Tác giả: Vi Tri
[ChanhKien.org]
Vào buổi sơ khai của lịch sử nhân loại, các dân tộc trên toàn thế giới đều không hẹn mà cùng có truyền thuyết về việc Thần tạo ra con người. Sau đó, “Đại hồng thủy” đã tấn công nhân loại và trở thành ký ức đau khổ chung của toàn thế giới. Nhưng cùng với sự phát triển của khoa học nhân loại, thần thoại và truyền thuyết đã trở thành những câu chuyện nghìn lẻ một đêm và những câu chuyện hư cấu trong ngữ cảnh của con người hiện đại, và giờ đây nó rơi vào một tình huống ngượng ngập chỉ được người ta nhắc đến khi dỗ trẻ con ngủ.
Thực tế, khi chúng ta đối xử với chúng bằng tâm thái cởi mở và bao dung hơn cùng thái độ khoa học chặt chẽ, không khó để nhận thấy rằng lượng thông tin khổng lồ chứa đựng trong thần thoại cổ đại không hề xung đột với lý niệm của khoa học, thậm chí những tiến triển và phát hiện của khoa học đều là đang kiểm chứng cho thần thoại và truyền thuyết cổ xưa.
Biển xanh hóa thành ruộng dâu
Cát Hồng có kể một câu chuyện thú vị trong “Thần tiên truyện”. Vào thời nhà Hán, Thần tiên Vương Viễn thấy Thái Kinh có cốt tiên nên có tâm muốn độ ông ta, bèn cưỡi năm con rồng đến nhà Thái Kinh. Sau khi Vương Viễn gặp người nhà Thái Kinh, bèn sai người mời Tiên nữ Ma Cô. Một lát sau, sứ giả trở về bẩm báo rằng Tiên nữ Ma Cô đang phụng mệnh đi thị sát Bồng Lai và sẽ đến dự tiệc sau khi xong việc.
Hai canh giờ sau, Tiên nữ Ma Cô quả nhiên đến dự tiệc. Vương Viễn thiết đãi Tiên nữ Ma Cô những món ngon của Tiên giới. Tiên nữ Ma Cô cảm khái nói: “Kể từ lần trước sau khi gặp ngài, ta đã tận mắt thấy Đông Hải biến thành ruộng dâu ba lần rồi. Ta vừa nãy đến Bồng Lai, nước ở đó chỉ còn chưa bằng một nửa so với khi đại hội quần tiên năm xưa, lẽ nào lại phải biến thành sơn lăng lục địa sao?” Vương Viễn cười nói: “Thánh nhân thời xưa cũng từng nói cát bụi sẽ tung bay trong biển”.
Tôi tin rằng bất kỳ ai đọc câu chuyện này đều rất khâm phục “trí tưởng tượng” của Cát Hồng, nhưng trên thực tế, việc biển cả biến thành ruộng dâu không phải là thần thoại truyền thuyết gì, mà là sự việc đã được khoa học hiện đại xác nhận.
Như chúng ta đã biết, có hai lý luận quan trọng trong địa lý học hiện đại: thuyết trôi dạt lục địa và thuyết tách giãn đáy đại dương. Nói một cách đơn giản, bản khối đại lục luôn di chuyển với tốc độ rất chậm. Theo dịch chuyển của thời gian, lục địa đã từng biến thành đại dương, và đại dương cũng trở thành đất liền.
Theo lý luận và suy đoán của các nhà khoa học, dãy Himalaya cao nhất thế giới cách đây 30 triệu năm vẫn là một đại dương mênh mông, dưới sự vận động và dồn ép của các bản khối đại lục mới dần dần hình thành nên những đỉnh núi như ngày nay. Mãi cho đến nay, dãy Himalaya vẫn không ngừng “sinh trưởng”.
Không chỉ vậy, người ta còn phát hiện ra nhiều công trình kiến trúc cổ đại dưới đáy biển. Ví dụ, ở cực Nam Đảo Yonaguni thuộc Quần đảo Ryukyu của Nhật Bản, người ta đã phát hiện ra kiến trúc có kết cấu hình vuông bị san hô che phủ và những bậc bằng phẳng có góc cạnh cực lớn cùng với hình dạng như đường phố, cầu thang và mái vòm. Theo khảo sát của nhóm khảo sát khảo cổ đáy biển thuộc Đại học Ryukyu, dọc theo đáy biển từ phía Đông Nam Đảo Ishigaki đến bờ biển phía Đông và phía Tây, nhiều kiến trúc bậc đá, lỗ trụ, tượng đầu người, mái vòm, các công cụ bằng đá và các tác phẩm điêu khắc hình rùa biển có đồ hình v.v. đã được phát hiện.
Năm 2001, các nhà hải dương học cũng phát hiện ra hai di chỉ thành cổ nằm sâu 36 mét dưới mặt nước ở Vịnh Cambay ngoài khơi bờ biển phía Tây Ấn Độ. Hiển nhiên, những di chỉ này khẳng định đã được xây dựng trước khi chìm xuống đáy biển. Nếu như dựa theo học thuyết trôi dạt lục địa để suy đoán, những công trình kiến trúc từ từ chìm xuống đáy biển này phải trải qua một thời gian cực kỳ dài. Vì vậy, chuyện Đông Hải ba lần biến thành ruộng dâu xem như là thần thoại, là chuyện hoang đường, nhưng chúng hoàn toàn phù hợp với các lý luận khoa học ngày nay.
Nhưng điều này lại dẫn đến một câu hỏi mới xuất hiện, nếu đây là một nghiên cứu khoa học tiên tiến hiện đại, làm thế nào Cát Hồng lại biết được điều này từ hơn một nghìn năm trước? Trên thực tế, bỏ qua các khái niệm hiện đại, các ghi chép lịch sử đã giải thích tất cả mọi thứ. “Cát Hồng ngồi đến trưa, rồi đột ngột qua đời như đang ngủ. Nhạc đến, vì thế không kịp gặp mặt. Năm đó ông 81 tuổi. Nhìn sắc mặt ông như người sống, thân thể mềm mại. Đưa thi thể vào quan tài, rất nhẹ, như một cái áo không. Người đời cho rằng ông đã dùng phép thi giải thành Tiên” (Tấn Thư). Như vậy xem ra, Cát Hồng thi giải thành Tiên, thông hiểu chuyện cổ kim và tương lai, cũng không có gì đáng ngạc nhiên.
Một ngày trên trời, nghìn năm mặt đất
Có một đoạn truyền thuyết kể rằng, vào triều Tấn, có một tiều phu tên là Vương Chất, một hôm lên núi Thạch Thất ở huyện Tín An đốn củi. Ông thấy một cậu bé và một ông lão đang chơi cờ vây bên bờ suối, ông bèn đặt rìu xuống bên cạnh, đứng nhìn xem. Đứng xem hồi lâu, cậu bé nói với ông: “Sao ông vẫn chưa về nhà?” Vương Chất bèn đứng dậy lấy rìu, nhưng ông vừa nhìn cái rìu, thấy cán rìu đã mục ruỗng rồi. Vương Chất cảm thấy vô cùng kỳ lạ. Làm sao sau một ván cờ mà cái rìu lại mục được? Sau khi trở về làng, ông thấy cả làng đều đã thay đổi, toàn là những gương mặt xa lạ. Còn những chuyện ông kể ra, những người già đều nói là chuyện của mấy trăm năm trước.
Huyện Tín An này chính là Cù Châu của Chiết Giang ngày nay, nơi đó vẫn còn lưu truyền truyền thuyết này. Một ngày phương trời, nghìn năm mặt đất, thoạt nghe có vẻ vô lý. Nhưng, những hiện tượng trái ngược với lẽ thường này lại có một cái tên rất nổi trong giới khoa học – thuyết tương đối.
Năm 1905, nhà vật lý học thiên tài Einstein đã đề xuất thuyết tương đối hẹp. Ông cho rằng thời gian và không gian có mối liên hệ tương hỗ với nhau. Chúng cùng nhau tạo thành “thời không”, và tốc độ ánh sáng được đo bởi người quan trắc trong bất kỳ hệ quán tính nào đều là cố định không thay đổi, cũng chính là nguyên lý bất biến của tốc độ ánh sáng. Thuyết tương đối cũng đề xuất hiệu ứng “Sự giãn nở của thời gian” và “Sự co ngắn chiều dài”. Nói cách khác, thời gian của một vật thể chuyển động sẽ trở nên chậm lại và độ dài sẽ ngắn lại. Cũng chính là nói, nếu tốc độ chuyển động của vật thể càng nhanh, thì thời gian của nó càng kéo dài. Lý luận này đối với hầu hết những người không nghiên cứu vật lý học mà nói, quả thực khó mà lý giải, nhưng nó xác thực đã được chứng minh bằng các thí nghiệm khoa học.
Năm 1915, dựa trên cơ sở của thuyết tương đối hẹp, Einstein đã công bố thuyết tương đối rộng, dẫn nhập vào khái niệm trường hấp dẫn, cho rằng trọng lực mà chúng ta thông thường biết đến, cũng chính là lực vạn vật hấp dẫn mà Newton định nghĩa, thực ra không phải là một loại “lực”, mà là một loại hiệu ứng thời không. Trong trường trọng lực, thời không sẽ bị bẻ cong, và cả thời gian lẫn không gian đều sẽ phát sinh thay đổi.
Lý luận này đã phá vỡ ấn tượng cố hữu của con người rằng thời gian là cố định và bất biến. Có thể nói nó là cách giải thích khoa học tốt nhất cho câu “một ngày trên trời, nghìn năm mặt đất”.
Biến đá thành vàng
Biến đá thành vàng là một thuật Thần Tiên rất quen thuộc với mọi người. Chỉ cần một cú chạm tay, một mảnh đá vỡ sẽ ngay lập tức biến thành cục vàng có giá trị không nhỏ. Đây có lẽ là siêu năng lực mà nhiều người hiện đại hằng mơ ước.
Theo các lý luận khoa học hiện đại, đem cục đá biến thành vàng chính là một loại vật chất chuyển hóa thành một loại vật chất khác, và làm một nguyên tố biến thành một nguyên tố khác. Về lý thuyết, chỉ cần thay đổi hạt nhân nguyên tử của nguyên tố là có thể thực hiện được. Khoa học hiện đại đã thực hiện được điều này. Chỉ cần sử dụng neutron tốc độ cao để va chạm vào một nguyên tố có số proton lớn hơn vàng, nguyên tố đó có thể bị phân tách ra và từ đó biến thành vàng, chỉ có điều, vàng và các nguyên tố phóng xạ khác được trộn lẫn với nhau, và chi phí để phân tách chúng quá cao, nhưng khoa học hiện đại dù sao vẫn có thể thực hiện được kỹ thuật “biến đá thành vàng”.
Điều trùng hợp là, Đạo gia thường dùng nguyên liệu là thủy ngân và chì để luyện đan, mà số proton trong thủy ngân và chì đều lớn hơn vàng. Số proton trong thủy ngân và số proton của nguyên tố vàng chỉ chênh lệch một đơn vị. Nói cách khác, chỉ cần bắn phá một proton, thì có thể biến thủy ngân thành vàng.
Đương nhiên chắc chắn có người sẽ nói rằng điều kiện để bắn phá hạt nhân nguyên tử là vô cùng ngặt nghèo, lò luyện đan thông thường căn bản không thể đạt đến nhiệt độ này. Đúng là như vậy, nhưng luyện đan cũng không phải là một thí nghiệm khoa học trong phòng thí nghiệm, mà là chân chính tu luyện, người tu luyện trong quá trình tu luyện, thân thể sẽ tích trữ một lượng lớn vật chất cao năng lượng. Khi luyện đan, năng lượng trong thân thể người luyện công cũng sẽ tham dự vào đó.
Vào những năm 1970 và 1980, chính vào khi cơn sốt khí công bùng nổ ở Trung Quốc đại lục, nhiều hiện tượng khí công đã được các nhà khoa học hàng đầu Trung Quốc lúc bấy giờ xác nhận. Ví dụ, Tiền Học Sâm đã nhận ra rằng người tu luyện khí công có thể cải biến một số đặc tính của các lạp tử vi quan: “Nghiên cứu tính cơ lý, tức là nghiên cứu nền tảng của lý luận, Lục Tổ Manh của Đại học Thanh Hoa đã chứng minh thành công nghiên cứu về ngoại khí của khí công có ảnh hưởng đối với kết cấu của phân tử nước, ngoại khí có thể ảnh hưởng đến kết cấu của phân tử, tức là liên kết hóa học của phân tử và sự phân bố đám mây điện tử, điều này cho thấy bản chất của ngoại khí có thể vẫn là sóng điện từ”. (Bàn về khoa học nhân thể và kỹ thuật hiện đại).
Nếu các khí công sư hoặc người tu luyện khí công có thể dùng vật chất cao năng lượng của chính mình để thay đổi bản chất của vật chất, vậy thì thuật biến đá thành vàng và thuật luyện đan mà người xưa thường nói rõ ràng là có cơ sở.
Kết luận
Thực ra, khoa học và thần thoại vốn không có ranh giới, thậm chí các lý niệm của chúng còn tương thông với nhau, nhưng rất nhiều người bảo thủ tự cho mình là đúng lại cố tình chia cắt chúng. Nếu không, tại sao các nhà khoa học vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại như Newton, Einstein, v.v. đều là những người tín Thần và Sáng Thế Chủ? Và sự đột phá thực sự của khoa học tất đòi hỏi nhân loại phải có trí tuệ và dũng khí dám phá vỡ khuôn khổ khoa học hiện có. Nếu không như thế, các lý luận khoa học không cách nào tiến về phía trước. Và những Thần ngôn, Thần tích có lẽ sẽ là một con đường có thể dẫn dắt nhân loại bước lên Đại Đạo ở duy độ khoa học cao hơn.