Tác giả: Tiêu Phong
[ChanhKien.org]
Ngày 11 tháng 5 là ngày của mẹ, chúng ta cùng nói về ba người mẹ vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc – “Tam mẫu” thời nhà Chu, hay còn gọi là “Chu thất tam mẫu”. Đây là ba người vợ của các vị vua sáng lập nhà Chu, họ đều là hình mẫu của bậc mẫu nghi thiên hạ, đã trợ giúp và giáo dục các vị vua mở ra thời vạn thế thái bình. Họ là ba vị phi tần hiền đức: Thái Khương, Thái Nhâm và Thái Tự.
Thái Khương đức hạnh, trung trinh, nhu thuận
Thái Khương là vợ của Thái Vương tổ tiên nhà Chu, là mẹ của Vương Quý. Thái Vương chính là Cổ Công Đản Phủ mà mọi người quen thuộc. Cổ Công tích đức, lấy lòng nhân hậu đối đãi với người dân nên được nhân dân ủng hộ. Ông không đành lòng nhìn thấy dân chúng bị ngoại tộc xâm chiếm nên quyết định đưa cả bộ tộc đi di cư. Bách tính già trẻ dắt díu nhau, lũ lượt theo ông dời đến Kỳ Hạ. Thái Vương lãnh đạo dân chúng xây dựng gia viên, thiết lập chế độ quan lại, dân chúng làm thơ, sáng tác nhạc ca ngợi công đức của ông.
Thái Khương là con gái của dòng họ Hữu Thái, bà vừa đoan trang lại xinh đẹp, tính tình trung trinh, điềm đạm, nhu thuận. Thái Khương sinh ra ba người con trai: Thái Bá, Trung Ung và Vương Quý. Bà luôn làm gương dạy dỗ con cái, dạy các con từ nhỏ đến lớn luôn tu dưỡng phẩm hạnh và hành vi đúng mực, không phạm phải sai sót nào. Thái Vương rất yêu quý con trai của Vương Quý là Cơ Xương. Thái Bá và Trọng Ung vì muốn nhường ngôi cho em trai Vương Quý để sau có thể truyền ngôi cho Cơ Xương, nên hai anh em họ đã cùng nhau bỏ trốn đến vùng đất Tĩnh Man, và đây trở thành câu chuyện nổi tiếng trong lịch sử về tình anh em biết nhường nhịn và yêu thương lẫn nhau. Đó là nhờ công lao dạy dỗ của người mẹ Thái Khương đối với các con.
Thái Khương là người phụ tá đức hạnh và tinh tường cho chồng, với phẩm đức “trinh thuận” bà trở thành cánh tay phải đắc lực nhất của chồng, là một phụ nữ đức hạnh trong thời kỳ khai quốc của triều đại nhà Chu.
Thái Nhậm đoan chính, lương thiện, chú trọng thai giáo
Nhà Chu dùng nhân đức để dựng nước, trong đó đức hạnh của các bà mẹ, hoàng hậu, phi tần đóng vai trò quan trọng. Thái Nhậm, con dâu của Thái Khương, là con gái thứ hai của dòng họ Chí Nhậm, là vợ của Vương Quý, mẹ của Chu Văn Vương. Thái Nhậm tính tình đoan chính, trang nghiêm, cẩn thận, thành kính, phàm là việc hợp với nhân nghĩa đạo đức mới làm.
Vương Quý, phu quân của Thái Nhậm, có phong thái nhân đức của cha, vì vậy được các chư hầu khắp nơi ủng hộ. Sự nghiệp của Vương Quý có được là nhờ sự phụ tá của Thái Nhậm. Thái Nhậm rất ngưỡng mộ mỹ đức của mẹ chồng Thái Khương, bà cai quản hậu cung, giữ mình đoan chính, khiến trong cung trên dưới ai cũng có chính khí trang nghiêm hòa ái.
Khi mang thai, Thái Nhậm không nhìn những cảnh tà khuất bất chính, không nghe những âm thanh dâm dật vô lễ, không nói những lời ngạo mạn tự đại. Khi ngủ không được nằm nghiêng, ngồi không được xiêu vẹo, đứng không chắn lối, không ăn thức ăn lạ, thức ăn cắt không nghiêm chỉnh không ăn, ghế không ngay ngắn không ngồi. Vì vậy, Văn Vương sinh ra đã rất thông minh, thánh đức lớn lao, Thái Nhậm dạy một, ông biết mười. Mọi người khen ngợi rằng đó đều là nhờ Thái Nhậm làm tốt việc giáo dục thai nhi.
Ngày nay người ta chú trọng thai giáo, thực ra Thái Nhậm mới là người tiên phong trong lịch sử thực hiện thai giáo đã được sử sách ghi chép lại. Điều khác biệt là ngày nay người ta cho thai nhi nghe nhạc nhẹ, nhạc thịnh hành trong thời gian mang thai, coi trọng việc bồi dưỡng và phát triển trí lực và kỹ năng của trẻ; còn Thái Nhậm thì lấy thân làm gương để dạy dỗ con cái, lấy đức để giáo dục thai nhi, coi trọng việc bồi dưỡng đạo đức.
Theo ghi chép trong sách Thượng Thư, không lâu sau khi Văn Vương Cơ Xương chào đời, có một con “chim sẻ đỏ” ngậm sách đỏ bay đến nhà của Văn Vương. Sách đỏ viết: “Tôn kính thắng lười biếng thì tốt lành, lười biếng thắng tôn kính thì diệt vong, nghĩa thắng dục thì người theo, dục thắng nghĩa thì người phản. Phàm làm việc gì không nỗ lực thì thất bại, không kính trọng thì không chính. Người ác thì bị phế bỏ diệt vong, người cung kính thì lưu danh muôn đời. Nếu dùng nhân nghĩa có được thiên hạ, dùng nhân nghĩa để trị vì thiên hạ, thì triều đại có thể kéo dài trăm đời. Nếu không dùng nhân nghĩa mà có được thiên hạ, nhưng dùng nhân nghĩa để trị vì thiên hạ, thì triều đại có thể kéo dài mười đời. Nếu không dùng nhân nghĩa mà có được thiên hạ, cũng không dùng nhân nghĩa để trị vì thiên hạ, thì một đời này là diệt vong”. Đây là điềm lành khi Văn Vương sinh ra. Vì ông từ nhỏ đã khác biệt với mọi người, nên được ông nội Thái Vương yêu quý cho kế thừa ngôi vua, và đặt nền móng cho cơ nghiệp 800 năm của nhà Chu. Điều này không thể không có công lao dạy dỗ của người mẹ Thái Nhậm đoan chính lương thiện.
Thái Tự nhân từ, hiền đức
Thái Tự, phu nhân của Chu Văn Vương, là con gái của dòng họ Tự nước Hữu Sân, là mẹ của Chu Vũ Vương và Chu Công Đán. Thái Tự nhân ái, hòa thuận, hiền đức và thấu hiểu đại nghĩa. Khi còn ở nhà mẹ đẻ, bà sống rất giản dị và vô cùng tiết kiệm, đối với cô giáo của mình càng thêm cung kính.
Văn Vương rất ngưỡng mộ mỹ đức của Thái Tự, đích thân đến sông Vị Thủy để nghênh đón bà. Sông Vị Thủy không có cầu, Văn Vương nối thuyền lại, làm một cây cầu phao đón Thái Tự đến bờ bên kia, thể hiện tình cảm chân thành sâu sắc của ông.
Sau khi Thái Tự trở thành phu nhân của Văn Vương, tính tình của bà vẫn không thay đổi. Bà rất ngưỡng mộ hiền đức của bà nội Thái Khương và mẹ chồng Thái Nhậm, thừa hưởng đức hạnh hoàn hảo của mẹ chồng. Bà siêng năng cần mẫn sớm tối, trọn đạo làm vợ. Bà tuân thủ lễ nghĩa mà nàng dâu nên có, chưa từng có sai sót và lỗi lầm, còn hết lòng hiếu thảo với cha mẹ, thường xuyên về thăm hỏi và an ủi cha mẹ. Thái Tự dùng lễ nghĩa và đạo làm vợ để giáo hóa thiên hạ, được mọi người tôn xưng là “Văn Mẫu”, Văn Vương trị vì bên ngoài, còn Văn Mẫu trị vì bên trong.
Phu quân của Thái Tự, Văn Vương Cơ Xương, được gọi là “Tây Bá”, ông kế thừa phong cách của tổ tiên, dùng nhân đức trị quốc, kính trọng người già yêu thương trẻ nhỏ, đối với người hiền đức thì khiêm tốn lễ độ, vì tiếp đãi họ mà thường quên cả ăn uống, rất nhiều kẻ sĩ hiền đức đều đến quy phục ông. Bá Di và Thúc Tề, hai vị trưởng lão nổi tiếng trong lịch sử, nghe nói Văn Vương rất kính trọng người già, cũng đặc biệt đến quy thuận ông.
Quốc quân nước Ngu và nước Nhuế tranh giành đất đai, tranh giành mãi không có kết quả, bèn muốn tìm Văn Vương nhờ phân xử công bằng. Họ đến biên giới nước Chu thấy nông dân nhường ruộng cho nhau, người đi đường nhường đường cho nhau. Đến thành trấn, thấy nam nữ đi riêng đường, người già tóc bạc không mang vật nặng trên đường (thể hiện sự tôn trọng người già). Đến triều đình, thấy kẻ sĩ nhường đại phu, đại phu nhường khanh tướng. Họ bèn xấu hổ nói: “Những gì chúng ta tranh chấp chính là điều mà người nước Chu hổ thẹn. Kẻ tiểu nhân như chúng ta làm sao dám đến giẫm chân lên sảnh đường của người quân tử?” Thế là họ bèn nhường hết đất đai cho nhau. Câu chuyện tốt đẹp này cho thấy sự giáo hóa không lời của Chu Văn Vương có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi người.
Phu nhân của Văn Vương, Thái Tự, sinh được mười người con trai, bao gồm Chu Vũ Vương, người thảo phạt Trụ Vương nhà Thương, và Chu Công Đán, người củng cố cơ nghiệp nhà Chu. Thái Tự giáo dục con cái rất thành công, dạy các con từ nhỏ đến lớn đều không làm điều gian tà bất chính. Sau khi các con trai trưởng thành, Văn Vương vẫn tiếp tục dạy dỗ các con, từ đó thành tựu thánh đức của Vũ Vương và Chu Công.
Bài thơ “Quan Thư” trong Kinh Thi là một bài thơ do người nhà Chu sáng tác để ca ngợi Văn Vương và phu nhân Thái Tự. Bài thơ cho thấy chỉ có những người phụ nữ hiền thục, trung trinh như Thái Tự mới xứng đôi với bậc quân tử. Bài thơ miêu tả sự chuyên tâm, một lòng một dạ của bậc quân tử khi theo đuổi thục nữ, trải qua nỗi buồn khi không thể theo đuổi được và niềm vui sau khi đạt được. Ý nghĩa của bài “Quan Thư” là ca ngợi đức hạnh của bậc hậu phi. Bậc quân tử yêu mến người hiền tài, yêu thích sự đoan trang, hiền thục của nàng, ngưỡng mộ đức hạnh và việc làm tốt đẹp của nàng, chứ không tham lam sắc đẹp, không có những vọng niệm không tốt. Đới Chấn trong “Kinh Thi bổ chú” nói rằng: “Bài thơ này làm sáng tỏ tầm quan trọng của đạo nghĩa luân thường vợ chồng, thông qua việc ca hát và ngâm vịnh, có thể giúp người ta hiểu được đạo nghĩa vợ chồng chân chính”.
Hậu thế làm thơ ca ngợi rằng: “Chu thất tam mẫu, Đại Khương Nhậm Tự, Văn Vũ chi hưng, cái do tư khởi. Đại Tự tối hiền, hiệu viết Văn Mẫu. Tam cô chi đức, diệc thậm đại hĩ!” Đại ý là: Ba người mẹ của nhà Chu, Thái Khương, Thái Nhậm và Thái Tự, sự hưng thịnh của nhà Chu không thể tách rời khỏi ba người mẹ vĩ đại này, Thái Tự là người hiền đức nhất, được gọi là Văn Mẫu.
Nguồn tài liệu: Liệt Nữ Truyện