Chính niệm chính hành, trải nghiệm Thần tích trong 24 năm tu luyện



Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Đại Lục

[ChanhKien.org]

Vào một đêm hè năm 1997, tôi có một giấc mơ rất rõ ràng, rằng mình đang đứng dưới bàn chân của một vị Phật. Từ độ cao của mình tôi không thể nhìn thấy ngón chân cái của Ngài. Vị Đại Phật khẽ mở mắt nhìn tôi bên dưới. Sau đó, một tiểu kim Phật từ xa bay đến và từ từ dung nhập vào thân thể của vị Đại Phật. Tỉnh dậy, tôi hồi tưởng một lúc lâu, cảnh tượng trong giấc mơ đã hiện lên trong đầu tôi.

Đó cũng là năm tôi bắt đầu đến điểm luyện công tập thể của Pháp Luân Đại Pháp và bước đi trên con đường tu luyện thần kỳ.

1. Kết duyên với Đại Pháp

Vào đầu mùa thu, gia đình tôi vốn tu luyện Đại Pháp, đã gửi cho tôi một bản Chuyển Pháp Luân, và một tấm vé xem video giảng Pháp của Sư phụ tại tầng hai của thư viện thành phố. Tôi đã đến xem và ngạc nhiên nhận ra rằng tiểu kim Phật trong phần mở đầu của video giống hệt như vị Phật trong giấc mơ của tôi.

Kể từ đó, tôi đến điểm luyện công vào mỗi sáng sớm, sau khi tan sở thì vội vàng ăn tối để tham gia lớp học Pháp lúc 19:00 giờ. Ngày nào tôi cũng cảm thấy thần khí sảng khoái, thân thể nhẹ nhàng như lướt trên mặt đất, không còn phiền não lo âu.

Tôi nhớ rằng không lâu sau khi bắt đầu tu luyện, có một lần khi vừa chìm vào giấc ngủ, tôi cảm giác thấy có một vòng khí trắng chầm chậm quay tròn từ trên đỉnh đầu xuống thân thể. Khi nó di chuyển đến vị trí thắt lưng, tôi trở nên thanh tỉnh và ngay lập tức nhận ra rằng chính là Sư phụ đang quán đỉnh cho mình. Tôi lặng lẽ nằm xuống, vòng khí vẫn quay xuống phía dưới. Mồ hôi nóng từ gan bàn chân tôi chảy ra dinh dính. Tôi vội gọi chồng đến xem. Tôi biết rằng đó là nghiệp lực đang được bài xuất ra ngoài. Điều này khiến tôi cảm thụ được sự huyền diệu của tu luyện.

Hai tháng trước ngày 20 tháng 7 năm 1999, Sư phụ điểm hóa cho tôi tham gia một nhóm học Pháp địa phương, và các đồng tu tại đó đã giúp tôi thỉnh được những kinh văn khác của Sư phụ. Một tuần trước “20 tháng 7”, tôi thỉnh được nhạc luyện công. Sư phụ đã thấy tâm nguyện của tôi đối với Đại Pháp nên khai sáng điều kiện để tôi tu luyện tại nhà.

Sư phụ giảng trong Chuyển Pháp Luân: “Tu tại tự kỷ, công tại sư phụ”.

Tôi hiểu rằng Sư phụ đã chuẩn bị hết thảy mọi thứ tốt nhất cho tôi.

2. Chính niệm chính hành

Sau khi cuộc bức hại bắt đầu, tôi lại có một giấc mơ rõ ràng khác. Tôi mơ thấy một người đàn ông mặc quân phục đang thẩm vấn tôi trong một gian phòng. Anh ta hỏi tôi có tu luyện Pháp Luân Công nữa hay không. Nếu tôi tiếp tục tu luyện, (anh ta chỉ ngón tay vào tôi) anh ta sẽ thả con chó sói bên cạnh ra để nó cắn tôi. Lúc đó, tôi không hề cảm thấy sợ hãi. Tôi nghĩ, ngươi dám cắn ta sao? Tôi đưa tay lên mái tóc, chậm rãi rút ra một chiếc nhíp nhỏ vốn dùng để tỉa lông mày, đâm vào cái mõm đang há ra của con sói. Chiếc nhíp bỗng nhanh chóng biến thành một cái dĩa lớn, chặn cứng họng của con sói, và con sói nằm vật ra sàn nhà. Tỉnh dậy, tôi nhớ lại cảnh tượng trong mơ. Sự can đảm ấy vượt xa năng lực vốn có của tôi, từ đó tôi càng kiên định hơn trong việc tu luyện Đại Pháp.

Sau ngày 20 tháng 7 năm 1999, tôi bắt đầu luyện công buổi sáng ở nhà. Một ngày mùa đông, tôi bật lò sưởi trước khi bắt đầu đả tọa. Ngồi được một lát, tôi cảm thấy nóng. Tôi cố gắng đưa tay tới lò sưởi để tắt đi nhưng không thể với được. Nhưng, lò sưởi đã tắt mà không cần tôi chạm đến nó. Tôi nghĩ rằng công tắc lò sưởi bị hỏng, nên quyết định để đó và giải quyết sau khi luyện công xong. Luyện công xong, tôi kiểm tra lại thì thấy lò sưởi vẫn hoạt động tốt. Tôi ngạc nhiên nhận ra rằng mình có công năng!

Một ngày nọ, trở về nhà sau giờ làm việc, tôi phát hiện rằng các bảo vệ ở tiểu khu tôi sống đã yêu cầu cư dân giao nộp sách của Pháp Luân Công và khai tên bản thân. Khi tôi đi tới cổng, có ai đó đứng trước cửa phòng tiếp tân đã hét lên với tôi: “Ai tu luyện Pháp Luân Công thì đều phải giao nộp sách đến phòng làm việc của cán bộ”.

Một đồng tu đi cùng hỏi tôi: “Bạn có giao sách không?”. Tôi bình tĩnh trả lời: “Khi mua sách, tôi không hề dùng tiền của họ. Vậy thì tại sao tôi phải đưa sách cho họ chứ? Tôi không thuộc về họ quản”.

Sáng hôm sau, tôi lên xe buýt đi làm. Tôi ngồi ở hàng ghế cuối. Xe chật kín người. Đột nhiên tôi như nhìn thấy con đường trước mặt của tài xế: một con đường rộng rãi tiến về phía trước, cứ như thể là tôi đang ngồi trên ghế của tài xế vậy (vốn dĩ tôi ngồi ở hàng cuối và không thể nhìn thấy con đường). Khi nhìn kĩ lại, tôi chỉ thấy các hành khách đứng trước mặt, che khuất tầm nhìn của mình. Xe buýt tiếp tục chạy về phía trước, đi qua một bệnh viện và một lò hỏa táng. Tôi nghĩ, bệnh viện, lò hỏa táng là con đường mà người thường tất yếu phải trải qua. Những “trạm dừng” này không còn đúng với tôi nữa. Ngay lập tức, trái tim tôi ngập tràn hạnh phúc, cảm thấy vô vàn may mắn khi có được cơ duyên đắc Pháp.

3. Hoàn thành thệ ước tiền sử

Sau khi Trung Cộng bắt đầu bức hại Pháp Luân Công vào ngày 20 tháng 7 năm 1999, tôi đã đến Bắc Kinh chứng thực Pháp. Lúc ấy, tôi không nghĩ gì nhiều, chỉ cảm thấy giống như Sư phụ đã đặt một tấm chắn xung quanh thân thể tôi. Sau khi trở về, tôi bắt đầu nói với mọi người về sự mỹ hảo của Đại Pháp dựa trên những trải nghiệm của bản thân mình. Tôi cố gắng tự học cách giảng chân tướng. Tôi viết và dán biểu ngữ “Pháp Luân Đại Pháp hảo, Chân-Thiện-Nhẫn hảo”. Tôi cũng gửi thư chân tướng để nhiều người hơn nữa biết về Đại Pháp. Sau này, khi đã có tờ rơi chân tướng, mọi việc càng trở nên thuận lợi, và tôi đã tìm thấy con đường chứng thực Pháp của bản thân mình. Dù khó khăn, nhưng tôi luôn cảm thấy tu luyện Đại Pháp là niềm hạnh phúc to lớn nhất.

Trước ngày 20 tháng 7 năm 1999, gia đình tôi có rất nhiều người tu luyện, và chúng tôi phân chia các công việc để chứng thực Pháp. Chúng tôi cố gắng tận dụng hoàn cảnh thuận lợi của bản thân để bắt đầu nhiều hạng mục cứu người. Sau khi Cửu Bình được công bố, chúng tôi bắt đầu khuyên tam thoái cho gia đình và người thân, sau đó là những người họ hàng ở quê mà chúng tôi có thể liên lạc được. Thông qua nỗ lực đó, tất cả những người thân và bạn bè của chúng tôi đã thoái đảng. Điều đó cũng chứng thực vẻ đẹp của Đại Pháp, và nhiều người hơn nữa đã được cứu.

Sau khi nghỉ hưu năm 2005, tôi thành lập một điểm sản xuất tài liệu. Tôi đã làm toàn thời gian ở đó và mua chiếc máy in laser đầu tiên. Vì cuộc bức hại lúc đó rất nghiêm trọng nên điểm tài liệu tương đối bí mật. Chúng tôi thật sự không biết kỹ thuật in ấn, vậy nên cả nhà đã cùng nhau dựa trên hướng dẫn sử dụng để học cách in. Ban đầu, chúng tôi tự in tài liệu cho bản thân; sau đó, chúng tôi đã có thể cung cấp tài liệu cho các đồng tu khác. Chúng tôi từng bước từng bước đi theo sự chỉ dẫn của Sư phụ và kiên trì cho đến hôm nay. Lúc đó, tôi không biết rằng máy in cần đổ thêm mực, vậy mà mực của chiếc máy này lại dùng được gần một năm. Tiền chi trả cho việc in tài liệu đã trở thành một phần trong các khoản chi tiêu hàng ngày của tôi, giống như mua gạo, mua rau vậy. Điểm tài liệu này cho đến nay vẫn vận hành thuận lợi với sự hiệp trợ của cả gia đình.

Khi học các bài giảng khác của Sư phụ, tôi hiểu rằng đến tầng thứ cao, không có khái niệm “tu luyện”, chỉ có “tuyển trạch”. Tôi biết rằng Đại Pháp đã chọn mình. Vậy nên, tôi hoàn toàn tín tâm vào Đại Pháp và làm theo chỉ dạy của Sư phụ. Bất cứ khó khăn nào mà tôi gặp phải đều sẽ xuất hiện kỳ tích, bởi tôi biết rằng Sư phụ luôn trông nom bảo hộ tôi. Sư phụ biết rằng tôi có thể làm được.

Tôi nhớ vào khoảng năm 2004, tôi nghe nói rằng một người bạn đã tham gia vào cuộc bức hại các đệ tử Đại Pháp. Tôi định đến giảng chân tướng cho anh ấy, bởi vì đó là giai đoạn nghiêm trọng nhất của cuộc bức hại. Gia đình khuyên ngăn tôi không nên đi vì anh ta quá tà ác, liệu anh ta có báo cáo tôi không? Nhưng lúc đó, tôi chỉ nghĩ rằng anh ấy đang nắm giữ một vị trí quan trọng, nếu tôi không giảng chân tướng thì có thể không một ai tiếp xúc được với anh ấy. Hơn nữa, nếu không biết chân tướng, anh ấy vẫn sẽ trong vô tri mà bức hại các đệ tử Đại Pháp. Tôi đến thăm bố mẹ của anh trước. Sau khi đến thăm anh ấy, tôi ôn lại những kỷ niệm hồn nhiên thời thơ ấu, rằng bố mẹ anh là người thiện lương ra sao, và nói với anh ấy rằng Pháp Luân Đại Pháp là một môn tu luyện Phật gia, là Đại Pháp vũ trụ, và đã được đón nhận trên toàn thế giới. Tôi kể về những trường hợp bức hại Đại Pháp ở địa phương đã gặp quả báo. Tôi cũng kể với anh về cách mà Trung Cộng đã đối xử với các cảnh sát của nhà tù Tần Thành ở Bắc Kinh vào cuối thời Đại Cách mạng Văn hóa. Khi tôi nói xong, với đôi tay run rẩy, anh ấy lấy ra một bức thư được viết bởi một đệ tử Đại Pháp. Anh ấy thú nhận nỗi sợ hãi sâu thẳm đằng sau những việc làm của mình. Sau đó, công việc của anh ấy đã được chuyển giao, và tên anh không bao giờ còn xuất hiện trên Minh Huệ Net nữa. Anh đã viết một bản “nghiêm chính thanh minh” và cùng với toàn thể gia đình thoái xuất khỏi tà đảng.

Theo thời gian, tôi tiếp xúc với các đồng tu am hiểu về kỹ thuật, và họ đã giúp đỡ tôi rất nhiều. Kỹ thuật của tôi dần dần thành thục, và hiện giờ tôi đã có thể giải quyết phần lớn những vấn đề thường gặp. Thỉnh thoảng, tôi cũng giúp các đồng tu khác khắc phục những vấn đề nhỏ. Tôi còn nhớ vào một ngày đầu xuân, tôi đến sửa máy cho một đồng tu. Trên đường về nhà, tôi đứng đợi ở trạm xe buýt, hai hàm răng run lập cập vì lạnh. Sau khi lên xe, tôi ngồi ở vị trí cạnh cửa. Chiếc xe buýt đó không có lò sưởi, và gió lạnh tràn vào trong xe từ mọi phía. Đột nhiên, tôi cảm thấy nóng ở nửa người bên phải. Tôi nhìn xuống và thấy phía bên phải là một ngọn lửa màu xanh đang liếm trên mu bàn tay mình. Mu bàn tay tôi trở nên hồng hào, tôi cảm giác như mình đang ngồi trước lò sưởi vậy. Mắt tôi đẫm lệ vì biết ơn Sư tôn, trong tâm không ngừng thốt lên: “Tạ ơn Sư phụ! Tạ ơn Sư phụ!”. Tôi thật sự thể hội được rằng có Sư phụ thật tốt biết bao, tu luyện thật tuyệt vời biết bao. Sư phụ từ bi luôn ở bên cạnh và chăm sóc cho tôi.

Tôi đã dùng nhiều cách để giảng chân tướng, từ treo băng rôn, dán biểu ngữ đến phát tài liệu. Tôi hiểu rằng mình đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại trên vai. Tôi bắt đầu hạng mục gửi thư chân tướng bằng cách thu thập danh sách những kẻ hành ác bức hại đệ tử Đại Pháp từ Minh Huệ, từ các tờ báo và từ những người có thông tin, sau đó gửi tài liệu chân tướng đến họ qua đường bưu điện.

Vào khoảng năm 2002 hoặc 2003, khi cuộc bức hại rất nghiêm trọng, tôi được biết rằng chồng một đồng nghiệp của mình là thư ký của Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Sở Công an (lúc đó chưa có Ủy ban Chính trị Pháp luật). Tôi biết tình huống của gia đình họ, nên đã viết một bức thư khuyến thiện. Khoảng hai tháng sau, tôi nghe nói rằng anh ấy đã chuyển đơn vị và thôi việc trong ngành công an.

Khởi phát sự việc này, tôi ngộ ra rằng những bức thư chân tướng thực sự có uy lực. Sau đó, tôi bắt đầu nhắm đến từng cá nhân bằng cách gửi thư chân tướng cho từng người. Tôi gửi những bức thư khác nhau dựa trên các tình huống khác nhau của từng người. Sau đó, tôi viết một bản thảo ngắn gọn những bức thư của mình cho những người thuộc các giai tầng khác nhau trong xã hội, như công an, pháp luật, giáo dục, truyền thông, những người hàng xóm và những người nhà của các đồng tu chưa hiểu chân tướng về Đại Pháp mà chúng tôi không thể tiếp xúc với họ. Tôi cập nhật nội dung của từng bức thư theo tình hình xã hội mới nhất, kết hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng người. Tôi muốn để họ khi nhận thư cảm thấy như được nghe chân tướng trực diện. Tôi cố gắng giải khai những khúc mắc trong tâm của từng người. Từ cơ điểm cứu độ chúng sinh, tôi cố gắng hết sức để đảm bảo rằng mỗi bức thư tôi gửi đi có thể chạm đến phần lương thiện trong tâm chúng sinh, khởi tác dụng cứu người. Cách làm này có hiệu quả rất tốt đối với những người mà tôi chỉ biết họ gián tiếp hoặc những người quá khó để tiếp xúc trực tiếp. Tôi thường gửi từ ba đến năm bức thư một lúc. Ngoài ra, tôi tải bài báo của Minh Huệ và gửi kèm cùng với thư chân tướng.

Tôi nhớ vào những ngày đầu tiên của tháng Tư năm 2009, chính quyền địa phương nơi tôi ở đã dán một tấm bảng phỉ báng Đại Pháp, đầu độc chúng sinh. Tôi đã có một cuộc thảo luận khẩn với các đồng tu, và chúng tôi quyết định sẽ gỡ bỏ nó. Khi đó, tôi được biết rằng tỉnh trưởng sẽ đến thành phố để kiểm tra, các đơn vị sẽ tăng cường thêm nhiều nhân viên đến đó để túc trực, tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an toàn cho việc gỡ bỏ tấm bảng kia.

Lúc đó tôi nghĩ: “Tại sao khi chúng tôi muốn gỡ bỏ tấm bảng thì can nhiễu lại xuất hiện? Tà ác tại không gian khác hẳn phải rất sợ hãi, vậy tại sao chúng tôi không thanh trừ nó? Đó chẳng phải là cứu độ chúng sinh sao?” Tôi đã cầu xin Sư phụ gia trì. Tôi lên kế hoạch gửi thư cho chính quyền, yêu cầu tự họ gỡ bỏ tấm bảng, đó cũng là một cơ hội để họ lựa chọn vị trí của mình.

Tôi bắt đầu tĩnh tâm lại và học Pháp. Dựa theo tình huống xảy ra, tôi đã viết một bức thư dựa trên cơ điểm cứu người. Bức thư nói với họ về đạo lý thiện ác hữu báo, nói rằng họ hãy nghĩ đến bản thân và gia đình, và đừng vì danh lợi mà tiếp tục làm điều xấu. (Tôi nhắc nhở họ rằng, thành viên trong gia đình của người đứng đầu việc đốt sách Đại Pháp đã phải nhận quả báo). Họ phải dừng việc phỉ báng Đại Pháp. Trong quá trình viết thư, tôi cảm nhận được từ bi của Đại Pháp, và trách nhiệm trọng đại của đệ tử Đại Pháp trong việc cứu độ chúng sinh. Trong đó cũng bao hàm sự cân nhắc cho an toàn của các đồng tu. Viết xong, tôi mua một chiếc phong bì đẹp, thỉnh cầu Sư phụ gia trì và gửi thư đi. Một tuần sau, tôi nhận được tin rằng mọi tấm bảng đã được gỡ bỏ sạch sẽ. Tôi đứng trước Pháp tượng của Sư phụ, hai hàng nước mắt lăn dài, tạ ơn Sư phụ đã khích lệ đệ tử.

Có lần, tôi gửi một bức thư giảng chân tướng tới lãnh đạo của một đơn vị. Tôi giảng rõ sự thật về cuộc bức hại Pháp Luân Đại Pháp, và dẫn ra một số câu chuyện lịch sử để nói về tính trọng yếu của việc thoái đảng. Tôi cũng kết hợp với tình huống của đơn vị ông ấy để nói về những nguy hại gây ra bởi danh lợi đối với con người, và bày tỏ sự quan tâm của tôi đối với ông. Kết quả là, ông ấy đã chuyển công tác đến địa phương khác.

Trước Thế vận hội Bắc Kinh 2008, một cuộc kiểm tra quy mô lớn đã diễn ra ở thành phố chúng tôi, nhân viên đăng ký xuất hiện ở các giao lộ, bưu điện, tiểu khu, và thậm chí cả lối vào của các tòa nhà. Mỗi lần tôi đến hành lang của các tòa nhà để phát tài liệu chân tướng, nhân viên ở cổng thậm chí không chú ý đến tôi, hoặc họ chỉ nói rằng “Đi qua đi!”. Không ai kiểm tra chứng minh thư của tôi cả. Có lần, tôi gặp một đồng tu tại một tiểu khu, cô ấy nhìn thấy tôi từ xa, miệng há hốc, mãi một lúc lâu mới nói thành lời: “Ôi, chị dám đến khu vực của chúng tôi ư? Khu vực này kiểm tra chứng minh thư rất nghiêm ngặt”.

Tôi vẫn nhớ một lần khi tôi đến khu dân cư của đội cứu hỏa để phát tài liệu chân tướng, ngay khi bước vào sân thì tôi gặp một con chó con. Nó sủa nhẹ và chạy đến chân tôi. Tôi nói với nó: “Ta đến đây để cứu người. Ngươi hãy nhớ ‘Pháp Luân Đại Pháp hảo’. Hãy giúp ta trông chừng mọi người, đừng để người ta tới đây. Nếu ai đến thì hãy báo hiệu cho ta, được không?” Sau đó, tôi lên cầu thang. Chó con im lặng đứng đợi ở cửa tòa nhà và không sủa một tiếng. Sau khi phát tài liệu xong, tôi không muốn quay lại cửa chính. Lúc đó, tôi nghe thấy tiếng kêu nhỏ của chó con, dường như nó hiểu tôi nghĩ gì. Sau khi nhìn tôi, nó chạy về phía trước. Tôi đi theo nó và nhìn thấy một cánh cửa nhỏ đang mở ở đường giao nhau giữa các tòa nhà. Tôi rất cảm động. Tôi ngồi xuống và cảm ơn chó con. Nó ngừng sủa và im lặng dõi theo cho đến khi tôi đi khỏi. Tôi hiểu rằng Pháp thân của Sư phụ đã an bài chó con đến để giúp tôi. Vài ngày sau, khi tôi đi qua khoảng sân đó, tôi nhìn thấy một cánh cổng mới đã được lắp đặt.

Thông thường, sẽ luôn có một cảnh sát túc trực trước hòm thư ở lối ra vào của bưu điện, và một xe cảnh sát thường đỗ ở lối vào. Mỗi lần đến gửi thư, khi còn cách bưu điện một con phố, tôi thường nghĩ: “Hãy để chiếc xe cảnh sát rời đi, không để ảnh hưởng tới việc chân chính tôi đang làm”. Chiếc xe cảnh sát thường nhanh chóng rời đi. Với nhân viên túc trực trước hòm thư, tôi nghĩ trong tâm: “Hãy đi làm việc của anh đi, tôi còn việc chân chính phải làm, hãy mau đi”. Sau đó, người nhân viên kia thường phải nghe điện thoại, đi vệ sinh hoặc bị ai đó gọi đi. Tôi sẽ không thể làm vậy nếu không có sự bảo hộ từ bi của Sư phụ. Tôi đã thể hội được “Phật Pháp vô biên” là như thế nào!

Vào một ngày đầu đông năm nọ, khoảng 20:00 giờ tối, sau khi giao tài liệu chân tướng cho các đồng tu, tôi đạp xe về nhà và tình cờ nhìn lên bầu trời. Bỗng nhiên, tất cả các vì sao trên bầu trời đêm từ nơi vũ trụ xa xôi bay đến chỗ tôi. Trên bầu trời sao, tôi đột nhiên nhận ra ngôi nhà trên thiên thượng của mình. Nước mắt chảy dài trên má, tôi không kìm được mà cất tiếng hát bài “Từ bi hoài”. Đó là cảm xúc sâu thẳm của việc chờ đợi hàng nghìn năm trong cõi mê, chờ đợi Sư phụ từ bi đến, và cuối cùng tôi đã đợi được ngày hôm nay.

Sau khi chứng kiến cảnh tượng ngoạn mục này, tôi không thể tĩnh tâm lại được trong một thời gian lâu, thậm chí cả sau khi đã về đến nhà, vì vậy tôi chép ra lời của bài hát. Ngày hôm sau, một đồng tu đến nhà tôi và nhìn thấy lời bài hát đó. Cô ấy hỏi: “Chị đã viết nó ư? Tôi biết một đồng tu có thể soạn nhạc, chị nghĩ thế nào về việc chúng ta có thể soạn một ca khúc và gửi cho Chánh Kiến Net?” Sau đó, tôi nhận được một bản nhạc do đồng tu soạn. Tôi rất ngạc nhiên bởi nó gần giống với những gì tôi tự hát. Bài hát đó tên là “Từ bi hoài”, đã được đăng trên Chánh Kiến Net. Thực tế, tôi không qua đào tạo trường lớp, chính là Sư phụ đã giúp tôi khai mở ký ức đã bị phong ấn, khiến tôi nhớ lại thệ ước tiền sử.

Lời bài hát đó như sau (tạm dịch):

“Tôi đến từ thế giới mỹ hảo

Nhập vào phàm trần mấy nghìn năm

Tôi đang chờ đợi trong mê man

Mong đợi Sư phụ từ bi xuất hiện

Tôi đến từ vũ trụ xa xôi

Thệ ước qua bao đời vẫn giữ trong tâm

Qua gió mưa, nguyện ước ban đầu không hề thay đổi

Mong đợi Đại Pháp vũ trụ khai truyền

Tôi đến từ đại khung xa thẳm

Từng tầng từng tầng hạ xuống chỉ vì đời này

Cổng trời vạn cổ nay đang mở

Ca tụng lòng từ bi của Sư phụ

Sư phụ ơi, Sư phụ ơi, tạ ơn Ngài đã mang con trở về

Sư phụ ơi, Sư phụ ơi, tạ ơn Ngài đã mang con trở về”

Link đơn ca nữ: Từ bi hoài

https://www.zhengjian.org/node/259648

Sư phụ giảng:

“Tôi nhớ rằng khi chư vị thời đầu đắc Pháp, mọi người hễ đọc Pháp này, đặc biệt là hai bộ phận đầu tiên trong ba bộ phận những người mà tôi giảng, khi đọc xong Pháp này thì quả là tâm tình như thế, quả thực quá cao hứng! ‘Quá tốt rồi! Rốt cuộc tìm được rồi!’ Con người chờ đợi nghìn vạn năm luân hồi chẳng phải chính vì điều này sao? Bấy giờ cảm thụ từ sâu thẳm của sinh mệnh khiến chư vị buông bỏ bất kể nhân tâm nào, hạ quyết tâm rằng nhất định tu tốt bản thân mình. Tâm tình hưng phấn ấy khiến người ta tinh tấn.” (Giảng Pháp ở Pháp hội tại Vùng đô thị New York năm 2013)

Kể từ đó, tôi không bao giờ dám xao nhãng làm ba việc. Tôi theo sát Sư phụ, hoàn thành thệ ước từ tiền sử mà không hề phàn nàn hay hối hận.

4. Tâm tính thăng hoa trong Pháp

Ngày 17 tháng 2 năm 2012, tôi đến nhà của một đồng tu và bị bắt cóc. Nhà của tôi bị lục soát. Ở đồn cảnh sát, tôi giảng chân tướng cho cảnh sát. Tôi kể cho họ về trải nghiệm đắc Pháp và về vẻ đẹp của Đại Pháp. Lúc đó, hai đồng tu nữa cũng bị bắt cóc và lần lượt bị đưa đến đồn cảnh sát. Khi cảnh sát khiển trách họ, tôi nhìn thấy tay của một vị đồng tu run rẩy, ngay lập tức tôi phát chính niệm. Tôi cảm thấy trường chính niệm rất mạnh mẽ. Toàn thân tôi nóng bừng, nhiệt tỏa ra từ gan bàn chân. Rõ ràng là Sư phụ đang giúp tôi.

Khi cảnh sát cố gắng thẩm vấn tôi, tôi nhìn thấy dòng chữ “Biên bản thẩm vấn” đã được đánh máy. Tôi đột nhiên xuất ra một niệm, mình là một đệ tử Đại Pháp, họ sao có thể thẩm vấn mình chứ? Ngay lập tức, tôi đứng lên, kéo cửa ra về. Viên cảnh sát hét lên với tôi từ phía sau: “Cô đi đâu vậy?” Khoảnh khắc tôi nhấc chân phải lên, bản thân đột nhiên mất ý thức. Khi định thần lại, tôi thấy mình đã ở trong một con hẻm cách xa đồn cảnh sát hai con phố. Đó chính là Sư phụ đã đưa tôi ra khỏi đồn cảnh sát.

Sau này, đồng tu hỏi tôi: “Lúc đó chị đã nghĩ gì vậy?” Tôi trả lời: “Tôi không nghĩ gì cả. Đầu óc tôi lúc đó hoàn toàn trống rỗng. Tôi chỉ biết rằng tôi là một đệ tử Đại Pháp, và họ không thể thẩm vấn tôi”.

Khi cảnh sát đột nhập vào nhà tôi, họ nói với chồng tôi rằng: “Con trai và con dâu của ông thật tốt, nếu vợ ông tiếp tục tu luyện Pháp Luân Công, ông nên ly dị bà ta”. Chồng tôi vốn không tu luyện, đáp lại: “Bởi vì vợ tôi tu luyện Pháp Luân Công nên gia đình tôi mới tốt đẹp như vậy”. Ông ấy cũng nói về những thay đổi tích cực trên thân thể tôi sau khi tu luyện, và tôi đã trở thành người thiện lương như thế nào, sống hòa ái với gia đình ra sao. Chồng tôi nói với cảnh sát: “Tôi không những không ly hôn, mà còn kiên quyết ủng hộ vợ tôi trong việc tu luyện. Bởi vợ tôi tu luyện Pháp Luân Công nên mới có thể đối xử với gia đình tốt như vậy. Tôi phải cảm tạ Pháp Luân Công”. Viên cảnh sát hỏi: “Nếu Pháp Luân Công tốt như vậy, thì tại sao bà ấy lại phải trốn đi?”. Chồng tôi đáp: “Nếu các người bắt cóc các học viên Pháp Luân Công, lấy gan moi tim của họ, thu hoạch nội tạng của đệ tử Đại Pháp để kiếm lợi, thì việc họ trốn đi là đúng rồi”. Trong khi chồng tôi giảng chân tướng, viên cảnh sát không nói được lời nào.

Vì “Thảm họa mười năm” (1966-1976) của Trung Cộng, còn được gọi là cuộc Đại Cách mạng Văn hóa, mà tôi đã mất cha từ khi còn là một thiếu niên, đó là nỗi đau không thể bù đắp trong cuộc đời tôi. Sau khi Cửu Bình được công bố, tôi rất kích động, và sự thù hận đối với Trung Cộng không thể nguôi ngoai. Tôi hiểu sâu sắc và rõ ràng về Trung Cộng, và tâm lý chống đối lại Trung Cộng từ nhỏ đã khiến tôi mất đi thiện tâm của người tu Phật, tạo thành tâm oán hận và mong muốn làm những việc vốn đi lệch với những gì Sư phụ dạy.

Sau khi phải lưu tán khắp nơi, tôi cảm thấy sợ hãi và cô đơn. Từ nhỏ, tôi đã được giáo dục tốt từ gia đình, và luôn được bố mẹ cưng chiều. Trong cuộc sống, tôi có một gia đình êm ấm và một công việc tốt. Tôi luôn tự xem mình là một người thanh cao. Trong ma nạn lần này, khi phải đồng thời đối mặt với chỉ trích từ người thân và bè bạn, tôi phải thừa nhận rằng đó là giai đoạn khó khăn nhất trong cuộc đời tôi. Tôi bắt đầu oán hận và ủy khuất, áp lực về tinh thần gần như làm tôi suy sụp.

Thông qua học Pháp, tôi nhận ra rằng con đường tu luyện bình ổn là con đường Chính Pháp, phủ định cựu thế lực. Tôi bắt đầu học Pháp nhiều hơn, học thuộc Hồng Ngâm, và hát các ca khúc của đệ tử Đại Pháp ở nhà, nhất tư nhất niệm đều ở trong Pháp, không dám giải đãi dù chỉ một chút. Tôi chân chính hướng nội và tu chính mình, loại bỏ tâm oán hận, tâm thù hận, chấp trước vào làm việc và chấp trước vào gia đình. Tôi minh bạch rằng chỉ có Đại Pháp của Sư phụ mới là hy vọng đắc cứu của chúng sinh.

Bất luận ở thời điểm khó khăn nào, tôi cũng chưa bao giờ có chút hoài nghi vào tính niệm kiên định của bản thân đối với Đại Pháp.

Sư phụ giảng:

“Người tu luyện giảng là chính niệm. [Khi] chính niệm rất mạnh mẽ, chư vị sẽ là không gì cản trở được, và điều gì cũng làm được. Vì chư vị là người tu luyện, chư vị là người đang trên đường trở thành Thần, chư vị là người không bị các nhân tố của người thường và Pháp Lý ở tầng thấp khống chế.” (Giảng Pháp tại Pháp hội thành phố Los Angeles [2006])

Trong tu luyện, tôi cố gắng làm theo yêu cầu của Pháp, dùng Pháp để nhận định đúng sai khi gặp vấn đề. Có một dạo, mọi người đều mua một chiếc đài nhỏ để có thể tải các bài giảng hoặc các bản nhạc. Tôi cảm thấy không phù hợp nên đã không mua. Một đồng tu hỏi tôi: “Chị nghĩ sao về điều này?” Tôi nói, chỉ đơn giản là vì tôi không muốn tự tạo bất kỳ khó nạn nào cho mình. Học Pháp nhiều hơn mỗi ngày, luyện tốt các bài công pháp, làm ba việc cho tốt và luôn giữ nhất tư nhất niệm đều ở trong Pháp. Tôi cố gắng để cuộc sống hàng ngày của mình đơn giản nhất có thể, không phức tạp. Càng nhiều thứ thì càng mệt mỏi. Cuộc sống đơn giản nhưng bận rộn làm tôi thấy vui vẻ, và tôi tin tưởng chắc chắn rằng mình sẽ trở về nhà cùng Sư phụ.

Tháng 9 năm 2021, khi việc tiêm vắc-xin được phổ biến ở địa phương, tôi đến nhà một đồng tu, và anh ấy kể với tôi: Hôm đó, đơn vị anh ấy yêu cầu tiêm vắc-xin, không tiêm thì không được đi làm, vậy nên anh ấy đã nghỉ việc và về nhà. Anh ấy về nhà vào buổi sáng, thì ngay buổi chiều đã được nhận vào làm ở một nơi khác, và anh ấy vẫn làm việc ở đó cho đến nay. Có năm bông hoa Ưu Đàm đã nở ở vành bánh sau chiếc xe đạp điện của anh. Chúng tôi nghĩ rằng đó là Sư phụ khích lệ anh, và dường như điều anh ấy đã làm là đúng. Khi tôi trở về, đồng tu này đã đặc biệt đưa tôi xuống lầu để xem hoa Ưu Đàm. Tâm tôi tràn ngập hạnh phúc trên đường trở về nhà. Hai ngày sau, tôi nghĩ: “Tôi đã được nhìn thấy hoa Ưu Đàm ở nhà đồng tu không chỉ một lần hai lần. Dường như anh ấy tu luyện tốt hơn tôi. Sau bao nhiêu năm, không có một bông hoa Ưu Đàm nào khai nở ở nhà tôi cả”.

Vài ngày sau, khi đang sử dụng internet, tôi cảm thấy có một luồng ánh sáng vụt qua trước mắt. Lần theo ánh sáng đó, tôi nhìn thấy một bức ảnh được đặt ở trên chiếc bàn phía bên phải tôi. Một vầng hào quang bảy màu xuất hiện trên nền trời của bức ảnh. Vầng hào quang tỏa sáng giống như Phật quang. Tôi rất ngạc nhiên. Vài ngày sau, tôi phát hiện vầng hào quang đã chuyển từ bên trái sang bên phải, giống như ánh sáng mặt trời. Đầu tiên, ánh sáng chiếu vào một người mặc bộ quần áo tối màu ở trung tâm bức ảnh, và một vầng hào quang xuất hiện giống như Pháp Luân ở bụng dưới của người đó. Thời gian qua đi, những đám mây trên bầu trời trong bức ảnh trở nên ngày càng sáng hơn, và mọi người dường như được mặt trời chiếu sáng, đem lại một cảm giác ấm áp. Dường như Phật quang phổ chiếu trong nhà tôi, và Sư phụ luôn ở bên cạnh tôi. Ngôn từ của con người không đủ để bày tỏ sự tự hào và hạnh phúc của tôi khi được kết duyên với Đại Pháp. Cảm ân Sư phụ từ bi bảo hộ!

Sau khi dịch corona virus bùng phát, vì hình thế tại Trung Quốc biến hóa, nên Sư phụ dường như đã an bài để tôi phối hợp với các đồng tu khác trong hạng mục Chính Pháp cứu người. Học cách phối hợp với người khác là một khía cạnh mà tôi cần đề cao trong tu luyện. Nhờ lời kêu gọi gửi bài viết nhân dịp kỷ niệm 20 năm Chánh Kiến Net, tôi đã có cơ hội nghiêm túc nhìn lại quá trình tu luyện trong 24 năm qua của bản thân mình.

Tôi cảm thấy rằng trong quá trình viết bài chia sẻ này, tâm tính của tôi đang được đề cao và thăng hoa. Tôi thật sự nhận thấy được sự kỳ diệu của hướng nội, trở nên khoan dung hơn với người khác, có thể nhẫn chịu những điều người thường không thể nhẫn. Những thống khổ mà tôi đã trải qua chỉ thoáng qua như một cơn gió, và tâm từ bi của Phật dần dần xuất khởi. Quan trọng hơn là, khi nhìn lại những ma nạn đã qua, tôi thấy được nội tâm đã chuyển biến, tâm tính đã thăng hoa. Tôi biết ơn tất cả những người tôi đã gặp trong quá trình tu luyện. Mọi người đã cho tôi động lực, khoan dung, cổ vũ và thành tựu con đường tu luyện của tôi.

5. Cảm ân Sư tôn đã bảo hộ

Từ khi Giang Trạch Dân bức hại Pháp Luân Công vào năm 1999, cả gia đình tôi đã chống lại cuộc bức hại tà ác này. Mọi thành viên đều minh bạch chân tướng, ai ai cũng đắc phúc báo. Dưới sự bảo hộ của Sư phụ, việc tu luyện của tôi cũng khiến cả gia đình được thọ ích, điều đó đã trở thành câu chuyện lưu truyền trong những người thân, bè bạn và hàng xóm láng giềng. Sau khi tôi viết đơn kiện Giang Trạch Dân vào tháng 7 năm 2015, cả gia đình tôi cũng tham gia khởi tố họ Giang. Tất cả điều này đều là an bài của Sư phụ!

Có lần, khi một đồng tu cần trợ giúp, sau khi trở về từ nhà đồng tu ấy, con trai tôi đã nói với tôi: “Con biết tại sao các đệ tử Đại Pháp lại không sợ hãi, đó là vì “vô dục tắc cương” (không có dục vọng ham muốn thì sẽ mạnh mẽ kiên cường), họ không cầu hồi báo. Con rất nguyện ý giúp đỡ các đệ tử Đại Pháp, bởi vì mọi việc chắc chắn sẽ thành”. Tôi hỏi xem cháu nghĩ gì về tôi. Con trai tôi nói: “Mẹ không có điểm gì để chê trách cả”. Tôi nói: “Ông ngoại con đã dành cả cuộc đời để chữa bệnh cứu người. Ông đã bị bức hại đến chết trong Đại Cách mạng Văn hóa. Ngày nay, làm người tốt có thể là lý do để bị vu khống. Tà đảng như vậy vẫn chưa đủ độc ác sao? Trung Cộng chính là nguyên nhân gây nên cái chết cho hơn 80 triệu người Trung Quốc, bao gồm cả cuộc thảm sát học sinh sinh viên ở Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, cũng như việc giết hại rất nhiều học viên Pháp Luân Công, thậm chí thu hoạch nội tạng sống của họ. Trời sẽ diệt Trung Cộng. Đệ tử Pháp Luân Đại Pháp đang cứu người trước khi trời diệt Trung Cộng, để con người không bị chôn vùi cùng với nó”. Vì vậy, con trai và con dâu tôi cũng khuyên họ hàng, bạn bè và bạn học của các cháu làm tam thoái.

Sau khi chồng tôi nghỉ hưu, ông ấy đã đến làm ở một công ty tư nhân. Một lần, khi trở về nhà, ông ấy đã nói với tôi rằng, ở chỗ làm của mình, ông nên triển hiện phong thái của người nhà đệ tử Đại Pháp, rằng ông cần làm một người tốt, như vậy các đồng nghiệp sẽ thấy được Đại Pháp là tốt.

Chồng tôi làm việc ở ngoại thành, ông ấy thường xem chương trình trực tuyến của đài truyền hình Tân Đường Nhân ở đơn vị làm việc. Khi gặp chuyện, ông ấy nói với các đồng nghiệp một cách lý trí về chân tướng Đại Pháp, về sự tà ác của Trung Cộng. Ông cũng thường mang tập san chân tướng Minh Huệ đến đơn vị để những người hữu duyên đọc. Vì ngay cạnh chỗ ở của các nhân viên là một nghĩa trang, nên ông ấy thường mơ thấy những giấc mơ kỳ quái khi ở đó vào ban đêm. Sau khi lịch bàn Minh Huệ được phân phát tại Trung Quốc, chồng tôi đã lấy một quyển và đặt nó ở đầu giường. Một đêm, khi trở về phòng, từ xa ông ấy đã nhìn thấy trong phòng có ánh sáng. Khi bước vào phòng, ông phát hiện rằng chính quyển lịch Minh Huệ đã phát sáng. Từ đó, ông ấy luôn nói với mọi người rằng quyển lịch Minh Huệ đó có tác dụng trấn tà trừ yêu. Cũng từ lúc ấy, không còn một tiếng động dị thường nào vào ban đêm nữa. Một lần, chồng tôi nói với tôi: “Pháp Luân Công này sờ không được, nhìn không thấy, nhưng luôn đi theo bà như hình với bóng. Tôi cũng làm những điều giống bà để cứu người. Tôi không tu Đạo, nhưng đã ở trong Đạo rồi”. Chồng tôi đã có những trải nghiệm tự thân về sự huyền diệu của Đại Pháp, và cuối năm, ông ấy cũng mang lịch Minh Huệ đến buổi họp lớp để tặng cho những người bạn, gửi lời chúc phúc năm mới đến tất cả mọi người.

Một lần, đồng nghiệp của con dâu tôi nhắc lại những lời phỉ báng Pháp Luân Công của tà đảng. Con dâu tôi lập tức đính chính: “Pháp Luân Công không phải là tà giáo, đó là Giang Trạch Dân nói như vậy. Không có luật nào của quốc gia nói Pháp Luân Công là tà giáo. Những gì Giang Trạch Dân nói không thể đại diện cho luật pháp”. Vị đồng nghiệp hỏi: “Chị cũng tu luyện Pháp Luân Công à?”. Con dâu tôi trả lời: “Tôi không luyện, tôi chưa xứng đáng. Chị nghĩ ai muốn học Pháp Luân Công liền học được sao? Nếu muốn học Pháp Luân Công, còn phải xem chị có phúc phận đó hay không”. Kể từ đó, không ai tại đơn vị của con dâu tôi nhắc lại những lời vu khống của Trung Cộng nữa.

Trước Tết Nguyên Đán năm 2018, Minh Huệ đăng bài: “Lá thư gửi các gia đình của đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục”. Vào đêm giao thừa, sau khi dâng hương cho Sư phụ, trước bữa ăn, tôi đề nghị: “Trước khi ăn, mẹ muốn đọc một bức thư từ Minh Huệ của đồng tu hải ngoại gửi đến các thành viên trong gia đình của đệ tử Đại Pháp”. Cả nhà tôi đều đồng ý. Sau đó, tôi nghiêm túc đọc bức thư, tất cả mọi người đều vỗ tay và bày tỏ lòng biết ơn. Suốt buổi tối hôm đó, chúng tôi nói về những điều tốt lành mà Đại Pháp đã mang đến cho gia đình mình. Năng lượng thuần chính của Đại Pháp tràn ngập khắp căn nhà. Tại đây, thay mặt cho cả gia đình, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đến tất cả các đồng tu hải ngoại vì những phó xuất và sự cảm thông của các bạn đối với các gia đình của đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc. Cảm ơn tất cả mọi người!

Gia đình tôi minh bạch chân tướng và tất cả mọi người đều đắc phúc báo. Chúng tôi đã trải nghiệm vô vàn điều kỳ diệu. Việc học hành của con cái và công việc làm ăn đều thuận lợi. Đại gia đình của tôi có ba đệ tử Đại Pháp trước 20 tháng 7 năm 1999, và bây giờ đã là mười, cả già lẫn trẻ; một số người họ hàng cũng đã bắt đầu đọc sách Đại Pháp và dần dần tiếp xúc với Đại Pháp. Việc tu luyện của chúng tôi đã mang đến thọ ích cho cả gia đình. Chúng tôi minh bạch trong tâm rằng, hết thảy mọi thứ đều là do Sư phụ an bài.

Cảm ơn Chánh Kiến Net đã kêu gọi gửi bài nhân kỷ niệm 20 năm thành lập.

Đệ tử khấu đầu bái tạ Sư tôn.

Cảm ơn sự phó xuất của tất cả các đồng tu hải ngoại.

Cảm ơn sự giúp đỡ của tất cả các bạn đồng tu.

Dịch từ:

https://big5.zhengjian.org/node/271850

https://www.pureinsight.org/node/7718



Ngày đăng: 19-08-2022

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.