạnh tầm quan trọng phi thường của Kinh ấy. Thời đó mười đại đệ tử của Ngài như Xá Lợi Phất, Đại Già Diệp, Mục Kiền Liên v.v. đã hết sức để tâm, vì lúc ấy Ấn Độ không có văn tự, họ chỉ có thể truyền miệng. Dù trí huệ của họ rất cao, trí nhớ rất tốt, cũng khó tránh khỏi có lúc nhớ nhầm lẫn, hơn nữa mãi đến 500 năm sau khi Thích Ca Mâu Ni không còn tại thế Phật giáo mới tổng kết ra Kinh sách. Đến thời đại A Dục Vương, Phật giáo mới bắt đầu được quốc gia tôn sùng, có điều kiện phát triển tốt hơn một chút. Vậy trong quá trình khẩu truyền dài đến 500 năm, có thể có chỗ nhớ sót, nhớ sai hoặc nhầm lẫn không? Chắc chắn là có. Có những đệ tử sau này đem những điều lý giải của mình lẫn lộn vào trong ấy không? Chắc chắn là có. Cho dù các đệ tử vô cùng thận trọng ghi chép lại những điều trong giai đoạn “Chính Pháp” của Phật giáo, nhưng trong quá trình truyền bá tất nhiên không tránh khỏi điều đó. Kim Cương Kinh đã thể hiện rõ ràng điều này. Người đời sau chia bộ Kinh thành 32 đoạn, từ đoạn thứ 17 thì bắt đầu xuất hiện những nội dung bị lặp lại, kỳ thực là do những điều người ta hồi tưởng ra không giống nhau, tổ sư của họ đều là các đại đệ tử của Thích Ca Mâu Ni trước khi Ngài niết bàn, người đời sau không phân biệt rõ là chuyện gì, vậy nên thêm những điều đó ở phần sau để tham chiếu. Mục đích là không để thiếu sót, lỡ ra điều mà Thích Ca Mâu Ni giảng còn có ý nghĩa nào đó thì sao? Sau này khi Cưu Ma La Thập dịch Kinh sách, các chữ trong Bối Diệp Kinh (Kinh khắc trên lá bối) cũng bị khuyết thiếu. Trong quá trình Cưu Ma La Thập dịch Kinh sách, hầu hết đều dịch nói bằng miệng để đệ tử của ông ghi lại, những lời truyền miệng đó nguyên ban đầu là có tên người X nào đó nhớ lại, có tên người X nào đó nói như vậy, nhưng đã bị họ bỏ hết đi. Và những điều mà Huyền Trang phiên dịch cũng tham chiếu theo bản dịch của Cưu Ma La Thập, do vậy người đời sau một mặt đọc không hiểu ý nghĩa của Kinh và không phân biệt được điều sai trong đó, mặt khác do ảnh hưởng của tình cảm, nên dù nhìn thấy lặp đi lặp lại nhiều lần cũng không dám nghi ngờ, vẫn còn duy hộ bằng tình cảm, cho rằng đang duy hộ Phật Thích Ca Mâu Ni. Kỳ thực Cưu Ma La Thập cũng vậy, Pháp sư Huyền Trang cũng vậy, trong quá trình dịch thuật tất nhiên cũng trộn thêm vào những lý giải của họ đối với Phật Pháp. Sau này trong quá trình sao đi chép lại, lại thêm kể từ sau khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, tam giáo (Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo) liên tục xảy ra tranh chấp, vì muốn giành phần thắng nên những người duy hộ Phật giáo đã thêm thắt từ ngữ vào trong các bản dịch, do vậy đã khiến cho bộ Kinh này có một số phần trở nên quá đơn giản, một số phần lẫn lộn quan niệm của cá nhân không còn là nguyên văn lời của Đức Phật, một số chỗ thêm vào nhân tố phân tranh hơn thua của tam giáo đương thời, có chỗ dịch không chính xác, vì thế khiến cho bộ Kinh này trở thành một trong những bộ Kinh Phật khó giải thích nhất từ xưa đến nay. Đến ngày nay, e rằng khó mà tính được bao nhiêu người đã cố gắng giải thích câu chữ trong cuốn Kinh này, nhưng chỉ rất ít người thực sự tìm được ý nghĩa thâm sâu trong đó, mà chỉ có người tu luyện Đại Pháp mới có thể hiểu rõ nó, bỏ đi những lý giải sai lầm để giải thích lại nó một cách rõ ràng. Dựa trên thực tế, chúng ta có thể thấy rõ ràng những nhân tố ở phía sau đó, trong thời kỳ xã hội còn duy trì đạo đức, đằng sau bộ Kinh sách đó là có Thần hộ Pháp, nên xưa kia mọi người cũng biết rằng người thường tụng niệm bộ Kinh này cũng có thể được bảo hộ. Nhưng cổ nhân kính Phật, thường không dám khinh nhờn Kinh Phật, nên phải mời cao tăng đại đức đến niệm Kinh, chứ không dám tự mình niệm. Chúng ta thấy rằng “Kinh Kim Cương” được lưu truyền trên thế gian hôm nay thật sự là những cuốn Kinh pha tạp, tất cả những chỗ phù hợp với nguyên nghĩa của Thích Ca Mâu Ni đều lấp lánh ánh hào quang, còn những chỗ dịch không chính xác nhưng chưa lẫn lộn sai lầm thì ánh sáng âm u hơn, mà những chỗ bị người đời sau lẫn lộn sai lầm thì đều đen tối. Mặc dù nguồn gốc của Thích Ca Mâu Ni rất cao, nhưng trong Pháp lý của cựu vũ trụ, Pháp của Ngài chỉ có thể độ phó nguyên thần không nhập vào Tam giới, đối với bộ phận chính, những đệ tử chân chính của Ngài, Ngài đã mở ra một tầng trời trong cõi vô sắc, tầng cao nhất trong Tam giới, gọi là Đại Phạm Thiên, liên tục ở đó trông coi các đệ tử của Ngài tích lũy uy đức to lớn trong nhiều lần chuyển sinh, các sinh mệnh rơi xuống từ các tầng thứ khác nhau, có thể mượn thân người để tu luyện, cũng đã giúp viên dung những sự việc của thế giới Cực Lạc, thế giới Lưu Ly v.v. Nhưng những sinh mệnh của chủ thể thì chưa nhảy ra khỏi Tam giới, đó cũng là ý nghĩa chân chính mà năm xưa Ngài từ bi giảng “thực vô chúng sinh đắc diệt độ giả” (thực sự không có chúng sinh nào được độ). Bởi vì Thích Ca Mâu Ni đến để dựng lập văn hóa của Phật trải đường cho Đại Pháp phổ truyền. Ngài suốt đời chịu vô số khổ nạn, khi Đại Pháp hồng truyền, Ngài cũng đã an bài cho các đệ tử chân chính của Ngài đến để đắc Pháp. Sau khi họ đồng hóa Pháp của vũ trụ, Ngài sẽ dẫn họ rời khỏi Tam giới, đệ tử của Ngài thấp nhất cũng phải tu đến tầng thứ sáu của vũ trụ, đó là năm xưa được sự an bài của Ngài một cách có hệ thống. Đệ tử chân chính của Ngài đều được thọ ký, trên trán có một phù hiệu chữ “Vạn”. Người thực sự có công năng chỉ liếc qua là nhìn thấy. Cho nên, không phải cứ cạo trọc đầu, ngoài miệng niệm “A-Di-Đà-Phật” thì là đệ tử của Ngài.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48408

The post Luận giải “Kim Cương Kinh” (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>