Thập Luận {KIM CANG KINH} (1)

Tác giả: Tần Chính

[Chanhkien.org] Lời của toà soạn: Loạt bài này là tác giả căn cứ sự lý giải của chính mình đối với luận thuật kinh Phật của Kim Cang Kinh. Chúng tôi cảm thấy bài văn này đối với giảng chân tướng cho nhân sĩ của tôn giáo có giá trị tham khảo nhất định, nên đã chuyển đăng tại đây. Đối với đệ tử Đại Pháp không có liên can đến giảng chân tướng với nhân sĩ tôn giáo mà nói, là không cần thiết phải đọc. Hy vọng mọi người lấy Pháp làm thầy, làm tốt ba sự việc mà Sư Phụ yêu cầu chúng ta làm.

(Theo Ban biên tập báo Nhân Dân: Thập Luận {KIM CANG KINH} là những tâm đắc tham khảo kinh Kim Cang giữa ông Tần Chính với bạn bè trong giới Phật giáo).

Lời nói đầu

Nhân loại rất khó rút tỉa bài học kinh nghiệm, cho dù luôn chú ý “tổng kết kinh nghiệm”. Những năm Thích Ca truyền Pháp, Bà La Môn đã mạt Pháp dùng đủ mọi phương diện cản trở thậm chí hãm hại ông và đệ tử của ông.

Giê-Su giáng trần, những văn sĩ Do Thái giáo đã bại hoại gây ra thù hận xã hội, cuối cùng đóng đinh Cơ Đốc tại thập tự giá. Khổng Tử chu du Lục Quốc giảng Nho Đạo đại thành, bị bao vây tại Khuông, vây hãm hại tại Trần, bị chế giễu như “hoang mang như con chó mất nhà”.

Lão Tử nhìn thấu thói đời thay đổi bất thường. Nếu không phải đệ tử Doãn Mật Hi này vướng víu, e ngại rằng Ngũ Thiên Ngôn cũng bằng không để lại người đời sau.

Nhưng mà trong thời gian từ từ đi qua, Thích giáo tích lũy thế lực hình thành hai ngàn năm trăm năm, thịnh hành trên thế gian. Cơ Đốc Giáo sau khi trải qua sự bức hại tàn khốc hơn ba trăm năm của đế quốc cổ La Mã, hôm nay trở thành tôn giáo trụ cột trong thế giới Tây Phương, tư tưởng Nho Giáo của Khổng Tử đã trở thành tư tưởng trọng tâm của Trung Quốc mấy ngàn năm, mà Tiên Pháp cao diệu của Đạo gia cũng rất khiến nhiều người say sưa kể lại. Lúc này, con người đại khái đã quên mất quá khứ của họ, càng không biết rút tỉa bài học kinh nghiệm với thái độ hiện giờ.

Tại đây cần phá giải chính là Kim Cang Kinh và Tâm Kinh từ xưa đến nay mà môn đồ Phật Giáo tôn như khuôn mẫu. Thật sự mà nói, giải Kinh chẳng phải là nguyện ý của chúng ta, nhưng chúng sinh hôm nay lấy tình cảm chứ không phải lấy lý tính mà si mê những điều luận thuật tự mình không hiểu rõ, thêm vào đó những kẻ có dùng tâm thái khác nhau giải sai luận lầm, đã khiến những thứ ấy trở thành một chướng ngại lớn cho mọi người tiến đến Giác Ngộ, khai mở Chánh Kiến. Nhất là những cư sĩ, nhân sĩ trong giới Phật Giáo, mong có thể tịnh tâm suy xét lập trường của mình, lấy lý tính hằng lượng sự lựa chọn đương thời. Lịch sử cuối cùng sẽ đi qua một trang thời đại rối ren chưa từng có, bắt đầu mở ra Kỷ Nguyên thanh minh và tráng lệ không gì sánh bằng, nhưng trước đó sự mới cũ thay thế và đào thải, lại là một điểm ranh giới liên quan đến vận mệnh cuối cùng của sinh mệnh. Cho nên lấy thơ gợi ý rằng:

Chao ôi____ thở dài____
Nguy ơi chúng sinh!
Chánh Pháp Lăng trì, tà Sư nói vân vân;
Thiên Điạ vô Chánh nhãn, chỉ đem tiền làm căn.
Đâu biết sinh mệnh! Đâu biết thăng trầm !

“Nhiều lần” răn dạy đã quên dần, chỉ nhớ hình đầu trọc.
Nước suối nhơ bẩn muốn giặt áo, vết bùn không phân rõ.
Phật môn đã không tịnh,
Lấy gì để thanh tịnh? Lấy gì để tẩy tâm?

Đã từng ngàn năm thành đọc sách, nay chỉ còn danh bóng.
Hà lai phong vũ gõ lệ minh, ai mà xem rõ rệt?
Phong vân phất phơ nói ngàn năm, mấy người biết được Chân?
Chẳng lẽ luân hồi ba ngàn kiếp, vẫn còn chưa bình lặng?
An đắc thiên phong quét âm la, tái tạo tân địa thân!

Thu Sơn thanh thanh gọi Chánh Pháp,
Nước đục sóng cả mong thanh minh.
Tứ đại phong hoá ai tái tạo?
Luân chuyển càn khôn giác [ngộ] mê [hoặc] [trầm] luân.
Quy chân, Quy chân,
Mãi đến Tam tài thanh thuần !

Ván cờ sắp tàn tận, thang mây chỉ vân tiêu.
Khả than thiên hạ vẫn si mê, chỉ biết chơi mê hồn.
Người nào mới đào hồ tẩy tâm, tôi đem bích huyết nhẩm quần sinh.
đào đi cấu bẩn ra tịnh quang, tái thính thiên nhạc tai tạm rõ !
Chao ôi___ thở dài___

Tĩnh! Tĩnh! Tĩnh!

Đệ nhất luận trong Thập luận Kim Cang Kinh

1. Xưa nay Kim Cang Kinh và Tâm Kinh là kinh điển mà Phật Giáo Đại Thừa coi trọng nhất, nghĩa gốc của kinh điển là khai thị chân lý vũ trụ đối với Phật đương thời đã lĩnh ngộ, đối với học giả mà nói, là tiêu chuẩn tham chiếu đọc thường xuyên để tu chánh bản thân, đề cao bản thân, vì bổn nghĩa của kinh như vậy, chẳng phải cho người đọc giải trí, mà là sau khi lý giải và hấp thụ tâm Pháp và thực hành theo. Nếu như đọc không hiểu, mãi mê hoặc không lý giải được, đó không chỉ vô ích, nếu nghe theo lý giải sai mà khiến bản thân đã vào ngục tu “đố mê” còn chưa biết, vậy thì càng đáng bi ai. Bởi vậy, Tần Chính quyết định bắt đầu từ hôm nay đem mười luận giảng Kim Cang Kinh, quyết chí nói hết bổn nghĩa của kinh điển, nối tiếp quá khứ vị lai, chư vị độc giả đừng nên ngông cuồng dựa theo cảm tình, nếu chư vị thực sự cầu chứng chân lý của sinh mệnh, thăm dò chân nghĩa của Phật Pháp, vậy thì hãy bình tĩnh thản nhiên đọc tiếp, nếu chỉ lấy tình huống sở thích để duy hộ người nào, Giáo nào, vậy ở trong mắt của người thực sự tu Đạo, thì bản thân rất là ngu xuẩn ngoan cố đáng cười. Lại đâu đáng kể.

2. Kim Cang Kinh còn gọi là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, xưa nay giáo đồ Phật Giáo giải thích hai chữ Kim Cang là “bất động”, lại có người gọi là “như như bất động”. Thật ra sinh mệnh trong tình mê, giảng “bất động” ấy chỉ là một cách cưỡng ép, không tin thì chư vị quan sát đối chiếu “tâm” của mình. Một người chưa đạt đến hoàn toàn ở trong Pháp đang còn chứng thực viên mãn lại nói mình “bất động tâm”, hoặc là một loại tự lừa dối trông mà không thấy, hoặc là một loại tự nâng cao chính mình. Kim Cang là miêu thuật tỉ dụ cảnh giới chân thật của Phật tính bất biến, lại không phải là người đã cho rằng đặc tính của “đá kim cương” mà có thể đơn giản bao quát , đó là cảnh viên mãn của một chủng vô vi tự tại dung hoà đồng hóa tất cả lại không nhập vào tất cả, đối với người tu luyện mà nói là một chủng tối thượng trí tuệ, nên gọi là “bát nhã”. Lại bởi vì chủng cảnh giới ấy chỉ có tự nhiên mà đạt đến, nếu không có thực tu chân thật làm căn bản, nói một ngàn kể một vạn, rốt cuộc như là giảng mùi vị của trái lê cho người chưa từng ăn trái lê, giảng tuyết là thứ gì cho người chưa từng nhìn thấy cảnh tuyết, giảng mùi thơm say mê và mùi vị ngọt ngào của Ba La Mật (quả mít) cho người chưa từng đích thân thử qua mùi vị Ba La Mật (quả mít).

3. Kim Cang Kinh là một lần khi giải Pháp thông qua Tu Bồ Đề lẫn đại Tỳ Kheo giảng ra cảnh chân thật siêu thoát ngoài Tam giới của tính không tự tại, Phật tính vô lậu. Người trong quá trình tu luyện, thông qua đại Đạo Chính Pháp, kiên định thực tu, chỉ hỏi trao ra, không nói đến thu hoạch, thì tự nhiên có thể minh ngộ đạt đến, đạt đến thì tự nhiên minh bạch, đó không phải đến từ cầu bên ngoài, mà là kết quả tự nhiên mà nên của một chủng viên mãn tu vi Chính đạo. Trong một tầng thứ ấy, hết thảy Phật Đạo Thần đều là đặc tính ấy, là phổ thông như người có sẵn hình tượng con người, cho nên cũng không phải như rất nhiều người không rõ sự thật mà lấy tình người đoán mò vậy.

4. Vì là giải Pháp, chính là giải thích Pháp lý trong khi trả lời, nên tất nhiên là có tính châm đối. Thì giống như một giáo sư tốt giải đáp nghi vấn cho học sinh, khi họ đột phá tầng thứ khiến họ buông bỏ ràng buộc của cái khung cố hữu, giống như khai mở chánh kiến tiến trình mới. Thí dụ, giáo sư Vật lý mới đầu giảng kinh điển lực học Newton, đã giảng rất nhiều định nghĩa, định nghĩa ấy rất quan trọng trong giai đoạn này với học sinh để nắm vững quy luật vật lý cho thế giới mặt phẳng, hơn nữa xác thực có thể giải quyết rất nhiều vấn đề hiện thực. Nhưng bất cứ một loại định nghĩa có hạn ở trong khung của định nghĩa, khi vượt ra khỏi phạm vi định nghĩa, thì ngược lại trở thành chướng ngại to lớn đến việc hướng tới để tìm tòi chân lý. Cho nên thì phải “Phá”, tỉ dụ như “luận tương đối” của Einstein (luôn tiện nói một chút, cách nói này đều rất là không chính xác, không phải luận tương đối của Einstein, chỉ bất quá là ý Thần an bài ông ta khai mở cho người lý luận này, ông ta chỉ bất quá là đem chân lý của tầng diện nhất định vạch mở ra mà thôi). Tương tự, Thích Ca giảng Như Lai Pháp, không phải Như Lai Pháp của Thích Ca Mâu Ni, cũng chỉ bất quá là ý Thần an bài ông ta đến để giảng đạo lý này cho nhân loại, thật ra ở sinh mệnh ở tầng thứ ấy đều biết rõ [Như Lai Pháp] giống như người biết ăn cơm vậy. Thích Ca cũng giảng, Như Lai như số cát của Sông Hằng. Nên người thông minh tuyệt đối sẽ không dùng tình cảm để cản trở chính mình, mà là bình tĩnh lý trí mà phân tích, cầu được chân Đạo, phải như chúng sinh ngu muội bất quá suốt đời đầu óc đầy kinh điển, đến khi chết không một thu hoạch.

5. Bởi vì giải Pháp, đối với đại Tỳ Kheo mà nói, thì không cần phải giảng sự quan trọng của bài cơ bản như chịu khổ, hành thiện, tiêu nghiệp v.v… nữa. Năm xưa Thích Ca truyền Pháp, tất nhiên cũng là “lấy nhân tượng hành tại thế gian, lấy nhân ngôn thị Pháp lý”. Đó là thiên định, nhất định, vì sinh mệnh của nơi người là đã trở nên không tốt rơi xuống, là từ bi của Thần cho người thêm một lần cơ hội, nên đã tạo dựng không gian mê này, cho con người một thân xác, năng lực thấp và phiền não này, Thần Thức đều bị phong tỏa, mong trong mê mà cầu nhất ngộ, có thể ngộ được thì đề cao và trở về, ngộ không ra trở nên càng hư xấu thì tiêu hủy. Nên không có một Sư Phụ chính truyền nào lại lấy phương thức Thần thông đại hiển đến truyền Đạo truyền Pháp. Nếu như vậy thì không tồn tại vấn đề ngộ trong mê, dưới tình huống không còn mê nữa thì kẻ thập ác bất xá cũng muốn đến tu, những ma làm loạn cũng sẽ theo mà tu, ai mà không tu? Nhưng mà, làm như vậy thì trước hết người truyền Đạo truyền Pháp đã phá hoại Pháp lý của vũ trụ, ông ta phải rớt xuống trước tiên, phải chịu hủy diệt, ai dám làm như vậy? Vì quá khứ cho người biết được cảnh giới tối cao của Phật chính là Như lai, cao hơn nữa là không cho phép con người biết được, vũ trụ có nguyên tắc “ẩn” mà, người hậu thế không rõ nguyên nhân thì cho rằng Như lai là “cao nhất”, họ dùng quan niệm đẳng cấp của người, tâm biến dị háo danh để đo lường những việc ấy, mãi muốn truy cầu cảm giác siêu thường hơn người. Kết quả khiến bản thân càng thêm mê hoặc một cách đáng cười. Họ không hỏi: giả sử Như Lai là cao nhất, Như lai là thành tựu như thế nào? Nhất định còn có Pháp thành tựu Như Lai? Cho nên nói, sau này Phật Giáo truyền đến Trung Quốc, mãi có tranh đấu với Nho Giáo nguyên thuỷ và Đạo Giáo, có lúc rất là kịch liệt. Trong lịch sử Tam Võ diệt Phật, chính là lúc rất là cực đoan, đương thời Tam Giáo thường xuyên biện luận, trong cung đình còn có Hoàng Đế đích thân chủ trì, vậy những đồ đệ Thích Giáo soạn ra một số câu chuyện, như là Thích Ca hạ thế khi sanh ra liền đi bảy bước, nói “Thiên thượng địa hạ duy ngã độc tôn” đó là phỉ báng Phật Thích Ca Mâu Ni, không phải ca tụng ông, nếu ông làm như vậy, trước tiên ông sẽ rớt xuống. Huống chi phải dùng đến phương thức thông qua đầu thai người chuyển sinh, còn bao gồm nội hàm rất là quan trọng: để hiểu được nỗi khổ con người cho nên từ bi, thông qua đích thân thể nghiệm, “đồng tác” với người, mới có thể hiểu rõ thế giới nội tâm của người, nỗi đau khổ thực sự và tánh tình, đặc điểm, trạng thái của họ. Sau khi khai ngộ mới có thể cứu độ họ một cách châm đối. Chính vì bởi bề ngoài sau khi Phật Đà đắc độ, người thường nhìn không ra, vì con người mê hoặc trong hành thức nhục thân này, năng lực rất là thấp kém, cho dù là tận mắt nhìn thấy Thần thông, đương thời chỉ kích động một chút, qua rồi lại nghi hoặc, chính là lý do như vậy. Khi Thích Ca truyền Pháp, có người tin, có người không tin, thậm chí có kẻ hãm hại ông cũng có. Dù rằng những người tin ông cũng chia làm Thượng, Trung, Hạ sĩ. Những bậc thượng sĩ vừa nghe Phật Đà giảng chứng Chánh Pháp, bản nguyên tâm hội, thì sanh tịnh tín, làm theo yêu cầu của Thích Ca, xuất gia tu hành, theo Phật Đà, cố gắng chuyên tâm tinh tấn cầu Chánh giác viên mãn. Những đệ tử thường xuyên bên cạnh Thích ca, chính là đại Tỳ Kheo đã thường xuyên nói trong sách, chính là đệ tử thượng tọa bộ, còn những bậc trung sĩ hoặc có tín tâm mà vẫn còn lo lắng e ngại hay công danh của thế tục buông không khỏi, chính là đệ tử hạ tọa bộ đương thời, ngoài ra còn có những người ba ngày đánh cá hai ngày phơi lưới theo kiểu nửa tu nửa không. Xưa nay Thánh Giác truyền Pháp phổ độ một cách rộng rãi, cũng đều tránh không khỏi tình huống như vậy.

6. Đã là như vậy, vì Phật Thích Ca đã tọa dưới cây bồ đề bảy bảy bốn mươi chín ngày dứt bỏ phiền não, nhân dục và chấp trước và đạt khai ngộ, chứ không phải một bước thì đạt đến Quả vị Như lai, trong truyền Pháp bốn mươi chín năm sau này, ông cũng là dần dần thăng hoa, mãi đến tuổi già đạt đến cảnh giới Như Lai, bộ kinh này chính là ông giảng khi đến tuổi già, do vậy đối với đồ đệ Phật Giáo mà nói đương nhiên là Như lai giảng Pháp, rất là quan trọng. Rất nhiều người cho rằng Thích Ca chính là thông qua đã tọa bảy bảy bốn mươi chín ngày dưới cây bồ đề mà khai ngộ, nhưng đã quên mất tu hành trước đó và sáu năm khổ hành của ông, thật ra là quá trình hoàn thành tiêu giảm nghiệp lực của sinh mệnh. Sau khi Thích Ca khai ngộ, đầu tiên truyền chính là Pháp La Hán, bài vở trong đó rất cơ bản, con đường trọng tâm của Pháp ông ta chính là “Giới Định Huệ”. Khi Thích Ca tại thế, Ấn Độ còn chưa có văn tự, năm xưa Thích Ca dẫn đệ tử cũng không cần tín đồ đọc kinh sách, vì không có kinh sách mà đọc, mỗi ngày chính là ba sự việc: Thích ca giảng Pháp, sau đó dẫn họ đi khất thực, kế tiếp là đả tọa thực tu, tu thiền định, mỗi ngày đều như vậy. Thời kỳ đầu, Thích ca dẫn đệ tử tu hành trong rừng, trong hang núi, mỗi ngày một bữa ăn, ngủ dưới gốc cây, mỗi ngày chỉ là gần trưa đi xin một bữa cơm. Sau đó thì là trường kỳ đả tọa tập thể nhập thâm định, đó rất là khổ sở. Bởi vì khổ cực, một số đệ tử vẫn chịu không nổi, ban đêm âm thầm cởi bỏ áo cà sa chạy về nhà, đã có lúc xảy ra vậy, bất luận môn Chánh Pháp nào, đều sẽ không ép người ta phải theo, đó cũng tất nhiên trở thành khảo nghiệm và một bộ phận cơ chế của đào thải: Đạo Pháp tự nhiên, chỉ có kiên định thật tu, bền bỉ bất khuất, cuối cùng mới có thể khai ngộ đắc Chánh quả. Lúc ấy bởi vì luyện công tập thể, thực phẩm cần thiết có lúc sẽ rất ít, thêm vào đó Ấn Độ vốn là khí hậu ẩm ướt, người rất thích ăn hành gừng tỏi .v.v… Lúc bình thường con người sinh hoạt thế tục vẫn chưa cảm thấy có vấn đề lớn, chỉ là miệng có mùi lạ (do ăn hành gừng tỏi) mà thôi, cũng vì nhân tâm không tịnh. Học thuyết ngũ hành cổ xưa của Trung Quốc, chú trọng ngũ hành phối hợp ngũ khí, vạn sự vạn vật trong cảnh giới này của thế giới chúng ta là có thể giải thích thông qua lý ấy, người thường cảm thấy hành gừng tỏi sẽ có giúp ích trị liệu cho một số bệnh, là bởi vì bản thân nó bao gồm chút độc tố, thuộc về âm tính, khí của nó rất đục, khi người trong thiền định thâm sâu, mùi vị ấy sẽ khiến người sặc, ảnh hưởng đến người nhập định. Nên năm xưa ngoại trừ ác đạo minh hiển của tham, dâm, sát .v.v… xem hành gừng tỏi là “huân”, không cho phép ăn, huân chính là hỗn. Năm xưa xác thực là không có cấm thịt, thịt cũng không bị coi là “huân”, vì dân số Ấn Độ đương thời không như hiện tại, rất là ít người. Nguyên Ấn Độ Lục địa nhỏ tổng cộng hơn hai trăm quốc gia, rất nhiều nơi đều là rừng rậm nguyên thủy, phương thức canh nông còn chưa phổ cập, thức ăn rất hiếm, thậm chí rất nhiều người nhờ săn thú mà sinh tồn, vì Phật Thích Ca cần để đệ tử buông bỏ tâm niệm của thế tục, dùng phương thức đoạn tuyệt nhanh chóng tham sân si dục trong nhân dục, ông dùng dựng nên chế độ xuất gia, vì phải giải quyết vấn đề thực phẩm, dẫn theo đệ tử khất thực hóa duyên, người khất thực không thể lựa chọn thực phẩm, thì đương nhiên không thể chọn thịt hoặc không phải thịt.

7. Nói đến khất thực. Sau này Phật Giáo gọi là hóa duyên, thật ra khái niệm hoá duyên rất lớn, bởi vì phương thức trạng thái tu luyện bất đắc dĩ đương thời mà chọn lấy phương pháp khất thực, đồng thời trong quá trình khất thực, các đệ tử phải đề cao tâm tính, nối duyên kết duyên, lấy phương thức khác nhau cho chúng sinh kết thiện duyên. Vì đồ đệ Phật Giáo chọn lấy phương thức cứu độ chúng sinh, nhất định sau khi thành tựu có thể lợi ích càng nhiều chúng sinh, trước mắt mượn họ một bữa cơm, sau này báo trả siêu thoát trùng sinh, cũng là một viên dung từ bi của Phật Gia: vừa giải quyết sự cần thiết trên phương thức tu luyện, lại kết nạp thiện duyên sau này cứu độ chúng sinh. Sau này Phật Giáo truyền đến Trung Quốc, bởi vì cao tăng Phật Giáo Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đến Trung thổ do Minh Đế Lưu Trang thời Đông Hán mời đến, quan niệm đại đa số nơi Trung Quốc lại cho rằng “khất thực” thế nào cũng không thể nào là người đại đức đại trí, vả lại rất khinh thường, cho rằng là không lao động mà ăn, nên đã xuất hiện vài sự thay đổi trên hình thức tu hành của Phật Giáo. Từ nơi Hoàng tộc mà nói, mời bậc Thánh đến để đi khất thực, cảm thấy không có thể diện, nên do quốc gia xây nơi cư ngụ cho chúng, lẫn do quốc gia ban đất và cung dưỡng, vì đầu tiên nghỉ chân tại Hồng Lư Tự (chính là khách sạn dành cho ngoại giao). Lại vì Lưu Trang trong mộng thấy ngựa trắng mang kinh sách đến từ phía Tây, nên đặt tên “Bạch Mã Tự”, từ đó về sau nơi cư ngụ của hoà thượng đều thêm chữ “Tự”. Vì muốn Phật Pháp được truyền bá tốt hơn nơi Trung Thổ, Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan cũng phải thích nghi với hoàn cảnh đương thời, cầm bát khất thực sau này chỉ là khi vân du mới dùng đến. Nhưng lúc ban đầu chế độ “vân du” rất là nghiêm ngặt, cũng là “một bình một bát”, chẳng có vật khác. Tại viện tự, vì Phật Giáo giảng xuất gia (‘tứ đại giai không’ do Thích ca giảng có nội hàm cao hơn, không phải không có, mà là hoàn toàn không chấp trước, sau này trở thành câu thiền trên miệng của họ). Xuất gia vô gia, viện tự chẳng phải là nhà, cũng không xem như là nhà, mà là phải xem như trường học. Viện tự chính là tùng lâm, đại học của Phật Giáo, chính là học đường của Phật gia, đó mới là thực chất. Đã là trường học thì có một quá trình dạy học và thăng cấp, viện tự thời đó, chế độ rất là nghiêm khắc, cũng chiểu theo ngày ăn một bữa. Thiền đường đọc kinh, Thiền phòng đã tọa, Thiền phòng đều là thông suốt, cùng nhau tinh tấn, vì để mở mang trí óc, hai tôn giả đem bộ phận then chốt trong giáo nghĩa chủ yếu của Phật Đà, thông dịch ra một bản đọc đơn giản chủ yếu, đó chính là: Tứ thập nhị chân kinh, vì nhập Phật môn, thì mục đích rất là minh xác, chính là kiên định dũng mãnh cầu Chính giác, tận sức nhanh chóng phá mê khai ngộ, chịu khổ thực tu, đoạn tuyệt dục, tiêu diệt tục đương nhiên chính là ý nghĩa tất yếu, đối với thực phẩm cho đến nơi cư ngụ, là không lựa chọn. Miếu đường xưa kia, cũng không có tượng khắc nhiều như vậy, chủ yếu là kinh điển. Sau này từ từ từng bước một, vì Phật Giáo đi vào giai đoạn “tướng Pháp” (chính là con người không có ngộ tính linh minh cao vậy, ô nhiễm của hậu thiên càng nặng hơn, phải tìm một gương mẫu, lợi dụng trang nghiêm bề ngoài mà thu hút chúng sinh đến tu học Phật Pháp), do vậy kiểu cách kiến thiết của viện tự, tăng thêm giáo cụ và giới luật tiến thêm bước hoàn chỉnh, các đại đức trong các thời đại đều không ngừng xây dựng hoàn bị. Xưa kia hòa thượng không nấu ăn, sau này dựng nên viện tự, khi nấu ăn mùi thịt thơm bay đến rất hấp dẫn người, vấn đề này cũng nổi cộm lên. Vì để bảo đảm thanh tịnh của định thiền và đọc kinh, sau này đã quy định không cho phép ăn thịt. Thịt dần dần ra khỏi bàn ăn của đồ đệ Phật Giáo, tự nhiên cũng mở rộng ra một số lý luận, đó cũng là khả năng biểu hiện của Phật Pháp viên dung. Nhưng ý nghĩa không cho ăn thịt, là đừng để người khởi chấp trước mạnh mẽ với thịt, chứ không phải là không ăn thịt là đại diện cái gì. Bởi vì bản thân chấp trước đối với thức ăn thế gian chính là một chướng ngại mạnh mẽ, là quan ải thuộc tính ngu muội của thân xác. Sau này có những tín đồ Phật Giáo đã làm món ăn chay nào là “Mãn Hán toàn tịch”, “yêu hoa xào chay”, “thịt nạc hầm chay” .v.v.. còn mạnh dạn mà nói: chúng ta không có ăn thịt, thực sự là hoàn toàn đảo ngược định nghĩa không ăn thịt, chấp trước đối với mùi vị thức ăn còn tệ hại hơn nữa, lại còn cảm thấy tự bản thân “tu được thanh tịnh”. Trong tầm mắt của người thật sự tu Đạo, đó là rất đáng cười, giống như một người nghiền cờ bạc, sau này tuy nhiên vì hạn chế không đánh bạc nữa, nhưng vẫn còn lấy hột bắp hoặc đá nhỏ thay tiền vậy, trong tâm không có thay đổi. Rằng: tôi đã không đánh bạc nữa, nhưng then chốt ở chổ tâm đánh bạc của bạn vẫn còn hay không? Không tính trong thực phẩm, ăn mặc trên thế gian đều là vô chấp mà tự nhiên viên dung, cũng không thể nói mặc áo cà sa màu vàng xám như đất, thì đã là “thanh tịnh”. Phật mặc cà sa màu vàng dịu mắt, Đạo mặc áo bào màu tím hoa lệ, họ chấp trước không? Họ vẫn là Phật Đạo, họ không có những khái niệm của bạn, mà một người tâm phàm không biến đổi, cho dù bạn mặc quần áo thô, ngủ giường đất, ăn cơm thừa, nhưng trong tâm không bỏ danh lợi tình, đó bất quá là trạng thái ngụy tạo, chỉ là giả tu.

8. Tiểu Thừa là căn bản của Đại Thừa, giống như tiểu học là căn bản của đại học, với cách nhìn của những người không hiểu rõ, tiểu thừa “trước tướng”, đại thừa giảng “không”, họ dùng tham lam và tư niệm của con người mà tính toán, đương nhiên tu Đại thừa “cao hơn”, vậy cao ốc năm mươi tầng lầu, bạn hy vọng một bước bay đến nóc, bạn chỉ thích tầng thứ năm mươi, nhưng mà không cần sức để bước lên bốn mươi chín tầng trước đó sao? Đạo lý đơn giản như vậy! Giống như Nho gia đại thành chi học. “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ như chí thiện”, tốt biết mấy, một bước đạt đến Thánh hiền. Nhưng nếu bạn không có căn bản “tiểu học”, huấn luyện dưỡng thành tâm Pháp lễ nghĩa chín chắn và lý tính, hiếu đệ chi đạo hóa trong tự nhiên, bạn bất quá chỉ đọc câu, đọc bài, thực là tiểu nhân ngụy quân tử, cho nên Phật Giáo trong giai đoạn Chính Pháp, tướng Pháp, cũng chính là khi Pháp của Thích Ca chưa bại hoại. Bậc chân tu đều biết rằng Đại thừa phải bắt đầu làm từ Tiểu thừa, chịu khổ hành thiện, khổ tu thiền định, chẳng phải ý bậy bàn luận Thiền. Thiền ấy thực ra chính là tập trung bao quát luận thuật của kết quả của không tính. Nhưng “không” ấy, không phải “giả không”, cảnh chân không là tràn đầy tất cả của viên mãn Pháp tính, đạt đến cảnh giới này thì dưới họ không gì không bao hàm, không gì bị bỏ sót, tự nhiên không gì mà không biết nhưng lại không gì mà chấp trước vào. Tỷ dụ: tại cảnh giới Như Lai, đối với tất cả dưới Như lai, nguyên lý của thế giới Đại Thiên, những suy nghĩ của tất cả chúng sinh, kể cả tư tưởng của trâu ngựa ông đều biết được, nhưng tư tưởng của ông sẽ không vào trong đó, Như Lai cũng không đích thân độ chúng sinh, là Như Lai có nguyện vọng, việc cụ thể Bồ Tát đi làm.

9. Dưới tình huống Pháp của Thích Ca chưa hoại, nếu vũ trụ không phải đang ở thời kỳ Chính Pháp chỉnh thể, vậy chiếu theo Giới Định Huệ của Thích Ca mà tu nghiêm khắc là có thể tu thành đạt. Vì Thích Ca đến từ tầng thứ sáu của vũ trụ, thế giới Cực Lạc mà tín đồ Phật Giáo nói đến, tại trung tâm của tầng thứ hai vũ trụ cho nên sự tu trì của thế giới Cực Lạc, người sau không lý giải được, hình như chiểu theo ông giảng Pháp môn Tịnh Độ Tông của Kinh A-Di-Đà tham ngộ, niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” thì có thể khai ngộ, thì người ta lý giải như vậy một cách đơn giản, thậm chí có những tín đồ Phật Giáo không hiểu tường tận đem ra gạt người gạt ta. Thật ra tầng thứ của Thích Ca cao vậy, ông trực tiếp xuyên việt sáu tầng vũ trụ mà xuống đây, “thế giới Đại Phạm Thiên” ông sáng tạo từ tầng thứ sáu của vũ trụ đem Pháp rất thâm sâu đến, đồng thời cũng phải khiến rất nhiều chúng sinh trong thế giới Phật từ cảnh giới của ông trở xuống được cứu độ, đó là nguyên nhân ông giảng kinh về những thế giới ấy. Vì người không biết, chúng sinh từ thế giới nào rơi xuống trước kia, đương nhiên cũng khát vọng về lại cố hương, mà thế giới của các Thần Phật khác, với kết cấu bản nguyên của bạn đều khác nhau, như bạn sanh ra là người Đông phương, đã quen với tư duy, sinh hoạt của Đông phương, cố đem bạn để sinh hoạt tại Tây phương, bạn không vừa ý, hơn nữa cha mẹ chân chính ấy của bạn có thể không buông bạn đi, cho dù ý tốt của người khác, để bạn có cuộc sống tốt hơn chút, cha mẹ ấy sẽ không chạy theo họ đòi người sao? Vậy họ rất có thể bị xem như là kẻ bắt cóc, lòng tốt làm việc xấu, Thần Phật là không làm như vậy. Thế thì Thích Ca giúp rất nhiều Phật dưới tầng thứ ấy viên dung thế giới của họ và nguyện vọng của họ, nhưng những Phật ấy khả dĩ không có đích thân đến thế gian làm sự nghiệp phổ độ như Thích ca, như thế thì nguyên con đường hình như là Thích ca tu vậy, tu mãi đến tầng thứ sáu của vũ trụ (chỉ có thể nói như vậy), thuận theo đường thì rẽ qua thế giới Cực Lạc và Lưu ly, vậy thì thuận đường dẫn về, nguyện vọng của bạn mãi nhớ Phật A Di Đà, thì A Di Đà cụ thể đến giúp bạn, Pháp thân của họ sẽ hộ Pháp cho bạn, chăm sóc bạn, bảo hộ bạn, giúp bạn diễn hoá công, đến khi đi, tiếp nhận bạn tại thế giới Cực Lạc. Nhưng vì đặc điểm của nguyên con đường, quy tắc là Thích Ca mở: bạn phải chiểu theo Giới Định Huệ mà tu, dù niệm tụng Phật bề ngoài rất đơn giản, nhưng tâm Pháp chân chính và tu vi ắt phải tuân theo Giới Định Huệ, đó cũng là không nói mà tự hiểu. Hơn nữa, một thiên cơ, chính là nói: Phật Đạo Thần chỉ độ người của thế giới họ rơi xuống, đó không phải là Phật Đạo Thần hình như minh triết giữ thân, thật sự là họ giải quyết không được vấn đề của thế giới Phật khác, trên trời tầng ấy của Phật Như Lai. Chúng ta cho thí dụ, như là đại luật sư, nhưng đại luật sư có chia thành công tác, có sở trường, có người giỏi khéo về vụ án loại này, đối với giải quyết những vụ án hiểu biết rất ít hoặc thiếu kinh nghiệm, mà bạn lại tìm sai luật sư, tuy nhiên có tiếng tăm, nhưng không nhất định có hiệu quả với vụ án của bạn so với luật sư tầm thường, chính là ý như vậy. Nên Phật Đạo Thần từ bi, có thể giúp bạn, bạn niệm tụng họ, sùng bái họ một cách chân thành, họ có thể điểm hoá hoặc an bài cơ duyên cho bạn, thật sự giải quyết được tất cả vấn đề, chính là hồng truyền của Pháp vũ trụ. Mà năm xưa trong phạm vi nhỏ, Thích Ca đến từ tầng thứ sáu của vũ trụ, cũng có thể tự nhiên viên dung Cực Lạc, Lưu Ly v.v…

10. Khi năm xưa Thích Ca giảng bộ kinh ấy, ông đã vào tuổi già, giảng sau khi đã chứng ngộ quả vị Như Lai, vì khi giảng bộ kinh ấy ông nhấn mạnh sự quan trọng phi thường của kinh ấy. Năm xưa mười đại đệ tử của ông như Xá Lợi Phất, Đại Già Diệp, Mục Kiền Liên.v.v… thì rất là nắm vững, vì lúc ấy Ấn Độ không có văn tự, chỉ có thể nhờ họ truyền miệng lẫn nhau. Dù trí huệ của họ rất cao, trí nhớ rất tốt, cũng khó tránh có nơi sai biệt trong ký ức, huống chi Thích Giáo sau năm trăm năm Thích Ca không tại thế (qua đời) mới dịch, thời đại A Dục Vương Phật Giáo mới bắt đầu được quốc gia tôn sùng, điều kiện tốt hơn một chút, vậy trong truyền khẩu lẫn nhau dài đến năm trăm năm, có thể có phần nhớ thiếu sót, nhớ sai lệch hoặc nhầm lẫn? Khẳng định là sẽ có. Có bao giờ có những đệ tử sau này đem những điều lý giải của chính mình lẫn lộn vào trong ấy? Khẳng định là sẽ có. Cho dù Phật Giáo giai đoạn “Chính Pháp” đệ tử sẽ rất là thận trọng những sự việc này, nhưng trong quá trình truyền Pháp, tất nhiên sẽ khó tránh những điều ấy. Kim Cang Kinh thể hiển sự việc ấy một cách rõ ràng. Người đời sau đem kinh chia thành ba mươi hai đoạn, từ đoạn thứ mười bảy, bắt đầu xuất hiện lập lại rất nhiều, thật ra chính là có người hồi tưởng ra những điều không giống nhau. Tổ Sư của họ lại đều là đệ tử bộ thượng tọa của Thích Ca, người đời sau phân biệt không rõ tại sao, vậy thì ở sau lại thêm những điều đó để cho tham khảo. Mục đích là đừng để thiếu sót, lỡ may Thích Ca giảng còn có ý nghĩa đó? Sau này khi Cưu Ma La Thập phiên dịch kinh sách, chữ trong những kinh bối diệp cũng đã xuất hiện tàn khuyết.Trong quá trình phiên dịch, bởi vì Cưu Ma La Thập dịch kinh sách, đa số đều là bản thân truyền thụ bằng miệng, để đệ tử của ông ghi xuống, những lời nguyên là có tên X hồi ức lại, tên X nói như vậy, bị họ một loạt bỏ đi, mà những gì Huyền Trang phiên dịch, cũng tham khảo theo bản dịch của Cưu Ma La Thập, do vậy người đời sau một mặt đọc không hiểu ý nghĩa kinh mà sai lầm mê hoặc trong ấy, mặt khác vì tác dụng của cảm tình, dù nhìn thấy lập đi kể lại cũng không dám nghi ngờ, còn duy hộ bằng cảm tình, tưởng rằng đang duy hộ Phật Thích Ca Mâu Ni. Thật ra Cưu Ma La Thập cũng vậy, Pháp Sư Huyền Trang cũng thế, trong quá trình dịch thuật tất nhiên cũng thêm vào lý giải đối với Phật Pháp của họ. Trong quá trình chép truyền sau này, còn có bởi vì bối cảnh phân tranh duy trì tiếp tục mãi của Tam Giáo từ khi Phật Giáo truyền vào Trung Quốc, vì giành hơn thua nên lẫn lộn câu văn vào đó. Như vậy, thì khiến bộ kinh ấy vì trong cách dịch có nơi quá đơn giản tóm lược, có nơi thêm vào quan niệm của cá nhân mà không phải là nguyên văn của Phật Đà, có chỗ thêm vào nhân tố phân tranh cầu thắng của Tam Giáo đương thời, có chổ dịch thuật không chính xác, khiến bộ kinh ấy trở thành một trong mấy bộ kinh điển chứng giải khó nhất từ xưa đến nay. Hôm nay, e ngại rằng những văn tự giải kinh ấy không ai nói ra được con số chính xác, nhưng thực sự tìm được ý nghĩa sâu xa thì rất ít, mà có thể hiểu được nguyên nhân, phế bỏ đổi mới lại, hoàn toàn đem sách ấy giảng rõ ràng, đó chỉ có người tu luyện Đại Pháp. Trên căn bản thực sự, chúng ta có thể nhìn thấy một cách rất rõ ràng, kinh sách có nhân tố ở phía sau, trong thời kỳ chính thường, phía sau là có Thần hộ Pháp, nên xưa kia người cũng biết được tụng niệm bộ kinh ấy đối với người thường cũng có thể được bảo hộ. Nhưng cổ nhân kính Phật, người thông thường không dám khinh rẻ Phật kinh, nên cần phải mời Cao tăng đại đức đến niệm kinh, mà không phải tự mình niệm. Chúng ta nhìn thấy Kinh văn Kim Cang lưu truyền trên thế gian hôm nay, thật là một trạng thái rằn ri, tất cả nơi phù hợp nguyên nghĩa của Thích Ca là ánh quang sáng chói, mà chỗ dịch thuật không chính xác nhưng chưa lẫn lộn sai lầm thì ánh sáng âm u hơn, mà chỗ người đời sau lẫn lộn sai lầm thì là đen tối. Vì nơi đến của Thích Ca tuy rất cao, nhưng trong Pháp lý của cựu vũ trụ, Pháp của ông ta chỉ có thể độ Phó nguyên thần ở bên ngoài tam giới. Đối với chủ thể đệ tử chân chính của ông, ông đã mở một tầng thiên tại tối thượng Tam giới trong giới vô sắc, gọi là Đại Phạm Thiên, mãi tại nơi đó trông chừng đệ tử của ông tích tụ uy đức to lớn trong nhiều kiếp chuyển sinh. Sinh mệnh rơi xuống của tầng thứ khác nhau, có thể mượn dùng nhân thể mà tu, cũng đã giúp viên dung những sự việc của thế giới Cực Lạc, thế giới Lưu Ly.v.v… Nhưng sinh mệnh của chủ thể, chưa từng nhảy ra khỏi Tam giới, đó cũng là là năm xưa ông từ bi giảng ý nghĩa chân chính của “thật vô chúng sinh đắc diệt Phật giả.” Bởi vì Thích Ca đến là dựng lập văn hoá của Phật để truyền Đại Pháp, ông suốt đời chịu khổ vô số, khi Đại Pháp hồng truyền, ông cũng đã an bài đệ tử chân chính của ông đến để đắc Pháp, sau khi thông qua đồng hoá Pháp của vũ trụ, ông sẽ dẫn họ rời khỏi Tam giới, đệ tử của ông thấp nhất cũng phải tu đến tầng thứ sáu của vũ trụ, đó là năm xưa dưới sự an bài của ông một cách có hệ thống. Đệ tử chân chính của ông đều là thọ ký, trên trán có một phù hiệu chữ . Người thực sự có công năng, liếc qua thì nhìn thấy, cho nên, không phải cạo đầu trọc, niệm hô câu thiền ngoài miệng “A-Di-Đà-Phật”, thì là đệ tử của ông.

(Còn tiếp)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/9/17/48408.htm