Tác giả: Jeffrey A. Tucker
[ChanhKien.org]
(Ảnh: fizkes/Shutterstock)
Xung quanh chúng ta là những ân nhân, những người sẵn lòng cho đi để chúng ta có được cuộc sống tốt đẹp hơn. Phải chăng chúng ta coi đó là điều đương nhiên?? Tôi thấy đúng là như vậy. Có gì đó ở thời đại hiện nay của chúng ta, có lẽ nó bắt nguồn từ việc thiếu giáo dục về đạo đức hoặc đơn thuần là do đạo đức suy đồi, đã làm nên một dịch bệnh lây lan mang tên “vô ơn”. Cũng có thể là do sự phồn vinh của cuộc sống hiện đại, hay có lẽ là do văn hóa suy thoái? Đây thực sự là một vấn đề đáng lo ngại.
Hãy thử ngẫm nghĩ về tất cả những người được gọi là ân nhân của bạn: cha mẹ, anh chị em, sếp, đồng nghiệp, thầy cô giáo, mục sư, người làm bánh, người bán thịt, người sản xuất bia, họa sĩ, nhà xuất bản, người quản lý – duy trì khuôn viên ngoài trời, người tư vấn tài chính, doanh nhân, v.v. Họ đều đem đến cho bạn không ít thì nhiều những thứ tự nhiên chưa tồn tại. Họ đều là những người đóng góp cho sự hoàn thiện về sức khỏe tinh thần và thể chất của bạn.
Liệu chúng ta đã ý thức được những điều đó chưa? Liệu chúng ta đã biết ơn họ chưa? Điều đó cũng còn tùy thuộc.
Đây là một diễn biến phổ biến chúng tôi quan sát được. Lần đầu tiên, lòng hảo tâm được đón nhận một cách vô cùng cảm kích. Lần thứ hai vẫn còn được đáp lại bằng một cái gật đầu ghi nhận. Lần thứ ba tạo ra một sự kỳ vọng rằng nó sẽ luôn sẵn có ở đó. Đến khi không còn nữa, kết quả là oán hận, giận dữ, thậm chí là nổi điên. Điều này thật kỳ lạ vì lòng hảo tâm ở lần thứ ba không khác gì lần thứ nhất, sự kết thúc của nó chỉ đơn thuần là đưa người được nhận trở về trạng thái ban đầu (khi chưa được giúp đỡ). Phần tiếp theo của diễn biến là điều nhà thơ Dante cho là tội ác ghê tởm nhất: phản bội chính ân nhân của mình.
Tại sao chúng ta lại hành xử như vậy? Nó liên quan đến vấn đề về nhận thức và sự kỳ vọng vào phồn thịnh theo bất kỳ tiêu chuẩn lịch sử nào, nhận thức về những điều chúng ta nhận được, về phương diện vật chất lẫn cơ hội, dần lu mờ trong không gian tinh thần của chúng ta, và được thay thế bởi một loại kỳ vọng rằng điều này sẽ luôn ở đó, tiếp theo là một đòi hỏi rằng nó phải là như vậy. Thực ra có lẽ sinh mệnh nào cũng đều như vậy, đó là lý do tại sao người ta nói đừng cho một con mèo hoang uống sữa. Nó sẽ xuất hiện vào hôm sau, hôm sau nữa mà tiếp tục đòi sữa. Tôi từng biết một cặp vợ chồng già hàng ngày lái xe 3 dặm (khoảng 4,8 km) để mang sữa cho một đám mèo và mèo con hoang sống dưới một cây cầu. Họ chi rất nhiều tiền cho việc này và làm thế trong nhiều năm. Họ làm vậy vì việc đó khiến họ cảm thấy hạnh phúc, khiến họ cảm thấy bản thân mình có ích.
Ý chính của tôi là bản tính của động vật chính là như vậy. Đó cũng là cách chúng ta huấn luyện chúng. Chó, ngựa, mèo, bồ câu, sóc có thể làm ra những điều kỳ thú, chỉ cần cho chúng một chút đồ ăn nếu muốn chúng làm được hành động nào đó lặp đi lặp lại. Chúng ta nói rằng những con động vật như vậy đã “được huấn luyện”. Chúng ta không kỳ vọng chúng phải biết ơn chúng ta, chúng ta hiểu đó là bản năng của chúng, mặc dù loài chó có thể thường xuyên tạo ra ảo giác về sự gắn bó cảm xúc với ân nhân của mình.
Con người chúng ta thì khác. Với khả năng tư duy lý trí và phân biệt đạo đức cá nhân, nghề nghiệp, và xã hội, chúng ta mong đợi người khác thấy biết ơn ngay cả khi chúng ta không còn giúp họ nữa. Điều đó đòi hỏi việc suy ngẫm và một mức độ tưởng tượng nhất định về địa điểm ở đây và thời điểm hiện tại. Con người có thể ý thức về những tình huống xảy ra khi không còn nhận được lòng tốt và ân huệ. Biết ơn nghĩa là trân trọng những hy sinh mà người khác đang làm thay cho bạn.
Vô ơn giống như thái độ của một đứa trẻ được nuông chiều, tưởng rằng tất cả những đặc ân chúng được hưởng đều là tự nhiên mà có. Rồi dần dần những đứa trẻ ấy nhận ra: khi chúng thi trượt, không được chọn vào đội chơi thể thao, đến khi lớn thì không kiếm được việc, bị bạn gái đá, bị đuổi việc, hoặc nói cách khác cảm thấy những thứ chúng cho là đặc quyền, là “nghiễm nhiên có được” không còn nữa. Cảm giác đó với chúng thật sự đau đớn.
Nhưng thực chất đau khổ là một điều kiện tiên quyết cho sự phát triển tính cách. Nguyên nhân chủ yếu là vì nó có thể tôi luyện lòng biết ơn, đem đến nhận thức về điều sẽ xảy ra nếu không còn được giúp đỡ. Không ai muốn đau khổ nhưng con người chúng ta cần nó để điều chỉnh nhận thức về người nào hoặc điều gì là cần thiết để chúng ta có một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Cha của tôi điều hành một đội hợp xướng cho nhà thờ. Tôi vẫn còn nhớ những áp lực mà ông phải chịu vào các chủ nhật hàng tuần, không biết liệu các thành viên có xuất hiện đầy đủ không. Tôi còn nhớ sự bực bội, thậm chí giận dữ của ông khi các ca sĩ chính bỏ buổi diễn tập hay rời khỏi đội hợp xướng.
Khi tôi cũng theo chân ông trở thành đội trưởng đội hợp xướng – thú vị thay điều ấy lại xảy ra – ông đã cho tôi một lời khuyên quý giá. Ông nói rằng ông thấy hối hận vì tất cả những bực tức mình cảm thấy khi ai đó không tham gia đội hợp xướng. Ông nói rằng sẽ dễ dàng hơn và tốt hơn nếu chúng ta thật tâm trân quý bất kỳ điều gì mọi người đã mang lại. Nếu một ca sĩ chủ chốt rời khỏi đội, không nên nóng giận. Thay vào đó hãy cảm ơn một cách nhiệt thành những gì họ đã đóng góp và chúc họ những điều tốt đẹp nhất.
Cha tôi đã đúng. Đó chính xác là những gì tôi đã làm. Và các bạn biết gì không? Trong hầu hết mọi trường hợp, đối phương thực sự bất ngờ trước sự cảm kích của tôi. Và điều đó thực ra lại truyền cảm hứng để họ quay lại ngay khi có thể. Trải nghiệm đó cũng dạy tôi về giá trị của lòng biết ơn. Điều đó hiếm có, nhưng khi bạn thực sự bày tỏ sự biết ơn đối với người khác, họ sẽ luôn khắc cốt ghi tâm.
Tuy nhiên, lòng biết ơn không nhất thiết lúc nào cũng cần biểu lộ ra bên ngoài. Nó có thể biến thành nịnh bợ, thiếu chân thành và khôn khéo. Tốt hơn là nên để người khác cảm nhận được tấm lòng của bạn. Lời nói và những giao tiếp không lời sẽ phản ánh sự biết ơn mà bạn cảm thấy trong tâm. Đó là con đường rất tốt làm nên những gắn kết chân thành giữa người với người.
Cảm thấy biết ơn những ân nhân của mình còn khơi mở ra nhiều hơn thế. Tức giận khi không còn nhận được sự giúp đỡ không khác gì trừng phạt người khác vì lòng tốt của họ. Nhà văn G.K. Chesterton, tác giả của “Chính Thống Giáo”, đưa ra một ý kiến khác: “Thử thách của mọi hạnh phúc chính là lòng biết ơn”. Đó là vì trân trọng những điều người khác đã và đang làm cho bạn đồng nghĩa với việc bạn đang được kết nối với thực tại, chứ không phải kỳ vọng cái ảo tưởng rằng có thể đắc được tất cả mà không cần phó xuất.
Bạn còn nhớ những dòng tiền tài trợ dành cho người dân khi có đại dịch không? Mọi người có thấy vui khi nhận được tiền không? Chắc chắn là có rồi. Ai mà chẳng thích tiền. Nhưng có ai thấy biết ơn không? Tôi nghĩ ít người cảm thấy thế. Thực tế lại hoàn toàn trái ngược. Khi hết trợ cấp, người ta trở nên giận dữ chưa từng thấy, đặc biệt là khi họ nhận ra số tiền giờ họ kiếm được còn ít hơn số tiền được trợ cấp. Sức mua của họ bị suy giảm mạnh do lạm phát.
Kết quả là rất nhiều người dân đã trở nên giận dữ. Việc trợ cấp thành ra lại chẳng giúp ích được gì. Thực ra đó chính là vấn đề với đồ miễn phí: lần đầu được yêu quý, lần sau được mong đợi, và lần thứ ba thì đòi hỏi. Khi không còn nữa, kết quả là sự trừng phạt. Có một bài học cuộc sống được rút ra từ đây. Một phần trong đó chính là nhà nước phúc lợi không phải là con đường tin cậy đem lại đời sống hạnh phúc cho người dân.
Tôi biết rất nhiều người giàu khi chết đã hiến toàn bộ tài sản của họ cho các tổ chức, mà không để lại cho con cái thừa hưởng. Tại sao họ làm thế? Chính vì rất nhiều bài học từ những “con nhà giàu thừa kế” cho thấy, đặc quyền không tạo ra sự xuất sắc, mà ngược lại, nó tạo ra sự lười nhác, uể oải, thờ ơ, và cuối cùng là đau khổ. Đó không phải là những cách thức tư duy lành mạnh dẫn tới thành công, những điều được cho là con đường thực tế duy nhất để xây dựng lòng tự trọng. Những người cha này thực chất đang thể hiện tình yêu thương cho con cái của họ, dù cho con cái họ có thể mong muốn một con đường khác.
Điều này không phải nói rằng để lại của cải cho con cái là sai lầm. Nhưng khi làm vậy, con cái cần được tu dưỡng nhận thức về những hy sinh mà cha họ đã làm thay cho họ, nếu không sẽ lại trở thành nạn nhân của tâm lý đặc quyền và quyền lợi nghiễm nhiên mà thôi.
Thói quen suy nghĩ rằng chúng ta đều xứng đáng hưởng những đặc ân vô tận (dù là vật chất hay tinh thần) là một sai lầm đáng tiếc có lẽ xuất hiện cùng tất cả những sự trù phú trong cuộc sống. Dù sao, thói quen này nên được kiềm chế lại. Khi ai đó tốt với bạn, hãy ghi nhớ điều đó và đáp lại lòng tốt của họ. Nên hiểu rằng họ không nhất thiết phải giúp bạn. Ngay cả khi nhận được lòng tốt hết lần này đến lần khác, hãy trân trọng chúng như lần đầu tiên và đáp lại bằng sự cảm ơn và trân trọng thích đáng.
Dịch từ: The Meaning of Gratitude ; https://big5.zhengjian.org/node/298079