Đêm giao thừa
Tác giả: Tường Long
[ChanhKien.org]
Ngày cuối cùng trong năm theo Âm lịch là ngày 30 tháng Chạp, gọi là “tuế trừ”, đêm của ngày này được gọi là “trừ tịch” (giao thừa). Trừ là loại bỏ đi cái cũ, tạo ra cái mới, đón chào một năm mới vào ngày mùng Một tháng Giêng.
Vậy tại sao phải “trừ” vào ngày cuối năm, trừ cái gì? Ban đầu, người xưa dùng phương pháp gõ trống vào ngày cuối năm để xua đuổi “quỷ dịch bệnh”, và từ đó Tết Trừ Tịch (giao thừa) ra đời. Sau này, người ta dùng tiếng pháo nổ thay cho tiếng gõ trống, vì thế trong bài thơ “Nguyên Nhật” của Vương An Thạch có câu: “Bộc trúc thanh trung nhất tuế trừ, Xuân phong tống noãn nhập đồ tô. Thiên môn vạn hộ đồng đồng nhật, Tổng bả tân đào hoán cựu phù. (Tạm dịch nghĩa: Tiếng pháo trúc nổ vang một năm đã hết, Gió xuân đưa hơi ấm đến trong đó có mùi rượu đồ tô. Trong ngàn nhà, vạn gia đình, nhà nào cũng đều thắp đèn sáng sủa, Treo thẻ đào tiễn đưa năm cũ và cầu điềm tốt lành).
Cũng có một truyền thuyết kể rằng, việc đốt pháo trúc là để xua đuổi con “Niên” (年). Kể rằng thời kỳ thượng cổ có tồn tại một loài mãnh thú tên là Niên. Con Niên hung bạo này ăn tất cả mọi thứ từ côn trùng đến động vật, mỗi ngày lại đổi một khẩu vị, và cứ vào ngày cuối cùng của mỗi năm, nó sẽ ăn người. Vì thế, vào ngày này người xưa sẽ trốn đi, gọi là qua ải Niên. Sau này, người ta phát hiện ra rằng con Niên sợ tiếng pháo trúc, mọi người đốt pháo trúc sẽ tạo ra tiếng nổ khiến con Niên bỏ chạy. Thế là người ta lưu lại truyền thống đốt pháo và thắp đèn suốt đêm vào đêm giao thừa, do đó ngày nay người ta gọi đêm giao thừa là “qua niên” (qua năm mới).
Ngoài việc đốt pháo trúc, mọi người còn quét dọn nhà cửa, treo bùa đào, thay tranh môn thần (Thần giữ cửa),… Trong quyển sáu của cuốn “Mộng lương lục” có ghi chép lại rằng: “Cuối tháng Chạp, tục gọi ‘ngày cuối cùng của tháng, của năm’ là ‘trừ tịch’. Người có học và dân thường không phân biệt nhà to hay nhỏ, đều quét dọn nhà cửa, xua đi bụi bẩn, dọn sạch sân nhà, thay tranh môn thần, treo đồ trang trí, đóng bùa đào, dán bảng xuân, cúng tế tổ tiên. Đến đêm thì chuẩn bị hương hoa và vật phẩm để thờ cúng Thần, cầu mong một năm mới bình an”.
Tại sao lại phải treo “bùa đào”?
Tương truyền, trong thế giới của quỷ có ngọn núi nọ, trên núi có một cây đào lớn phủ kín ba nghìn dặm, trên cây đào có một con gà bằng vàng. Mỗi khi con gà vàng gáy báo bình minh, các quỷ hồn ra ngoài lúc đêm khuya đều phải vội vàng trở về cõi quỷ. Cổng vào vùng đất quỷ này nằm ở phía Đông Bắc của cây đào, và đứng canh cổng có hai vị thần gọi là Thần Đồ và Úc Lũy. Nếu phát hiện ra quỷ hồn nào làm chuyện thương thiên hại lý, hai vị Thần sẽ lập tức bắt giữ, sau đó dùng bông lau để làm dây thừng trói lại làm thức ăn cho hổ. Vì tất cả các quỷ hồn đều sợ Thần Đồ và Úc Lũy, do vậy người ta đã khắc hình hoặc khắc tên hai vị Thần này lên gỗ đào rồi treo trước cửa nhà để xua đuổi tà ma, bảo vệ gia đình. Tấm gỗ đào này được gọi là “bùa đào”, ngày nay, người không sợ quỷ sẽ thay thế “bùa đào” bằng câu đối xuân.
Ban đầu, tranh môn thần treo cửa là hai vị Thần Đồ và Úc Lũy, nhưng sau thời Đường, người ta còn thêm hai vị tướng là Tần Thúc Bảo và Uất Trì Cung. Tương truyền, có một lần Đường Thái Tông Lý Thế Dân nhiều ngày liền trong mộng nghe thấy tiếng gọi của ma quỷ ở ngoài cửa khiến cả đêm không thể yên giấc, vì vậy ông đã sai hai vị tướng Tần Thúc Bảo và Uất Trì Cung cầm vũ khí đứng trấn thủ hai bên cửa, đêm đó không còn ma quỷ quấy phá nữa. Sau này, Đường Thái Tông thấy hai vị tướng quân ban đêm canh gác rất vất vả, liền cho người vẽ hình ảnh của hai vị tướng rồi treo lên cửa, như vậy cũng đủ để trấn áp ma quỷ, từ đó, tập tục này bắt đầu lưu truyền rộng rãi trong dân gian.
Ngoài ra, trong thời cổ đại, các gia đình còn phải chuẩn bị lập bàn thờ trời đất, bàn thờ trời đất là một loại bàn thờ tạm đặt trong nhà hoặc sân, được dùng riêng vào đêm giao thừa để đón các vị Thần. Các gia đình bình thường không có Phật đường lớn thường đặc biệt chú trọng việc chuẩn bị bàn thờ trời đất, vì bình thường họ ít thờ cúng Thần Phật, do đó vào dịp cuối năm, họ sẽ thực hiện một lần cúng bái Thần Phật đặc biệt. Tại sao lại phải lập bàn thờ trời đất? Vì đêm giao thừa là thời khắc các vị Thần từ Thiên thượng hạ xuống trần gian, bởi vậy ở dân gian có tục lệ đón Thần vào lúc này. Lễ vật thờ cúng trên bàn thờ trời đất này khác với bàn thờ trong Phật đường vào ngày thường, ngoài việc treo tiền, nhang đèn, ngũ cúng (lư hương, hai chân nến, một ống hương, một cây đèn dầu) và đại cúng (bao gồm cúng mặn và cúng chay) ra, còn có những bức tranh vẽ hình tượng các vị Thần (tranh Thần) tạm thời được thờ cúng, bao gồm: “Bách phần” – một cuốn sách in trên gỗ có hình vẽ các vị Thần, “Mười tám vị Thần Phật trong tam giới”, một bức tranh khắc gỗ in màu nước trên giấy vàng viền lông lớn, có hình ảnh toàn bộ chư thần, các vị như Phúc, Lộc, Thọ tam tinh,… Những bức tranh trên có cái sẽ được đốt ngay trong nghi thức đón Thần, như “Bách phần”, trong khi một số khác phải đến ngày phá ngũ (mùng 5 Tết) hoặc Tết Nguyên Tiêu (rằm tháng giêng) mới được đốt.
Vào ngày 23 tháng Chạp, Ông Táo (Táo Quân) lên thiên đình để báo cáo tình hình của mỗi gia đình trong một năm qua, và đợi đến đúng đêm giao thừa, sau giờ Tý, ngài lại dẫn đường cho chư Thần giáng trần, mang theo phước họa mà mỗi gia đình đáng nhận được trong năm mới. Do đó, các gia đình cần thay đèn mới ở bếp và thắp hương trước bàn thờ Táo Quân trong nhà bếp. Sau đó, người lớn tuổi nhất trong nhà sẽ chủ trì nghi thức đón Thần trước bàn thờ trời đất. Do vị trí của các vị Thần trên thiên giới khác nhau, nên trước khi đón từng vị Thần, gia đình cần tra cứu sẵn hướng dẫn trong “Hiến thư” (sách hướng dẫn nghi lễ), sau đó dẫn mọi người trong gia đình ra sân thắp hương và quay mặt về hướng cụ thể để đón từng vị Thần. Ví dụ, trong năm Tân Mùi, Hiến thư ghi rằng: “Thần Tài ở chính Đông, Phúc Thần ở chính Nam, Quý Thần ở Đông Bắc, Hỷ Thần ở Tây Nam, và Thái Tuế Thần ở Tây Nam,…” Sau khi hành lễ vái lạy theo các hướng, cả gia đình sẽ đứng trang nghiêm chờ đến khi hương cháy hết, sau đó vái lạy thêm lần nữa. Cuối cùng, mới đem chân hương, tranh Thần, vàng mã,… vào chậu đã chuẩn bị sẵn ở sân để đốt. Khi đốt, họ còn thêm nhánh thông, thân cây vừng, và các vật liệu khác để tạo khói thơm. Vì thế, vào giờ Tý trong đêm Giao Thừa, tiếng pháo sẽ vang lên khắp thiên hạ để cùng chào đón các chư Thần giáng thế.
Ngày nay, vào đêm Giao Thừa, người ta dù vẫn duy trì truyền thống cổ xưa như cả gia đình quây quần bên nhau, thức suốt đêm để đón năm mới, thắp đèn Trường Minh cả đêm, tục gọi là “quang niên”, nhưng cả nhà từ già đến trẻ thường dùng hình thức ăn uống, vui chơi giải trí để thức đêm. Sau bữa cơm tất niên, người lớn trong gia đình sẽ mừng tuổi cho trẻ nhỏ bằng tiền lì xì, sau đó dán câu đối xuân, và tranh môn Thần ở cửa, rồi đóng cửa nhà, cùng nhau nặn bánh sủi cảo và làm bánh niên cao (年糕). Tại sao lại có tục làm hai thứ bánh này, bởi sủi cảo có hình dáng giống như thỏi vàng (nguyên bảo), bánh niên cao có cách phát âm giống với “năm cao” (年高), cả hai điều này đều mang ý nghĩa phát tài, may mắn trong năm mới. Tiếp đó, cả nhà sẽ cùng nhau thức đêm để đón giao thừa đến sáng sớm ngày mồng Một. Khi đó, cửa nhà mới được mở để “nghênh đón Thần Tài”.
Vào khắc cuối cùng của đêm giao thừa, người ta thường thực hiện các phong tục như “giẫm tuổi” và “nghe chuông”. “Giẫm tuổi” là phong tục diễn ra trong thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Trong tiếng pháo trúc rộn ràng vang dội, người ta trải rơm rạ làm từ thân cây vừng xuống sân nhà, rồi cả gia đình cùng nhau giẫm lên, việc làm nay mang ý nghĩa cầu chúc sống lâu trăm tuổi. “Nghe chuông” là việc lắng nghe tiếng chuông để tiễn năm cũ và đón chào năm mới. Tiếng chuông nổi tiếng nhất phải kể đến là tiếng chuông của chùa Hàn Sơn ở Tô Châu. Câu thơ trong bài “Phong Kiều dạ bạc” của nhà thơ Trương Kế thời nhà Đường đã làm cho tiếng chuông ở chùa Hàn Sơn trở nên nổi tiếng: “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên, Giang phong ngư hỏa đối sầu miên. Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự, Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”. (Tạm dịch nghĩa: Trăng lặn, quạ kêu, sương phủ đầy trời. Hàng phong bên sông, ngọn đèn thuyền chài ở trước người đang ngủ buồn. Ngoài thành Cô Tô là chùa Hàn Sơn, Tiếng chuông lúc nửa đêm vẳng đến thuyền khách). Mỗi đêm, vào đúng giờ Tý (khoảng nửa đêm), chùa Hàn Sơn lại vang lên tiếng chuông trầm hùng mà dân gian gọi là “phân dạ chung” (chuông phân giờ đêm). Vì vậy, người dân Tô Châu vào đêm giao thừa thường đợi tiếng chuông vọng về từ chùa Hàn Sơn. Khi tiếng chuông lan tỏa trong màn đêm tĩnh lặng và vọng đến khắp mọi nhà, lúc đó tiếng pháo cũng rộn ràng vang lên khắp nơi, tạo nên một không khí náo nhiệt và thiêng liêng để chào đón năm mới.
Sau đó, mọi người bắt đầu tham gia vào các hoạt động đón Tết theo nhiều hình thức khác nhau.
Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/79713
Ngày đăng: 28-01-2025
Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.