Buông bỏ cái tình ngàn năm

Tác giả: Tịnh Tâm, đệ tử Đại Pháp Đại Lục

[ChanhKien.org]

Tôi là một nữ đệ tử Đại Pháp chưa kết hôn, năm nay 28 tuổi, tôi muốn chia sẻ cùng các đồng tu một chút nhận thức của bản thân đối với tình.

Từ nhỏ tôi đã là một người rất nặng tình, còn nhớ có lần mẹ tôi tan làm có việc, rất muộn mà vẫn chưa về nhà, tôi lo lắng không biết có chuyện gì xảy ra với mẹ nên đã liên tục dập đầu cầu khẩn ông trời, cầu xin mẹ bình an trở về. Năm 10 tuổi tôi phải rời nhà bà ngoại, vì không nỡ xa bà nên tôi đã khóc suốt dọc đường, mỗi lần về thăm bà tôi đều không ngừng rơi lệ. Lớn lên một chút, ở tuổi thiếu niên tôi thích xem tiểu thuyết ngôn tình, lòng thấy khao khát tình yêu mỹ hảo nơi nhân thế. Năm 18 tuổi tôi đắc Pháp cùng với mẹ, Sư phụ thấy cái tình của tôi còn nặng, trong mơ Ngài đã nói với tôi rằng từ nay về sau đừng xem tiểu thuyết ngôn tình nữa. Nhưng vì tâm chấp trước nặng, ngộ tính kém, nên tôi trường kỳ ở trong trạng thái “trung sĩ văn đạo, nhược tồn nhược vong”. Đến năm 20 tuổi đi học xa nhà, do không còn môi trường câu thúc nên tôi đã phóng túng bản thân, vì tình mà nhiều lần đi đường vòng, phạm sai lầm rồi phải chịu khổ, để lại rất nhiều tiếc nuối, cuối cùng nhờ Sư phụ liên tục điểm hoá và trông nom nên tôi đã vượt qua được.

Tôi luôn muốn viết về những trải nghiệm của bản thân nhưng cứ cảm thấy những Pháp lý mà mình ngộ ra thì đồng tu cũng ngộ được rồi, không còn gì để viết nữa. Nhờ sự giúp đỡ của mẹ, tôi nhận ra có rất nhiều đồng tu trẻ cũng bị ma tình dày vò đến khổ não như tôi, rất nhiều người trong số họ đã bị cựu thế lực an bài tỉ mỉ về phương diện tình hòng huỷ rớt họ. Chúng ta tu luyện ở trong mê, nhìn không thấu nguồn gốc uyên nguyên của tình, có người bị tình dẫn động, vì tình mà phiền lụy, mà mê, có người tu luyện đã nhiều năm mà nhận thức đối với vấn đề tình, sắc, dục vẫn còn dừng lại ở mức như thời kỳ đầu mới đắc Pháp. Dưới sự điểm hoá của Sư phụ, tôi đã minh bạch được căn nguyên của cái tình đã cắm rễ trong tôi từ ngàn năm trước, chính là để giúp các đệ tử Đại Pháp chứng ngộ quả vị khi Phật Chủ hạ thế, thiện giải tiền duyên, giúp chúng sinh được thọ ích từ trong Pháp. Giờ đây tôi tận lực viết ra những trải nghiệm của mình trong mấy năm trước, để minh chứng cho lời mà người thường vẫn nói rằng ái tình chẳng qua chỉ là nghiệp lực luân báo, chớ có chấp mê vào tình.

Trắc trở đầu tiên mà cái “tình” mang đến cho tôi là mối duyên phận từ ngàn năm trước. Vào triều Đường, tôi và anh ấy vì cùng giúp một vị sư phụ bên Phật gia hoằng dương Phật Pháp mà nếm đủ khổ cực, còn anh ấy cũng vì tôi mà phó xuất rất nhiều. Đời này lần đầu tiên tôi gặp anh ấy là vào đầu năm 2004 trong một công ty. Khi thấy dáng người khôi ngô, cao lớn của anh ấy từ ngoài cửa vội vàng bước vào, trong lòng tôi đã rung động mạnh, đồng thời trong đầu tôi có một giọng nói vang lên: “Chính là anh ấy đấy”, cái cảm giác thân thuộc mơ hồ này làm tôi kinh ngạc bội phần. Tôi chợt nhớ lại trước đây tôi đã từng mơ thấy anh ấy dù còn chưa biết anh, nhưng trong mơ tôi không nhìn được rõ mặt. Ở thời điểm đó tôi học Pháp không tinh tấn, luyện công thì lúc luyện lúc không, có thể đoán được rằng khi khảo nghiệm về tình ập đến, tôi không có chút năng lực phân biệt nào, tôi đã thuận nước đẩy thuyền, tiếp nhận anh một cách dễ dàng.

Tình yêu thực sự giống như trong loạt bài “Tu tâm đoạn dục” đã viết:

“Chấp trước một khi đã khởi

Thoạt đầu cảm thấy ngọt ngào

Lâu dần thấy tình vô ích

Hối hận thì đã muộn rồi” (tạm dịch)

Khi giao tiếp với anh, lần đầu tiên tôi mơ hồ cảm thấy sự khác biệt giữa Thần và người, khi tôi học Pháp rất tốt, tôi cảm thấy suy nghĩ của mình khác anh, đã khác nhau thì khi ở cạnh anh tôi chẳng có gì để nói, cảnh giới tâm tính khác nhau; khi tôi học Pháp không được tốt thì cái tình cũng nặng, nhân tâm cũng nhiều, tôi và anh lại nói với nhau rất nhiều, cho rằng đến tuổi yêu đương thì nên tìm hiểu nhau thuận theo tự nhiên. Trong những mâu thuẫn thường ngày tôi cho rằng mình là người nhẫn nhịn, phó xuất, vô tư, cho rằng người thường tìm đâu ra được một người bạn gái phẩm chất cao thượng như tôi, luôn giúp đỡ nhau tiến bước! Đây là tâm cầu an dật, cầu ổn định, cầu tình cảm mà rất lâu rồi tôi chưa ý thức được, chúng làm cho cái tình của tôi càng ngày càng nặng, can nhiễu đến việc tôi học Pháp luyện công. Lúc này mẹ thường lo lắng cho tôi: “Có phải con yêu rồi sau này sẽ cùng cậu ta sống cuộc sống người thường không, học Pháp luyện công càng ngày càng ít, cuối cùng sẽ bị rớt xuống!” Sư phụ cũng liên tục điểm hoá cho tôi, trong mơ tôi nhiều lần thấy chiếc xe sắp rời bến nên vội lên xe, tôi sốt ruột đến mức thường xuyên chạy đuổi theo xe suốt quãng đường. Tuy nhiên chấp trước vào tình quá to lớn làm tôi lúc tinh tấn, lúc giải đãi, khi tốt khi dở, tâm thái không ổn định, vậy nên tôi vẫn không buông bỏ được tình, bị tình dày vò, tơ vương, cuối cùng bước trên con đường mà cựu thế lực an bài.

Mùa đông năm 2005, tôi mơ thấy có ba sợi chỉ hồng nối từ trời xuống đất, cảnh tượng tráng quan trong mơ đã khiến tôi cảm khái mãi không thôi: “Hoá ra chỉ hồng là có thật! Thực sự có thật!” Sau khi tỉnh dậy tôi đem chuyện này chia sẻ với các đồng tu xung quanh, mọi người đều nói giữa tôi và bạn trai là duyên định tam sinh! Tôi cũng nhận thấy giữa chúng tôi đúng là duyên phận ba đời. Tuy nhiên, một năm sau đó, những điều huyễn tưởng đã bị hiện thực phá vỡ. Cuối cùng anh ấy đề nghị chia tay với lý do: “Anh cảm thấy mình không cách nào thỏa mãn được những yêu cầu của em”. Lúc đó tôi mới ngộ ra ba sợi chỉ hồng ấy là duyên phận ba năm giữa chúng tôi, vì từ khi tôi gặp anh lần đầu đến lúc chia tay là vừa vặn ba năm, không sai một phân. Ban đầu tôi không đồng ý với lý do chia tay của anh, cứ tìm cớ, trong tâm nghĩ: “Sao lại là yêu cầu của mình cao, mình chẳng yêu cầu anh ấy gì cả, trước giờ chưa từng giống các cô gái người thường đòi này đòi nọ, ép anh phải phấn đấu, phải đi kiếm tiền… sao còn nói yêu cầu của mình cao?” Lòng tôi tràn ngập uỷ khuất. Hôm nay ngẫm lại tôi thấy có một tầng ý nghĩa sâu hơn: phải chăng tôi nên đặt yêu cầu cao hơn đối với bản thân, thuận theo quá trình Chính Pháp, người thường với tâm sắc tình nặng sẽ càng ngày càng không đạt đến yêu cầu của tôi.

Vài tháng sau, mẹ tôi mang đến cho tôi một quyển sách nhỏ có tên là “Tu tâm đoạn dục”, trong các bài giao lưu chia sẻ của đồng tu cũng có nhắc đến các quan điểm như học viên lâu năm không nên tìm học viên mới hay người thường để kết hôn, giữa vợ chồng với nhau cũng cần đoạn dục…, tất cả đã làm tôi rất xúc động. Tôi rất ngưỡng mộ những nhận thức của các đồng tu đối với vấn đề tình, sắc, dục, cũng hết sức xấu hổ về ngộ tính kém cỏi của mình, tôi cảm nhận được một cách sâu sắc rằng mình đã mượn câu “phù hợp tối đa với trạng trái của người thường” để che đậy những chấp trước mà tôi không muốn buông bỏ, lại còn yên tâm thoải mái bàn chuyện yêu đương, vui vẻ một cách không biết mệt. Khi giữa hai chúng tôi xảy ra mâu thuẫn, tôi cũng hướng nội tìm, nhưng mục đích tìm là bất thuần, luôn có một cái tâm là vì để duy trì sự đoàn kết giữa chúng tôi, bản thân còn dùng câu “đứng ở góc độ của họ mà xét vấn đề” để che đậy chấp trước, bề mặt là “suy nghĩ cho người khác” nhưng thực tế là để duy hộ tình cảm của mình, nói cho cùng cũng là tôi không muốn buông bỏ trạng thái con người.

Sư phụ giảng:

“Hà vi nhân, Tình dục mãn thân”

Diễn nghĩa:

Người là gì, thân đầy tình dục

(“Nhân giác chi phân”, Hồng Ngâm)

Sư phụ cũng giảng trong Chuyển Pháp Luân rằng:

“Chúng tôi [đã] giảng, rằng chư vị không thể vì điều này mà làm cho gia đình bất hoà; do đó tại giai đoạn mà chư vị đang có hiện nay, chư vị coi nó thật nhẹ, duy trì sinh hoạt vợ chồng hài hoà như bình thường là được rồi; tương lai [khi] đến một tầng nhất định sẽ có trạng thái của tầng ấy; [còn] hiện tại là như thế này, chúng tôi yêu cầu chư vị thực hiện như thế này là được rồi”.

Cũng như các đồng tu khác tôi ngộ được rằng Sư phụ yêu cầu chúng ta là đến cuối cùng phải làm được việc đoạn tuyệt sắc dục giữa nam và nữ. Trong kinh văn Giảng Pháp tại Pháp hội San-Francisco năm 2005 Sư phụ cũng giảng:

“[Khi] tư tưởng của con người chiếm thượng phong, [thì] vị ấy bước hướng sang phía ‘con người’; [khi] tư tưởng của Thần và chính niệm của con người chiếm thượng phong, [thì] vị ấy bước hướng sang phía ‘Thần’”.

Bốn chữ “tu tâm đoạn dục” đã vạch định ra ranh giới giữa người và Thần, tôi ý thức được rằng đã đến lúc tôi phải tu bỏ cái tâm này từ gốc rễ.

Chớp mắt một cái là đến cuối năm 2007, lúc ấy có một bộ phim nổi đình nổi đám một thời, rất nhiều người thường dưới sự dẫn động của sắc dục mà đổ xô đến xem, giới tuyến đạo đức của con người lại trượt xuống thêm một lần nữa. Sư phụ nói cái lý nơi người thường là phản đảo, tôi liền đổi ngược tên của bộ phim thành “Giới Sắc” (“Sắc, Giới” là tên một bộ phim của đạo diễn Lý An trình chiếu lần đầu vào 2007). Niệm này vừa xuất ra thì khảo nghiệm về tình chưa từng có bỗng ập đến, lần này còn mạnh mẽ và có tính huỷ hoại hơn, xen lẫn là nỗi buồn và thống khổ, tính thị phi rất lớn.

Bước sang năm 2008, cô gái 28 tuổi vẫn chưa lập gia đình như tôi đã thành tâm điểm chú ý của những người xung quanh. Lãnh đạo, đồng nghiệp, bạn học, bạn bè và người thân đều ít nhiều lo lắng vì tôi chưa có bạn trai. Trong lòng tôi biết rõ rằng mình không thể kết hôn với người thường, chênh lệch quá lớn, nhưng tôi vẫn chưa gặp được một “Đại Ca Diếp” [2], mình cứ độc thân mãi thế này liệu có lỗi với bố mẹ không, họ có chịu được điều này không? Tôi đã động một niệm “tìm bạn trai cho phải phép”. Thậm chí có lần tôi còn hỏi mẹ: “Rốt cục cha mẹ muốn tìm người như thế nào?” Tôi hoàn toàn bị tình cảm của con người chi phối, cảm giác “bi tráng” hệt như cố hoàn thành nhiệm vụ vậy! Với cái tâm này tôi đã cầu được một cậu bạn trai người thường không tồi. Ngay khi chúng tôi gặp mặt nhau, mẹ tôi đã cho tôi xem một video về tu tâm đoạn dục mới nhất trên mạng, trong tâm tôi cứ không ngừng cảm thấy xấu hổ và hối hận. Nhớ lại lúc gặp mặt anh ấy, đối phương thì nói lời yêu đương, vun đắp tình cảm, còn tôi thì hoàn toàn không có tâm trạng đâu để nói với anh ấy những điều này. Lúc ấy tôi liên tục phát chính niệm thanh trừ tà linh phụ thể trong trường không gian của anh; khi xem triển lãm nhìn thấy các tác phẩm biến dị, tôi đã đặt một tấm chắn ở không gian khác, không để những tín tức loạn bát nháo và phụ thể gắn lên thân thể và tư tưởng của tôi; khi đi đường hay đi chơi tôi cũng cố tình giữ khoảng cách với anh ấy và nghĩ rằng chớ làm những việc không phù hợp với hành vi của một đệ tử Đại Pháp; khi nhìn thấy một số bạn trẻ đang ôm nhau tôi bỗng nhớ đến câu nói trong bài chia sẻ của đồng tu: Khi yêu bạn có thể giữ được ở giới hạn chỉ nắm tay, chạm khẽ đầu không? Nếu không làm được thì đừng nên yêu nữa (đại ý là vậy, không nguyên văn)…

Quá trình quen nhau thực sự giống như Sư phụ giảng:

“Kỳ thực chư vị không còn là người thường trong những con người thường nữa, chư vị đều không thể quay về nữa, chư vị thật sự là không thể quay về nữa đâu, (vỗ tay) sự cách biệt giữa chư vị và người thường quả thật khá lớn rồi” (Giảng Pháp trong buổi họp mặt học viên khu vực Châu Á – Thái Bình Dương [2004])

Khi anh ấy bắt con tôm sống trong khe suối lên ăn, anh ấy hỏi tôi: “Ai đó nói tình yêu là đau khổ, ai đó nói trong tình yêu cần nên hạnh phúc, em nghĩ tình yêu là gì?”, một cảm giác đau khổ dâng tràn trong lồng ngực tôi. Tôi đang làm gì vậy? Giả vờ ứng phó chăng? Tôi muốn tìm một người để làm bức bình phong cho mình, để có thể nói với người thường rằng: “Đừng hỏi chuyện của tôi nữa, tôi có bạn trai rồi”, vì tâm hư vinh tâm cầu danh của mình, không cần quan tâm đến cảm nhận của người thường, lợi dụng anh ấy vì cái vị tư vị ngã của tôi, thật nhiều nhân tâm đáng sợ như vậy. Đào sâu hơn nữa tôi thấy tâm ỷ lại, sắc tâm tiềm ẩn, tâm cầu an dật, mong cầu cuộc sống tốt đẹp nơi người thường đều ẩn chứa trong đó.

Thời gian này tôi và mẹ hẹn các đồng tu gọi điện giảng chân tướng cho anh ấy, mẹ và tôi sẽ phát chính niệm cho anh, tôi đưa một bài thơ của Sư phụ cho anh đọc, chúng tôi cố gắng giải thể các nhân tố tà ác trong trường không gian của anh, để anh có nhận thức tốt đẹp về Đại Pháp. Vài ngày sau mẹ bảo tôi rằng khi phát chính niệm cho anh ấy, bà đã nghe tên anh được đọc lên, mẹ còn nhìn thấy một cây dương ngụ ý chỉ anh ấy, cái cây rất thẳng nhưng toàn bộ rễ của nó đã bong ra khỏi đất, rễ không còn cắm trong đất nữa. Mẹ và tôi đều ngộ được rằng đã đến lúc kết thúc mọi thứ. Sinh mệnh của tôi và anh ấy vốn không giống nhau, chỉ vì cái danh và hư vinh của người thường mà tôi miễn cưỡng ép mình hoà hợp với người thường một phen, nhưng chỉ sau ba lần gặp anh, tôi đã cảm thấy rất khó chịu. Giống như các đồng tu nói: người ta muốn nói chuyện tình cảm, còn mình lại muốn về nhà đọc sách. Thế là chúng tôi chỉ có thể xem nhau như những người bạn tốt mà thôi.

Qua chuyện này mẹ tôi cũng nhìn thấy được nhân tâm của mình, tuy mẹ ủng hộ suy nghĩ của tôi rằng hoặc đi tìm cho mình một “Đại Ca Diếp” hoặc sống đơn thân, nhưng bà luôn lo sợ tôi sống cô độc, bà có tâm muốn tìm một người chăm sóc tôi. Quan tình của tôi cũng là quan tình của mẹ, bởi vì Sư phụ nói chỉnh thể đề cao, chỉnh thể thăng hoa mà!

Trong con mắt người thường thì đường tình của tôi thật trắc trở. Nhưng tôi biết rằng trong lịch sử tôi đã nhiều lần vướng vào chuyện tình cảm. Trong một kiếp nọ chồng của tôi được thiên thượng chọn để tạo một nhóm tượng Phật cho con người mặt đất, rồi dùng thuật che mắt để mọi người tưởng rằng anh đã chết, tôi ở nhà ở góa. Mười năm sau anh đại công cáo thành trở về nhà, thiên thượng để tôi nhìn thấy thành tựu vĩ đại của anh, giống như quần thể tượng Phật rực rỡ huy hoàng kéo dài hàng dặm trong phông nền của các vở Shen Yun “Tạo tượng”, “Hoa sen bay lên”, tôi cứ tán thán mãi, thật sự vui mừng thay cho anh. Nhưng nửa đời của người thường đã trôi qua rồi. Lại có một kiếp chồng của tôi chết trên sa trường, trong lúc bi thương cực độ tôi bảo mình đừng ở đây bi luỵ nữa, tôi còn phải thay chiến bào ra tiền tuyến đánh trận kia mà. Cứ như vậy, qua những kiếp luân hồi trong lịch sử, tôi từng đóng vai một nam nhân chịu khuất nhục, một phụ nữ kiên trinh, trong phấn đấu và chờ đợi đầy gian khổ mà hun đúc nên những phẩm chất kiên cường, để đến ngày nay khi Chính Pháp hồng truyền tôi có thể tu luyện lên trên, để dùng cho Chính Pháp, trong màn sương mờ của tình mà phá kén chui ra.

Có thể tôi từng có những “vợ” hoặc “chồng” trong tiền kiếp, đời này lại có chút duyên mỏng, đa phần là không rõ kết cục duyên phận các đời ấy ra sao. Nhưng trên con đường tu luyện tôi đã vấp ngã rồi bò lên, rồi lại vấp ngã, rồi lại bò lên để vượt qua cái tình ngàn năm này, đã có những cuộc chia ly không tránh được, đã có những giọt nước mắt đau khổ vì hối hận, đã có những lần dửng dưng vô cầu, đã có những lần vui sướng vì chợt ngộ ra được điều gì đó. Thật may mắn là có Sư phụ vẫn luôn dắt tay tôi, không ngừng căn dặn và điểm hoá cho tôi, các đồng tu lại luôn có những thể hội cao hơn, hay hơn và viên dung chỉnh thể, đồng tu mẹ tôi tinh tấn không ngừng, mẹ đã luôn khuyên bảo và giúp đỡ tôi. Hỡi các đồng tu của tôi, chúng ta là những sinh mệnh may mắn nhất, chúng ta và Sư phụ cùng tại thế gian, chúng ta là đồng tại với Chính Pháp. Hãy buông bỏ cái tình được tích lại qua đời đời kiếp kiếp, để cùng theo Sư phụ trở về nhà.

Cuối cùng cho phép tôi được trích dẫn một bài thơ của Sư phụ trong Hồng Ngâm II để chúng ta cùng cố gắng:

Đoạn (Nguyên khúc)

Tu bất nan

Tâm nan khứ

Kỷ đa chấp trước hà thời đoạn

Đô tri khổ hải tổng vô ngạn

Ý bất kiên

Quan tự sơn

Trách xuất phàm

Tạm diễn nghĩa:

Đoạn dứt (thơ khúc thời nhà Nguyên)

Tu không hề khó

Tâm khó bỏ đi

Bao nhiêu chấp trước đến thời nào mới dứt

Đều biết bể khổ mãi không có bờ bến

Ý chí không kiên định

Thử thách lại như núi

Làm sao ra khỏi thế giới phàm tục

Tạm dịch:

Đoạn (Nguyên khúc)

Tu không khó

Tâm khó bỏ

Bao nhiêu chấp trước thời nào đoạn

Đều biết bể khổ không có bờ

Ý không kiên

Quan như núi

Sao xuất phàm

Chú thích:

[1] “Thủ” (Bài thơ do đệ tử Đại Pháp sáng tác)

Chấp trước chi tâm nhất khởi

Sạ phẩm hảo tự hương điểm

Đa thì thuỷ giác vô ích

Hối thì thác dĩ chú thành.

[2] Tên một đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/56123

http://www.pureinsight.org/node/5648