Những ứng nghiệm trong lịch sử của cuốn sách tiên tri «Các Thế Kỷ» (1)

Tác giả: Ban biên tập Chánh Kiến

[Chanhkien.org] Những ứng nghiệm lịch sử từ cuốn sách tiên tri «Các Thế Kỷ» của Nostradamus có thể nói là rất nhiều. Ở đây, chúng tôi chỉ xin đưa ra vài ví dụ để phân tích, bao gồm đại cách mạng Pháp phát sinh, Vua Pháp và Hoàng hậu bị xử tử, sự nổi dậy của Napoleon, Hitler và Đại Thế chiến II, ném bom nguyên tử tại Hiroshima và Nagasaki cũng như sự suy bại của chủ nghĩa cộng sản, v.v. Dưới đây là một vài ví dụ để độc giả tham khảo.

Đại cách mạng Pháp

Liên quan đến đại cách mạng Pháp và sự kiện Vua Louis XVI bị đưa lên máy chém, «Các Thế Kỷ» miêu tả như sau:

Các Thế Kỷ IX, Khổ 20

Nguyên văn tiếng Pháp:

De nuict viendra par la forest de Reines,
Deux pars voltorte Herne la pierre blanche,
Le moine noir en gris dedans Varennes
Esleu cap. cause tempeste, feu, sang tranche.

Tiếng Anh:

By night will come through the forest of Reines,
Two couples roundabout route Queen the white stone,
The monk king in gray in Varennes:
Elected Capet causes tempest, fire, blood, slice.

Tiếng Việt:

Màn đêm sẽ xuyên qua cánh rừng ở Reines,
Cặp vợ chồng chạy quanh co, Hoàng hậu đá trắng,
Vị Vua tu hành trong bộ áo xám tại Varennes:
Capet được bầu gây ra bão, lửa, máu và lát cắt.

Bài thơ này miêu tả cảnh Vua Louis XVI của Pháp bị đưa lên đoạn đầu đài; nước Pháp lúc ấy đang ở đêm trước của cảnh nước sôi lửa bỏng. Ngày 20 tháng 6 năm 1771, Vua Louis XVI phản đối cách tân cùng Hoàng hậu Mary, một người mặc áo xám, một người mặc áo trắng, đã đào tẩu từ hậu cung và dự định hội hợp với quân đội của họ, nhưng trên đường có người nhận ra họ; họ bị bắt tại Varennes, cuối cùng bị đưa lên đoạn đầu đài. Vua Louis XVI yếu ớt bất tài, được người ta gọi là “nhà Vua tu hành”; ông đã được Quốc hội tuyển chọn. Đại cách mạng Pháp là thời kỳ rất hỗn loạn, do đó “lửa”, “máu” đều là những miêu tả thích đáng, còn “lát cắt” là chỉ máy chém.

Có thể nói gần như mỗi câu thơ tiên tri trong «Các Thế Kỷ» chỉ có thể lý giải được sau khi sự việc phát sinh; và sau khi đã hiểu rõ ngọn nguồn, người ta mới kinh hoàng trước tài miêu tả của Nostradamus. Trong một thời gian dài, người ta càng ngày càng tin vào độ chính xác đến kinh người trong những lời tiên tri của Nostradamus, thế nhưng nguyên nhân khiến ông có năng lực tiên tri vị lai như vậy thì vẫn khiến người ta phân vân. Trong rất nhiều dự ngôn trên thế giới, dự ngôn của Nostradamus không chỉ miêu tả sự biến hóa trong nhiều thế kỷ, mà còn rất sinh động và chi tiết.

Danh tự, thân thế và cuộc đời chìm nổi của Napoleon

Các Thế Kỷ VIII, Khổ 1

Nguyên văn tiếng Pháp

PAv, nay, loron plus feu qu’à sang sera,
Laude nager, fuir grand aux surrez.
Les agassas entrée refusera,
Pampon, Durance les tiendra enserrez.

Tiếng Anh:

Pau, Nay, Loron will be more of fire than blood,
to swim in praise, the great one to flee to the confluence (of rivers).
He will refuse entry to the magpies
Pampon and the Durance will keep them confined.

Tiếng Việt:

Pau, Nay, Loron sẽ có nhiều lửa hơn máu,
Để bơi trong tán tụng, kẻ vĩ đại trốn qua ngã ba sông.
Hắn sẽ từ chối lối vào của những kẻ ba hoa
Pampon và Durance sẽ khiến họ bị giam cầm.

Trong bài thơ trên, Nostradamus đã tiên tri về “Pau, Nay, Loron sẽ có nhiều lửa hơn máu”. “Pau, Nay, Loron” là ba tiểu trấn ở miền Tây nước Pháp, hợp lại thành tên của “Napoleon”. “Sẽ có nhiều lửa hơn máu” ám chỉ ông sẽ mang tới chiến tranh. Ngoài ra sở trường về sử dụng pháo binh của Napoleon chính là đổi mởi trong chiến thuật quân sự thời bấy giờ, nhưng phương thức tác chiến này rất khác với sử dụng binh khí trong thời Nostradamus sống, do đó ông đã dùng “sẽ có nhiều lửa hơn máu” để khái quát.

Các Thế Kỷ IV, Khổ 54

Nguyên văn tiếng Pháp:

Du nom qui oncques ne fut au Roy Gaulois,
Iamais ne fust vn fouldre si craintif,
Tremblant l’Italie l’Espagne & les Anglois,
De femme estrangers grandement attentif.

Tiếng Anh:

Of the name which no Gallic King ever had
Never was there so fearful a thunderbolt,
Italy, Spain and the English trembling,
Very attentive to a woman and foreigners.

Tiếng Việt:

Cái tên mà không vị Vua Pháp nào từng có
Chưa từng có tiếng sét nào sợ hãi đến như vậy,
Ý, Tây Ban Nha và người Anh run sợ,
Rất chú tâm tới một phụ nữ và những người ngoại quốc.

Đây chính là miêu tả Napoleon từ bình dân lên làm Hoàng đế, tên của ông khác với bất cứ vị Vua Pháp nào trong lịch sử. Cái tên “Bonapartere” khiến cả Châu Âu run sợ, thế nhưng vợ và tình phụ của Napoleon thì lại không phải là người Pháp bản địa.

Các Thế Kỷ I, Khổ 32

Nguyên văn tiếng Pháp:

Le grand empire sera tost translaté
En lieu petit, qui bien tost viendra croistre
Lieu bien infime, d’exigué comté.
Ou au milieu viemdra poser son Sceptre.

Tiếng Anh:

The great Empire will soon be exchanged
for a small place, which soon will begin to grow.
A small place of tiny area
in the middle of which he will come to lay down his scepter.

Tiếng Việt:

Đế chế vĩ đại sẽ sớm bị đổi
Thành một nơi nhỏ sẽ sớm bắt đầu phát triển.
Một nơi nhỏ của một khu vực bé nhỏ
Ở giữa nơi mà hắn sẽ tới để đặt cây quyền trượng.

Napoleon là một thiên tài quân sự hiếm thấy. Chiến thuật sáng tạo, dũng khí và nghị lực khiến ông một bước lên mây, từ một sĩ binh lên tướng quân, rồi lại từ tướng quân lên Hoàng đế. Sự hùng mạnh quân sự của Pháp đã một lần khiến toàn cõi Châu Âu run sợ. Thế nhưng thịnh cực thì tất suy; đầu năm 1814, Napoleon đại bại và bị lưu đày đến đảo Elba, đây chính là “Đế chế vĩ đại sẽ sớm bị đổi thành một nơi nhỏ”; thế nhưng sau đó ông chạy trốn khỏi đảo và trở về Paris, chính là “sẽ sớm bắt đầu phát triển”. Cuối cùng, sau khi chiến bại trong trận Waterloo, ngày 22 tháng 6 năm 1815, Napoleon bị bức bách thoái vị, sau đó bị quân đồng minh lưu đày ra đảo St. Helena, “Một nơi nhỏ của một khu vực bé nhỏ”. Napoleon sống nốt quãng đời còn lại ở đây và chết bệnh khi mới chỉ 52 tuổi. Do đó Nostradamus đã đề cập: “Ở giữa nơi mà hắn sẽ tới để đặt cây quyền trượng”.

Danh tự của Hitler

Các Thế Kỷ II, Khổ 24

Nguyên văn tiếng Pháp:

Bestes farouches de faim fleuues tranner,
Plus part du camp encontre Hister sera,
En cage de fer le grand fera trainner,
Qunad Rin enfant Germain obseruera.

Tiếng Anh:

Beasts ferocious from hunger will swim across rivers:
The greater part of the region will be against the Hister,
The great one will cause it to be dragged in an iron cage,
When the German child will observe nothing.

Tiếng Việt:

Những con thú đói hung ác sẽ bơi vượt qua sông:
Phần lớn hơn của cả vùng sẽ chống lại Hister,
Kẻ hùng mạnh sẽ khiến nó bị kéo vào một chiếc lồng sắt,
Khi những người con của nước Đức sẽ không quan sát gì.

“Hister” ở đây chỉ đích thị “Hitler”, và câu cuối cùng đã chỉ rõ tên nước Đức. Nghe nói vào quãng năm 1939, Hitler đã tự mình phát hiện lời tiên tri này là nói về mình, sau đó ông ta đã tuyên truyền rộng rãi để xác lập uy danh cá nhân.

Hiroshima và Nagasaki bị ném bom nguyên tử

Các Thế Kỷ II, Khổ 6

Nguyên văn tiếng Pháp:

Aupres des portes & dedans deux citez
Seront deux fleaux onc n’apperceu vn tel,
Faim dedans peste, de fer hors gens boutez,
Crier secours au grand Dieu immortel.

Tiếng Anh:

Near the gates and within two cities
There will be two scourges the like of which was never seen,
Famine within plague, people put out by steel,
Crying to the great immortal God for relief.

Tiếng Việt:

Gần những cánh cổng và trong hai thành phố
Sẽ có hai tai họa theo cách chưa từng được thấy,
Nạn đói trong bệnh dịch, con người bị loại bỏ bởi thép,
Khóc trước Thượng Đế bất tử để cầu giải thoát.

Năm 1945, Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật, tạo thành tai họa chưa từng được thấy. Trong thời đại “sắt thép” Đại Thế chiến II, con người đã bị bom nguyên tử “loại bỏ”. “Khóc trước Thượng Đế bất tử để cầu giải thoát” là biểu hiện thường tình khi người ta trong tai nạn.

Lời tiên tri về đảng cộng sản

Mặc dù trong hơn 400 năm qua, các nghiên cứu về tiên tri của Nostradamus có rất nhiều, và người ta đều biết dự ngôn của ông là siêu việt thời-không, luôn luôn ứng nghiệm; thế nhưng, hơn 400 năm sau, sau khi sự kiện phát sinh thì người ta mới cảm thán trước tài tiên đoán của nhà tiên tri. Dưới đây là một số bài tiên tri nói về thời đại ngày nay:

Các Thế Kỷ I, Khổ 14

Nguyên văn tiếng Pháp:

Mars nous menasse par sa force bellique,
Septante fois fera le sang espandre,
Auge & ruyne de l’Ecclesiastique,
Et plus ceux qui d’eux rien voudront entendre.

Tiếng Anh:

Mars threatens us with the force of war
and will cause blood to be spilt seventy times.
The clergy will be both exalted and reviled moreover,
by those who wish to learn nothing of them.

Tiếng Việt:

Mars đe dọa chúng ta với vũ lực của chiến tranh
Và sẽ khiến máu chảy bảy mươi lần.
Tăng lữ sẽ vừa được tán tụng vừa bị xỉ vả,
Bởi những kẻ không muốn học hỏi gì từ họ.

Theo nghĩa rộng, bài thơ này có thể là nói về sự suy yếu của tôn giáo thời cận đại. Khoa học không thể chứng thực sự tồn tại của Thần, thế nhưng lại có thể cấp cho người ta lợi ích vật chất. Nó khiến người ta không còn tin vào Thần nữa, khiến giới tôn giáo ngày càng tai tiếng, khiến họ mất uy tín trong mắt công chúng, và khiến tín ngưỡng tôn giáo trở thành hình thức. Còn có một giải thích khác không xung đột với giải thích trên, mà càng chỉ ra cụ thể hơn. Trong «Các Thế Kỷ», “Mars” thường được dùng để chỉ “Marx”, cách dùng từ này cũng tương tự với dùng “Hister” để đại diện “Hitler” như đã nói ở trên. Điều này càng minh xác chỉ ra rằng tư tưởng trung tâm chủ nghĩa “Marx” của đảng cộng sản là phá hoại tôn giáo. Đảng cộng sản được thành lập ở Liên Xô từ năm 1917, đến năm 1987 trải qua cải tổ ở Liên Xô, tổng cộng duy trì được 70 năm. Tới năm 1991, Liên Xô chính thức giải thể. Trong 70 năm này, đảng cộng sản đã phát động rất nhiều đợt trấn áp đẫm máu, “Và sẽ khiến máu chảy bảy mươi lần” ở đây là đại diện cho con số ấy.

Đảng cộng sản chủ trương “thuyết vô thần”; họ giả vờ cho phép một số tôn giáo tồn tại, nhưng thực tế lại trấn áp và bức hại tôn giáo không chùn tay. Ví dụ phía Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) chỉ định Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền Đạt Ma ở trong nước, thế nhưng người Tây Tạng chỉ nhìn nhận một mình Đại Lai Lạt Ma lưu vong ở hải ngoại. ĐCSTQ nâng đỡ “Giáo hội ái quốc”, nhưng lại bức hại nghiêm trọng những người tín ngưỡng Cơ Đốc giáo chân chính. “Tăng lữ sẽ vừa được tán tụng vừa bị xỉ vả, Bởi những kẻ không muốn học hỏi gì từ họ”, nghĩa là tự do tôn giáo duy trì trên bề mặt chỉ là giả tượng, còn thực tế là bức hại tôn giáo.

Nostradamus tiên tri rất nhiều về nước Pháp và Châu Âu, thế nhưng ông cũng nhiều lần đề cập đến Châu Á và phương Đông. Vào thời đại mà ông sống thì Châu Mỹ còn chưa được phát hiện, thế nhưng ông đã dự kiến về vai trò của Nhật Bản tại Đông phương trong Đại Thế chiến II, cũng như tình huống về xã hội thông tin như ngày nay.

Cuộc thảm sát Thiên An Môn năm 1989

Các Thế Kỷ IV, Khổ 49

Nguyên văn tiếng Pháp:

Deuant le peuple sang sera respandu,
Que du haut ciel ne viendra eslongner :
Mais d’vn long-temps ne sera entendu,
L’esprit d’vn seul le viendra tesmoigner.

Tiếng Anh:

Before the people blood will be shed,
Only from the high heavens will it come far:
But for a long time of one nothing will be heard,
The spirit of a lone one will come to bear witness against it.

Tiếng Việt:

Ngay trước mặt nhân dân, máu sẽ chảy,
Chỉ từ trên Thiên Đường nơi cao, nó sẽ đi xa:
Nhưng trong một thời gian dài sẽ không nghe thấy gì,
Tinh thần của một người cô độc sẽ làm bằng chứng về nó.

Bài thơ này khiến người ta liên tưởng đến cảnh tượng ngày 4/6/1989 trên quảng trường Thiên An Môn tại Bắc Kinh, khi sinh viên và dân chúng Trung Quốc bị thảm sát dã man. Mấy chục năm sau, những tiếng hô hào dân chủ của học sinh, sinh viên năm nào đã dần rơi vào quên lãng, thế nhưng hình ảnh Vương Duy Lâm một mình chặn xe tăng, “Tinh thần của một người cô độc sẽ làm bằng chứng về nó”, vẫn được chiếu lại trên TV như một ký ức của nhân dân toàn thế giới tự do.

Tại phương Tây, Nostradamus là nhà tiên tri có sức ảnh hưởng lớn nhất, thế nhưng hiện tại rất nhiều người mặc dù đang bàn luận về dự ngôn của ông nhưng vẫn chưa tìm được đáp án.

Ghi chú: Để hiểu được toàn bộ nội dung «Các Thế Kỷ», mời quý độc giả đọc loạt bài “Những vần thơ cứu thế — Tận giải «Các Thế Kỷ» của Nostradamus“.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2005/2/28/31170.html