Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn tiên tri về sự kiện trọng đại ngày hôm nay (III)

Tác giả: Sử Giám

[Chanhkien.org] Năm 1915 Ất Mão, mặt đất ở tỉnh Sơn Tây đột nhiên nứt ra, hiện xuất bia văn của Lưu Bá Ôn, gồm hai phần, theo thể thơ ngũ ngôn, tổng cộng 148 câu. Ngoài ra còn có vật cống phẩm và «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn từ 550 năm trước đây, tổng cộng 3 quyển. Hai bộ dự ngôn này, tiên tri rất rõ ràng từ thời Thanh mạt đến hiện tại (lúc giao thời thiên niên kỷ) về những đại sự mà xã hội Trung Quốc sẽ phải đối mặt. Vì độ dài bài viết có hạn, nên chúng ta chỉ tuyển chọn những phần có liên hệ mật thiết với sự kiện hiện đang phát sinh tại Trung Quốc ngày nay để giải thích.

Tiếp theo Phần I, Phần II.

*  *  *

Phụ lục: Nguyên văn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn triều Minh

【Quyển nhất

Nam Kinh Thương Thiên phủ sét chấn động hạ một bia, hiện xuất quyển kinh có hai cuốn——«Định Kiếp», «Hiền Bảo» và «Thôi Bi Đồ» nhị quyển, tam quyển dần dần hạ xuống báo ứng nghiệm. Ngay trước mắt, theo chiếu chương, mau đến hành thiện sự, miễn trời trách phạt; giờ nếu không mau, mau hối tiếc, nào ai thoát khỏi mạt kiếp niên? Đến thời sét đánh Nam Hải Phổ Đà sơn đột nhiên hạ xuống một khối bia đá, nhìn ra văn chương quyển kinh; đến lúc này trong Khắc Điền phủ ba người thành tâm tụng, sau rất nhiều người truyền biết, xem đọc sâu sắc, chiếu theo thực hành, thụ ích không lời biểu đạt. Truyền tụng thế này với Mã tri phủ bất tín, mọi cách vu miệt, phỉ báng, chửi mắng, tàn hại; không qua ngày, cả nhà đều chết.

Di Lặc Phật ở lưng trời nói rằng: Thiện tai, thiện tai, mạt niên thời nay, thiên hạ nhân dân mười phần phải thu chín phần, đều là những người có tội không tôn bề trên, bất kính phụ mẫu, ỷ mạnh hiếp yếu, hành ác khinh nghèo, tranh đấu nhỏ nhen, tâm sói tham tài, ức hiếp trung lương, lừa người lấy tiền, giết mổ trâu cày. Di Lặc Phật tại cõi phàm và Thần tướng Hỏa La hạ giới tra xét dân gian; thiện ác có người tụng chân kinh, biết đường hối cải, gọi là quay đầu; người biết chân tướng, gọi là tới bờ, có thể miễn tai họa cả nhà; có người không tin mà làm điều ác, chỉ xem đến năm Hợi, có nhà không người ở, có ruộng không người cày; tháng Ba, Năm ôn thần khắp đất, tháng Tám Chín ác nhân chết sạch. Bằng như hành thiện, hiền lương quân tử, có thể miễn tai họa cả nhà. Thiên hạ có mười sầu lớn: Nhất sầu tật bệnh vô trị; nhị sầu kiền hạn thủy tai, tam sầu ngày đêm bất an; tứ sầu phụ tử bất đoàn viên; ngũ sầu phu thê không gặp mặt; lục sầu xác người chết khắp nơi; thất sầu thây cốt không người liệm; bát sầu áo không người mặc; cửu sầu cơm không người ăn; thập sầu nhà không người ở. Người minh bạch điềm nhiên vô sự; người hồ đồ khó qua năm thái bình; người đi đường chết vô số, trong một vạn chết chín nghìn; không tin quyển kinh này, thập kiếp tại nhãn tiền.

Đến ngày Đông năm ấy, trời giáng mưa giông, sương lớn từ Nam tới Bắc; chúng tu thiện lương dân, ngộ tai! Ngộ tai! Phàm trần có đại nạn này. Nhưng Phật Thích Ca Mâu Ni chưởng quản thiên hạ một vạn ba ngàn năm nay đã mãn, khoanh tay không có cách nào, nhìn trong chùa miếu không có hòa thượng tu Phật, Phật A Di Đà như thế nào? Thấy Cực Lạc ra sao? Ác ma khắp nơi, nhưng Thiên đường Tây phương không có cửa, bách giáo đảo hướng diệt vong, thật quá bi ai. Con cái của mình quay về thế nào? Chỉ ngóng tỳ khưu ni Tây phương, cùng giúp Di Lặc Phật thu thập tàn duyên, hàng ma, diệt yêu chân kinh quang thiên, tử đệ trong nhà từ từ quy thiên, Di Lặc Phật Phật Pháp vô biên, toàn bộ Tây Thiên sinh cơ ngang nhiên. Thừa lệnh Quan Âm hàng thánh trùng sinh và Đông ngục Đại Đế phái Quan, Triệu hai tướng tra xét thiện ác nhân gian; phàm có tâm quỷ quái ẩn giấu mà bất trung bất hiếu, bất tôn kính người trên, có tội ác trùng trùng, thì Uông Lương ôn thần hạ giới, năm đói kém gặp đại kiếp số, lôi kiếp, thủy tai, phong kiếp, tật bệnh, yêu kiếp, quái kiếp. Mà Di Lặc Phật Pháp tử, người người góp đức tích ngọc, đường đường chính chính, cùng tu Di Lặc Phật truyền tam tự, nhân kiến bất nhất, tín giả thiểu, mạ giả đa, thiện ác lưỡng phân thanh, tới tháng Ba năm ấy trừ ác đến nhân gian.

Mạt kiếp niên nhân dân bất an, ngũ cốc năng thu; tháng Ba, Năm ôn thần hạ giới; năm này tật bệnh lạ lùng, đại đa số không thuốc trị được, không thầy thuốc chữa; tháng Năm, Sáu lại có thập đại sầu: nhất, bất thái bình; nhị, Sơn Đông gặp kiếp nạn; tam, Hồ Quảng gặp thủy tai; tứ, Tứ Xuyên khởi lang khói; ngũ, Vân Quý gặp nạn đói; lục, tứ xứ bất an nhiên; thất, có cơm không người ăn; bát, có áo không người mặc; cửu, có đường không người đi; thập, khó qua Dần Mão Thìn Tỵ niên, nếu qua được mấy năm trên, mới là hoạt thần tiên.

Có người bất tín, không tụng kinh Phật Di Lặc, không thuốc trị được, thổ huyết mà chết. Biết được kinh này bảo mệnh, người thực tiễn chân tâm tụng đọc, theo Phật gia an nhiên mừng rỡ vô cùng, chuyển phàm thành Thánh; người không tin không ai còn sống. Thân Đại nhân hỏi có thể cải biến chăng? Thiên Sư đáp rằng: Duy tam tự có thể giải, không tin đợi xem Dần Mão Thìn Tỵ niên. Đến năm người người đều biết tam tự, không cho là đúng, thanh ảnh tề mạ, Thần khóc quỷ khóc, chúng sinh không hiểu làm sao; một kéo, hai kéo, ba kéo, chúng sinh bất tỉnh; qua tháng Tám Chín thấy Tý nguyệt định càn khôn.

【Quyển nhị • Định Kiếp

Như ta nghe nhất thời Phật ở trong cung Ngọc Thanh, cùng thập phương hết thảy Tỳ khưu ni, chư Thiên, chư Phật, Bồ Tát, chư Tổ sư. Tám mươi mốt lớp Thần tiên, Địa tiên, Thánh nhân, Tam giáo Thánh nhân, Lục đại Tổ sư, Nhị thập bát tú, Cửu tinh cung, Tứ đẩu Chân nhân, chư Thiên, chư Tướng nhất thời tập hợp cung Ngọc Thanh. Ngọc Đế Thiên Phật mãn thánh tượng, hết thảy thần linh đều nhất thời tập hợp một nơi,

Tam Thanh Ngọc Đế hỏi: “Bên dưới Nam Hạp Phù Đề oán khí ngút trời, tại sao?”

Thiên Phật đáp: “Thế giới đã tận, Phạm vương vô phúc, địa hổ về sao đây?”

Ngọc Đế hỏi: “Ai có thể hạ giới tái lập nhân luận, chưởng giáo chỉnh lý càn khôn thế giới?”

Ngọc Ưu đáp: “Giờ có Yên Ma vương, Tam giáo Thánh nhân, tranh đoạt càn khôn bất định.”

Ngọc Đế hỏi: “Vì sao người tranh đoạt bất định?”

Thiên Phật đáp: “Đệ nhất Thánh nhân, sinh hạ mang thai 81 năm, chỉ Lý làm họ, hiệu là Lão Quân, đệ nhất Thanh Dương hội; đệ nhị Thánh nhân Sơ phàm Ngọc Đế, hiệu Thích gọi Di Lặc Phật, đệ nhị Hoàng Dương hội; đệ tam Thánh nhân Khổng Khâu giáng sinh, hiệu là Trọng Ni, đệ tam có Nhật Dương hội.”

Ngọc Đế hỏi: “Nay người nào chưởng giáo?”

Thiên Phật đáp: “Thế giới đã tận, mạt kiếp đã đến, chúng sinh chịu khổ não, vạn ma xuất động, không Tam Dương có thể điều hành, tất phải đợi Thượng Thượng Chủ Thánh tới. Ta vừa đợi nơi này vừa giúp từ điệu, ta nói Thượng Thượng Chủ Thánh là Di Lặc Phật sẽ sớm đến. Ngọc Đế thống lĩnh hết thảy thần tiên triều bái, cầu Thượng Thượng Chủ Thánh chưởng lập càn khôn; ta đợi cũng là ý nguyện, cùng giúp cùng đi.”

Ngọc Đế hạ lệnh 72 hiền, 3.000 đồ chúng, Tứ đẩu Chân nhân, Nhị thập bát tú, Cửu tinh cung, 81 lớp Chân nhân, Lục đại Tổ sư, 500 La Hán, 92 Thiên tiên, chư Thiên, chư Tướng, Tứ thánh cửu phàm, hết thảy thánh tượng đi trước.

Cũng bởi càn khôn bất định, hết thảy chúng sinh không biết chân Pháp của Thượng Thượng Chủ Thánh, Di Lặc Phật đau xót bi ai nói: “Ta đi xuống dưới, chúng sinh khó điều, khó trị, chỉ là điên đảo, chẳng thể quay đầu, kẻ ác thì nhiều, người thiện thì ít, khó hàng phục.”

Ngọc Đế nói: “Chủ Thánh Ngài hạ xuống dưới không cần lo âu; hiện tại có 72 hiền, 3.000 đồ chúng, 81 lớp Chân nhân, 62 Thiên tiên, Nhị thập bát tú, Lục đại Tổ sư, 500 La Hán, Cửu tinh cung, chư Thiên, chư Tướng, Tứ thánh cửu phàm, Tứ hương bát quốc trước tiên hạ xuống thấu hư đi; còn có Văn Thù, Phổ Hiền, nhị Đại Bồ Tát làm bạn.”

Có kệ rằng: Ngọc Đế khích lệ mãi, Di Lặc thống bi ai, Thiên y vừa thoát bỏ, Thấu hư hàng phàm thai.

Phục Hựu nói: “Ngọc Đế tiễn Di Lặc lấy gì làm bảo vật chưởng lập càn khôn, trùng lập nhân duyên?”

Ngọc Đế đáp: “Ta và Ngài định kiếp đi xuống chưởng lập càn khôn, thu thập tàn duyên, còn có chiêu hiền, tụ bảo thường lấy chiếu nghi, thu nguyên Bắc cực Tử vi Đại Đế, hiện lĩnh Nhị thập bát tú, Cửu tinh cung, sâu mãi dưới đất Tần Châu; như có tranh giành bất định, duy Chủ Thánh mới có chân Pháp cứu tế nhân duyên và con cái xa quê. Ngài phải đi thôi, những đứa con xa quê đã tới mạt kiếp niên, nhiều người gặp tam tai nhân nạn, chịu nỗi khổ địa ngục; sau đó Hồ nhân tranh đoạt giang sơn xã tắc bốn mươi năm chưa định can qua, tận tẩy con cái xa quê, binh mã tận hành, Đông phương Tây lạc, cùng Nam Bắc giao hoán, lập thế giới khác. Chín gái tranh chồng, trâu trắng cày ruộng, phá núi tận đỉnh, sửa thành chữa trại, đốn chặt cây cối, đày đọa chúng sinh, quốc gia bất chính, cha giết con, con giết cha, quân không quân, thần không thần, giặc cướp khắp nơi, thiên hôn địa ám, nhật nguyệt bán minh, chính là mạt kiếp niên. Người thập phương chết tám chín còn lại một, đều là hiền lương quân tử, chính là người hành thiện.

Di Lặc Phật từ Thiên nói rằng: “Sau khi ta tự mình truyền tam tự tam Pháp, tất vạn pháp quy nhất, Pháp chính càn khôn, không lập nhân luận, vĩnh bất hồi thiên.” Lễ rồi thấu hư mà đi. Phàm thân Mộc Tử làm họ. Lúc ấy Nam Hạp Phù Đề trung thiên Trung Quốc mới có thiện nam tín nữ lễ bái tam tự Phật bảo, chân tâm kính ngưỡng tín tâm bất thoái, người thành tâm thực tiễn chuyển phàm thành Thánh, chúng sinh bất tín.

Sau có kệ rằng: Tam Thanh Ngọc Đế khích lệ mãi, Nghe tiếng Thiên Cung sắp an bài. Năm ấy phải? Long Hoa hội, vĩnh bảo thượng thiên thất bảo đài. Di Lặc Phật thống bi ai, Rời khỏi Thiên Cung chuyển phàm thai, Ngày nào mới trở lại?

Lúc ấy Di Lặc Phật thấu hư đến Nam Hạp Phù Đề thế giới trung thiên tại Trung Quốc Kim Kê mục, phụng Ngọc Thanh thời niên kiếp tận, Long Hoa hội Hổ, Thỏ chi niên đến trung thiên, nhận Mộc Tử làm họ. Tại hai mươi đất trên tám nước các nơi có chỗ ở, Ngọc Thanh Nhị thập bát tú hàng phàm trên đất Tần Châu, bảo hộ Bắc cực Tử vi Đại Đế kế tục, có 72 hiền, 3.000 đồ chúng, 81 lớp Chân nhân, Lục đại Tổ sư, tại trung thiên Trung Quốc, chỉ đợi đến năm thu thập tàn duyên. Long Hoa tam hội cùng giúp mà đến.

Khi ấy Di Lặc Phật nói: “Thiện tai! Thiện tai! Thiện nam tử, tín nữ tử, ta truyền tam tự tam Pháp, chính là Phật tam bảo, còn có trường sinh lưỡng ngọc, lại có ba mươi sáu cái Phật bảo, một bước đến nơi, không cầu khẩu hư, chỉ cầu chân tâm thực tiễn. Ắt thấy được huyền diệu, mãi được trường sinh, tất đắc chính quả, chuyển phàm thành Thánh, mãi thoát khổ hải. Không tin lời Pháp của ta, gặp thập chủng ác nghiệp, sớm bệnh chiều chết. Nghe tam bảo tất sinh kẻ phỉ báng, nhân thân bất đắc, vạn kiếp khó phục nhân đạo.”

Sau có kệ rằng: Di Lặc Phật thệ hồng thâm, Gấp tới hàng phàm trung thiên. Như ta nói lời cuồng ngữ, Vĩnh bất hồi quy Thiên Cung.

Lúc ấy Di Lặc Phật nói: “Thiện tai! Thiện tai! Tự chúng sinh không hành thiện, hủy báng tam bảo, thường sinh tâm tật đố, đến năm ấy tất có nỗi khổ hạ địa ngục, cầu không được nơi an lạc. Cha Nam con Bắc, ngươi Đông ta Tây, chịu không hết nỗi khổ não; nếu như không tin Pháp của ta, tận số mà chết, không thuốc trị được, chỉ có nghe lời Pháp này, người chân tâm thực tiễn, mới có thể giải thoát, không còn ưu khổ. Ác nhân chạy trốn gặp báo ứng, trong ngục giữ bảo, người tín tâm bất thoái, ta thân lĩnh về thiên quốc mười phương. Đã là người thập ác, chỉ cần quay đầu, ta đều cứu độ. Nhưng chúng sinh bất tín, đến năm ấy tất có can qua tứ khởi, đau xót bi thương, phản loạn thế giới; tu Thiện lương dân, chớ có phiền muộn.”

【Quyển tam • Hiền Bảo

Lúc ấy Di Lặc Phật, tại thập phương bách quốc, trên hai mươi đất lại dùng ba mươi sáu cái Phật bảo đi khắp tứ hải ngũ châu, cứu độ chúng sinh. Toàn bằng Phật bảo thu thập người tàn duyên. Sớm sớm thu thập ba người đầu, bởi thế giới thập ác, bách giáo mất hiệu lực. Di Lặc Phật nói: “Hiện nay vạn ma nắm quyền, càn khôn bất chính, không Pháp của ta không hồi thiên đình, chúng sinh nhớ lấy! Nhớ lấy! Thiện tai! Thiện tai! Quay đầu là bờ. Như chúng nhân không tin lời ta, rơi vào cửa tử, thây chất như núi, vạn kiếp khó phục nhân đạo”. Nhưng chúng sinh bất tín, sau có kệ rằng:

Đến năm Giáp Tử mấy người minh, Chuyển lập càn khôn tạo hóa cơ, Nhâm Thìn Quý Tỵ là căn nguyên, Giáp Tử xa xôi tới trung thiên, Nếu gặp Canh Tý cùng ngôi Tý, Trời tặng Chân nhân mấy người minh, Đến năm hạn mãn cùng tụ hội, Nhị thập bát tú hiển thần uy, Nếu gặp năm ấy Thiên đường thấy, Được giúp để đưa tới trung thiên, Lập lại càn khôn cải thế giới, Đầu trâu đuôi hổ định căn nguyên. Giáp Ất Bính Đinh là sơ phân, Nhâm Tý Quý Sửu định nhân luân, Nếu gặp ngôi Tý sấm lôi hỏa, Mãi giữ thế giới đổi càn khôn, Canh Tý Tân Sửu là căn nguyên, 73 hiền lại cùng đoàn viên, Nhị thập bát tú tới tụ hội, Cùng giúp để đưa tới trung thiên, Nhâm Thìn Quý Tỵ hiển thần linh. Lã Công kinh thư xứ xứ tụng. Mười tám hài nhi tới tụ hội, Mão hạ Kim đao tụ nhân duyên. Quân trường Mộc Tử gọi Lưu Lang, Được giúp để đưa tới trung hương. Lã Công gọi tên những ai nhỉ, Dựa trên công quả định cao cường. Trời tặng Chân nhân mấy người minh, Âm Dương thành tựu chuyển thiên cơ, Tám mươi mốt lớp cùng bang trợ, Thu duyên kết quả tọa liên trì.

Chúng sinh vẫn cứ bất tín, chửi mắng, phỉ báng, hoành thiên tảo địa, người tin phải chịu nỗi khổ bị lưu đày giam ngục; không đến tháng Tám năm ấy, ôn thần giáng xuống, người trên mặt đất mười phần chết chín, kẻ ác thập đạo không còn sót ai. Nhưng chúng sinh lại càng bất tín. Sau có kệ rằng:

Đầu trâu đuôi chuột vẩy họa tai, Sớm bệnh chiều chết thật bi ai, Có người thu được Thiên Phật bảo, Long Hoa phù hộ thấy tương lai, Ngọc Đế hạ xuống thấy linh văn. Cả nhà già trẻ được bình an, Thiên Phật linh văn thật khó phai, Lưu truyền đời sau cứu bi ai, Nếu người gặp được linh văn bảo, Cầu đắc trường sinh lưỡng ngọc lai. Ngọc Tiêu linh văn thế gian hiếm, Miệng giấu Nam Bắc và Đông Tây. Ba mươi sáu đạo che luân kiếm, Mười hai địa thượng tổng thiên cơ. Ngọc Đế linh văn hàng hạ lai, Di Lặc kêu gọi cứu Hoàng thai.

Văn này đều là Thiên Phật bảo, Không phải nhất thời mà làm ra. Nhâm Thìn Quý Tỵ phụng thiên sai, Tam Thanh hạ xuống tấu văn lai. Tứ hương bát quốc cùng kêu khắp, Thu thập tàn duyên tụ Hoàng thai. Linh văn độ tựa thấu thiên cơ, Được miễn tai nạn lại đắc tri. Trong ngục giữ văn không để mất, Mười năm hạn mãn tọa liên trì. Ba mươi sáu cái chân Phật bảo, Phật ta thành Đạo tựa linh văn. Kim tỏa Mộc lan không thấu gió, Vượt thiên chuyển địa Thần tiên Pháp. Lập lại càn khôn cải thế giới, Linh văn báu này thay Âm Dương, Ba mươi sáu chiếc linh văn bảo, Chu thiên chuyển địa là bạch dương. Kiếp hóa bạc thành bảy trăm lý, Dựa trên công quả định cao cường.

Sau đó Di Lặc Phật giảng Pháp tam bảo, đồng thời truyền xuất ba mươi sáu cái bảo vật, đợi đến khi Tử vi Đại Đế đăng cơ, ai thu đủ ba mươi sáu cái Phật bảo gọi là hiền lương quân tử; người thiên hạ chân tâm chiêm ngưỡng cung kính, lễ bái thực hành tam bảo, không được thờ ơ; nếu không đến năm hạn mãn đã hết, mới biết Nhâm Thìn Quý Tỵ con cái xa quê trở về Thiên hương. Biết chúng sinh bất tín, sau lại có lưỡng khẩu thu thập tàn duyên. Lưỡng khẩu là thầy dạy, mở cứu nỗi khổ tam tai bát nạn, Mão Kim đao lưu duyên, chúng sinh bất tín, sau có kệ rằng:

Di Lặc thống bi ai, Thệ nguyện cứu Hoàng thai, Hạn mãn thời niên đến, Đều lên tọa liên đài. Lã Công công lao đại, Thệ nguyện cứu tương lai, Cùng dự liên trì hội, Dạy cho tụ Hoàng thai. Kim đao thu tàn duyên, Nhất thời đến trung thiên, Không đợi Kim Kê gáy, Trời sáng bái quân vương. Khuôn mặt tiêu ngọc bạc, Tử du miễn khám bài, Tử hạ đề tên gọi, Tử thai phân Hoàng thai.

Khi ấy Di Lặc Phật, Pháp chính càn khôn, lực trảm quần ma, trừ ác tới trung thiên, chỉ e chúng sinh không tin, sau có kệ rằng:

Thiên Phật linh văn thế gian ít, Cùng hạ Phù Đề mấy người tri, Tam Thanh Ngọc Đế tấu văn đến, Cầu Di Lặc Phật thu chúng mê. Sau có ba sáu cái Phật bảo, Lập lại càn khôn cải Hoa di.

Tức thì Pháp tử, kim cương bất động, kiên thủ Phật Pháp, chỉ đợi Kim Kê khiếu, trời sáng thiên môn khai; năm Tỵ qua Sửu đầu Dần, Kim Kê tỉnh lại gáy là trời hửng sáng, toàn bộ Trung Hoa Đại Địa Kim Kê đứng thẳng, tứ hương quy về Thần Châu Lục xuất Chân Thần. Đây chính là Thần an bài địa hình trung thiên Trung Quốc Kim Kê thiếu mất một chân, luôn không thể đứng thẳng, phải muốn được thống nhất; ác nhân trước diệt tận, càn khôn lại đổi mới. Tử vi ngồi Đại Đế, thập phương bách quốc Pháp Luân huy, khắp trời mừng vui, thời hạn mãn. Pháp tử quy thập phương thiên quốc, người quay đầu làm người trên đất, người tới bờ, cùng lên chùa mười vạn tám ngàn, khi ấy Di Lặc Phật ở giữa cười vui vẻ. Pháp tử trên mặt đất còn muốn hỏi thiên cơ, Di Lặc Phật nói: “Không thể nói, không thể nói.”

(Hết)

Dịch từ:

http://renminbao.com/rmb/articles/2005/3/9/34857.html