Trang chủ Right arrow Nghệ thuật Right arrow Nhiếp ảnh

Tổng quan về lịch sử nhiếp ảnh và sự chuyển đổi của các khái niệm nghệ thuật nhiếp ảnh (3)

13-11-2025

Tác giả: Lý Na

[ChanhKien.org]

Dưới đây chúng tôi sẽ dựa vào đặc điểm và trình tự xuất hiện của các trường phái trong lịch sử phát triển của nhiếp ảnh để tìm hiểu về quá trình biến đổi của quan niệm thẩm mỹ nhiếp ảnh thuận theo sự thay đổi của hình thái xã hội; Đồng thời, giới thiệu và giải thích ý nghĩa thật sự của một số khái niệm quan trọng trong các trường phái nhiếp ảnh.

Phái Nhiếp ảnh Họa ý thời đầu

Phái Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Tự nhiên

Phái Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Ấn tượng

Hiệp hội Nhiếp ảnh (The Linked Ring)

Phái Nhiếp ảnh Ly khai (Photo-Secession)

Nhiếp ảnh Tài liệu (Documentary photography)

Chủ nghĩa Dada và Phái Trừu tượng, Phái Siêu thực

1. Từ “Phái Nhiếp ảnh Họa ý thời đầu” nhìn thấy sự biến đổi của nghệ thuật nhiếp ảnh

Nhiếp ảnh Họa ý là Nhiếp ảnh theo Chủ nghĩa Hội họa. Thời nhiếp ảnh mới ra đời thì không phân chia trường phái, chỉ có các họa sĩ và thầy nhiếp ảnh đã có trình độ nghệ thuật là nói về nghệ thuật nhiếp ảnh, mục đích là khiến cho nhiếp ảnh có thể đạt đến trình độ nghệ thuật của hội họa; để nghệ thuật nhiếp ảnh được xã hội công nhận, các nhiếp ảnh gia đương thời đã triệt để vận dụng các quy tắc của hội họa truyền thống vào trong nhiếp ảnh. Vậy nên nhiếp ảnh thời kỳ đó được gọi là Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Hội họa, nó ra đời vào giữa thế kỷ 19 ở Anh, là một trường phái nghệ thuật xuất hiện sau khi kỹ thuật nhiếp ảnh được phát minh. Đặc trưng của trường phái này là hoàn toàn mô phỏng theo phong cách thẩm mỹ của hội họa cổ điển.

Tại thời điểm đó, bất đồng trong cuộc tranh luận về việc nhiếp ảnh là khoa học hay nhiếp ảnh là nghệ thuật đã dẫn đến sự bất đồng trong xã hội. Các nhiếp ảnh gia đương thời đã cố gắng đưa lĩnh vực nhiếp ảnh vươn lên thành một loại hình của thế giới nghệ thuật, vậy nên đã mô phỏng theo hội họa đương thời, chụp ảnh những chủ đề có tính lịch sử, có nội hàm ngụ ý sâu sắc, có cốt truyện, cảm xúc hoài niệm hoặc những đề tài nổi bật, nhưng chỉ xem nhiếp ảnh như một phương pháp kỹ thuật để thể hiện nghệ thuật. Do đó, có rất nhiều nhiếp ảnh gia tuân thủ phép tắc trong khi sáng tác đã chọn lựa những đề tài có cảnh giới tư tưởng cao thượng, có cảm xúc và ý nghĩa lịch sử, rồi triển lãm các tác phẩm của họ. Kết quả, Phái Nhiếp ảnh Hội họa thời kỳ này có tạo hình thanh lịch đẹp mắt, bố cục chặt chẽ, quan hệ sáng tối tinh tế, rõ ràng, chân thực, mang nét trang nhã thoát tục của hội họa cổ điển.

Nhân vật đại biểu cho thời kỳ Nhiếp ảnh Hội họa thời đầu là Oscar Gustave Rejlander và Henry Peach Robinson.

Oscar Gustave Rejlander (1813-1875) xuất thân là họa sĩ, sau này đã chuyển sang nhiếp ảnh, ông lấy “ý nghĩa đạo đức” làm đề tài, quan niệm của ông là “che đậy sự tầm thường và xấu xí”, giảng giải đạo đức và giáo hóa con người. Kết cấu bố cục mang ý thơ, cách sáng tác của ông thuộc về loại hình nhiếp ảnh nghệ thuật cao. Ông là người đầu tiên có ảnh chụp được trưng bày trong hội triển lãm nghệ thuật và đạt được những thành tựu nghệ thuật, được người đời sau tôn vinh là “Cha đẻ của nhiếp ảnh nghệ thuật”.

Henry Peach Robinson (1856-1936) là một nhà văn, họa sĩ kiêm nhà nhiếp ảnh đồng thời là nhà lý thuyết nhiếp ảnh. Ông từ hội họa chuyển sang nhiếp ảnh, là một trong những người đề xướng trường phái Nhiếp ảnh Họa ý, các tác phẩm của ông đã giành được hơn 100 giải thưởng trên thế giới. Vào cuối thế kỷ 19, ông và phái Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Tự nhiên đã xảy ra một cuộc tranh luận tư tưởng lớn, đặt ra cơ sở lý thuyết cho Nhiếp ảnh Họa ý. Còn lý thuyết nhiếp ảnh của Chủ nghĩa Tự nhiên đã trở thành cơ sở lý thuyết của Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Ấn tượng.

Nhiếp ảnh Họa ý thời đầu được gọi là Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Hội họa, thuộc phạm vi của nhiếp ảnh nghệ thuật cao, nhưng không phải là Nhiếp ảnh Họa ý thời hiện đại. Cái gọi là Nhiếp ảnh Họa ý hiện đại là người hiện đại đem các phong cách nhiếp ảnh giống như vẽ tranh gọi chung thành Nhiếp ảnh Họa ý, trong đó gồm cả trường phái Nhiếp ảnh Ấn tượng, kỳ thật đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, vậy nên để tiện phân biệt, tôi gọi là Nhiếp ảnh Họa ý thời đầu.

2. Từ “Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Tự nhiên” nhìn thấy sự biến đổi của nghệ thuật nhiếp ảnh

Bên trên đã nói đến Henry Peach Robinson người Anh là người đã đề xướng Nhiếp ảnh Họa ý của trường phái Nhiếp ảnh Họa ý thời đầu. Trong cuộc tranh luận về quan niệm với Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Tự nhiên xảy ra vào cuối thế kỷ 19, Robinson đặt ra cơ sở lý thuyết cho Nhiếp ảnh Họa ý, còn lý thuyết nhiếp ảnh của Chủ nghĩa Tự nhiên đã trở thành cơ sở lý thuyết của Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Ấn tượng. Vậy Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Tự nhiên là một trường phái thế nào?

Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Tự nhiên cũng là một trường phái quan trọng trong sự phát triển của lĩnh vực nhiếp ảnh, nó xuất hiện vào năm 1889 khi nhiếp ảnh gia Peter Henry Emerson xuất bản cuốn sách có tựa đề “Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Tự nhiên”, trong đó phê bình Nhiếp ảnh Họa ý là nghệ thuật vụn nát rời rạc, cho rằng phải đến với tự nhiên để tìm kiếm nghệ thuật, rằng chỉ loại nghệ thuật gần gũi với tự nhiên, giống y như tự nhiên mới là nghệ thuật tối cao. Ông nhìn nhận chỉ có loại nhiếp ảnh như vậy mới có thể phản ánh tự nhiên một cách trung thực, chính xác và tỉ mỉ. Trường phái này dựa vào việc chụp lại một cách “tuyệt đối” chính xác những chi tiết và cảnh tượng bề mặt trực tiếp nhìn thấy bằng mắt thường, chính là trực tiếp ghi lại các hiện tượng tự nhiên mà không trải qua chắt lọc nghệ thuật hay khám phá bản chất của các hiện tượng đó, không quá chú ý đến tính điển hình của hình tượng nghệ thuật, cho rằng các quy tắc của nghệ thuật hội họa là các “tiêu chuẩn nghệ thuật” của sự áp đặt. Quan niệm của ông hoàn toàn trái ngược với trường phái Nhiếp ảnh Họa ý cổ điển, kiểu lập luận này từng bị người ta coi là không có suy nghĩ, không suy xét đến tính thô tục hóa của chủ nghĩa hiện thực, thậm chí có khi còn xuyên tạc hiện thực. Trong quyển sách Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Tự nhiên, ông đề xuất: tấm ảnh không cần đều phải rõ ràng, đề xuất rằng chỉ nên tập trung lấy nét cho đối tượng chính được chọn để chụp, các phần còn lại thì nên mờ dần. Ông đưa ra “Lý thuyết nhiếp ảnh tiêu điểm”, cho rằng như vậy thì càng tự nhiên hơn.

Tuy nhiên các tác phẩm của những người theo trường phái Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Tự nhiên không phải là hoàn toàn không nói đến các tiêu chuẩn nghệ thuật, xét cho cùng, tư duy của người thời đó vẫn còn chịu nhận những tư tưởng được giáo dục bởi hoàn cảnh xung quanh, nếu so sánh với trường phái Nhiếp ảnh Họa ý cổ điển thì Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Tự nhiên khá cường điệu việc tả thực, nhưng vào những năm cuối đời, Emerson lại viết cuốn sách tên là “Cái chết của Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Tự nhiên”, chính thức tuyên bố rằng ông không thừa nhận lập luận của Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Tự nhiên do chính mình sáng lập, cho rằng Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Tự nhiên không phải là nghệ thuật, nó thiếu sự chắt lọc, thiếu suy nghĩ, không điển hình, không có đặc điểm cá nhân, mặc dù đôi khi mang đến cảm giác về cái đẹp cho người xem, nhưng rõ ràng rất hạn chế, không thuộc vào phạm trù nghệ thuật, bởi vì điều mà Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Tự nhiên ủng hộ chính là tả thực. Sự hiểu biết của Emerson khiến ông dám vượt qua chính mình, đồng thời dũng cảm buông bỏ, vì vậy đã hai lần khởi xướng hai lập luận trái chiều về thẩm mỹ nhiếp ảnh trong lĩnh vực nhiếp ảnh, từ đó khẳng định địa vị của ông trong lịch sử thẩm mỹ nhiếp ảnh.

Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Tự nhiên cũng là một trường phái quan trọng trong lịch sử nhiếp ảnh, bởi vì nó là sự xuất hiện của một quan niệm thẩm mỹ khác trong nhiếp ảnh, nó xuất hiện sau trường phái Nhiếp ảnh Hội họa cổ điển.

“Lý thuyết nhiếp ảnh tiêu điểm” của Emerson chính là không lấy nét cho toàn bộ bức ảnh (đối tượng chính trong bức ảnh phải khá sắc nét, nhưng chỉ sắc nét như nhìn thấy bằng mắt và không sắc nét hơn, nhưng các thứ khác phải mờ dần, tạo cho bức ảnh ấn tượng như nhìn cảnh thiên nhiên bằng mắt thật), cuối cùng quan niệm này đã trở thành cơ sở lý thuyết của Chủ nghĩa Ấn tượng. Sự xuất hiện của trường phái Chủ nghĩa Ấn tượng đã cho thấy ý đồ phá hủy tư tưởng thẩm mỹ truyền thống của nhân loại trong thời hiện đại.

3. Từ “Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Ấn tượng” nhìn thấy sự biến đổi của nghệ thuật nhiếp ảnh

Bên trên tôi đã nói về “Lý thuyết nhiếp ảnh tiêu điểm” của Emerson chính là không lấy nét cho toàn bộ bức ảnh, cuối cùng quan niệm này đã trở thành cơ sở lý thuyết của Chủ nghĩa Ấn tượng. Sự xuất hiện của trường phái Chủ nghĩa Ấn tượng đã cho thấy ý đồ phá hủy tư tưởng thẩm mỹ truyền thống của nhân loại trong thời hiện đại.

Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Ấn tượng cũng gọi là Nhiếp ảnh phái Ấn tượng, nó là một trường phái vô cùng quan trọng trong lịch sử thẩm mỹ nhiếp ảnh, sự xuất hiện của nó là thuận theo sự xuất hiện của chủ nghĩa ấn tượng trong hội họa, có thể nói sự xuất hiện của nó là khởi đầu cho mưu đồ kết thúc của tư tưởng thẩm mỹ truyền thống của nhân loại trong thời hiện đại.

Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật công nghiệp hiện đại, quan niệm của con người cũng theo đó mà thay đổi, quan niệm sáng tác và quan niệm thẩm mỹ nhiếp ảnh cũng phát sinh chuyển biến, suy cho cùng nhiếp ảnh cũng là một phương diện nghệ thuật, chịu ảnh hưởng của hội họa, nên cũng trôi theo trào lưu thay đổi của hội họa. Trong những năm 60 đến những năm 80 của thế kỷ 19, trong hội họa đã xuất hiện phong cách hội họa chủ nghĩa ấn tượng, nhiếp ảnh cũng đem kỹ thuật của nó phục vụ cho phong cách trường phái này, sự xuất hiện của Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Ấn tượng đã khiến quan điểm Nhiếp ảnh Hội họa xảy ra những thay đổi to lớn.

Đặc điểm của Chủ nghĩa Ấn tượng là nỗ lực tái hiện lại màu sắc quan sát được trong không gian tràn ngập ánh sáng mạnh, cũng tức là ấn tượng về vật thể lưu lại trong mắt người. Tại phương diện nhiếp ảnh cũng là như vậy, trong một số tình huống hoàn toàn không dùng đến độ sắc (acutance) và độ phân giải (resolution), thậm chí tiêu điểm lấy nét không nằm trong bức ảnh. Đây là sự tiếp thu toàn bộ “Lý thuyết nhiếp ảnh tiêu điểm” của nhiếp ảnh gia Chủ nghĩa Tự nhiên người Anh là Emerson, mặc dù trong đó cũng công nhận độ sắc và độ phân giải của ống kính là rất quan trọng ở một số phương diện, nhưng kiểu quan niệm cho rằng có lúc có thể đặt tiêu điểm bên ngoài bức ảnh đã cung cấp cơ sở lý thuyết cho Nhiếp ảnh phái Ấn tượng. Nhiếp ảnh phái Ấn tượng sử dụng ống kính lấy nét mềm và các bộ kính lọc khuếch tán ánh sáng để tạo ra các hiệu ứng đặc biệt, đồng thời sửa đổi đáng kể phim âm bản khiến những thứ thể hiện trên bức ảnh là ấn tượng còn lưu lại trong đầu của người ta về cảnh vật mà họ đã xem qua, bức ảnh là sự phóng đại của màu sắc và cảm giác về ánh sáng, không có điểm tụ, hoặc đơn giản là chụp các hiệu ứng mông lung mờ ảo hoặc các hiệu ứng khác thường nào đó lên bức ảnh, đồng thời đề xuất lý thuyết “Nhiếp ảnh Lowkey”, nói một cách đơn giản là biến ảnh chụp thành không giống ảnh chụp, giống như các hiệu ứng khác thường do phần mềm Photoshop tạo ra thời nay, vào thời đó là do kỹ thuật phòng tối làm ra, những bức ảnh như thế mang đầy tính trang trí nhưng khuyết thiếu nét tinh tế chân thực và cảm giác không gian ba chiều của Nhiếp ảnh Hội họa thời đầu. Về đề tài cũng từ bỏ đặc điểm kể chuyện xưa của Nhiếp ảnh Hội họa thời đầu, đó là những đặc trưng của Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Ấn tượng. Trường phái này là sự mở rộng của phái Ấn tượng trong hội họa sang lĩnh vực nghệ thuật nhiếp ảnh.

Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Ấn tượng trải qua quá trình phát triển mười mấy năm, tùy theo việc quan niệm của con người thay đổi của hình thái ý thức của xã hội, sau này có nhiều nhiếp ảnh gia ấn tượng rốt cuộc đã từ bỏ phong cách này, cùng theo sự thay đổi của hình thái ý thức thì những kỹ thuật chụp ảnh mới có tính trực tiếp và không vi phạm hơn được tạo ra, cũng chính là đã mở ra con đường cho càng nhiều trường phái đương đại hơn nữa đi theo xu hướng nhiếp ảnh trực tiếp giống như thật. Do sự xuất hiện của các loại quan niệm mới trong hình thái xã hội, một số hình thức mới không thỏa mãn với những thứ vốn có và có ý đồ đưa phong cách Nhiếp ảnh Chủ nghĩa Ấn tượng phát triển rộng ra toàn thế giới, do đó, trong lịch sử nhiếp ảnh lại xảy ra tiếp một lần biến đổi quan trọng: Hiệp hội Nhiếp ảnh The Linked Ring.

Chương sau giới thiệu về Hiệp hội Nhiếp ảnh The Linked Ring và những nội dung khác.

Ghi chú:

1 – Tiêu điểm (Focus) là điểm mà các tia sáng hội tụ rõ nét trên mặt phẳng phim hoặc cảm biến máy ảnh kỹ thuật số.

2 – Độ phân giải (Resolution) là khả năng tách bạch hai thành phần rất gần nhau trong một bức ảnh của máy ảnh. Độ sắc (Acutance) là mức độ chi tiết rõ ràng của đường viền của các thành phần trong một bức ảnh.

3 – Độ phân giải và độ sắc kết hợp lại tạo nên cảm quan về độ sắc nét của một bức ảnh. Một hình ảnh cần có độ phân giải cao và độ sắc cao để đạt được độ sắc nét (Sharpness). https://retouchingacademy.com/qualities-of-digital-images-sharpness-vs-focus/

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/53117

Ban Biên Tập Chánh Kiến

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.

Loạt bài