20 năm tu luyện | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 24 Apr 2025 07:00:24 +0000en-UShourly1Nhìn lại 20 năm tu luyện: Chuyển biến những quan niệm cố chấp (Phần 2)https://chanhkien.org/2023/08/nhin-lai-20-nam-tu-luyen-chuyen-bien-nhung-quan-niem-co-chap-phan-2.htmlThu, 17 Aug 2023 02:12:24 +0000https://chanhkien.org/?p=31122Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [ChanhKien.org] 4. Liên quan đến tâm tật đố Quan niệm tự tư của tôi còn sinh ra tâm tật đố mạnh mẽ: cho rằng chuyện tốt của người khác chính là chuyện xấu của mình, chuyện xấu của người khác là chuyện tốt của mình. Đôi khi nghe thấy […]

The post Nhìn lại 20 năm tu luyện: Chuyển biến những quan niệm cố chấp (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[ChanhKien.org]

4. Liên quan đến tâm tật đố

Quan niệm tự tư của tôi còn sinh ra tâm tật đố mạnh mẽ: cho rằng chuyện tốt của người khác chính là chuyện xấu của mình, chuyện xấu của người khác là chuyện tốt của mình. Đôi khi nghe thấy đồng tu xuất hiện nghiệp bệnh hoặc gặp chuyện không thuận lợi, thay vì lo lắng cho họ tôi lại hả hê trước sự bất hạnh của người khác, như thể trạng thái không tốt của đồng tu có thể làm nổi lên trạng thái “có vẻ tốt” của bản thân, kỳ thực cách nghĩ này chính là một thói quen xấu sinh ra từ tâm tật đố.

Đây chính là một chủng ma tính đáng sợ, cách quá xa đặc tính của vũ trụ và sẽ mang đến biết bao nhiêu ác báo nghiêm trọng. Sau khi nhận thức được điểm này rõ ràng hơn, tôi không khỏi kinh hãi, biết rằng cần phải thanh trừ chủng tâm này ngay lập tức.

“Thiện ác hữu báo” từng là câu cửa miệng của tôi, bây giờ nghĩ lại tôi rất sợ, bởi vì trước đây tôi đã từng động bao nhiêu niệm đầu bất thiện chứ? Nhưng tôi chưa bao giờ cảm thấy bản thân bất thiện (tật đố, oán hận, coi thường, hiển thị, niệm đầu sắc dục đen tối,v.v.), những thứ này đều thuộc phạm trù “ác”, tôi càng không cho rằng vì điều này mà gặp ác báo. Nhưng nếu thực sự đối chiếu với Pháp Lý, thì thấy sẽ gặp ác báo, trong tư tưởng hình thành vật chất ác sẽ cản trở bản thân học Pháp luyện công, còn bị cựu thế lực tóm cứng sơ hở bức hại, dẫn đến các loại ma nạn, đây chẳng phải là ác báo sao?

Hiện tại tôi không dám chủ động động tà niệm nữa, nhưng do nền tảng kém, thiện niệm ít ác niệm nhiều, nên đôi khi trong vô thức tôi vẫn động những niệm đầu liên quan đến tâm tật đố. Ví dụ, tôi từng có quan niệm cho rằng mối quan hệ giữa người với người là chà đạp, chế giễu lẫn nhau, bề ngoài là bạn tốt nhưng nội tâm khó nắm bắt, hơn nữa động cơ đều là tự tư, không có ai thực sự vì người khác. Mang theo quan niệm này, khi thấy đồng tu chia sẻ thông tin trong nhóm, niệm đầu tiên của tôi là cảm thấy đối phương đang thể hiện bản thân, có gì đáng khoe khoang chứ? Tôi không hề cảm thấy đồng tu chia sẻ xuất ra từ thiện ý, do đó bản thân tôi cũng rất ít chia sẻ, sợ bị người khác ác ý đánh giá. Kỳ thực đây vẫn là tâm tật đố, không nghĩ tốt về người khác, tâm thái này rất đáng thương, giống như sống trong ma giới người trị người, người đấu người vậy.

Hiện tại tôi mới chỉ xoay chuyển quan niệm này từ trên nhận thức, còn về mặt cảm tình thì vẫn chưa có chuyển biến nhiều, tôi cần dựa vào thực tu mới có thể thực sự cải biến trường vật chất của tự thân. Chỉ là so với trước đây, tôi không dám dùng tâm tật đố một cách mãnh liệt để suy xét vấn đề nữa, hơn nữa tôi sẽ cố gắng túm lấy những niệm đầu bất thiện ngay khi nó vừa xuất hiện để kịp thời phủ định chúng, trong tâm nói, tôi không muốn loại ác niệm này, hãy thanh lý nó, tiêu diệt nó. Việc không loại bỏ được tận gốc tâm tật đố còn liên quan chặt chẽ đến tâm tham, luôn muốn đắc được những điều tốt, kỳ thực những thứ con người cho là tốt xấu thì tại cao tầng thường là phản đảo, vì vậy tôi cần chuyển biến quan niệm này.

5. Liên quan đến “ái tình”

Từ nhỏ tôi đã vô cùng chấp trước vào cảm thụ, tình cảm, sau này lại bị ảnh hưởng bởi các tác phẩm văn học, khiến những quan niệm tự tư cực đoan ngày càng phình to. Tôi còn hình thành những giá trị quan biến dị trong việc theo đuổi cái gọi là “tình yêu”, “chân ái”. Kỳ thực điều này không tách rời cái tâm thích được người khác công nhận và khen ngợi. Một người không động tâm trước khen chê, yêu ghét thì sẽ không bị chấp trước vào “tình yêu”. Việc say mê khi được người khác khen, được người khác chiều chuộng, sùng bái, vừa đúng là nhược điểm lớn nhất của một sinh mệnh, thực ra đây chính là đã mê mất chân ngã, làm náo động và đắm chìm trong cảm xúc, cảm thụ, cảm tình.

Người xưa có câu “Vạn ác dâm vi thủ” quả là quá đúng, người vị tư thì thiện ít ác nhiều, lấy cảm xúc của tự ngã làm trung tâm, cũng thường chấp trước vào sắc dục, kỳ thực chính là do đã phóng đại vô hạn cảm thụ của bản thân. Người thiện lương hay vì người khác thông thường sẽ không đắm chìm trong đó mà sẽ nghĩ đến cảm thụ của người khác nhiều hơn.

Có một số người ly hôn vợ chồng vì tính cách không hợp nhau, có người thậm chí vì gặp được người vừa ý hơn, cũng có người thường xuyên bất mãn với người bạn đời của mình và ngưỡng mộ người khác giới khác. Tôi đã từng hiểu rất rõ những suy nghĩ tương tự, cho rằng truy cầu hạnh phúc là không đáng trách. Hiện tại tôi hiểu rằng cách nghĩ này quá hồ đồ, cũng quá tham lam, không hài lòng với cuộc sống bình thường, muốn theo đuổi những khoái lạc lớn hơn. Điều này thực ra là đi ngược với tu luyện, người tu luyện cần trừ bỏ chấp trước, hướng thiện, không sợ chịu khổ, hoàn nghiệp, hiểu rõ nhân quả mà bằng lòng với số phận, lấy hồi thiên làm mục đích của nhân sinh. Trong khi theo đuổi cái gọi là tình yêu lại là theo đuổi những khoái lạc ngắn ngủi ở nơi thế gian, không quan tâm đến người khác mà chỉ xem trọng bản thân (một số người kiên quyết ly hôn, đương nhiên cũng không nghĩ đến cảm thụ của người thân như con cái, cha mẹ,v.v.)

Mọi người có thể đã nghe qua câu “Cuộc hôn nhân không có tình yêu là cuộc hôn nhân vô đạo đức”, đây cũng trở thành cơ sở để một số người theo đuổi tình yêu. Thực ra, câu này có nguồn gốc từ Engels, ông ta nói: “Chỉ có cuộc hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu mới là cuộc hôn nhân phù hợp đạo đức”.

Cuốn “Ma quỷ đang thống trị thế giới chúng ta” có đoạn:

“Dâm loạn là bản chất cố hữu của chủ nghĩa cộng sản. Marx, người sáng lập chủ nghĩa cộng sản đã hãm hiếp người hầu gái của mình, sau đó sinh được một đứa trẻ và nhờ Engels nuôi nấng; Engels chung sống cùng hai chị em ruột; Lenin – lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô, có quan hiện ngoài luồng với Inesa trong suốt 10 năm”, “Điều mà Marx và Engles cổ xuý, mặc dù ý nghĩa thực sự thường bị che đậy bởi những từ như ‘tự do’, ‘giải phóng’, ‘yêu’, nhưng thực chất là vứt bỏ trách nhiệm đạo đức của con người, khiến hành vi của con người hoàn toàn bị dục vọng chi phối”. “Trong văn hoá truyền thống của phương Đông và phương Tây, hôn nhân là do Thần định ra, là ‘duyên trời tác hợp’ và không thể huỷ bỏ”.

Có nghiên cứu khoa học phát hiện rằng, tình yêu cũng giống như hút thuốc phiện, có thể khiến con người ta nghiện và sinh ra cảm giác khoái lạc, khi thất tình cũng xuất hiện các triệu chứng cai nghiện như đau đớn tột cùng,v.v. Vậy chấp trước vào ái tình và nghiện ma tuý thì có gì khác nhau? Hơn nữa làm tổn thương vợ chồng, phản bội gia đình là tạo nghiệp cực lớn. Đối chiếu với quan niệm truyền thống của phương Đông và phương Tây có thể thấy, những việc này sẽ khiến phúc phận nhanh chóng tiêu hao, thứ con người trông chờ chẳng phải là đức sao? Đức đem đến phúc phận, đức ít thì lấy đâu ra phúc phận?

Hạnh phúc của nhân sinh không chỉ đơn giản là hai người tâm đầu ý hợp. Sau khi biết được một số quả báo do ngoại tình gây ra, rất nhiều người thường đã cảm khái rằng “thiên đạo hảo luân hồi, thương thiên nhiêu quá thuỳ” (Đại ý là, làm điều thiện sẽ được thiện báo, làm điều ác sẽ bị ác báo. Làm điều xấu mà nhất thời không thấy báo ứng thì chớ nghĩ rằng trời đã bỏ qua, đợi đến lúc luân hồi thì mới biết trời không bỏ qua kẻ xấu và cũng không quên báo đáp người tốt). Nhà sản xuất truyền hình vì lợi ích mà kích thích tình cảm của con người, tuy lượng người xem cao và kiếm được nhiều tiền, nhưng đã làm tổn thương rất nhiều khán giả, rất nhiều người xem đến mê mờ, thậm chí bắt chước mà làm tổn hại nghiêm trọng đến phúc phận của bản thân nhưng lại cho rằng mình đang truy cầu hạnh phúc.

Trong văn hoá truyền thống, cuốn “Thọ khang bảo giám” của phương Đông có rất nhiều bài viết liên quan đến giới sắc dục. Trong đó nói rằng, một khi động niệm đầu bất chính, ví dụ muốn bỏ vợ hoặc lấy vợ lẽ, hoặc muốn giúp đỡ người đang theo đuổi tình yêu bất chính, một khi động niệm, phúc lộc thọ lập tức hao tổn, sau đó sẽ xuất hiện một số sự việc dường như ngẫu nhiên, ví dụ: tài năng văn chương xuất chúng nhưng trong kỳ thi khoa cử bài thi bị đèn dầu làm bẩn, khiến thi rớt, hoặc gia đình đột nhiên xuất hiện tai nạn,v.v.; Phương Tây có “Thần khúc” của Dante, miêu tả rõ ràng về địa ngục, luyện ngục, trong đó một số tội ác là do những danh sĩ, người đẹp thuộc tầng lớp thượng lưu trong xã hội vì theo đuổi cái gọi là “tình yêu” mà phạm phải, một số người còn cho rằng việc bản thân dũng cảm vứt bỏ mọi thứ để theo đuổi tình yêu là rất cao thượng. Quan niệm hiện đại đã khiến rất nhiều người trong vô tri mà tự hại chính mình.

Một số cuộc khảo sát cho thấy, hai người ngoại tình sau khi tái hôn thường tồi tệ hơn nhiều so với cuộc hôn nhân trước đó, có người gặp tai nạn, có người lại thấy rằng người hiện tại không tốt bằng người trước. Có bình luận chỉ ra rằng, người ngoại tình thường có đạo đức khá thấp kém, ích kỷ hơn và thiếu trách nhiệm hơn so với người bình thường, chỉ cần sinh sống trong thời gian dài sẽ bộc lộ ra những nhược điểm này. Trước đây khi tìm đối tượng người ta sẽ coi trọng nhân phẩm, sự trung thực, cần cù, có trách nhiệm, trong khi người ngoại tình thường đánh giá cao tình yêu, sự quyến rũ, có cảm xúc, đôi bên không nói về nguyên tắc đạo đức mà chỉ nói về cảm thụ tình ái, vì vậy cảm thấy rất có tiếng nói chung. Điều này đi ngược lại với những tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng. Cuối cùng người ngoại tình sẽ nhận trái đắng – phù hợp với biểu hiện nhân quả báo ứng tại thế gian.

Người vị tư cho rằng đã suy xét rất toàn diện cho bản thân mình, có thể chiếm tiện nghi mà không cần chịu thiệt, nhưng thực tế lại rất khó có được hạnh phúc, người vô tư thường ít nghĩ cho bản thân nhưng lại thường được vui vẻ. Xem ra, hành vi vị tư sẽ đem đến quả báo, mà tâm vị tư lại khiến con người thêm bất hạnh, không biết đủ, bất mãn, oán hận, tật đố, lo lắng,v.v. Điều này có thể là do lý của vũ trụ đang ức chế, con người không thể một mực nỗ lực vì bản thân là có thể đạt được mục đích. Sự chi phối buồn vui, phúc họa của sinh mệnh đều là đến từ không gian khác.

6. Chấp trước căn bản

Gần đây, tôi ngộ được chấp trước căn bản của bản thân là chấp trước vào cảm thụ, bao gồm cảm giác, cảm xúc, v.v. tất cả đều lấy cảm giác tốt, cảm giác thoải mái làm trọng, do đó tôi sợ chịu khổ, thường phản kháng lại, chạy trốn, và oán hận thống khổ.

Về mặt quan hệ giữa người với người thì thích những người công nhận mình, bài xích người phản đối mình, thích nghe những lời dễ nghe, bài xích những lời khó nghe. Về mặt lợi ích thì ham những đồ tốt, việc tốt, bao gồm cả việc tốt trong đời sống cũng như trong tu luyện. Mặt khác, còn biểu hiện thích sự thoải mái của thân thể, ghét sự không thoải mái; tâm sắc dục cũng bắt nguồn từ việc chấp trước vào cảm thụ.

Tất cả chấp trước của tôi đều không tách rời khỏi chấp trước vào cảm thụ, cũng có thể bao gồm tâm cầu an dật. Vì cầu an dật, cầu thoải mái, đương nhiên sẽ sợ khổ, oán hận khổ, do đó tâm sợ hãi và tâm oán hận cũng đều từ đó mà ra. Hai chủng tâm chấp trước là cảm giác truy cầu và cảm giác sợ/oán hận cũng giống như mặt trước, mặt sau của bàn tay, một mặt nhắm vào an nhàn hạnh phúc, một mặt lại nhắm vào thống khổ.

Sư phụ giảng:

“Con người cảm thấy bản thân đang làm chủ chính mình, và những gì mình muốn làm, kỳ thực đó là thói quen và chấp trước hậu thiên được dưỡng thành trong khi [cảm thấy] ưa thích, đang truy cầu cảm thụ, chỉ là thế mà thôi; còn nhân tố đằng sau vốn thật sự khởi tác dụng rằng muốn làm gì, chính là đang lợi dụng những thứ như thói quen, chấp trước, quan niệm và dục vọng của người ta để khởi tác dụng. Thật sự thân thể người chính là như thế, chính là hưởng thụ những cảm thụ được mang đến trong quá trình sinh sống, đưa ngọt cho chư vị thì chư vị biết là ngọt, đưa đắng cho chư vị thì chư vị biết là đắng, đưa cay cho chư vị thì chư vị biết là cay, đưa thống khổ đến cho chư vị thì chư vị biết khó chịu, đưa hạnh phúc đến cho chư vị thì chư vị biết cao hứng”. (Đệ tử Đại Pháp nhất định phải học Pháp)

Cá nhân tôi cho rằng, độ khó của tu luyện không chỉ nằm ở việc cần hiểu rõ đạo lý, mà còn cần từ trên nhận thức chuyển biến quan niệm thành tiên tha hậu ngã, đồng thời chân thành đồng cảm với nỗi khổ và niềm vui của người khác.

Sư phụ giảng:

“Mọi người còn nhớ, tôi thường nói câu này với chư vị, rằng đệ tử Đại Pháp làm gì cũng trước hết phải nghĩ đến người khác. Mỗi khi phát sinh một sự việc nào đó, khi xuất hiện một tình huống nào đó, cũng không e dè việc nhỏ nhặt, thì niệm thứ nhất của tôi là nghĩ về người khác trước, bởi vì đã thành quen như thế rồi, tôi bao giờ cũng nghĩ đến người khác trước”.(Giảng Pháp tại Pháp hội Boston năm 2002)

Suy xét lại, vậy rốt cuộc tôi đã sai ở đâu? Tôi nghĩ, gốc rễ chính là vì tôi chưa đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, chính là thiếu sự đồng cảm mà người thường nói đến, cũng chính là không thiện.

Là một sinh mệnh có đầy đủ thất tình lục dục và luôn dạt dào cảm xúc, tôi vô cùng để ý đến cảm giác của bản thân, chỉ sợ bản thân chịu khổ và mong muốn thoải mái vui vẻ. Nhưng khi đối diện với những sinh mệnh có đầy đủ thất tình lục dục và tình cảm dồi dào, họ cũng biết đau khổ thì khó chịu, cũng biết vui vẻ là hạnh phúc, thì tôi lại coi nhẹ cảm thụ của họ, không biết “lo cho nỗi lo của người khác, vui cho niềm vui của người khác” (Albert Einstein), thậm chí còn ôm giữ tâm tật đố mà “cười trên nỗi đau của người khác”. Đây chính là bất thiện, không phải là sinh mệnh mà vũ trụ mới cần. Tôi lý giải rằng, thiện chính là coi người khác như chính mình mà yêu thương và suy nghĩ; còn ác là phân biệt rõ ràng giữa người khác và bản thân, hoàn toàn không để ý đến cảm thụ của người khác, giống như coi mình là máu thịt của thân thể, còn người khác là gỗ, là đá vậy.

Sở dĩ tôi bóc tách và phân tích kỹ về nó là vì tôi phát hiện cơ điểm của tư tưởng và cảm thụ của bản thân thường là sai, rất nhiều thứ thậm chí xa rời khỏi quan niệm lương tri và thiện niệm căn bản của con người, đôi khi tôi hoàn toàn chỉ quan tâm và phóng đại cảm thụ của bản thân, hoàn toàn không để ý đến cảm thụ của người khác, thậm chí ngay cả người thân, đây là do tư tâm quá lớn. Nhiều năm qua, lý giải của tôi đối với tu luyện chỉ là trên bề mặt, rơi vào hình thức, còn bản chất của nội tâm lại chưa hề động chạm đến, điều này là không thể được. Từ trong Pháp tôi hiểu rằng, Thần nhìn sinh mệnh là không nhìn bề mặt, mà là nhìn động cơ, nhìn căn nguyên của tư duy. Theo lý giải cá nhân, đó chính là nhìn thiện ác trong nội tâm của mỗi người.

Thật không dễ dàng để bù đắp cho những khiếm khuyết cơ bản của tâm tính. Quá trình tôi viết bài chia sẻ cũng là quá trình đào sâu và hướng nội tìm, trong đó tôi đã phát hiện ra rất nhiều nhân tâm, khi ngẫm lại những chuyện trong quá khứ cũng giống như nhảy ra ngoài để nhìn vấn đề, sẽ nhìn thấy rõ ràng hơn các chủng chấp trước khi đang ở trong mê.

Tôi đã từng tật đố và coi thường người khác, nghĩ xấu về người khác, oán hận người khác một cách mạnh mẽ, hưởng thụ hạnh phúc do tâm hư danh mang lại, say sưa với tình yêu vốn không thuộc về mình… Vì những thứ bất chính thường phản ánh trong tư tưởng tôi, do đó sau này đôi lúc tôi thường cảm thấy trong tư tưởng vô cùng thống khổ, có thể là do nghiệp tư tưởng quá lớn của bản thân tạo thành. Trước đây tôi không có cảm giác gì không phải là không có chuyện gì, mà chỉ là thời cơ chưa đến và chờ một ngày để sau này tính sổ.

Tôi còn phát hiện, không chỉ những tư duy không đúng đắn nghiêm trọng mới dẫn đến sự thống khổ trong tâm, mà một số chấp trước nhỏ cũng có thể đem đến cảm giác thống khổ. Ví dụ: chấp trước vào việc yêu thích trang trí bày biện nhà cửa (ẩn sau đó là tâm hiển thị, hiển thị bản thân có mắt thẩm mỹ; chứng thực tự ngã, chứng thực bản thân rất yêu cuộc sống); ưa sạch sẽ quá mức (ẩn sau đó là tâm chứng thực bản thân chịu khó),v.v. Nhưng sau một khoảng thời gian, những thứ từng khiến tôi cho là việc tốt giờ lại khiến tôi cảm thấy thống khổ và muốn trốn tránh một cách khó hiểu. Hiện tại tôi ngộ ra rằng, có lẽ giống như việc trừ bỏ tâm trước chấp vào đồ ăn, chấp trước vào đậu phụ ngâm tương cũng đều phải bỏ. Thích cái gì cũng đều là tình (chưa kể đằng sau còn ôm giữ nhân tố chứng thực tự ngã). Người tu luyện thì nên bất động tâm, bất động tình đối với vạn sự vạn vật.

Kết luận

Sư phụ giảng:

“‘Từ bi’ chân chính là không có ‘tư tâm’ nào trong đó hết, đối với ai, đối với chúng sinh đều dùng chính niệm xét vấn đề, đều là từ ái” (Thế nào là đệ tử Đại Pháp)

Sư phụ cũng giảng:

“Phóng hạ nhân tâm ác niệm, thiên quốc chỉ thụ thiện lương” (Thế nào là tín ngưỡng, Hồng Ngâm V)

Tầng thứ có hạn, những điều chia sẻ trong bài viết này chỉ là chút nhận thức rất nông cạn của tôi. Rất nhiều phương diện vốn chỉ là cơ sở tâm thái của một người thường thiện lương đã có, tôi thấy hổ thẹn vì đã nhiều năm trôi qua như vậy nhưng vẫn chưa thể làm tốt, những phản tỉnh của tôi trên đây chỉ là “phanh xe gấp trước bờ vực nguy hiểm” mà thôi. Từ Pháp tôi nhận thức được rằng, người thường cũng đang trong tu luyện, trong đó cũng có những người căn cơ rất tốt. Tôi đã quan sát thấy rất nhiều biểu hiện đáng quý của những người thiện lương trong người thường, đủ để khiến tôi xét lại bản thân mình.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/283216

The post Nhìn lại 20 năm tu luyện: Chuyển biến những quan niệm cố chấp (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nhìn lại 20 năm tu luyện: Chuyển biến những quan niệm cố chấp (Phần 1)https://chanhkien.org/2023/08/nhin-lai-20-nam-tu-luyen-chuyen-bien-nhung-quan-niem-co-chap-phan-1.htmlTue, 15 Aug 2023 02:58:13 +0000https://chanhkien.org/?p=31111Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [Chánh Kiến] Do nhân tâm nặng, nên dù đã tu luyện hơn 20 năm nhưng tôi vẫn chưa thể bước vào trạng thái mà một người tu luyện nên có. Tôi nhận thức được rằng, đó là do bản thân có rất nhiều quan niệm ngoan cố, tất cả […]

The post Nhìn lại 20 năm tu luyện: Chuyển biến những quan niệm cố chấp (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[Chánh Kiến]

Do nhân tâm nặng, nên dù đã tu luyện hơn 20 năm nhưng tôi vẫn chưa thể bước vào trạng thái mà một người tu luyện nên có. Tôi nhận thức được rằng, đó là do bản thân có rất nhiều quan niệm ngoan cố, tất cả những tư tưởng niệm đầu của tôi đều căn cứ theo những quan niệm này chứ không dựa trên Pháp Lý.

Từ trong Pháp tôi hiểu rằng, cơ chế của tu luyện ở không gian khác còn tinh vi hơn gấp vô số lần so với các thiết bị tinh vi như tivi, đồng hồ. Bất kỳ quan niệm, suy nghĩ nào của người tu luyện đều sẽ tạo thành vật chất thực sự ở không gian khác. Sau khi thêm những vật chất này vào, các thiết bị chính xác, tinh vi của tu luyện làm sao có thể vận chuyển đây?

Trong những năm gần đây, một số quan niệm cứng đầu của tôi đã dần suy yếu, dưới đây tôi xin chia sẻ một chút nhận thức nông cạn của bản thân:

1. Chấp trước vào thái độ của người khác

Một người đàn anh của tôi vô cùng quan tâm đến thái độ của người khác, bị lạnh nhạt một chút là không chịu được, sẽ oán trách đối phương kiêu ngạo, không biết đối nhân xử thế, v.v. Dưới ảnh hưởng lâu dài của sự việc trên, ngay từ nhỏ tôi đã hình thành loại quan niệm cho rằng người khác không được có thái độ không tốt với tôi, nếu không tôi sẽ cảm thấy tức giận và oán hận người đó.

Sau khi tu luyện, học Pháp đến đoạn bị người khác cho một trận vào đầu cũng phải nhẫn, tôi cảm thấy điều này quá khó. Tôi cũng cảm thấy khó mà tưởng tượng được khi một số đồng tu chia sẻ rằng họ có thể nhẫn chịu những lời lăng mạ từ người thân. Thực ra đây chính là quan niệm “không thể bị bắt nạt” quá ngoan cố của tôi.

Tôi đã phải vượt một quan trong nhiều năm qua. Chồng tôi là một người khá nóng tính, đôi khi nói chuyện không kiên nhẫn, thường mang theo ngữ khí bực dọc nóng nảy hoặc những lời chỉ trích, v.v. Tôi lại cho rằng người khác nói chuyện với mình cần phải tâm bình khí hoà mới được, tôi chỉ chằm chằm nhìn vào điểm này mà bắt lỗi, đối với rất nhiều ưu điểm của chồng thì xem như không thấy, chỉ cần ông ấy nổi nóng, tôi liền đối đầu, tức giận. Dù đã cố gắng nhẫn một vài lần nhưng rồi nó vẫn bùng nổ, trong nhà giống như có một quả bom không biết khi nào thì sẽ phát nổ.

Sau khi vượt qua quan này, tôi thấy rằng then chốt là cần chuyển biến quan niệm, chứ không phải cứ bám chặt vào quan niệm đó để cố gắng nhẫn. Hiện tại chồng tôi đôi khi vẫn có thái độ không tốt, nhưng tôi cũng không để ý nữa. Đương nhiên nó cũng cần một quá trình, ban đầu mặc dù không đối đầu kịch liệt với chồng nữa nhưng trong tâm tôi vẫn không thoải mái, sau đó cảm giác không thoải mái này dần dần nhẹ đi, rồi sau đó tôi có thể không động tâm, đôi khi còn mừng thầm rằng không cần ra ngoài cũng tiêu được một khối nghiệp lớn, chuyện tốt như vậy tìm đâu ra chứ? Tôi thực sự phải cảm tạ an bài của Sư phụ, nếu người nhà đều luôn ăn nói dễ nghe như tôi mong muốn, thì nghiệp lực sẽ tiêu thế nào đây?

Đương nhiên cũng có những lúc tôi làm không tốt. Năm ngoái tôi đã viết một bài giao lưu chia sẻ về việc chuyển biến từ thường xuyên tranh cãi với chồng đến sau này hoàn toàn không tranh cãi nữa. Kết quả là tôi đã cãi nhau một trận to với chồng ngay trước khi bài viết được đăng, việc này khiến tôi rất buồn. Tôi nhận ra mình đã nói quá nhiều, đây cũng là một loại văn hoá đảng, vì để chứng minh một quan điểm nào đó mà biểu hiện cực đoan, phóng đại, đằng sau còn có tâm chứng thực bản thân. Ngoài ra, khi biết một số cặp vợ chồng tu lâu vẫn thường xuyên cãi nhau, tôi cảm thấy mình giỏi hơn họ và rất tự mãn. Thực ra đây chính là phóng đại ưu điểm của bản thân và phóng đại nhược điểm của người khác, mục đích nhằm đề cao bản thân.

Tôi nhận ra rằng, khi người khác có thái độ không tốt với tôi hoặc nói chuyện không lọt tai… thì đây chính là cơ hội tuyệt vời mà Sư phụ an bài để giúp tôi tiêu nghiệp. Ai ai cũng đều là nghiệp cuộn lấy nghiệp, làm sao có thể không hoàn nghiệp chứ? Vừa nghe thấy vài lời khó nghe là không chịu được, lẽ nào muốn để nghiệp lực tích thành một đống ở đó, đợi khi cái nạn lớn hơn đến mới “tu sửa” bản thân sao? Những lời khó nghe chính là cách giúp bản thân tiêu nghiệp nhẹ nhàng nhất, ít đau khổ nhất mà Sư phụ từ bi đã an bài cho, tôi nên nắm bắt cơ hội đề cao bản thân và nên thấy thật sự cảm kích vì điều này.

Tôi cũng nhận ra rằng, loại quan niệm này xuất phát từ một chủng nhân tâm thâm căn cố đế. Từ xưa đến nay người ta đều hy vọng vượt trội hơn người khác, có điều kiện hơn người khác và sống mà không cần phải để ý đến sắc mặt của người khác. Đây dường như là điều hiển nhiên, nhưng thực ra đó là một chủng chấp trước ở trong cõi mê. Nhưng từ trên Pháp Lý mà xét, việc bị người khác lăng mạ, đánh đập, đều sẽ được cấp thứ quý giá nhất đối với con người – đó là Đức. Đây mới là yếu tố quyết định phúc phận của con người. Kẻ ngốc chính là vì không tính toán so bì nên khi bị người khác mắng chửi, đánh đập thì càng dễ nhận được đức, từ đó được người cao tầng cho là khôn nhất, thậm chí được Thần chọn làm tải thể khi đến nhân gian đầu thai. Như vậy chúng ta có thể thấy cách nghĩ của con người và Thần khác nhau thế nào.

Khi bị người khác đối xử với thái độ không tốt thì sẽ có lợi cho việc tiêu trừ nghiệp lực, làm suy yếu tự ngã, đề cao tâm tính; khi được người khác đối xử với thái độ rất tốt (khen ngợi, nuông chiều, v.v.) thì ngược lại còn có thể thổi phồng tự ngã, làm trầm trọng thêm một số ma tính như tự phụ, duy ngã độc tôn, v.v.

Mỗi khi bản thân dùng quan niệm “không thể chịu ức hiếp” để suy xét, thì vật chất bất hảo lại tăng thêm một tầng. Sau khi được tích lũy qua tháng năm, vật chất này sẽ trở nên dày đặc và kiên cố, giống như đá hoa cương vậy. Khi những vật chất này bị tiếp xúc thì nó sẽ phản ứng bằng cách chống lại hoặc đau khổ, kỳ thực chính là nó (vật chất này) đang cảm thấy thống khổ. Sau 20 năm tu luyện, tôi mới bước đầu xoay chuyển phương thức tư duy về thái độ không tốt của người khác. Đối với tôi, điều này có thể được coi là một tiến bộ rất lớn, nhưng thực ra rất nhiều người thường đã có thể làm được như vậy. Có những người từ nhỏ đã mạnh mẽ và không để ý đến người khác nói gì, họ cũng xem nhẹ việc khen chê, bình thường cũng khá lương thiện, bởi vì tự ngã cảm thụ ít nên mới có không gian để nghĩ cho người khác.

2. Chấp trước vào việc người khác có đồng ý với quan điểm của mình hay không

Tôi vẫn rất quan tâm đến việc người khác có đồng ý với quan điểm của mình hay không, đây là do một chủng tư duy sai lầm theo thói quen kiểm soát. Tôi cho rằng việc công nhận tôi hoặc đồng ý với quan điểm của tôi là điều tốt, còn phủ định quan điểm của tôi thì chính là điều xấu, tôi liền không vui.

Khi chia sẻ qua email với đồng tu, khi chúng tôi có quan điểm khác nhau, tôi thường cố gắng thuyết phục đối phương, thỉnh thoảng tôi không dám kiểm tra email phản hồi vì sợ cảm giác bị phản bác, từ đó cảm thấy bị đả kích, trong tâm sẽ thấy không thoải mái, có lúc tôi trì hoãn rất lâu mới mở email xem phản hồi…

Một bước ngoặt vào vài tháng trước đã khiến tôi nhận thức rõ ràng rằng, đây là do tự ngã quá mạnh. Tôi mong muốn người khác luôn đồng ý với mình, nếu chỉ nghe những điều dễ nghe và không có những điều khó nghe, thì tự ngã sẽ phình to như quả bóng trong sự công nhận và cuối cùng sẽ nổ tung. Sau đó, tôi dần dần học cách đối mặt với sự phủ định, cố gắng ít trốn tránh nó. Trước khi xem tin nhắn phản hồi mà có tâm sợ bị đả kích, tôi liền nói với bản thân rằng, kể cả phải đối mặt với tiếng nói phủ định, tôi cũng cần tiêu diệt tự ngã, đó là tự ngã sợ bị phủ định chứ không phải chân ngã.

Về vấn đề này, trước mắt tôi vẫn chỉ là có chút tiến bộ nhỏ và không phải lúc nào cũng có thể làm được tốt, nhưng ít nhất đó cũng là một bước tiến so với trước kia. Trong nhiều năm qua tôi đã bị tự ngã phong bế nghiêm trọng, cố thủ, duy hộ cảm thụ của tự ngã, trốn tránh mọi tình huống và hoàn cảnh không thoải mái.

Sau khi bước qua cột mốc này, tôi nhận thấy bản thân đã có một bước tiến bộ đáng kể trong việc buông bỏ tự ngã. Tôi thấy rằng không nên xem thường những tiến bộ nhỏ, có những tâm chấp trước quá mạnh, nhất thời không thể hoàn toàn buông bỏ ngay lập tức, cho dù chỉ buông bỏ được một chút thì cũng tốt, ít nhất nó đã hình thành được một cơ sở để đột phá rồi. Không thuận theo thói quen tư duy sai lầm để suy xét vấn đề, mà lật ngược lại nó để suy xét vấn đề thì chính là đang làm suy yếu nó, cũng là thu hẹp tự ngã.

3. Liên quan đến tự tư và thiện ác

Tôi đã hình thành một chủng tư duy rất ích kỷ từ khi còn nhỏ, chuyện gì cũng chỉ nghĩ đến bản thân và không suy nghĩ cho người khác. Khi còn nhỏ, tôi quan sát thấy người thân của mình, có những người rất quan tâm đến bạn bè người thân khác nhưng cuối cùng họ không nhận lại được gì, tôi cảm thấy trên đời này có rất nhiều người vong ân bội nghĩa. Tôi đã hình thành chủng quan niệm này, cho rằng ngoài những người thân máu mủ ra thì không cần quan tâm đến người khác, cho rằng quan tâm người khác đều là uổng công, không có gì tốt cho bản thân. Khi đem lối tư duy này đi quan sát xung quanh, tôi càng cảm thấy nhiều người chỉ biết lo cho chính mình mà không quan tâm đến người khác, tôi cảm thấy con người đều là giả dối, xu nịnh.

Kỳ thực đằng sau đó là loại tâm không muốn chịu thiệt. Tôi cho rằng phó xuất mà không được hồi báo thì chính là chịu thiệt, mà không hiểu đạo lý truyền thống “chịu thiệt là phúc”. Một vị đồng tu trẻ từng nói với tôi rằng, trước đây cô không hiểu tại sao có những người đối xử tệ với mình mặc dù mình rất tốt với họ, sau khi tu luyện cô minh bạch ra rằng, ngay cả khi người khác đối với mình không tốt thì mình vẫn nên tiếp tục đối xử tốt với người khác. Đồng tu đã nói ra một đạo lý, chính là việc phó xuất vì người khác nên xuất phát từ nội tâm và vô điều kiện. Còn tôi ngay cả khi đối xử tốt với người khác, cũng là ôm giữ mục đích mong muốn đối phương sẽ cảm kích, hoặc ôm giữ tâm thái tự cho mình hơn hẳn người khác, lấy việc phó xuất để chứng thực bản thân.

Ngoài việc bị hiện thực mê hoặc thì những giá trị quan biến dị trong các tác phẩm văn học cũng có ảnh hưởng rất lớn đến quan niệm tự tư của tôi. Nhân vật nữ chính Scarlett O’Hara trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng thế giới “Cuốn theo chiều gió” cho mình là trung tâm, vì hám lợi mà tranh giành vị hôn phu của em gái, cô ta không thể chịu đựng được khi thấy những người đàn ông xung quanh thích người phụ nữ khác mà không phải cô ta. Tôi nhớ cư dân mạng thường đánh giá cô ta là người thực tế, không đạo đức giả, nhiều người thậm chí còn cảm thấy cô ta còn được nhiều người yêu thích hơn Melanie – người em họ mang đầy đủ những mỹ đức truyền thống. Có thể rất nhiều người đã tìm thấy sự ích kỷ của bản thân từ nhân vật Scarlett O’Hara, cảm thấy có sự cộng hưởng. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, những người mất đi yếu tố truyền thống không thấy hổ thẹn về sự ích kỷ của bản thân mà ngược lại còn thấy tự hào về điều đó. Người ta thường thiếu hụt sự phán đoán chính xác về những quan niệm đúng sai, cho rằng giống với bản thân mình thì chính là điều tốt.

Rất nhiều người còn sùng bái nhân vật kiểu mẫu. Ví như có người sùng bái Võ Tắc Thiên, trước đây tôi cảm thấy những việc bà ấy làm cũng chỉ là sự bất lực trong đấu đá chốn hậu cung, cho rằng bà ấy thành công thì là người rất giỏi nhưng lại xem nhẹ vấn đề đạo đức, thiện ác vốn là những điều then chốt nhất. Con người làm bao nhiêu việc tổn đức sẽ phải chịu bấy nhiêu báo ứng trong tương lai, đây là Thiên lý thiên cổ bất biến, Thần sẽ không vì quyền lực, địa vị của con người mà đối xử khác đi. Rất nhiều người cảm thấy không từ thủ đoạn nào cũng không phải là việc quá đáng, thắng làm vua thua làm giặc, kẻ thắng lợi thì xứng đáng được khen ngợi.

Sư phụ giảng:

“Kẻ thắng lợi mà con người nhìn nhận, nếu từ Thần mà xét thì đều là hành động trong cảm tình của con người và tranh [giành] khi dục vọng kích động. Chính quyền có được bằng chiến tranh trong con mắt chư Thần chính là kẻ cướp. Con người trong quá khứ vẫn tồn tại như thế; ‘binh chinh thiên hạ’, ‘vương giả trị quốc’; chính là theo con đường ấy, không có Chính Lý. Do vậy hết thảy đều là phản [đảo]; chính bởi vì nó là phản [đảo], mới khiến người tu luyện, [mới] để chư vị ở trong ‘phản’ mà nhìn vấn đề một cách chính diện, để chư vị lấy điều xấu làm tốt.” (Giảng Pháp tại Pháp hội New York năm 2008)

Trong các đồng tu, tôi quan sát thấy có một số người bị ảnh hưởng bởi giá trị sai lầm “thành bại luận anh hùng”, biểu hiện là: một số người khi đối diện với lợi ích thiết thân thì tranh giành từng chút một, thậm chí là không từ thủ đoạn, hoặc hoàn toàn không suy nghĩ đến việc có tạo thành tổn hại cho người khác hay không; có những quản lý về phương diện dùng người lại dựa trên sự cân bằng quyền lực trong người thường để làm biểu mẫu, thích dùng những người biết nghe lời, v.v. yếu tố đầu tiên để quyết định sách lược là cân nhắc địa vị của chính mình và dư luận. Tôi cho rằng cách nghĩ này thật nguy hiểm, bề ngoài thì suy nghĩ cho bản thân rất chu toàn, nhưng cũng có thể sẽ đem đến cho bản thân ma nạn, bởi vì cựu thế lực là nhìn vào động cơ của con người, từ đó nắm chắc những sơ hở trong tâm tính. Chỉ có buông bỏ tư tâm mới là thực sự tốt cho bản thân.

Trong tâm tôi vẫn có nhân tố của thuyết vô thần, vì vậy tín tâm kiên định với Pháp Lý của Đại Pháp không đủ, mới dám không thiện với người khác, mới dám vì tư lợi mà làm tổn hại người khác, chỉ để mắt tới những cái lợi ngắn ngủi nơi thế gian mà không nhìn thấy ác báo đem lại sau khi mất đức, trong vô tri mà không biết sợ. Trong Phật giáo có câu: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”, Bồ Tát sợ tạo ác nhân, còn chúng sinh sợ chịu ác quả. Bồ Tát biết rõ nhân quả nên ước thúc bản thân ngay từ ngọn nguồn, cũng chính là từ lúc bản thân động niệm khởi tâm đều sẽ thấy được, không có ác nhân. Từ trong Pháp tôi hiểu rằng, ngay cả những Đại Giác Giả cũng đều sợ nghiệp lực, bởi vì ai có nghiệp lực thì người đó phải chịu khổ.

Sau rất nhiều năm, chúng ta có thể nhìn thấy những bài học giáo huấn của một số đồng tu: những người trong lời nói thường có thói quen làm tổn thương người khác, cười nhạo người khác, kiêu ngạo không coi ai ra gì, thường xuyên phát hoả, vì lợi ích bản thân mà làm tổn hại người khác, nội tâm trường kỳ oán hận bất công, không đi cho chính về phương diện sắc tình… đều phải chịu ma nạn ở những mức độ khác nhau, thậm chí là mất đi sinh mệnh. Đương nhiên những ma nạn này phần nhiều là do cựu thế lực an bài, chúng ta không nên thừa nhận chúng, mà nên ôm giữ thiện tâm đối đãi với đồng tu. Điều tôi muốn nói là, chúng ta nên tiếp thu bài học giáo huấn, tin vào nhân quả đồng thời chân tâm hướng thiện.

Tôi nghe nói một đồng tu xuất hiện nghiệp bệnh giống như ung thư vòm họng và đã qua đời, được biết cô ấy khẩu giảng đã giúp hàng vạn người minh bạch chân tướng. Nhưng tính cách cô ấy khá mạnh mẽ, không để người khác nói và cũng nghe không lọt tai ý kiến của người khác. Tôi nghĩ, ung thu vòm họng và miệng có liên quan tới nhau, có phải vì cô ấy quá mạnh mẽ mà tạo khẩu nghiệp làm tổn thương rất nhiều người, ngay cả uy đức to lớn tích lũy được từ việc giảng chân tướng cũng không thể tiêu trừ được loại nghiệp lực này? Đương nhiên tôi tin chắc rằng người đồng tu đáng ngưỡng mộ về phương diện giảng chân tướng này đã có một nơi tốt đẹp để đến, nhưng dù sao nó cũng để lại sự hối tiếc, ở đây tôi chỉ chia sẻ một chút ở tầng thứ con người này mà thôi.

Có đồng tu nói rằng mạnh mẽ chính là không cho phép người khác nói, tôi cũng cho là như vậy. Mạnh mẽ tương đương với việc tước đoạt quyền chính đáng của người khác về một số phương diện như biểu đạt, ra quyết định, cảm xúc, v.v. Kỳ thực chính là lợi dụng những điểm mạnh của bản thân (như tài ăn nói, năng lực lớn, quyền lực hoặc danh tiếng cao, cống hiến lớn, phó xuất nhiều, có thế mạnh ở phương diện nào đó…) để bắt nạt kẻ yếu trong thế bất lợi, xem thường đối phương, thiếu sự cảm thông, tôn trọng và thiện ý với người khác. Nói trắng ra, mạnh mẽ chính là bắt nạt người, ỷ mạnh hiếp yếu. Tại sao không thử nghĩ, người bị bắt nạt liệu có thống khổ, đau buồn không?

Từ trong Pháp chúng ta biết rằng, người tu luyện cần làm được “Đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu”, còn không được tức giận, vậy làm sao có thể đi bắt nạt người khác? Ví dụ, nếu có một vài cảnh giới, thì cảnh giới cao nhất là có thể chịu bắt nạt mà không tức giận; thứ hai là bề mặt có thể nhẫn chịu nhưng tức giận trong tâm; tiếp đến là không thể chịu được bắt nạt; kém nhất mới là đi bắt nạt người khác. Mạnh mẽ chính là thuộc cảnh giới kém nhất, cách quá xa yêu cầu của tu luyện. Người có cá tính mạnh mẽ thường biểu hiện mạnh mẽ qua một số phương thức, ví dụ cách nói chuyện trịch thượng, thích giáo huấn người khác, khinh thường người khác, phát hoả, v.v. Điều này cũng tương đương với việc thường xuyên làm tổn hại người khác, như vậy chẳng phải sẽ thường xuyên bị mất đức sao?

Người xưa giảng ngũ đức “ôn, lương, cung, kiệm, nhượng”, còn mạnh mẽ thì quá xa rời ôn hoà, cung kính, nhẫn nhịn, không những thế còn mất đi sự thiện lương. Một câu chuyện nhân quả cổ xưa kể rằng, một người có trái tim nhân hậu, một đời chưa từng làm tổn thương người khác, do đó được Thần ban thưởng mà nhận được phúc báo rất lớn.

Sư phụ giảng:

“Đặc biệt là quan niệm đã hình thành, phương thức tư duy đã hình thành, những cái đó khiến bản thân rất là khó nhận thức ra những biểu hiện một cách không tự biết của nhân tâm. Nhận thức không ra thì làm sao buông bỏ? Đặc biệt là hoàn cảnh kia ở Trung Quốc, tà đảng đã huỷ đi văn minh truyền thống Trung Quốc, làm ra một bộ những thứ toàn là những gì của tà đảng, cái gọi là ‘văn hoá đảng’. Dùng phương thức tư duy mà chúng lập ra ấy, sẽ khó nhận thức Chân Lý vũ trụ, thậm chí không nhận thức ra được rằng những tư tưởng hành vi bất lương kia là đối lập với những giá trị phổ biến của thế gian. Rất nhiều tư tưởng bất lương mà không nhận thức ra nổi thì làm sao đây? Chỉ có chiểu theo Đại Pháp mà làm”. (Giảng Pháp vào ngày Kỷ niệm 20 năm truyền Pháp)

Tôi từng có mâu thuẫn xung đột về lợi ích với một đồng tu và cả hai chúng tôi đều chỉ nghĩ cho bản thân chứ không nghĩ cho đối phương, khi đó tôi không biết hướng nội tìm mà chỉ cảm thấy người kia rất quá đáng. Vài năm trước, biết tin anh ấy trải qua nghiệp bệnh, tôi còn cho rằng đó là do tâm tính của anh ấy kém nên dẫn đến nghiệp bệnh, cho rằng dù anh ấy có làm bao nhiêu việc thì cũng chỉ là bề mặt, còn tâm tính của anh thì rất tệ, với cách nghĩ này có thể thấy tâm tính của tôi kém thế nào. Gần đây tôi nhận ra cần dùng thiện tâm đối đãi với anh ấy, anh ấy đã phó xuất rất lớn cho Đại Pháp, tôi nên ủng hộ anh ấy từ tận đáy lòng, cựu thế lực không thể dùng bất cứ lý do gì để bức hại anh, vì vậy tôi đã phát chính niệm giúp anh thanh trừ can nhiễu. Tôi cũng muốn nhắc nhở mọi người rằng khi đồng tu gặp khổ nạn, chúng ta không nên có bất kỳ niệm đầu nào cho rằng đối phương tâm tính kém nên mới như vậy, đây là ác niệm và tương tự với cách nghĩ của cựu thế lực, không phải là điều Sư phụ muốn. Điều Sư phụ muốn là tất cả các đệ tử đề cao và viên mãn, tuyệt không phải kiểu có lậu thì nên chịu ma nạn như vậy. Tôi nghĩ, một mặt chúng ta nên xem ma nạn của đồng tu như một bài học mà tránh mắc phải đồng thời nhận thức được sự nghiêm túc của tu luyện, mặt khác chúng ta nên dùng thiện tâm để hỗ trợ đồng tu.

(Còn nữa)

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/283216

The post Nhìn lại 20 năm tu luyện: Chuyển biến những quan niệm cố chấp (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>