Thiện ác đến cuối cùng tất có báo ứng (1): Ôn dịch Vũ Hán và nhân quả báo ứng

Tác giả: Lãng Lý Đào Sa

[ChanhKien.org]

Văn hóa truyền thống Trung Quốc giảng thiện ác cuối cùng tất sẽ có báo ứng, đây là một lời cảnh báo cũng đồng thời là một dự ngôn. Những lời cảnh báo đến từ văn hóa truyền thống đang triển hiện tại nhân gian. Nhưng tín ngưỡng của con người hiện đại đã thu nhận sự biến dị của thuyết vô thần, khiến con người không còn tin, họ không ý thức được rằng luật nhân quả, thiện ác báo ứng đang khảo nghiệm và đào thải đối với từng cá nhân trên toàn thế giới. Khi đợt bùng phát thứ hai của đại dịch viêm phổi Vũ Hán xảy đến, đây là lúc con người còn có cơ hội để lựa chọn giữa thiện và ác, nhưng cũng có những người khi chưa kịp minh bạch ra điều gì thì đã mất đi cơ duyên được đắc cứu!

Loạt bài này chủ yếu đứng từ góc độ âm dương thiện ác để liễu giải loại ác nhân (người xấu) nào mà ôn dịch Vũ Hán muốn đào thải? Liễu giải nội hàm văn hóa Thần truyền sẽ phải dùng đến rất nhiều nội dung trong văn hóa truyền thống như chữ Hán, Bát Quái cùng với thành ngữ, dự ngôn v.v.. “Văn dĩ tải đạo”, văn hóa truyền thống chính là đang truyền tải “Đạo”. Một âm một dương gọi là Đạo, thiện ác là thuộc về khái niệm trong phạm trù âm dương, hiểu âm dương cũng hiểu thiện ác, hiểu thiện ác cũng sẽ hiểu đối tượng viêm phổi Vũ Hán muốn tiêu diệt. Lý giải văn hóa truyền thống còn cần dùng đến đoạn văn này trong Thuyết Quái Truyện của “Chu Dịch”: “Đế xuất hồ Chấn, Tề hồ Tốn, Tương Kiến hồ Ly, Trí Dịch hồ Khôn, Duyệt Ngôn hồ Đoài, Chiến hồ Kiền, Lao hồ Khảm, Thành Ngôn hồ Cấn”.

Nội hàm văn hóa truyền thống

Văn hóa truyền thống (bao gồm tất cả văn hóa Thần truyền trên thế giới) đều có nội hàm, chỉ có thể dùng văn hóa truyền thống Trung Quốc mới có thể liễu giải được toàn bộ nội hàm của văn hóa Thần truyền và tín ngưỡng. Bởi vì văn hóa truyền thống Trung Quốc hết sức hoàn bị {đầy đủ, hoàn chỉnh}, vừa có chữ Hán Thần truyền, còn có cả chu dịch bát quái dự đoán vận mệnh, lại thêm tiêu chuẩn làm người của văn hóa Nho gia. Ví như trong “Kinh thánh” viết: “Hỡi dân ta, hãy ra khỏi thành ấy, để khỏi tham gia vào tội lỗi của nó, và tránh thảm họa sẽ đổ xuống trên nó”, thành ở đây là chỉ thành Babylon. Nhưng nội hàm của “Thành Babylon” (巴比伦- Ba Bỉ Luân) là chỉ điều gì? Bởi vì “Luân” (伦) là chỉ luân lý đạo đức, cũng chính là tiêu chuẩn làm người của Nho gia “nhân nghĩa lễ trí tín trung hiếu”, cũng chỉ có dùng văn hóa Nho gia Trung Quốc mới có thể liễu giải được nội hàm của “Thành Babylon”. “Ba” (巴) chính là 下巴 – Hạ Ba – cái cằm, miệng người hễ động thì cằm tất sẽ động theo, cằm và miệng là quan hệ theo nhau. Ba 巴 + Khẩu 口 = Ấp 邑, “Ấp” chỉ thủ đô, cũng chính là Bắc Kinh – nơi tổ chức tà giáo cộng sản Marx chiếm cứ thời mạt thế. “Trung hiếu” là chỉ “Trung hiếu” trên tinh thần tín ngưỡng, người trong tín ngưỡng nhất định là “nhất tâm nhất ý”, nếu như theo tín ngưỡng tà giáo cộng sản Marx mà phản Thần Phật, phản Thượng Đế, thì giống như quan hệ “cằm” và “miệng”, sẽ đi ngược lại đạo đức luân lý làm người. “Thành Babylon” chính là lấy “cằm” để ẩn dụ những kẻ ngỗ ngược, nhếch nhác, những “tiểu phấn hồng” trong xã hội v.v.. chính những kẻ này đang cấu kết với tà giáo cộng sản Marx mà ngang nhiên làm việc xấu. Những người đứng về phía đối lập với Trump trong cuộc bầu cử Mỹ cũng thuộc về loại người này, thủ đoạn bọn họ sử dụng và thủ đoạn của tổ chức tà giáo cộng sản Marx sử dụng là giống hệt nhau. Cho nên, “Thành Babylon” là ẩn dụ cho những kẻ tin theo tà giáo cộng sản Marx chiếm cứ tại Bắc Kinh Trung Quốc, “rời bỏ Babylon” là ẩn dụ cho việc rời khỏi tổ chức tà giáo cộng sản, không nên cùng những kẻ tin theo tà giáo cộng sản câu kết với nhau làm việc xấu, trợ Trụ vi ngược.

Hàm 涵 = Thủy 氵+ Hàm 函, “Hàm” “函” là hàm kiện, dùng để chỉ công văn chính thức. Nếu như dùng chữ “Mễ” “米” đối ứng 8 tượng quẻ của Hậu Thiên Bát Quái, như vậy “Thủy” “氵” đối ứng với 3 quẻ Hậu Thiên Bát Quái là “Đế Xuất hồ Chấn”, “Tề hồ Tốn” và “Thành Ngôn hồ Cấn”. Nói cách khác, nội hàm văn hóa truyền thống là ẩn chứa một loại tín tức tương tự như công hàm mà thiên thượng và Thần Phật truyền cấp cho con người. Loại tín tức (nội hàm) này có thể liễu giải được thông qua quẻ Tốn, quẻ Chấn và quẻ Cấn. Tín tức Hậu Thiên Bát Quái hết sức phong phú, ở phần sau bài viết sẽ phân tầng thứ mà dần dần lý giải tượng số lý bao hàm trong đó cho độc giả. Ở đây trước tiên lý giải đơn giản một chút để thuận tiện cho việc chúng ta nhận biết và lý giải đối tượng mà viêm phổi Vũ Hán muốn nhắm tới.

Chữ Đạo 道 = Thủ 首 + Sước 辶, trong 8 tượng quẻ của Hậu Thiên Bát Quái, chỉ có quẻ Tốn và quẻ Cấn là có thể ghép với “Sước”. Tốn 巽 + Sước 辶 = Tuyển 選 (tuyển chọn), Cấn 艮 + Sước 辶 = Thoái 退 (thoát ra). Nội hàm văn hóa truyền thống đều có liên quan đến “Tuyển” hoặc “Thoái”, khi liễu giải những nội hàm này nếu như không đặt nó trong mối liên hệ với “Chấn”, “Tuyển” hoặc “Thoái”, thì sẽ không thể hiểu được hàm nghĩa chân chính trong đó. Điều văn hoá truyền thống thể hiện chính là tuyển trạch (lựa chọn) thiện ác, cũng có liên quan chặt chẽ với viêm phổi Vũ Hán.

Đối tượng tiêu diệt của virus Trung cộng (virus corona -冠状病毒 – “Quan trạng bệnh độc”)

Đợt bùng phát thứ hai của đại dịch viêm phổi Vũ Hán đã xảy tới, nhân loại lại một lần nữa phải đối mặt với sự uy hiếp to lớn. Ai sẽ trở thành vật hy sinh cho bệnh dịch này đây? Chúng ta hãy từ nội hàm của chữ “Quan” “冠” để lý giải điều này!

Quan 冠 = Mịch 冖 + Nguyên 元 + Thốn 寸 hoặc = Mịch 冖 + Nhị 二 + Nhi 儿 + Thốn 寸.

“Nhị” 二 đại biểu đạo âm dương, muốn lý giải nội hàm chữ “Quan”, đầu tiên phải lý giải đạo âm dương và nội hàm chữ “Nguyên” 元 .

Âm 阴 Dương 阳 = Phụ 阝Nguyệt 月,Phụ阝 Nhật日, chúng ta có thể từ tiên tri từ Nostradamus để lý giải “Nhật nguyệt” có hàm nghĩa chỉ về điều gì.

“Khi hai mươi năm thống trị của Mặt trăng qua đi. Một vật thể khác sẽ tiếp nhận sự thống trị trong bảy ngàn năm. Mặt trời mệt mỏi dừng chu kỳ vận chuyển. Là lúc lời tiên tri và đe dọa này đi đến hồi kết”, bảy ngàn = thất thiên 七 千, hai chữ này ghép lại thành chữ Mao 毛 (hàm ý chỉ cựu lãnh đạo cộng sản Trung Quốc – Mao Trạch Đông). Từ đoạn tiên tri này của Nostradamus có thể suy luận ra rằng, “Nguyệt” chính là ẩn dụ tín ngưỡng vô thần luận của quốc gia ma quỷ mà Mao Trạch Đông đã thành lập tại Trung quốc từ năm 1949. “Khi hai mươi năm thống trị của Mặt trăng qua đi” chỉ năm 1969 kết thúc cuộc vận động “Phá tứ cựu” phá hoại văn hóa truyền thống, đưa đến kết quả “Mặt trời mệt mỏi dừng chu kỳ vận chuyển”. Cho nên, “Nhật” chỉ tín ngưỡng hữu thần luận của văn hóa truyền thống. Nếu như cụ thể hóa khái niệm “Nhật” và “Nguyệt” xong, thì các khái niệm “âm” và “Dương”, đạo âm dương v.v..cũng có thể cụ thể hoá. Các khái niệm tương đối âm dương, thiện ác, thị phi v.v.. đều có thể cụ thể hoá. Thiện nhân là chỉ những người tín phụng tín ngưỡng văn hóa truyền thống (tín ngưỡng Nhật), ác nhân là chỉ những người tín phụng và nuôi dưỡng tín ngưỡng tà giáo cộng sản Marx (tín ngưỡng Nguyệt).

Tượng thứ nhất “Thôi bối đồ” có tác dụng nêu lên cốt lõi của toàn bộ dự ngôn Thôi bối đồ, trong đó nhắc tới các khái niệm “Nhật nguyệt tuần hoàn”, “Chân lý”, “Nguyên cơ” v.v.. Nếu như đã biết Nhật, Nguyệt chỉ điều gì, thì cũng rất dễ dàng lý giải nội hàm tượng thứ nhất trong dự ngôn “Thôi bối đồ”. Điều nó chỉ ra chính là một quá trình tuần hoàn của tín ngưỡng hữu thần luận của văn hóa truyền thống và tín ngưỡng vô thần luận của tà giáo cộng sản Marx, cũng chính là quá trình “Nhật nguyệt tuần hoàn” hoặc “Nhật nguyệt thay thế”. Nói cách khác, “Nguyệt” là chỉ tín ngưỡng tà giáo cộng sản Marx mà Mao Trạch Đông kiến lập tại Trung thổ, mà nhân loại hiện đại đang trải qua quá trình “thay thế nhật nguyệt (tín ngưỡng)” trong “chu kỳ tuần hoàn nhật nguyệt”, điều nắm vai trò chủ đạo trong quá trình “nhật nguyệt thay thế” này chính là “tín ngưỡng” Pháp Luân Công (tín ngưỡng Nhật mới), trong “Kinh Thánh” nói cuộc chiến mạt thế chính là cuộc đọ sức chính tà của tín ngưỡng Pháp Luân Công và tín ngưỡng tà giáo cộng sản Marx. Bởi vì ở đây chủ yếu là thuyết minh nội hàm chữ “Quan”, các nội dung khác thì xin phép không tiến hành liễu giải sâu ở đây.

Chữ Nguyên 元 = Nhị 二 + Nhi 儿, “Nhị” là đại biểu cho đạo âm dương, phía trên một nét ngang đối ứng với tín ngưỡng Nhật của văn hóa truyền thống, phía dưới một nét ngang đối ứng tín ngưỡng Nguyệt của tà giáo cộng sản Marx. “Nhi” 儿 nối tiếp nét ngang ở dưới, rất rõ ràng, nội hàm chữ “Nguyên” là chỉ những người tín phụng và nuôi dưỡng tín ngưỡng Nguyệt của cộng sản Marx, là “con cháu của Marx Lenin” .

“Thốn” “寸” trong chữ Hán là hàm nghĩa chỉ “pháp độ” (pháp tắc của sự cứu độ), đối ứng với quẻ Cấn trong Hậu Thiên Bát Quái. “乚” là phù hiệu tử vong, đại biểu cho tử vong (兦=亾=亡 vong).

“Mịch” “冖” ý tứ là lật nhào, là điên đảo (âm dương thiện ác), có hàm nghĩa là che giấu.”Mịch” tượng trưng đỉnh đầu mũ (quan冠), thể hiện nội hàm “Đới cửu lý nhất” 戴九履一. Chữ Đới 戴 = Thổ 土 + Dị 異 + Qua戈, nó tiết lộ mục đích thực sự mà tà giáo cộng sản Marx làm biến dị nhân tâm, sau sẽ dần dần thuyết minh sâu hơn về vấn đề này.

Tổng hợp lại quá trình trình bày ở phía trên, nội hàm chữ “Quan” là nói: Dựa theo pháp độ hoặc phép tắc của vũ trụ, phàm là con cháu Marx Lenin thì đều là đối tượng tiêu diệt của virus Trung cộng – viêm phổi Vũ Hán – “Quan trạng bệnh độc”! Những người này đều không có tư cách để được phổ độ và cứu chuộc! Hoặc giả nói, đối tượng tiêu diệt của viêm phổi Vũ Hán chính là tất cả những người con cháu Marx Lenin và những người nuôi dưỡng tín ngưỡng tà giáo cộng sản Marx!

Viêm phổi Vũ Hán là bắt đầu từ Vũ Hán lây nhiễm ra toàn thế giới, từ trong các danh từ viêm phổi Vũ Hán hoặc Vũ Hán tam trấn v.v.. cũng có thể suy ra kết luận giống như thế. Giả như nghiên cứu từ giác độ khoa học, hệ thống miễn dịch của thân thể người là hệ thống then chốt chống lại virus và ôn dịch. Chữ “Miễn” (免) trong chữ Hán là có hàm nghĩa là kéo mặt trời cho không để rớt xuống. Mặt trời ẩn dụ chính là tín ngưỡng văn hóa truyền thống, nội hàm chính là lòng người cần trung tín vào tín ngưỡng văn hóa truyền thống. Chữ “Miễn” nghĩa gốc là phải không bị sự vật nào đó can thiệp vào, nội hàm của “Miễn dịch” chính là không bị ôn dịch làm tổn hại. Khi hệ thống miễn dịch thân thể người phát sinh biến dị, người ta sẽ phân biệt không rõ bộ mặt thật của vi khuẩn và virus, tự cho rằng tế bào bình thường chính là virus mà tiến hành tiêu diệt, trái lại còn bảo vệ vi khuẩn và virus xâm hại thân thể người. Cơ chế tích tụ của các loại bệnh nan y như ung thư và ôn dịch v.v.. đều là như vậy. Tư tưởng của con người quyết định hành vi của con người, khi nhân tâm bị tín ngưỡng tà giáo cộng sản Marx làm cho biến dị xong, thiện ác và trắng đen sẽ trở nên điên đảo đồng thời thân thể của con người cũng sẽ phát sinh biến hóa đồng dạng, trở nên cùng dạng với sự biến dị của hệ thống miễn dịch thân thể người. Cho nên nói rằng, nội hàm chữ “Quan” xét từ trên khoa học cũng có thể đưa ra bằng chứng.

Thiện ác đến cùng tất sẽ có báo ứng

Chữ Đầu 头 = Chủ 丶+ Chủ丶+ Đại 大, Chủ 丶 là “Chủ” “主”, từ phương diện lớn mà nói, “Chủ” có thể đại biểu Chủ Tạo Hóa – Thượng Đế. Từ phương diện nhỏ hơn mà nói, “Chủ” có thể đại biểu cho Chủ Nguyên Thần (bản tính) là chủ đạo thân người. Hai dấu chấm (丶丶chủ chủ) đối ứng với ma tính của con người hoặc Satan. Hai cái “Chủ” “丶” trong chữ “Đầu” “头” (Đấu斗) đối ứng với quẻ Tốn trong Bát Quái. Tốn巽 = Tị 巳 + Cộng 共, quẻ Tốn có tượng là “Nhập”“入”. Hàm nghĩa của nó chính là gia nhập tổ chức tà giáo cộng sản Marx, nhận tà giáo Satan cộng sản Marx làm “Chủ” (cái “Chủ” thứ hai).

Trong “Tây du ký”, hỏa nhãn kim tinh của Tôn Ngộ Không chính là luyện xuất lai từ cung Tốn trong lò Bát Quái, mà hoả nhãn kim tinh lại có thể nhận biết yêu ma quỷ quái. Nó thuyết minh một điều rằng cung Tốn là đại biểu Ma cung, tổ chức tín ngưỡng tà giáo cộng sản Marx chính là tín ngưỡng ma giáo Satan, gia nhập tổ chức tà giáo cộng sản Marx chính là gia nhập tổ chức ma cung, là thuộc về con cháu của ma (con cháu Marx Lenin). Nghiệm 验 = Mã 马 Thiêm 佥, “Thiêm” “佥” cũng như “Thiêm” “签”, “Nghiệm” là chỉ việc ký kết thề độc (ấn thú) với tín ngưỡng Satan cộng sản của Marx, trở thành con cháu Marx Lenin, tất sẽ trở thành đối tượng tiêu diệt của virus corona mới! Thiện ác đến cùng tất có báo cũng tất nhiên ứng nghiệm với việc gia nhập tổ chức tà giáo cộng sản Marx, bị tà giáo Satan cộng sản Marx đánh dấu “thú ấn”. Giống như vậy, Kiểm 脸 = Nguyệt 月 + Thiêm 佥, Nguyệt đại biểu tín ngưỡng tà giáo cộng sản Marx, nội hàm “Kiểm” và “Nghiệm” là giống nhau. Phản ánh ra tướng mạo con người chính là nội hàm của chữ “Kiểm” (Nghiệm).

“Thiện ác đến cùng tất có báo” là chỉ thời điểm người ngày nay nhận Satan (tín ngưỡng tà giáo cộng sản Marx) làm “chủ thứ hai”, thì chính là thời điểm thiện ác nhân quả báo ứng đến. Bởi vì đây là lựa chọn “bỏ thiện theo ác”, tất sẽ trở thành đối tượng viêm phổi Vũ Hán tiêu diệt! Nếu như con người có thể thoái xuất các tổ chức của tà giáo cộng sản Marx là đảng, đoàn, đội (Tam Thoái), dĩ nhiên sẽ được xóa đi “ấn thú”, người đó sẽ không thuộc về con cháu Marx Lenin (Nguyên 元), người đó tự nhiên cũng sẽ không thuộc về đối tượng bị virus corona tiêu diệt. Nó thể hiện một trong những ý nghĩa của việc các học viên Pháp Luân Công khuyên “Tam Thoái”! Ý nghĩa “Tam Thoái” thể hiện tại các phương diện, nói thí dụ như lựa chọn thiện ác, lên thiên đường, xuống địa ngục, trở thành Thần tiên hoặc thành ma v.v.. Đối với người hiện đại chỉ tin khoa học mà nói, khả năng không tin những thuyết pháp thần kỳ này. Nhưng từ văn hóa Thần truyền “thần kỳ” mà nói, nó giống như một dự ngôn đang triển hiện, điều còn lại chính là phương thức tư duy của con người và lựa chọn tin vào điều gì mà thôi? …

Tạm kết:

Đối tượng virus corona tiêu diệt chính là ai gia nhập vào tín ngưỡng Satan cộng sản Marx hoặc tất cả “con cháu Marx Lenin” đang nuôi dưỡng tín ngưỡng tà giáo cộng sản Marx! Biện pháp duy nhất tránh viêm phổi Vũ Hán chính là làm “Tam Thoái”. Hoặc nói như là, trong đại chiến chính tà thời mạt thế, trong quá trình “thay đổi tuần hoàn Nhật Nguyệt” với tín ngưỡng Nhật và tín ngưỡng Nguyệt mà trong đó đoàn thể người Pháp Luân Công là chủ đạo, mà lựa chọn đứng về phía đoàn thể Pháp Luân Công, thuận theo Thiên ý đã được thể hiện rõ trong tàng tự thạch ở Quý Châu, thuận theo làn sóng lịch sử “Trời diệt Trung cộng”. Bằng không, tất sẽ trở thành đối tượng bị virus corona mới tiêu diệt!

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/265301