Dự ngôn tinh phẩm: «Hoàng Bá thiền sư thi»

Tác giả: Mộc Tử

“Lão tăng từ giờ thôi lắm miệng, Việc sau còn phải hỏi người sau”. (Ảnh: Getty Images)

[Chanhkien.org] Giới thiệu: Bài thơ dự ngôn «Thiền sư thi» của cao tăng Hoàng Bá đời Đường có tổng cộng 14 khổ thơ, tiên tri chính xác rất nhiều sự kiện lịch sử từ khi triều Minh diệt vong một mạch cho tới hiện tại. Đặc điểm của nó là lấy chính quyền và các Đế vương làm chủ tuyến sáng tác.

*  *  *

Sau đây là phần giải nghĩa:

Khổ 1

Nhật nguyệt lạc thời giang hải bế,
Thanh viên tương ngộ phán hưng vong.
Bát ngưu vận hướng Điền Kiềm tận,
Nhị cửu đan thành kim cốc tàng.

Tạm dịch:

Nhật nguyệt thời suy sông biển bế,
Vượn xanh gặp gỡ phán hưng vong.
Tám trâu vận tới Điền Kiềm hết,
Hai chín thành đan trữ lúa vàng.

Giải: “Nhật nguyệt thời suy sông biển bế”: “nhật nguyệt” (日月) là chữ “Minh” (明). Triều Minh diệt vong, triều Thanh tiến nhập thời kỳ bế quan tỏa cảng. Chữ “thanh” (青) {màu xanh} với chữ “Thanh” (清) {triều Thanh} là đồng âm [qīng].

“Vượn xanh gặp gỡ phán hưng vong”: “vượn xanh” là năm 1644 Giáp Thân, Hoàng đế Thuận Trị triều Thanh tiến vào Bắc Kinh. Giáp thuộc Mộc, Mộc đối ứng với màu xanh.

“Tám trâu vận tới Điền Kiềm hết”: “bát ngưu” {tám trâu} (八牛) là chữ “Chu” (朱), Hoàng đế Vĩnh Lịch Chu Do Lang bị Ngô Tam Quế thắt cổ ở Vân Nam.

“Hai chín thành đan trữ lúa vàng”: Thuận Trị tại vị 18 năm (=2×9) thì xuất gia làm hòa thượng.

Khổ 2

Hắc hổ đương đầu vận tế khang,
Tứ phương kham định tịnh thùy thường.
Đường Ngu dĩ hậu vô tư thịnh,
Ngũ ngũ hoàn kiêm lục lục trường.

Tạm dịch:

Hổ đen đứng đầu vận đương khang,
Bốn phương bình định sạch bóng dáng.
Noi tiếng Đường Ngu vô tư thịnh,
Năm năm sáu sáu gấp đôi trường.

Giải: “Hổ đen đứng đầu vận đương khang”: chỉ năm 1662 Nhâm Dần, năm Hổ, Khang Hy chấp chính. Nhâm thuộc Thủy, Thủy ứng với màu đen.

“Bốn phương bình định sạch bóng dáng”: bình định bốn phương, quốc gia thanh bình.

“Noi tiếng Đường Ngu vô tư thịnh”: từ thời Đường Ngu (Vua Nghiêu) trở đi chưa có thịnh thế như vậy.

“Năm năm sáu sáu gấp đôi trường”: “năm năm” (5×5) là 25, “sáu sáu” (6×6) là 36, Khang Hy tại vị 61 năm (=25+36).

Khổ 3

Hữu nhất chân nhân xuất Ung Châu,
Tiêu liêu nguyên thượng sử nhân sầu.
Tu tri thâm khắc phi thường pháp,
Bạch hổ giai phùng tuế nhất châu.

Tạm dịch:

Có một chân nhân xuất Ung Châu,
Hồng tước bên trên khiến người sầu.
Cần biết sâu sắc phi thường pháp,
Hổ trắng ôi gặp tuổi một châu.

Giải: “Có một chân nhân xuất Ung Châu”: chỉ Ung Chính mộ Đạo.

“Hồng tước bên trên khiến người sầu”: Ung Chính cá tính nghiêm khắc.

“Cần biết sâu sắc phi thường pháp”: pháp trị rất hà khắc.

“Hổ trắng ôi gặp tuổi một châu”: Khang Hy qua đời năm 1722 Nhâm Dần, năm Hổ, Nhâm Dần thuộc Kim, Kim ứng màu trắng. Ung Chính tại vị 12 năm (1723-1735), một “châu” {vòng} địa chi là 12 năm.

Khổ 4

Càn quái chiêm lai cảnh vận long,
Nhất bàn lục giáp tổ tôn đồng.
Ngoại nhướng sơ độ trù biên sách,
Nội thiền vô tàm thái cổ phong.

Tạm dịch:

Quẻ Càn bói được cảnh vận long,
Giống như lục giáp ông cháu đồng.
Bài ngoại ngày sinh trù quyết sách,
Trong thiền không thẹn với cổ phong.

Giải: “Quẻ Càn bói được cảnh vận long”: chỉ thời cai trị thịnh thế của Càn Long.

“Giống như lục giáp ông cháu đồng”: lục giáp là 60 năm, Càn Long tại vị 60 năm (1735-1795), không dám vượt qua tổ phụ Khang Hy.

“Bài ngoại ngày sinh trù quyết sách”: Chính sách đối ngoại rất thành công.

“Trong thiền không thẹn với cổ phong”: cuối đời theo thiền.

Khổ 5

Xích long thụ khánh sự kham gia,
Na phạ liên trì khai bạch hoa.
Nhị thập ngũ huyền đàn dị tận,
Long lai long khứ bất phùng xà.

Tạm dịch:

Rồng đỏ được mừng việc khánh chúc,
Lo gì ao sen nở bạch hoa.
Hai lăm dây đàn gẩy dễ hết,
Rồng đến rồng đi không gặp xà.

Giải: “Rồng đỏ được mừng việc khánh chúc”: năm 1796 Bính Thìn, năm Rồng, Gia Khánh lên ngôi. Bính thuộc Hỏa, Hỏa ứng màu đỏ.

“Lo gì ao sen nở bạch hoa”: không sợ Bạch Liên giáo tác loạn.

“Hai lăm dây đàn gẩy dễ hết”: Gia Khánh tại vị 25 năm.

“Rồng đến rồng đi không gặp xà”: năm 1820 Canh Thìn, năm Rồng, Gia Khánh bệnh chết.

Khổ 6

Bạch xà đương đạo mạn đằng quang,
Tiêu cán cần lao nhất thế mang.
Bất hạnh anh hùng lai hải thượng,
Vọng dương tòng thử thán dương dương.

Tạm dịch:

Rắn trắng cầm quyền khắp nơi sáng,
Thức khuya dậy sớm cả đời mang.
Anh hùng bất hạnh tới trên biển,
Trông biển từ đây thán mênh mang.

Giải: “Rắn trắng cầm quyền khắp nơi sáng”: năm 1821 Tân Tỵ, năm Rắn, Đạo Quang lên ngôi. Tân thuộc Kim, Kim ứng màu trắng.

“Thức khuya dậy sớm cả đời mang”: chiến tranh Nha Phiến, việc nước gian nan.

“Anh hùng bất hạnh tới trên biển”: cường quốc từ đường biển tiến vào Trung Quốc.

“Trông biển từ đây thán mênh mang”: Trung Quốc từ nay càng cảm thán đối với biển.

Khổ 7

Hợi thỉ vô ngoa nhị quái khai,
Tam tam lưỡng lưỡng tổng kham ai.
Đông Nam vạn lý hồng cân nhiễu,
Tây Bắc thiên quần bạch mạo lai.

Tạm dịch:

Hợi lợn không sai hai quẻ khai,
Ba ba hai hai thật bi ai.
Đông Nam vạn dặm loạn khăn đỏ,
Tây Bắc ngàn bầy mũ trắng tới.

Giải: “Hợi lợn không sai hai quẻ khai”: “Hàm”, “Phong” là tên hai quẻ trong 64 quẻ «Kinh Dịch».

“Ba ba hai hai thật bi ai”: Hàm Phong tại vị (3+3+2+2=) 10 năm (1851-1861), việc nước không thuận.

“Đông Nam vạn dặm loạn khăn đỏ”: Đông Nam có loạn Thái Bình Thiên Quốc.

“Tây Bắc ngàn bầy mũ trắng tới”: Tây Bắc có biến cố dân tộc Hồi.

Khổ 8

Đồng tâm tá trị vận trung hưng,
Nam Bắc phong yên nhất tảo bình.
Nhất kỷ cương chu Dương nhất phục,
Hàn băng không tự chiến cảng cảng.

Tạm dịch:

Đồng lòng giúp trị vận phục hưng,
Nam Bắc khói lửa sớm dẹp xong.
Một vòng kỷ cương Dương trở lại,
Băng lạnh không từ rét căm căm.

Giải: “Đồng lòng giúp trị vận phục hưng”: thời cai trị phục hưng của Đồng Trị.

“Nam Bắc khói lửa sớm dẹp xong”: Thái Bình Thiên Quốc và biến cố dân tộc Hồi được bình định.

“Một vòng kỷ cương Dương trở lại”: tại vị 13 năm (1861-1874), một vòng 12 năm cộng thêm 1.

“Băng lạnh không từ rét căm căm”: loạn trong giặc ngoài.

Khổ 9

Quang mang thiểm thiểm kiến tai tinh,
Thống tự bàng diên tín hữu bằng.
Tần Tấn nhất gia nhưng đỉnh túc,
Hoàng viên vận ngột lực nan thắng.

Tạm dịch:

Hào quang rực rỡ thấy tai tinh,
Nghiệp thống bên mời có chứng tin.
Tần Tấn một nhà thành chân vạc,
Vượn vàng vận cao sức khó thắng.

Giải: “Hào quang rực rỡ thấy tai tinh”: chỉ Quang Tự (1875-1908). Chiến tranh Giáp Ngọ, cải cách Mậu Tuất, liên quân tám nước, v.v. rất nhiều tai họa.

“Nghiệp thống bên mời có chứng tin”: Tuyên Thống, Quang Tự đều là con nuôi thân vương, là “bên mời”.

“Tần Tấn một nhà thành chân vạc”: Mãn Thanh dựa vào người Hán là Viên Thế Khải, nhưng Viên Thế Khải lập thành thế chân vạc (tam phân).

“Vượn vàng vận cao sức khó thắng”: năm 1908 Mậu Thân, năm Khỉ, đứa trẻ Tuyên Thống xưng đế, nhưng không có lực lượng. Mậu Thân thuộc Thổ, Thổ ứng màu vàng.

Khổ 10

Dụng võ thời đương bạch hổ niên,
Tứ phương các tự khởi phong yên.
Cửu châu hựu kiến tam phân định,
Thất tải nhưng lưu nhất tuyến diên.

Tạm dịch:

Dụng võ vào thời năm hổ trắng,
Bốn phương tự mình khởi chiến tranh.
Chín châu lại thấy thế chia ba,
Bảy năm vẫn lưu một tuyến dài.

Giải: “Dụng võ vào thời năm hổ trắng”: năm 1914, năm Hổ, đại chiến thế giới bùng phát từ phương Tây. Bạch thuộc Kim, Kim là phương Tây.

“Bốn phương tự mình khởi chiến tranh”: Chiến tranh nổ ra khắp thế giới.

“Chín châu lại thấy thế chia ba”: Trung Quốc phân thành Dân Quốc, Trung Cộng và Nhật Bản.

“Bảy năm vẫn lưu một tuyến dài”: 8 năm kháng chiến (1937-1945), 7 năm cộng thêm 1.

Khổ 11

Hồng kê đề hậu quỷ sinh sầu,
Bảo vị phân tranh bán bích hưu.
Hạnh hữu kim ngao năng đới chủ,
Kỳ phân bát diện hạ Tần Châu.

Tạm dịch:

Gà đỏ gáy rồi quỷ sinh sầu,
Ngôi báu tranh nhau nửa phần sau.
May có ngao vàng mang theo chủ,
Cờ phân tám hướng lấy Tần Châu.

Giải: “Gà đỏ gáy rồi quỷ sinh sầu”: năm 1945, năm Gà, Nhật Bản đầu hàng, Trung Cộng phát động nội chiến. “Đỏ” là họa đỏ.

“Ngôi báu tranh nhau nửa phần sau”: Dân Quốc cuối cùng đánh mất một nửa giang sơn.

“May có ngao vàng mang theo chủ”: May có ngao vàng trên biển, tức đảo Đài Loan, trở thành đất của chính phủ Dân Quốc.

“Cờ phân tám hướng lấy Tần Châu”: Trung Cộng từ Thiểm Bắc chiếm lĩnh Đại Lục.

Khổ 12

Trung hưng sự nghiệp phó lân nhi,
Thỉ hậu ngưu tiền diệu đức nghi.
Kế thống thiên an tam thập lục,
Tọa khán cảnh ngoại huyết như nê.

Tạm dịch:

Sự nghiệp phục hưng gửi lân nhi,
Lợn sau trâu trước chói ân nghi.
Thống tiếp an phận ba mươi sáu,
Ngồi xem từ ngoài bùn như máu.

Giải: “Sự nghiệp phục hưng gửi lân nhi”: Tưởng Giới Thạch phó thác hy vọng phục quốc cho Tưởng Kinh Quốc.

“Lợn sau trâu trước chói ân nghi”: năm 1972, năm Lợn, Tưởng Kinh Quốc chính thức kế vị (chức Thủ tướng), Đài Loan bắt đầu “thời đại Tưởng Kinh Quốc” phồn vinh.

“Thống tiếp an phận ba mươi sáu”: 36 năm sau khi Tưởng Kinh Quốc nhậm chức Tổng thống, Đại Lục và Đài Loan thống nhất (1978-2013).

“Ngồi xem từ ngoài bùn như máu”: bàng quan nhìn Đại Lục máu chảy thành sông mà không làm gì được.

Khổ 13

Xích thử thời đồng vận bất đồng,
Trung Nguyên hảo cảnh bất vi công.
Tây phương tái kiến Nam quân chí,
Cương đáo kim xà vận dĩ chung.

Tạm dịch:

Chuột đỏ thì giống vận không đồng,
Cảnh đẹp Trung Nguyên chẳng tính công.
Phương Tây lại thấy quân Nam đến,
Vừa đến rắn vàng vận đã xong.

Giải: “Chuột đỏ thì giống vận không đồng”: năm 1948 Mậu Tý, năm Chuột, Dân Quốc dời sang Đài Loan, Trung Cộng chiếm lĩnh Đại Lục. Nhưng vận mệnh nhân dân hai bờ eo biển không giống nhau. Mậu Tý thuộc Hỏa, Hỏa ứng màu đỏ.

“Cảnh đẹp Trung Nguyên chẳng tính công”: vẻ hào nhoáng bề ngoài ở Đại Lục không che đậy nổi nguy cơ trùng trùng.

“Phương Tây lại thấy quân Nam đến”: quảng truyền «Cửu Bình», nhân sĩ hải ngoại ở phương Tây dấy khởi làn sóng thoái đảng. Tiếp nối chiến dịch “tiễu cộng” của quân cách mạng phương Nam của Tưởng Giới Thạch.

“Vừa đến rắn vàng vận đã xong”: đầu năm 2013, năm Rắn, ánh mặt trời tỏa sáng, Trung Cộng diệt vong.

Khổ 14

Nhật nguyệt thôi thiên tự chuyển luân,
Giai dư xuất thế cánh vô nhân.
Lão tăng tòng thử hưu nhiêu thiệt,
Hậu sự hoàn tu vấn hậu nhân.

Tạm dịch:

Nhật nguyệt chuyển dời tựa chuyển luân,
Ôi sinh ta càng chẳng nguyên nhân.
Lão tăng từ giờ thôi lắm miệng,
Việc sau còn phải hỏi người sau.

Giải: “Nhật nguyệt chuyển dời tựa chuyển luân”: lịch sử nhân loại đều là vì Pháp Luân Đại Pháp cứu thế mà an bài. “Chuyển luân” (bánh xe xoay chuyển) ngầm chỉ Pháp Luân của Pháp Luân Đại Pháp.

*  *  *

Ghi chú: Trong dự ngôn này, triều Thanh và Dân Quốc đều nối đuôi nhau, mạch lạc rõ ràng, thời gian chặt chẽ, xứng là tinh phẩm.

“Người sau” chỉ nghi có ba điểm:

1. “Bạch hổ niên”: năm 1914 Giáp Dần, năm Hổ, Giáp Dần thuộc Thủy, màu đen. Giáp thuộc Mộc, Mộc ứng màu xanh. Năm 1926 Bính Dần, Dân Quốc Bắc phạt là “xích hổ” {hổ đỏ}, đều không phải “bạch hổ” {hổ trắng}.

2. “Hồng kê”: năm 1945 Ất Dậu, năm Gà, Ất Dậu thuộc Thủy, màu đen. Ất thuộc Mộc, Mộc ứng màu xanh. Đều không phải “hồng kê” {gà đỏ}.

3. “Kim xà”: năm 2013 Quý Tỵ, năm Rắn, Quý Tỵ thuộc Thủy, màu đen, không thuộc Kim. “Kim” {vàng} ở đây ý đổi mới, quang minh. Giống “Mai kia nghe tiếng gà vàng gáy, Biển cả thâm trầm Nhật đã qua” trong «Thôi Bối Đồ», chỉ năm Gà 1945, Nhật Bản đầu hàng, dùng “kim kê” {gà vàng} để hình dung niềm vui thắng lợi. Chứ không thể nói “Mai kia nghe tiếng gà đen gáy” được.

Tiên tri Maya nói sau ngày 21 tháng 12 năm 2012, địa cầu canh tân tịnh hóa, cũng phù hợp với năm 2013 “kim xà” {rắn vàng}, ý là đổi mới, quang minh.

Bài viết chỉnh sửa từ bài trên mạng tiên tri của Chánh Kiến Net.

Xem thêm:

>> Tìm hiểu bí ẩn những đại dự ngôn của Trung Quốc (22): Bài thơ của Hoàng Bá thiền sư

Dịch từ:

http://www.epochtimes.com/gb/10/11/9/n3079691.htm