vũ trụ chân thực | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 24 Apr 2025 07:00:24 +0000en-UShourly1Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (5): Vũ trụ mới, kỷ nguyên mớihttps://chanhkien.org/2021/08/loat-bai-nhan-thuc-ve-vu-tru-chan-thuc-5-vu-tru-moi-ky-nguyen-moi.htmlMon, 02 Aug 2021 13:35:57 +0000https://chanhkien.org/?p=27711[ChanhKien.org] Vũ trụ hình thành như thế nào? Con người từ đâu đến? Vũ trụ phải chăng không có biên giới? Ngước nhìn lên bầu trời đầy rẫy các vì tinh tú, biết bao người đã từng tự hỏi bản thân như vậy. Nhưng dù có tra cứu tất cả các sách vở kinh điển, […]

The post Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (5): Vũ trụ mới, kỷ nguyên mới first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[ChanhKien.org]

Vũ trụ hình thành như thế nào? Con người từ đâu đến? Vũ trụ phải chăng không có biên giới? Ngước nhìn lên bầu trời đầy rẫy các vì tinh tú, biết bao người đã từng tự hỏi bản thân như vậy. Nhưng dù có tra cứu tất cả các sách vở kinh điển, vẫn khó có thể tìm được đáp án đầy đủ. Đây đích thị là câu hỏi vĩnh viễn không có lời giải của nhân loại.

Từ Trái Đất là trung tâm của vũ trụ đến thuyết Mặt Trời là trung tâm của vũ trụ, từ thuyết Vụ Nổ lớn Big Bang đến thuyết Đa vũ trụ của khoa học vũ trụ hiện đại, những phát hiện mới liên tục phủ định những nhận thức cũ. Phát hiện mới nhất cho thấy, vũ trụ của chúng ta có lẽ chỉ là một trong vô số các vũ trụ đan xen ngang dọc, thế giới ba chiều quen thuộc với chúng ta có lẽ chỉ là một thế giới hư ảo, quá khứ, hiện tại, tương lai có lẽ cùng đồng thời tồn tại. Những nghiên cứu phát hiện này đã hoàn toàn đảo ngược những lý giải hiện hữu về vũ trụ của chúng ta. Trực giác của chúng ta đối với sự vật quen thuộc sao có thể nhận biết sai đến vậy chứ? Những điều quá kinh ngạc này có lẽ sẽ khiến bạn phải đặt câu hỏi rằng rốt cuộc mức độ đáng tin cậy của những nghiên cứu này ra sao? Loạt bài này sẽ cùng quý vị tìm hiểu những nghiên cứu và phát hiện mới nhất, đồng thời cũng mở ra một cánh cửa mới cho quý vị, có thể từ đây bạn có thể tìm ra được manh mối về vũ trụ chân thực.

Lịch sử đi đến ngày hôm nay, nỗi lo trời sập đã không còn chỉ là chuyện buồn lo vô cớ của con người nữa. Kết cục cuối cùng của vũ trụ đã trở thành chủ đề nóng hổi của các nhà vũ trụ học hiện đại. Đặc biệt là những khái niệm huyền bí như vật chất tối và năng lượng tối vẫn là điều mà khoa học hiện đại vẫn chưa biết gì về chúng, nhưng chúng lại chiếm đến 95% tổng khối lượng vật chất trong vũ trụ, chúng là thứ quyết định tương lai của vũ trụ. Việc phát hiện ra chúng đã dẫn đến một loạt những dự đoán khiến con người cảm thấy kinh ngạc và bất an.

Các nhà khoa học cho rằng có 3 kịch bản cho sự kết thúc của vũ trụ. Kịch bản thứ nhất là năng lượng tối sẽ làm cho các thiên hà tách xa nhau, khi tách xa ra đến cực điểm, vũ trụ sẽ trở nên lạnh lẽo, tối tăm và đơn độc, đây là kịch bản kết thúc đáng sợ về sự đóng băng của vũ trụ. Một kịch bản khác là năng lượng tối không ngừng mạnh lên theo thời gian, cho đến khi nó có thể xé nát bất cứ vật thể nào trong thiên hà, ngay cả hằng tinh hay hành tinh cũng khó thoát khỏi sức mạnh của nó, thậm chí nó còn xé nát cả phân tử, nguyên tử, đây là kịch bản kết cục đáng sợ về sự xé nát của vũ trụ. Kịch bản thứ ba là vũ trụ từ đâu đến thì sẽ trở về chỗ đó, sự tăng tốc giãn nở cũng không thể thay đổi được vận mệnh cuối cùng của vũ trụ là co rút lại thành một điểm, đây là kịch bản kết thúc đáng sợ về sự sụp đổ của vũ trụ. Theo dự đoán của các nhà khoa học, sự co rút này có thể sẽ xảy ra sau một tỷ năm nữa, nhưng cũng có khả năng nó sẽ xảy ra vào ngay ngày mai. Tóm lại, vũ trụ mà chúng ta biết hiện nay sẽ không tồn tại mãi mãi.

Cho dù kết thúc theo kịch bản nào, dường như tất cả các dự báo của các nhà khoa học đều hướng về một kết cục khủng khiếp và tang thương, là kết cục diệt vong của nhân loại.

Tuy nhiên, người xưa và các tôn giáo lớn lại không hề bi quan như vậy về kết cục của vũ trụ và nhân loại.

Nền văn minh Maya là một nền văn minh chứa đầy sự thần bí và trí tuệ mà con người ngày nay không thể tưởng tượng nổi. Phương thức tư duy trừu tượng ở trình độ cao, tri thức thiên văn phong phú, thâm sâu và hệ thống lịch pháp phức tạp mà hoàn thiện, chuẩn xác của nó khiến cho các nhà khoa học ngày nay phải kinh ngạc và thán phục. Người Maya nói: “Vào ngày 21 tháng 12 năm 2012, Mặt Trời sẽ mọc lên từ kẽ nứt đen tối trong vũ trụ”, họ gọi kẽ nứt đen tối này là “mẹ của vũ trụ”. Kẽ nứt đen tối này kỳ thực chính là lỗ đen siêu cấp nằm ở trung tâm của hệ Ngân Hà, vậy mà lỗ đen siêu cấp này mãi đến năm 2005 mới được khoa học hiện đại phát hiện, hơn nữa các nhà khoa học hiện đại phải thông qua các luận chứng khoa học, mới phát hiện ra rằng tất cả hành tinh trong hệ Ngân Hà đều được sinh ra từ khu vực cao năng lượng của lỗ đen siêu cấp nằm ở trung tâm của dải Ngân Hà này. Điều này hoàn toàn trùng khớp với cách gọi “mẹ vũ trụ” của người Maya. Người Maya cổ đại làm thế nào biết được về lỗ đen siêu cấp của hệ Ngân Hà này? Làm thế nào biết được lỗ đen siêu cấp này là “mẹ vũ trụ”?

Người Maya cổ đã tính toán một cách tỉ mỉ chu kỳ lịch của họ, họ lấy ngày đông chí của tháng 12 năm 2012 là ngày mở đầu cho một thời đại tiếp theo. Đó là ngày mà Mặt Trời gần với trung tâm của hệ Ngân Hà nhất, khi đó Trái Đất, Mặt Trời và lỗ đen trong hệ Ngân Hà nằm trên một đường thẳng, đây chính là vùng đất tái sinh trong không trung mà người Maya nói đến. Đây là một hiện tượng thiên văn hiếm thấy, 25.800 năm mới xuất hiện một lần. Người Maya cổ không có thiết bị nghiên cứu thiên văn hiện đại như chúng ta, vậy sao họ lại có thể biết được sự sản sinh ra hành tinh và dự đoán được một cách chuẩn xác những hiện tượng thiên văn như vậy? Đây vẫn là lời ẩn đố đối với khoa học hiện đại.

Bộ phim điện ảnh Holywood “2012” được chuyển thể dựa trên lời tiên tri của người Maya, đã tạo nên một tác phẩm nghệ thuật gây chấn động về ngày tận thế, bộ phim khiến người ta chú ý hơn đến nền văn minh Maya. Trước sự quan tâm của dư luận, trưởng lão người Maya là ông Pike đành phải đưa ra lời giải đáp quyền uy nhất trong tiên tri của người Maya. Ông nói: “Lý thuyết về ngày tận thế đến từ phương tây, người Maya chưa từng có suy nghĩ như vậy. Năm 2012 mà người Maya nói đến, là chỉ sự tỉnh giác và chuyển biến về phương diện tinh thần và ý thức, từ đó bước sang một nền văn minh mới”. Lịch của người Maya cổ được xây dựng dựa trên quy luật vận hành các “mùa của hệ Ngân Hà”, họ phân chia lịch sử nhân loại từ xưa đến nay thành tổng cộng năm Kỷ Mặt Trời. Theo ghi chép trong lịch pháp Maya: nhân loại trong thời kỳ tiền sử đã từng bị hủy diệt bốn lần, bốn Kỷ Mặt Trời trước đây đã kết thúc vào thời kỳ tiền sử. Bắt đầu từ Kỷ Mặt Trời thứ năm, trong mùa Ngân Hà, Hệ Mặt Trời gồm cả Trái Đất của chúng ta đang đi qua một chùm tia vũ trụ phát ra từ trung tâm của hệ Ngân Hà. Người Maya cho rằng sau khi Trái Đất đi ra khỏi tia của hệ Ngân Hà, thì nó sẽ bước vào một chu kỳ hoàn toàn mới là “đồng hóa các thiên hà”. Họ cũng gọi 20 năm cuối cùng (từ năm 1992 đến năm 2012) là “thời kỳ tịnh hóa địa cầu”. Trong 20 năm này, Trái Đất sẽ được tịnh hóa, đổi mới, hết thảy những vật chất và sinh mệnh đã bại hoại, hư nát sẽ bị đào thải loại bỏ, nhân tâm sẽ được thanh lọc và quy chính. Sau đó nhân loại sẽ bước vào một kỷ nguyên hoàn toàn mới, một thời kỳ lịch sử hoàn toàn mới.

Khoa học hiện nay vẫn không thể giải thích được “thời kỳ tịnh hóa địa cầu” trong 20 năm cuối cùng từ năm 1992 đến năm 2012 rốt cuộc có ý nghĩa gì, họ lại càng không thể giải thích được “kỷ nguyên mới, lịch sử mới” nghĩa là gì. Tuy nhiên kể từ khi kính viễn vọng Hubble và các kính viễn vọng kích thước lớn khác được đưa lên vũ trụ, cùng với việc xây dựng một loạt các kính thiên văn vô tuyến, nhân loại đã và đang chứng kiến được vũ trụ đang trải qua một sự thay đổi chưa từng có. Sự tăng tốc giãn nở của vũ trụ; sự bùng phát của rất nhiều các tia gamma và các siêu tân tinh; sự va chạm dữ dội và trùng tổ của rất nhiều thiên hà và cụm thiên hà; sự “cải lão hoàn đồng” của các thiên hà cổ xưa, sự xuất sinh và diệt vong của rất nhiều hành tinh, thiên thể; tất cả đang diễn ra ở gần như mọi góc cạnh của đại khung vũ trụ.

Tháng 12 năm 2004, sao Nhân Mã trong hệ Ngân Hà đã xảy ra một vụ nổ mãnh liệt, năng lượng mà nó phóng xuất ra trong vòng 0,1 giây tương đương với năng lượng mà Mặt Trời phóng ra trong 100.000 năm. Các nhà khoa học gọi “đây là sự việc cả đời chỉ có thể thấy một lần”.

Vào tháng 01 năm 2005, các nhà khoa học đã phát hiện ra sự phún xạ lớn nhất từ trước đến nay trong cụm thiên hà MS0735+7421, đến nay vẫn chưa có dấu hiệu ngừng lại. Lỗ đen ở trung tâm cụm thiên hà này đã nuốt chửng một lượng vật chất tương đương với 300 triệu Mặt Trời. Vụ nổ đã tạo ra hai khoảng trống lớn với đường kính 600.000 năm ánh sáng.

Năm 2005, các nhà thiên văn học đã phát hiện một thiên hà “sơ sinh” rộng lớn, cách Trái Đất khoảng gần 1 tỷ năm ánh sáng, lớn gấp 8 lần hệ Ngân Hà.

Tháng 10 năm 2006, trong một thiên hà ở gần góc của hệ Ngân Hà đã diễn ra một cảnh tượng ngoạn mục “sự va chạm lớn của hai thiên hà”. Theo sau việc hai thiên hà va chạm nhau, đã có 1 tỷ hành tinh mới liên tục ra đời.

Tháng 01 năm 2007, các nhà thiên văn quan sát thấy tại lỗ đen ở trung tâm của hệ Ngân Hà đã xảy ra một vụ nổ dữ dội. Vụ nổ này sáng gấp 1.000 lần so với bất cứ vụ nổ nào mà họ quan sát được, thời gian sáng cũng kéo dài gấp 1.000 lần.

Năm 2007, các nhà khoa học phát hiện rằng, thiên hà GOOD 850-5 mỗi năm sinh ra 4.000 hằng tinh, tốc độ sản sinh nhanh gấp 1.000 lần hệ Ngân Hà.

Tháng 10 năm 2007, Huệ tinh Holmes bất ngờ nổ tung, trong vòng 24 giờ ánh sáng phát ra tăng mạnh gấp 1 triệu lần, trở thành huệ tinh mà mắt người có thể nhìn thấy. Huệ tinh Holmes phát nổ là hiện tượng thiên văn hiếm thấy, các nhà thiên văn học cho rằng “đó là hiện tượng trước nay chưa từng có”.

Tháng 06 năm 2010, một vụ nổ tia gamma mạnh mẽ chưa từng thấy cách Trái Đất 5 tỷ năm ánh sáng khiến cho thiết bị đo của Đài thiên văn Chim Yến Neil Gehrels, NASA bị bão hòa.

Năm 2010, các nhà thiên văn phát hiện xung quanh một thiên hà cổ xưa xuất hiện những vòng tia tử ngoại rất đẹp, có cái lớn đến mức đủ bao quanh mấy hệ Ngân Hà, trong đó có rất nhiều hành tinh mới, có nghĩa là những thiên hà cổ xưa này đã được “cải lão hoàn đồng”.

Tháng 12 năm 2010, các nhà thiên văn phát hiện một quần thể rất lớn các thiên hà trẻ đang trải qua thời kỳ “sơ sinh”, quy mô và tốc độ sản sinh ra hành tinh mới của chúng khiến người ta kinh ngạc.

Tháng 06 năm 2011, các nhà thiên văn học phát hiện ra những hằng tinh và nhóm hằng tinh mới sinh trong bốn “thiên hà tử vong” cách chúng ta 4.000 năm ánh sáng, những “thiên hà tử vong” này bỗng nhiên lại bừng bừng sức sống.

Tháng 09 năm 2011, các nhà thiên văn học đã phát hiện bảy siêu tân tinh ở trong cùng một thiên hà, đây là điều các nhà khoa học cho là chưa từng có trong lịch sử.

Tháng 03 năm 2012, người ta đã phát hiện trong kết cấu hình đĩa của hệ Ngân Hà của chúng ta có 5.000 khí bào vũ trụ, dấu hiệu cho thấy sắp có hằng tinh mới ra đời.

Tháng 08 năm 2012, các nhà thiên văn học phát hiện tại thiên hà trung tâm của cụm thiên hà Phượng Hoàng, cách Trái Đất 5,7 tỷ năm ánh sáng, đang hình thành những hành tinh mới với tốc độ 740 hành tinh mỗi năm, những kết quả quan sát trước đó cho thấy thiên hà này mỗi năm ở đó chỉ hình thành 150 hành tinh mới.

Các nhà thiên văn học cho rằng vũ trụ đang diễn ra sự thay đổi kinh thiên động địa trên một phạm vi rộng lớn, vũ trụ đang trải qua quá trình đổi mới và trùng tổ chưa từng có từ trước đến nay. Sự biến đổi kinh thiên động địa này có thể nào càng ngày càng tiến đến gần tới hệ Mặt Trời không? Nó có thể xảy ra tại chính hệ Mặt Trời nơi nhân loại sinh tồn không? Có thể sẽ xảy ra sự việc đúng như lời tiên tri của người Maya không? Phải chăng một thời đại vũ trụ mới sắp đến?

Kỳ thực không chỉ có nền văn minh Maya đưa ra lời tiên tri về việc nhân loại sẽ bước vào một kỷ nguyên lịch sử mới, khi tìm hiểu cuốn sách Các Thế Kỷ của Nostradamus, tiên tri của người Hopi, Cách Am Di Lục của Triều Tiên, Thánh Kinh – Khải Huyền của phương Tây, Thôi Bối Đồ, Thiền Sư Thi, Mã Tiền Khóa, Mai Hoa Thi của Trung Quốc v.v., chúng ta thấy rằng trong những lời tiên tri nổi tiếng này đều đề cập đến một lời tiên tri kinh ngạc nhất và cũng là lời tiên tri cuối cùng: đó là khi lịch sử nhân loại đi đến trang cuối cùng như đã dự liệu, khi nhân loại đối mặt với thời khắc sống còn, Địa cầu, nhân loại cho đến vũ trụ đều sẽ trải qua những biến đổi to lớn chưa từng có từ trước tới nay. Đây sẽ là sự lựa chọn sinh tử mà mỗi người phải đối mặt và đây cũng là hy vọng cuối cùng của nhân loại.

Trong Thánh Kinh – Khải Huyền có giảng rằng nhân loại vào ngày tận thế sẽ xảy ra cuộc chiến cuối cùng giữa chính và tà, nhân loại sẽ trải qua bảy tai họa lớn, những người tôn sùng “con thú”, những người chịu ấn của “con thú”, những người giúp kẻ xấu làm điều ác đều sẽ phải trải qua tai họa cực lớn. Trong Khải Huyền còn kể rằng sau khi bảy đại họa diễn ra, Vạn vương chi vương sẽ làm mới lại hết thảy mọi thứ trong vũ trụ, nhân loại sẽ bước sang một vũ trụ hoàn toàn mới.

“21:01 Tôi thấy trời mới và đất mới; vì trời thứ nhất và đất thứ nhất đã biến đi mất, và biển cũng không còn nữa.

21:05 Đấng ngự trên ngôi phán rằng: Nầy, ta làm mới lại hết thảy muôn vật. Đoạn, lại rằng: Hãy chép; vì những lời nầy đều trung tín và chân thật.”

Trời và đất mới đã xuất hiện, trời và đất cũ trước đây đã hoàn toàn thay đổi. Hết thảy đều được đổi mới rồi, hết thảy mọi thứ trong đại khung vũ trụ: trời, đất, hành tinh, thiên hà và vạn sự vạn vật đều thực sự được đổi mới.

Nhân loại cũng sẽ đón nhận một kỷ nguyên mới vô cùng tốt đẹp.

Kinh thánh Isaiah (65:19-20): “Tại đó sẽ chẳng còn nghe tiếng khóc lóc kêu la nữa. Tại đó sẽ không có trẻ con chết non, cũng chẳng có ông già nào chẳng trọn đời mình; vì chết lúc trăm tuổi, còn là chết trẻ, và kẻ có tội lúc trăm tuổi, ấy là bị rủa sả”.

Trong cuốn sách Các Thế Kỷ, Nostradamus đã mô tả về nhân loại sau khi trải qua họa nạn khủng bố sẽ tiến vào một kỷ nguyên mới: “Con đường xưa cũ sẽ được làm lại vô cùng tốt đẹp, họ chạy tới vùng đất giống như Memphis, Thánh Mercurius của Heracles, hoa bách hợp, mặt đất, biển cả, nước khác kinh ngạc”.

“Pháp luật mới cai quản vùng đất mới, người Syria, Do Thái, Palestine xung quanh, đế quốc tàn bạo sắp sửa sụp đổ, thế kỷ của Mặt Trời sắp đến”.

Xã hội nhân loại sẽ tiến vào một kỷ nguyên lịch sử mới. Một chế độ mới, nền văn minh mới, xã hội và hình thái ý thức mới sẽ được kiến lập, Địa cầu và chúng sinh mới sẽ không còn chịu sự chi phối bởi pháp lý vũ trụ cũ nữa, các cuộc xung đột, khủng bố, bạo lực ở Palestine sẽ hoàn toàn chấm dứt, một kỷ nguyên mới phồn vinh, thịnh vượng, hòa bình và tươi sáng sẽ đến.

Kinh Phật giảng rằng vào ngày mạt pháp mạt kiếp hôm nay, vị Phật Di Lặc “vạn Vương chi Vương” tức là Chuyển Luân Thánh Vương sẽ hạ thế truyền Pháp độ nhân, sau khi trải qua đại kiếp nạn vào thời mạt pháp, nhân gian sẽ đón nhận một nhân loại mới, đất trời mới vô cùng tốt đẹp.

Kinh Di Lặc hạ sinh viết: “Quốc thổ đều phú thịnh, vô phạt vô tai ách; nam nữ đều do thiện nghiệp sinh. Đất không cây gai, chỉ sinh cỏ xanh, thuận theo gót chân, mềm như tơ tằm. Tự nhiên xuất lúa thơm, mỹ vị đều sung túc. Cây cối sinh y phục, màu sắc đều trang nghiêm; cây cao ba tòa nhà, hoa quả thường dư dật. Lúc ấy người trong nước, đều thọ tám vạn năm, không có khổ bệnh tật, đầu óc thường an lạc”.

Mặc dù khoa học hiện đại cho rằng sự diệt vong của nhân loại sẽ là kết cục cuối cùng của vũ trụ, nhưng các tôn giáo lớn và những lời tiên tri lại triển hiện cho con người thấy rằng sau khi nhân loại trải qua đại kiếp nạn thì sẽ có một kỷ nguyên mới xuất hiện. Tại sao lại như vậy? Hầu như tất cả các dân tộc, cho dù bối cảnh văn hóa và bối cảnh tôn giáo có khác nhau thế nào đi nữa, họ đều có một tư tưởng tương đồng, đó chính là họ đều biết rằng có Sáng Thế Chủ, họ đều trông đợi có thể quay trở về Thiên đường. Tại sao lại như vậy?

Khi đại sư Lý Hồng Chí tiết lộ cho chúng ta một phần bí mật, chỗ mê từ vạn cổ: đó là sự ra đời của tam giới, sự ra đời của nhân loại chính là để cứu độ đại khung vũ trụ, thì hết thảy điều này đều đã trở nên rõ ràng. Các tôn giáo lớn và các lời tiên tri sở dĩ có thể triển hiện ra sự xuất hiện của một kỷ nguyên mới, chính là minh chứng cho sự tín tâm của nhân loại và chúng sinh trong vũ trụ đối với Sáng Thế Chủ, tín tâm rằng toàn bộ đại khung vũ trụ sẽ được cứu độ. Nếu chúng ta đều đến từ các thế giới thiên quốc trong những thiên thể khác nhau, đều đã từng là những sinh mệnh vĩ đại trong những thiên thể khác nhau, vì để được cứu độ mà tiến nhập vào vũ trụ mới, chúng ta đã dám dũng cảm tiến nhập vào tam giới, đến thế giới con người, đến không gian vô minh và mê mờ này, chẳng phải chứng tỏ rằng chúng ta đều từng tin tưởng vào Sáng Thế Chủ, tin tưởng vào vũ trụ tương lai, tin tưởng vào việc cứu độ đại khung vũ trụ tất sẽ thành hay sao?

Chúng ta đã biết rằng pháp lý trong đại khung vũ trụ cũ hiện nay là “Thành, Trụ, Hoại, Diệt, Không”, khi đại khung vũ trụ này tiến vào giai đoạn “Diệt, Không”, thì toàn bộ vũ trụ sẽ bị hủy diệt. Sáng Thế Chủ trân quý các sinh mệnh nguyên thủy trong đại khung vũ trụ, không muốn nhìn thấy đại khung vũ trụ cuối cùng bị hủy diệt, Ngài đã mang Đại Pháp vũ trụ viên dung bất hoại đến cứu độ đại khung. Sáng Thế Chủ xuất hiện từ trên đỉnh thương khung, rồi từ đó từng tầng từng tầng hạ xuống tiến nhập vào tam giới, đến nơi nhân gian hiểm ác để hồng truyền Đại Pháp vũ trụ, trải qua thời gian vô cùng lâu dài, với sự chịu đựng lớn lao vô hạn và lòng từ bi rộng lớn bao trùm vũ trụ, không có sinh mệnh nào có thể thực sự lý giải được.

Quá trình cứu độ đối với vũ trụ cũ này, đại sư Lý Hồng Chí gọi đó là quá trình “Chính Pháp”.

Vì sao cần phải Chính Pháp? Chính là vì phải cứu độ chúng sinh của vũ trụ. Cứu độ hết thảy chúng sinh của vũ trụ; làm cho những sinh mệnh không tốt quy phạm trở thành tốt, làm cho những sinh mệnh có tội [có thể] tiêu trừ tội nghiệp, làm cho các sinh mệnh biến dị được tổ hợp trở lại thành sinh mệnh tốt. [Giảng Pháp tại Pháp hội Washington DC năm 2003 – Giảng Pháp tại các nơi IV]

Tuy nhiên hiện nay đã khác rồi, vì vũ trụ cần Chính Pháp, hết thảy mọi thứ của vũ trụ đều không tốt nữa, toàn bộ đều hết rồi, mà của quá khứ thì cái tốt được đồng hoá trùng tổ lại, cái không tốt đều giải thể rồi, mà hết thảy những gì làm mới đều tuyệt đối không có liên hệ với vũ trụ cùng sinh mệnh cũ, sinh mệnh nào của cựu vũ trụ mà không thể thành sinh mệnh của vũ trụ mới sẽ vĩnh viễn không biết được vũ trụ mới là như thế nào. Nghĩa là, hễ trong cựu vũ trụ có chư vị, thì vũ trụ mới ra sao là chư vị vĩnh viễn không biết. Trên thế giới hiện nay dẫu là Thần cao đến đâu, miễn là chưa Chính Pháp xong, cũng đều không biết được. Trừ những ai Chính Pháp ra, ai khác đều không xứng được biết, vì ngay cả Thần còn cao hơn nữa trong vũ trụ cũng đối diện với Chính Pháp, và vào lúc trước Chính Pháp là đều đang được khảo nghiệm xem có đạt hay không và được lưu lại hay không. [Giảng Pháp tại Pháp hội New York năm 2010 – Giảng Pháp tại các nơi XI]

Bắt đầu khai thuỷ Chính Pháp ở ngoài tam giới, một mạch hướng lên trên, không chỉ theo một tuyến, mà là tứ diện bát phương, vi quan hồng quan đồng thời hướng ra ngoài mà khuếch tán, thực hiện hướng lên trên và thực hiện hướng xuống dưới, bởi vì càng vi quan cũng như càng hồng quan là một khái niệm. Tất cả các chỗ [tôi] đến, đều là theo phương thức siêu việt hết thảy thời gian mà thực hiện. Lên bên trên mà nhìn, thì xung kích to lớn với tốc độ cao như vậy, Thần nếu thấy cũng là chưa từng bao giờ kinh tâm động phách đến thế. Đến đâu thì cũng là hết thảy các thiên thể đều đang băng huỷ trùng tổ, đa số là đang [được] Thiện giải, có cái bị đào thải. Vừa qua chư vị đã biết thiên văn của Mỹ phát hiện thấy hiện tượng trùng tổ của các tinh hệ tinh cầu; [ấy] là cảnh tượng trùng tổ trong phạm vi mà con người có thể quan sát được. Bây giờ con người không biết rằng các thời gian của các không gian có cự ly khác nhau tuy rằng khác nhau rất lớn, nhưng đều là ở trong một thời gian to lớn đồng nhất; do chỗ gián cách của các không gian đã hoạch định ra khu vực thời gian khác nhau như thế. Về thực chất là đồng thời xảy ra. Hết thảy đều đang xảy ra một cách kinh tâm động phách như vậy. Năng lượng to lớn đang bùng nổ, trùng tổ; quá trình trùng tổ loại này là to lớn nhất nhỏ bé nhất, vi tế đến mức thật huyền diệu, vi quan đến mức thật tinh mật, phức tạp to lớn [cũng như] các khung thể to lớn, ngay đến cả chư Thần cự đại cũng phải kinh ngạc cảm thán. Dầu vậy, cái thế của Chính Pháp [đang] hoàn thành rất nhanh, chỉ trong nháy mắt là [trôi] qua, thực hiện xong mọi thứ, và cũng là Thiện nhất đẹp nhất. [Giảng Pháp vào Tết Nguyên Tiêu năm 2003]

Qua những lời giảng Pháp của đại sư Lý Hồng Chí, chúng ta nhận thức được rằng Chính Pháp vũ trụ siêu vượt hết thảy thời gian, và cũng đang không ngừng tăng tốc. Nhìn từ thời gian của đại khung vũ trụ thì Chính Pháp vũ trụ chỉ trong nháy mắt và nó xảy ra đồng thời trong toàn thể vũ trụ.

Chính Pháp vũ trụ trong nháy mắt, nhưng trong thời không của Địa cầu này thì biểu hiện ra là mấy chục năm.

Vũ trụ là [với] một thời gian lớn, Chính Pháp chính là chỉ trong một cái huơ tay, là thanh lý xong, chính là một việc như thế. Nhưng trong thiên thể cự đại này còn có vô số vũ trụ, vô số các chủng loại thiên thể lớn nhỏ, vô số không thể tính đếm các tinh cầu lạp tử, trên bề mặt mỗi cái đó đều có thời gian của mình, lớn hay nhỏ đều là có thời gian khác nhau của mình. Tôi nói là trong một cái huơ tay là làm xong trong đại vũ trụ, nhưng ở một số không gian cực chậm, có thể là hàng mấy ức năm đã trôi qua; trên một số tinh cầu, ấy là quá trình mấy chục năm; trên mặt đất thế gian con người chúng ta đây biểu hiện ra chính là quá trình mười mấy năm, kỳ thực chỉ là trong chớp mắt. [Giảng Pháp tại Pháp hội Quốc tế ở Thủ đô Mỹ quốc 2012]

Chính Pháp vũ trụ triển hiện trong không gian khác lại càng kinh thiên động địa, vũ trụ mới sau khi Chính Pháp xong tốt đẹp đến nỗi khiến Thần cũng phải kinh ngạc.

Trên thực tế, ở ngoài hoàn cảnh người thường nơi mà con người thế gian không nhìn thấy, ở không gian khác kia mới kịch liệt hơn [nhiều], [là] quá trình giải thể và trùng tổ rất vĩ đại và kinh tâm động phách; chúng sinh trong toàn vũ trụ đều đang chăm chú vào sự việc này, vô lượng vô số chư Thần đều đang nhìn vào đây. [Giảng Pháp tại Pháp hội Atlanta năm 2003 – Giảng Pháp tại các nơi IV]

Hết thảy nơi thiên thượng đều tốt đẹp phi thường, tốt đẹp đến mức không thể biểu đạt, những vị Thần, chính là những vị Thần được Thiện giải rồi tiến nhập vào tân vũ trụ đều tròn mắt kinh ngạc. [Giảng Pháp vào Tết Nguyên Tiêu năm 2003]

Đại sư Lý Hồng Chí nói với chúng ta:

Vì Chính Pháp [mới] tạo nên tam giới, vì Chính Pháp nên tạo thành xã hội nhân loại [Giảng Pháp tại Pháp hội vùng đô thị New York [2003]-Giảng Pháp tại các nơi III]

Ngài cũng phân thành hai giai đoạn: chính Pháp ngoài tam giới và chính Pháp trong tam giới.

Chính Pháp kết thúc rồi, thì lịch sử vũ trụ mới sẽ bắt đầu, cuối cùng chỉ có thế gian con người; lấy địa cầu này của nhân loại và phạm vi tam giới [ra] bao vây lại, phong kín chắc chắn, hơn nữa, cũng khiến nó thoát ly khỏi vũ trụ mới, thoát ly khỏi đại vũ trụ. Các nhà khoa học hiện nay chẳng phải cũng đã phát hiện rằng, hệ Ngân Hà càng ngày càng xa khỏi vũ trụ, và mau chóng thoát ly ra? Trên thực tế là quá trình đang bước ra, vì vũ trụ mới sau khi được Chính Pháp xong rồi, thì tác dụng của tất cả các chúng sinh trong tam giới sẽ là một loại ô nhiễm đối với vũ trụ mới; do vậy cần phải thoát ly, phong kín lại rồi thực hiện một cách riêng rẽ; đó chính là Pháp Chính Nhân Gian. [Giảng Pháp tại Pháp hội Canada [2006] – Giảng Pháp tại các nơi VII]

Vào giai đoạn Pháp Chính Nhân Gian, những chúng sinh không thể được cứu độ sẽ bị đào thải, quá trình đại đào thải nhân loại mà các lời tiên tri đã mô tả, các tôn giáo lớn đã trông đợi sẽ bắt đầu.

Cần phải kinh qua giai đoạn thời gian Pháp Chính Nhân Gian rồi, [thì] địa cầu, tam giới hoàn toàn đạt tịnh hoá rồi mới có thể hồi quy. [Giảng Pháp tại Pháp hội quốc tế miền Tây Mỹ quốc [2005] – Giảng Pháp tại các nơi VII]

Vì nhân loại trong đại đào thải sẽ được lưu lại một số người tốt làm nhân chủng cho tương lai, đồng thời trong thời kỳ Pháp Chính Nhân Gian còn cần phải khai sáng cho Đại Pháp một vinh diệu là nhân loại hồi báo Đại Pháp, cũng chính là xuất hiện một thời kỳ toàn thịnh của Đại Pháp tại xã hội nhân loại; đó là điều tất nhiên phải xuất hiện trong lịch sử. Nhân loại cần cảm ơn. Chính Pháp cuối cùng có thể hoàn thành tại nơi đây, là nhân loại mà xét, thì cũng được tính là phúc phận của nhân loại. [Giảng Pháp tại thủ đô Mỹ quốc [2007] – Giảng Pháp tại các nơi VIII]

Qua những lời giảng Pháp của đại sư Lý Hồng Chí, chúng ta biết rằng Chính Pháp vũ trụ sắp kết thúc, tam giới đang nhanh chóng tách xa khỏi vũ trụ mới, thời khắc Pháp Chính Nhân Gian có thể bắt đầu bất cứ lúc nào. Pháp Chính Nhân Gian vẫn đang trì hoãn chưa bắt đầu là bởi vì còn có quá nhiều chúng sinh chưa được cứu.

Lấy cựu nhận thức mà xét, thì hoàn toàn không có khả năng để sinh mệnh của [thời] kỳ này tiến nhập sang vị lai, tiến nhập sang thiên thể của [thời] kỳ tiếp theo vốn không thuộc về họ. Chính là vì trong Chính Pháp lần này, lấy từ bi vĩ đại nhất đối đãi với hết thảy, đối đãi với hết thảy chúng sinh, thì mới nghĩ đến việc từ trong cựu vũ trụ khiến những sinh mệnh được đồng hoá, mới có thể thực hiện việc Chính Pháp vũ trụ. [Giảng Pháp tại Pháp hội Vancouver ở Canada năm 2003 – Giảng Pháp tại các nơi II] Nhưng chư vị đã nghĩ đến chưa, rằng hết thảy những gì cần cứu vớt, những ai được cứu nếu không tự nguyện thì không được tính, thực hiện một cách cưỡng chế thì bản chất sẽ không cải biến, cải biến một cách cưỡng chế thì sẽ bằng như tạo lại sinh mệnh một lần mới, tái tạo thì dễ dàng, cứu độ một sinh mệnh mới là khó nhất, tái tạo thì quá dễ rồi. [Giảng Pháp vào ngày Kỷ niệm 20 năm truyền Pháp – Giảng Pháp tại các nơi XI]

Hôm nay tôi truyền Đại Pháp cũng không phải chỉ truyền cho người phương Đông, mà đồng thời cũng truyền cho người phương Tây, những người thiện lương nơi họ cũng nên được đắc độ, tất cả những dân tộc nào nên được tiến nhập sang kỷ nguyên mới của lịch sử, đều sẽ đắc Pháp. [Nói sơ về thiện – Tinh tấn yếu chỉ]

Cho dù chúng ta có thể là đến từ các thiên thể khác nhau, mang theo niềm tin rằng Chính Pháp tất thành thế để đến thế gian con người, nhưng trong quá trình chuyển sinh trong lục đạo luân hồi, chúng ta đã quên mất lời thệ nguyện thuở ban sơ khi đi xuống. Trong khi ở nơi nhân gian tranh tranh đấu đấu, đã bị mê hoặc trong cuộc sống xa hoa và các loại truy cầu, dục vọng, chúng ta đã không còn nghĩ đến việc trở về thế giới thiên quốc – ngôi nhà thực sự của chúng ta nữa. Sự cứu độ của Sáng Thế Chủ đối với vũ trụ là nhằm vào toàn bộ chúng sinh trong vũ trụ, siêu vượt hết thảy tôn giáo và dân tộc, vậy mà chúng ta lại bị trở ngại bởi các loại quan niệm hình thành đó, rất nhiều người đã không thể nhận thức được Đại Pháp căn bản để cứu độ vũ trụ nữa.

Mở các bài giảng Pháp của đại sư Lý Hồng Chí, đâu đâu cũng nhìn thấy từ “cứu người”, “cứu người”, “cứu người”, tâm tình cấp bách ấy có bao nhiêu chúng sinh có thể thực sự hiểu được? Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã tạo ra những vu khống, tuyên truyền thù hận về Đại sư Lý Hồng Chí và Pháp Luân Công, đã che mắt biết bao chúng sinh, khiến cho biết bao chúng sinh không được cứu, không thể trở về ngôi nhà trên thiên quốc tại vũ trụ mới, khiến cho biết bao thiên thể và chúng sinh liên đới sẽ bị tan chảy cùng với việc giải thể vũ trụ cũ.

Trong 16 năm ĐCSTQ bức hại tàn khốc đối với Pháp Luân Công, hàng triệu học viên Pháp Luân Công đã bị bức hại đến chết, vô số đệ tử Đại Pháp đã bị tra tấn dã man. Họ không những bị bắt giam phi pháp, cưỡng ép tẩy não, tiêm thuốc độc, mà họ còn bị mổ cắp nội tạng khi còn sống. Với những kẻ hành ác bức hại đối với học viên Pháp Luân Công, khi được hỏi có cần đưa họ ra công lý không, Đại sư Lý Hồng Chí nói với các học viên của Ngài rằng:

Tôi là nghĩ thế này, làm đệ tử Đại Pháp mà nói, thì lấy việc cứu người làm gốc, giống như tôi vừa giảng, trong khi bị lừa dối đầu độc, rất nhiều người, gồm cả cán bộ cũng vậy, cảnh sát cũng vậy, kỳ thực bản thân những sinh mệnh đó không ác, bản thân những sinh mệnh đó không phải là cán bộ tà ác kia. Những sinh mệnh đó có khi vẫn là sinh mệnh rất tốt, nhưng họ khi bị nhồi nhét bởi lừa dối của văn hoá tà đảng, đã bị lạc đường, họ đã làm như thế. Tất nhiên có người là biết rõ, [và] họ thực hiện dưới sai khiến của lợi ích, [thì chúng ta] vẫn cần cho họ cơ hội nghe chân tướng. [Nếu] đưa họ khởi tố, kỳ thực, đó không phải điều chư vị cần làm. Chúng ta ngăn chặn cuộc bức hại này, đó là điều chúng ta cần làm. Loại tâm báo thù, ai bức hại chúng ta, ai như thế nào, loại tâm báo thù ấy thì chư vị không nên có. Người tu luyện mà, chính là cứu người. [Giảng Pháp tại Pháp hội New York năm 2015]

Cựu thế lực trong an bài của tà ác, cái gọi là sao cho khiến các đệ tử Đại Pháp viên mãn, cựu thế lực đã tạo thành tà đảng đối với con người thế gian, nhất là bức hại người Trung Quốc là nghiêm trọng nhất: khiến người ta trở nên bại hoại, khiến người ta phạm tội đối với Đại Pháp; đó chẳng phải khiến người Trung Quốc bị đẩy tới hủy diệt sao? Đành rằng cựu thế lực đã an bài sự bại hoại của tà đảng ấy, nhưng rốt cuộc thì người Trung Quốc vì đệ tử Đại Pháp nên mới chịu sự khuất nhục này, chịu khổ nạn nhiều như vậy. Vậy thì từ điểm này mà giảng, chư vị có thể không cần phải đi cứu độ họ sao? Đệ tử Đại Pháp chẳng phải nên mở rộng tâm ra sao? [Giảng Pháp tại Pháp hội quốc tế New York năm 2009]

Sự trân quý của đại sư Lý Hồng Chí đối với mỗi sinh mệnh đã vượt qua cả sự trân quý của sinh mệnh đó đối với chính bản thân mình, vậy mà có bao nhiêu sinh mệnh có thể thực sự hiểu được?

Khi hồng thế Chính Pháp tiến vào tam giới, tiến vào nhân gian, có thể chỉ trong nháy mắt, hết thảy sẽ định xong, những gì mà con người đã làm sẽ định ra họ sẽ bị giải thể theo vũ trụ cũ hay là tiến vào vũ trụ mới. Học viên Pháp Luân Công đã gọi điện thoại, gửi thư điện tử cho những sinh mệnh bị lừa gạt bởi những lời dối trá, tận dụng mọi cơ hội có thể để giảng chân tướng, triển hiện sự tốt đẹp của Pháp Luân Đại Pháp, mục đích duy nhất là muốn thức tỉnh ký ức của những người bị phong bế đã lâu, để họ có thể đưa ra lựa chọn đúng đắn vào thời khắc lịch sử canh tân vũ trụ, trở về ngôi nhà thiên quốc thực sự tại vũ trụ mới.

Thời gian đang từng giây từng phút trôi đi, hồng thế Chính Pháp bất cứ lúc nào cũng có thể tiến vào tam giới, tiến vào nhân gian.

Từ khi [khai] sáng thế [giới] tới nay đã trải qua hai [lần] Trái Đất rồi, lịch sử ức vạn năm ấy, chính là để đợi chờ thời khắc cuối cùng hôm nay. [Giảng Pháp tại Pháp hội quốc tế New York năm 2009]

Khi Chính Pháp tiến vào nhân gian, long phượng xuất hiện, Thần Phật đại hiển, ánh vàng kim tráng lệ huy hoàng. Sự chấn động, trang nghiêm đó, sự tráng lệ, huy hoàng đó, nhân loại tương lai sẽ vĩnh viễn tán dương, ca tụng.

Về nhân loại, nhân loại tương lai, sẽ qua từng thế hệ mà truyền tụng mãi về sự kiện Chính Pháp hôm nay. (vỗ tay) Chân tướng của cuộc bức hại này, vẫn chưa hoàn toàn lộ hết cho con người nhìn thấy đâu. Nhân loại sẽ giật mình sửng sốt. Sự viên mãn của các đệ tử Đại Pháp, sự xuất hiện của hết thảy những gì con người vốn không tin, quá trình quy chính hết thảy những gì bị biến dị của nhân loại, [chúng đều] kinh tâm động phách, không chỉ chấn động mà còn rất đáng sợ. Tất cả đều sẽ xuất hiện. Do vậy nhân loại sẽ vĩnh viễn lưu truyền mãi về giai đoạn lịch sử này. [Giảng Pháp tại Pháp hội vùng đô thị New York [2003] – Giảng Pháp tại các nơi III]

Chính Pháp thực thi đến thế gian, Thần Phật đại hiển, những oan [và] duyên loạn thế gian đều được giải quyết một cách thiện. Những ai hành ác đối với Đại Pháp [đều bị] hạ vào cửa vô sinh, còn lại những người [có] tâm quy chính, trọng đức hành thiện, mọi vật đổi mới; chúng sinh không [ai] không kính [trọng] ân cứu độ của Đại Pháp; khắp trời cùng vui vẻ, cùng chúc mừng, cùng khen ngợi. Thời [khắc] Đại Pháp toàn thịnh tại thế gian là bắt đầu từ đây. [Dự liệu cho Pháp Chính nhân gian – Tinh tấn yếu chỉ 2]

Ghi chú: Loạt bài này có nhiều chỗ trích dẫn nội dung trong các bài giảng Pháp của Ngài Lý Hồng Chí, hoàn toàn dựa trên lý giải một chiều và hạn chế của cá nhân tác giả, do đó khi trích dẫn khó tránh khỏi đoạn chương thủ nghĩa. Nguyên tác các bài giảng của Ngài Lý Hồng Chí có nội hàm thâm sâu và rộng lớn, các độc giả quan tâm xin hãy đọc các bài giảng Pháp nguyên văn của Ngài Lý Hồng Chí được đăng tải miễn phí tại trang web: http://phapluan.org.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/15321

The post Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (5): Vũ trụ mới, kỷ nguyên mới first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Nhận thức về vũ trụ chân thựchttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-nhan-thuc-ve-vu-tru-chan-thuc.htmlMon, 08 Mar 2021 18:21:08 +0000https://chanhkien.org/?p=27263[ChanhKien.org]    Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (1): Nhận thức về không gian Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (2): Nhận thức về thời gian Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (3): Nhận thức về vũ trụ Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân […]

The post Loạt bài: Nhận thức về vũ trụ chân thực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org] 

 

Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (1): Nhận thức về không gian

Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (2): Nhận thức về thời gian

Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (3): Nhận thức về vũ trụ

Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (4): Nhận thức về nhân loại

Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (5): Vũ trụ mới, kỷ nguyên mới

The post Loạt bài: Nhận thức về vũ trụ chân thực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (4): Nhận thức về nhân loạihttps://chanhkien.org/2017/11/loat-bai-nhan-thuc-ve-vu-tru-chan-thuc-4-nhan-thuc-ve-nhan-loai.htmlThu, 30 Nov 2017 11:28:03 +0000http://chanhkien.org/?p=25169[ChanhKien.org] Vũ trụ hình thành như thế nào? Con người từ đâu đến? Vũ trụ phải chăng không có biên giới? Ngước nhìn lên bầu trời đầy rẫy các vì tinh tú, biết bao người đã từng tự hỏi bản thân như vậy. Nhưng dù có tra cứu tất cả các sách vở kinh điển […]

The post Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (4): Nhận thức về nhân loại first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org] Vũ trụ hình thành như thế nào? Con người từ đâu đến? Vũ trụ phải chăng không có biên giới? Ngước nhìn lên bầu trời đầy rẫy các vì tinh tú, biết bao người đã từng tự hỏi bản thân như vậy. Nhưng dù có tra cứu tất cả các sách vở kinh điển vẫn khó có thể tìm được đáp án đầy đủ. Đây đích thị là câu hỏi vĩnh viễn không có lời giải của nhân loại.

Ngành vũ trụ học hiện đại đã đưa ra nhiều giả thuyết về sự hình thành của vũ trụ: từ thuyết Thiên cầu đồng tâm (geocentric – Trái Đất là trung tâm của vũ trụ) đến thuyết Nhật tâm (heliocentric – Mặt Trời là trung tâm của vũ trụ), từ thuyết Vụ nổ lớn (Big bang) đến thuyết Đa vũ trụ (multiverse), những phát hiện mới liên tục phủ định những nhận thức cũ. Phát hiện mới nhất cho thấy, vũ trụ của chúng ta có lẽ chỉ là một trong vô số các vũ trụ đan xen ngang dọc, thế giới ba chiều quen thuộc với chúng ta có lẽ chỉ là một thế giới hư huyễn. Quá khứ, hiện tại, tương lai có lẽ cùng đồng thời tồn tại. Những nghiên cứu phát hiện này đã hoàn toàn lật ngược lại những lý giải hiện hữu về vũ trụ của chúng ta. Trực giác của chúng ta đối với sự vật quen thuộc sao có thể nhận biết sai đến vậy chứ? Những điều quá kinh ngạc này có lẽ sẽ khiến bạn phải đặt câu hỏi rằng rốt cuộc mức độ đáng tin cậy của những nghiên cứu này ra sao. Loạt bài này sẽ cùng bạn đọc tìm hiểu những nghiên cứu phát hiện mới nhất, đồng thời cũng mở ra một cánh cửa mới cho bạn đọc, biết đâu từ đây bạn có thể tìm ra được manh mối về vũ trụ chân thực.

Nhân loại từ đâu đến? Nhân loại sẽ đi về đâu? Ý nghĩa của đời người rốt cuộc là gì? Những câu hỏi từ thiên cổ này khiến nhân loại trở nên bối rối, và cũng khích lệ nhân loại tìm kiếm câu trả lời. Mặc dù nhìn từ góc độ khoa học, thuyết tiến hóa của Darwin không hề có tính khoa học nào, cho đến tận bây giờ vẫn chưa phát hiện được bất kỳ chứng cứ nào về quá trình quá độ giữa hai vật chủng tiến hóa, nhưng khoa học hiện đại vẫn đang lựa chọn thuyết tiến hóa làm lý luận về nguồn gốc của nhân loại.

Nhà thiên văn học nổi tiếng Halley là bạn thân của Newton, ông nổi tiếng bởi đã tính được quỹ đạo di chuyển của sao chổi Halley. Halley không tin rằng mọi thứ trong vũ trụ là do Thần tạo ra. Một hôm, Halley đến thăm Newton, nhìn thấy một mô hình hệ mặt trời do Newton chế tác mà cảm thán không thôi. Ở trung tâm của mô hình này là một mặt trời mạ vàng, các hành tinh được bài trí ngay ngắn xung quanh, chỉ cần kéo cần quay thì các hành tinh lập tức chuyển động hài hoà theo quỹ đạo của mình, vô cùng mỹ diệu. Halley hỏi Newton rằng mô hình này do ai tạo ra, Newton trả lời rằng mô hình này không có ai thiết kế và chế tạo, chẳng qua là các loại vật liệu ngẫu nhiên va vào nhau mà tạo thành. Halley nói, vô luận thế nào cũng phải là do ai đó tạo ra, hơn nữa người đó là một thiên tài. Lúc này Newton vỗ vai Halley nói: “Cái mô hình này tuy rất tinh xảo, nhưng so với Hệ mặt trời thực tế thì thực sự không là gì cả. Ngay cả ông còn tin rằng có người chế tạo ra nó, vậy thì Hệ mặt trời tinh xảo hơn cái mô hình này hàng trăm triệu lần, há không phải có một vị Thần toàn năng dùng trí huệ to lớn của mình sáng tạo ra nó sao?” Halley đột nhiên tỉnh ngộ, cuối cùng cũng tin rằng có Thần tồn tại.

Nếu thiên thể to lớn kia cũng là kiệt tác của Thượng đế, vậy thân thể người nhỏ bé này thì sao? Bí ẩn của thân thể người cho đến nay vẫn là chỗ mê mà khoa học khó giải thích được, thân thể người từ kết cấu đến cơ năng cơ chế đều vô cùng tinh diệu, hoàn mỹ. Gần như không có khoa học gia nào có thể phủ nhận điều này, tuy nhiên họ thà tin rằng đây là sản vật do quy luật tự nhiên tạo nên còn hơn tin rằng do trí huệ to lớn của Thượng đế tạo nên, cũng giống như họ vẫn tin vào những học thuyết về vũ trụ cho rằng sự xuất hiện của Địa cầu và nhân loại là sản phẩm của thuyết xác suất vậy. Nếu như có người cho rằng cho một con khỉ chơi đàn loạn cả lên, sau khi chơi rất nhiều lần, nhất định nó sẽ chơi được một danh khúc nổi tiếng thế giới, bạn sẽ thấy cách suy nghĩ này đúng là ngây thơ ấu trĩ phải không? Vậy mà khi tìm hiểu về nguồn gốc của nhân loại và vũ trụ, khoa học hiện đại lại coi sự việc chắc chắn không thể xảy ra này là điều thực tế có thể xảy ra.

Khoa học hiện đại cho rằng vũ trụ chúng ta khởi nguyên từ một vụ nổ lớn ước chừng xảy ra vào 13,7 tỷ năm trước. Sau khi xảy ra vụ nổ lớn, vũ trụ từ trạng thái rất có trật tự dần dần chuyển thành trạng thái mất trật tự và hỗn loạn, tuy nhiên điều đáng kinh ngạc là trong khoảng thời gian đó, những hạt bụi không có trật tự trong vũ trụ lại tổ hợp thành các loại lạp tử, các lạp tử va chạm vào nhau mà hình thành các hành tinh và tinh hệ. Khoảng 5 tỷ năm trước, Mặt trời của chúng ta được hình thành một cách kỳ diệu từ trong một cột xoáy khí tại hệ Ngân hà. Xung quanh hằng tinh này lại còn sản sinh ra các hành tinh, vệ tinh và tiểu hành tinh khác, trong đó có một hành tinh chính là Trái đất của chúng ta. Trên bề mặt Địa cầu của chúng ta khi đó núi lửa luôn phun trào, mưa thiên thạch không ngừng rơi. Do thiên thạch không ngừng va chạm nên đã xuất hiện nước và bầu khí quyển. Nguyên tử và năng lượng hòa vào nhau, từ đó tạo ra tế bào sống đơn giản đầu tiên, trải qua vài triệu năm đột biến và chọn lọc tự nhiên, tảo, sứa và giun dẹp xuất hiện. Trải qua quá trình tiến hóa lâu dài, loài cá xuất hiện trong các đại dương ở trên Trái đất, một số loài cá tiến hóa thành loài lưỡng cư, qua chọn lọc tự nhiên mà phát triển thành loài bò sát. Một phân nhánh loài bò sát lại tiến hóa thêm một bước nữa thành nhiều chủng loại sinh vật, bao gồm cả động vật có vú. Ước chừng khoảng 600.000 năm trước, một bầy linh trưởng tiến hóa thành thủy tổ của nhân loại. Đây là nguồn gốc của nhân loại mà chúng ta biết được thông qua mô tả của thuyết tiến hóa.

Mặc dù các nhà khoa học đều rất kinh ngạc cho rằng trong quá trình này hẳn phải xảy ra rất nhiều sự trùng hợp ngoài sức tưởng tượng mới có thể có sự xuất hiện của nhân loại; mặc dù cho tới nay chưa từng phát hiện chứng cứ về sự tiến hóa giữa hai loài vật hay loài vật quá độ nào; mặc dù các nhà khoa học biết rằng đột biến, khuyết thiếu gen cũng chỉ bất quá tạo ra một chút dị hình, khuyết tật, chứ không thể biến đổi một loài này thành một loài khác được, thế nhưng khoa học vẫn cố chấp chọn thuyết tiến hóa là lý luận về khởi nguyên của nhân loại, lại còn đưa nó vào gần như tất cả các sách giáo khoa, lấy phương thức tiên nhập vi chủ (cái gì vào trước sẽ làm chủ) để cưỡng chế học sinh tiếp thu thuyết tiến hóa. Suốt một thế kỷ nay, thuyết tiến hóa luôn chiếm vị trí chủ lưu trong giới học thuật, rất nhiều người tin tưởng nó mà không chút nghi ngờ.

Những chứng cứ về nền văn minh tiền sử liên tục được tìm thấy đang đặt ra những thách thức đối với thuyết tiến hóa. Ví dụ như ở đồi Clark thuộc Nam Phi đã phát hiện thấy mấy trăm quả cầu bằng vàng, theo khảo sát, tầng địa chất nơi những quả cầu bằng vàng này được tìm thấy có niên đại khoảng 2,8 tỷ năm, các lỗ khảm xung quanh những quả cầu vô cùng tinh xảo, các chuyên gia kỹ thuật chế tạo kim loại cho rằng rất khó có thể nhận định đây là quá trình hình thành của tự nhiên.

Tại mỏ quặng Uranium Oklahu ở nước cộng hoà Gabon thuộc Châu Phi, người ta đã phát hiện ra một lò phản ứng hạt nhân cỡ lớn. Nghiên cứu xác nhận rằng lò phản ứng hạt nhân này đã được xây dựng từ 2 tỷ năm trước và vận hành trong khoảng 500.000 năm. Điều đáng kinh ngạc và gây hứng khởi cho các nhà khoa học hiện nay là sơ đồ kết cấu xử lý chất thải hạt nhân của lò phản ứng hạt nhân này đảm bảo rằng cho dù chất thải hạt nhân vì lý do nào đó bị rò rỉ ra khỏi lớp bên trong thì phóng xạ hạt nhân cũng sẽ bị các lớp bên ngoài hấp thụ.

Trong lớp trầm tích nham thạch kỷ Cambri thuộc Antelope Springs, bang Utah, Mỹ các nhà khảo cổ học đã phát hiện hóa thạch dấu chân của một người trưởng thành có đi giày và dấu chân của một đứa trẻ giẫm lên một con bọ ba thùy. Mà bọ ba thùy là loài sinh vật sống từ 600 triệu năm đến 260 triệu năm về trước, chúng đã bị tuyệt chủng từ rất lâu rồi.

Vào thế kỷ 19, những bức bích hoạ được tìm thấy trong động Raska ở phía nam nước Pháp và động Altamira ở Tây Ban Nha đã khiến nhiều nhà khảo cổ học chấn động. Những bức bích hoạ này được vẽ rất sống động và chúng có niên đại từ hơn 17.000 năm về trước.

Người ta còn phát hiện ra rất nhiều chứng cứ khác về những thời kỳ văn minh phát triển của nhân loại tiền sử, những chứng cứ này đủ để lật đổ thuyết tiến hóa. Nhưng trước những phát hiện này, giới khoa học lại luôn im lặng, làm như không thấy. Vậy cớ sao chúng ta lại có thể tin tưởng tuyệt đối vào một lý thuyết không có bất cứ bằng chứng nào chứng minh, rằng loài người là từ khỉ tiến hóa mà thành chứ? Thậm chí bản thân Darwin từng nói: “Nếu như thuyết chọn lọc tự nhiên của tôi phải dựa vào quá trình tiến hóa đột biến mới có thể giải thích được thì tôi sẽ quẳng nó đi như một đống rác”. Tại sao chúng ta phải ôm chặt cái thứ mà ngay cả Darwin cũng coi là đống rác vậy?

Trong hầu hết các nền văn minh cổ đại, người xưa đều tin rằng Thần tạo ra nhân loại. Vậy người xưa đã sai hay là người hiện đại đã đánh mất lý trí của mình? Nhân loại từ đâu đến? Ý nghĩa của đời người là gì? Đại sư Lý Hồng Chí đã sớm chỉ ra cho chúng ta chỗ mê này qua các bài giảng Pháp của Ngài.

Cấu thành của vũ trụ hoàn toàn không giống như khoa học gia hiện nay nói là do vụ nổ lớn hình thành. Con người căn bản là không phải từ loài vượn tiến hóa mà ra. Mới đầu khi Darwin đưa ra thuyết tiến hóa, thuyết tiến hóa là sơ hở trăm bề. Bản thân ông ta cũng là ngại ngùng lo lắng mà đưa ra, chỗ thiếu sót lớn nhất trong đó chính là không có một quá trình lịch sử tương đối dài ở trung gian từ vượn tiến hóa thành người. [Di] vật thật cho đến hiện nay cũng không có xuất hiện, đến ngày nay đều không tìm được, nhưng con người lại tiếp nhận, mà còn tin như là chân lý vậy.[2]

Vậy nhân loại sinh ra như thế nào? Đại sư Lý Hồng Chí bắt đầu nói từ thời điểm khởi đầu của vũ trụ chúng ta:

Vũ trụ tối [nguyên] sơ không có nhiều tầng thứ hướng dọc như thế này, cũng không có nhiều tầng thứ hướng ngang như thế này, nó rất là đơn nhất. Trong quá trình nó phát triển vận chuyển thì sản sinh các sinh mệnh, tức là điều mà chúng ta gọi là ‘sinh mệnh tối nguyên thuỷ’, họ là đồng hóa với vũ trụ, không tồn tại những thứ bất hảo. Đồng hóa vũ trụ, chính là cùng giống như vũ trụ, hết thảy công năng trong vũ trụ thì họ đều có. Thuận theo sự phát triển và diễn hóa của vũ trụ, bèn xuất hiện một số thiên quốc. Về sau xuất hiện càng ngày càng nhiều sinh mệnh hơn, tại tầng thứ thấp của chúng ta mà giảng, thì chính là hình thành các quần thể xã hội, và phát sinh những liên hệ với nhau. Trong quá trình diễn biến ấy, có những người đã phát sinh biến đổi, càng ngày càng rời xa đặc tính vũ trụ, biến thành không còn tốt như thế nữa, thần thông cũng nhỏ đi. Cho nên người luyện công phải giảng “quy chân”, chính là hồi quy về trạng thái nguyên thuỷ, tầng thứ càng cao, càng đồng hóa với vũ trụ, bản sự sẽ càng lớn. Bấy giờ trong sự diễn hóa của vũ trụ một số sinh mệnh biến thành bất hảo rồi, mà không thể huỷ diệt họ, bèn nghĩ biện pháp để họ đề cao trở lại đồng hóa với vũ trụ, để họ tới một tầng thứ thấp hơn, chịu chút khổ, đề cao đề cao. Sau này không ngừng có những người tới tầng thứ đó. Rồi sau đó ở tầng thứ đó phát sinh sự phân hóa, người mà tâm tính bất hảo hơn nữa, không ngụ tại tầng thứ đó được nữa, vì thế sáng tạo một tầng thứ thấp hơn nữa. Cứ như thế, càng ngày càng hạ xuống, dần dần phân hóa, một mạch cho tới hôm nay, sinh ra tầng thứ này nơi nhân loại chúng ta đang ở. Đó chính là [nguồn gốc] nguyên lai của nhân loại.[3]

Từ các bài giảng Pháp của Đại sư Lý Hồng Chí chúng ta biết rằng, vốn dĩ trong tầng thứ này của Trái Đất lúc đầu cũng không phải là nhân loại giống như chúng ta ngày nay, mà đều là các sinh mệnh giống như sinh vật ngoài hành tinh. Vậy thì tại tầng thứ nhân loại này tại sao lại xuất hiện nhân loại giống như chúng ta hôm nay? Nguyên lai trong đó còn bao hàm những bí ẩn rộng lớn, thâm sâu hơn nữa, liên quan tới việc thay thế giữa vũ trụ cũ và vũ trụ mới cũng như tới việc cứu độ chúng sinh vũ trụ. Đại sư Lý Hồng Chí đã mở ra chỗ mê vạn cổ này.

Pháp lý “thành, trụ, hoại, diệt, không” của đại khung vũ trụ cũ đã đặt định ra kết cục cuối cùng. Vì không muốn chứng kiến sự hủy diệt cuối cùng của đại khung vũ trụ, trân quý sinh mệnh nguyên thủy của đại khung vũ trụ, Sáng thế chủ đã mang theo Đại Pháp vũ trụ viên dung bất phá tới cứu đại khung. Tầng thứ mà nhân loại sinh tồn này là tầng thứ sinh mệnh thấp nhất trong vũ trụ. Vì để sinh mệnh trong tầng thứ này có thể được cứu độ, Sáng thế chủ đã lựa chọn hồng truyền Đại Pháp vũ trụ từ tầng thứ này.

Tôi từng giảng cho mọi người, rằng cứu độ chúng sinh rất khó, nếu muốn khiến toàn chỉnh thể, mỗi từng sinh mệnh ở các tầng đều có thể đắc Pháp, đều có thể được cứu độ, thì ắt phải lựa chọn giảng Pháp ở nhân loại nơi tầng thứ thấp nhất trong các sinh mệnh vũ trụ, nhờ đó mà sinh mệnh các tầng thứ đều có thể nghe được.[5]

Chính vì Pháp sẽ truyền xuất ra từ tầng thứ con người nơi đây, do vậy trong tiểu vũ trụ của chúng ta mới xuất hiện Tam giới và nhân loại giống như chúng ta hôm nay:

Vậy hỏi tại sao lần này hình hài của nhân loại chúng ta lại trở thành như thế này? Bởi vì như chư vị đã biết Đại Pháp của vũ trụ là được truyền tại nơi đây; trong thời hết sức xa xưa trong lịch sử đã hoạch định hết thảy cơ sở cho Đại Pháp hồng truyền sau này; nếu một thứ nào đó giống như động vật mà đến nghe Pháp thì đó chính là vũ nhục Đại Pháp; do vậy chư Thần đã phỏng theo hình tượng của bản thân mà tạo nên con người ngày nay. Trong tôn giáo tại phương Tây, người ta biết rằng Yahweh đã phỏng theo hình tượng bản thân mà tạo nên con người; người dân phương Đông đã biết rằng, Nữ Oa đã phỏng theo hình tượng bản thân mà tạo nên con người; còn có những vị Thần khác, cũng đã tạo ra những con người khác. Nếu mà quá khứ [trước đó] ở hoàn cảnh Trái Đất mà tạo thành các sinh mệnh có cùng hình tượng với chư Thần, thì điều ấy tương đương với vũ nhục chư Thần, là sự bất kính lớn nhất đối với chư Thần; do vậy không thể tạo thành con người ở nơi này với hình tượng chư Thần. Tuy rằng con người ngày nay được tạo thành cùng hình tượng với chư Thần, nhưng chư Thần không còn tiếp nhận con người là đồng loại của họ, bởi vì phương thức sinh hoạt của con người đã khác hẳn với chư Thần. Chỉ có cái bên ngoài của con người, hình tượng là giống với Thần.[4]

Nguyên lai bởi Sáng thế chủ muốn cứu vớt một bộ phận đại khung vũ trụ cũ nên mới xuất hiện nhân loại giống như chúng ta hôm nay, mới tạo thành Tam giới với không gian đặc thù như thế này. Do Sáng thế chủ đã đến tầng thứ nhân loại này, nên mọi thứ trên Trái Đất đều phát sinh biến hóa, cũng trở thành tâm điểm và trung tâm cứu độ toàn bộ đại khung vũ trụ. Cũng vì lý do này mà Thần của các tầng thứ đều đã an bài rất cẩn trọng. Đại sư Lý Hồng Chí còn tiết lộ rất nhiều thiên cơ nữa, để đảm bảo việc hồng truyền Đại Pháp không xuất hiện sai lệch, Thần đã an bài hai thời kỳ địa cầu:

Như vậy Trái đất vào kỳ này bắt đầu từ 100 triệu năm về trước; có người trong chúng ta ngồi đây nghĩ rằng: ‘Tôi học trong sách giáo khoa là từ 3,5 đến 4,5 tỷ năm kia mà’. Tôi nói với mọi người, mỗi kỳ Trái đất đều là 100 triệu năm, Trái đất lần trước cũng là 100 triệu năm…

Những tinh cầu trước đây đã ở vị trí của Trái đất này cũng từng trải qua rất nhiều lần giải thể và tái tạo; trong vũ trụ có rất nhiều tinh cầu giải thể rồi, trôi dạt trong không gian hình thành cát bụi và các tinh thể nhỏ bé. Trong thiên thể rộng lớn [này] các tinh cầu không ngừng giải thể, không ngừng tổ hợp lại mới. Sự giải thể của chúng chính là những vụ nổ. Trái đất cũng là từ các Trái đất trước đó không ngừng nổ vỡ rồi lại tổ hợp lại mới mà thành; nổ vỡ một cái rồi lại tổ hợp một cái. Trong không trung này có rất nhiều cát bụi, có những cái rất lớn, có những cái như một tảng đá lớn, có những cái to đến mấy km2, có những cái thậm chí đến mấy trăm km2. Mỗi lần trên tinh cầu đều đã từng có [nền] văn minh, trên Trái đất lần trước cũng có [nền] văn minh; như thế trên rất nhiều khối lớn có trên đó các vật thể không bị hoàn toàn nổ vỡ nên lưu lại văn hóa của sinh vật trong quá khứ. Khi tổ hợp Trái đất một lần mới, thì những bụi vũ trụ ấy được ghép lại, tái tạo lại Trái đất một lần mới, do đó mới lưu lại những văn vật, những di tích văn minh của Trái đất lần trước đó hoặc của tinh cầu khác.[6]

Vậy tại sao không trực tiếp tạo ra lớp da người [ngay] vào thời truyền Pháp, [lúc] chư Thần xuống đây nghe Pháp, [mà] phải tạo ra con người từ trước trong lịch sử lâu như vậy? Mọi người cần biết rằng, khi Thần tạo ra con người, thì không thể lấy tư tưởng ý thức của mình mà tạo vào trong đó, bởi vì như thế sẽ thành vị Thần hoàn chỉnh, không phải con người nữa; vậy không ổn. Tuy rằng con người mang hình tượng của Thần, nhưng Thần không thể coi con người là đồng loại, bởi vì hành vi của con người khác hẳn hành vi của Thần. Hỏi con người đương sơ như thế nào? Kết cấu thân thể con người là do Thần tạo, do đó trong không gian này thì nó là hệ thống thân người hoàn mỹ nhất, các sinh mệnh tinh cầu khác đều phải tấm tắc! Tất nhiên nó cũng bao gồm ba hồn bảy phách, cấu thành một thân thể người hoàn chỉnh. Nếu không có ba hồn bẩy phách, thì chỉ là thân thể bề ngoài thôi, cũng gọi là ‘lớp da người’. Khái niệm ‘lớp da người’ này hoàn toàn khác với khái niệm lớp da mà con người nhìn nhận. Thần nhìn nhận rằng cái mà do hết thảy những vi lạp phân tử tổ hợp mà thành thân thể người nơi bề mặt nhất, gồm cả xương, huyết, nội tạng cũng như hết thảy kết cấu bề mặt của thân người; cũng là từ trên vi quan nhìn xuống thì đó là [phần] các tế bào phân tử ở bề mặt tạo thành người, là hết thảy những gì dùng tròng mắt con người có thể nhìn thấy trong giải phẫu, Thần gọi toàn bộ cái phần kết cấu bề mặt đó là lớp da người, chứ không phải chỉ là lớp da mà con người vẫn nhìn nhận.[6]

Nhận thức của khoa học hiện đại về nhân loại vẫn chỉ dừng lại ở bề mặt thân thể người, hơn nữa còn cho rằng tổ chức bề mặt thân thể người chính là toàn bộ con người, bởi vậy học thuyết đa vũ trụ dự đoán rằng do sự sắp xếp của các nguyên tử là có giới hạn nên sẽ có một bản sao của vũ trụ chúng ta cũng như một bản sao của chính chúng ta tại nhiều vũ trụ. Hơn nữa họ mở ra triển vọng trong tương lai có thể lợi dụng hiện tượng rối lượng tử để dịch chuyển thân thể đến những nơi xa xôi trong nháy mắt. Là sinh mệnh sống, sự khác biệt giữa người với người không chỉ nằm ở sự sắp xếp khác nhau giữa các lạp tử. Khoa học thực chứng không thể chứng thực sự tồn tại của những tầng thứ thâm sâu hơn, đây chính là hạn chế của nó.

Thân thể người ta nếu không có nguyên thần của mình, không có tính khí tính cách, đặc tính, không có những thứ ấy, thì chính là một tảng thịt; nó không thể là một con người hoàn chỉnh, có mang theo cá tính tự ngã độc lập. [7]

Khoa học thực chứng chỉ thừa nhận thân thể vật chất, những thứ vượt ra ngoài nhận thức của khoa học thực chứng như sự tồn tại của nguyên thần, tính khí, tính cách, đặc tính thì nó vẫn luôn phản đối và bài xích, cho nên khoa học thực chứng hiện tại vĩnh viễn không thể nhận thức một cách đầy đủ về nhân loại.

Sự xuất hiện của nhân loại và Tam giới như ngày nay là bởi Đại Pháp vũ trụ sẽ hồng truyền tại tầng thứ nhân loại này, vậy con người được tạo ra vào lúc đầu sẽ như thế nào?

Không có nội hàm nào cả, không có năng lực gánh nhận nào hết, không có bất kể tư duy khái niệm hoàn chỉnh nào để nhận thức hết thảy sự vật trong không gian này. Con người như thế cần phải trải qua tháng năm lâu dài, để tư tưởng con người dần dần nâng dần lên, có được nội hàm bên trong và năng lực gánh nhận; điều ấy không phải một thời gian ngắn mà làm cho được; do vậy trong suốt 100 triệu năm ấy chính là để làm việc này. Biểu hiện của con người hôm nay, gặp việc không sợ, bình tĩnh trầm xuống, suy xét một cách có lý trí, thậm chí còn có được năng lực sáng tạo. Con người có thể có được tư tưởng và trạng thái tư duy bình thường như vậy, ấy là do chư Thần đã cố ý cấp cho con người trong bao nhiêu tháng năm lâu dài trong lịch sử mà thành. Quá trình ấy, tôi nói với chư vị, đã liên tục kéo dài cho đến năm nghìn năm trước đây.[6]

 

Năm nghìn năm gần đây lúc văn hóa nửa Thần tại Trung Quốc, chính là bắt đầu con người quy phạm một cách có hệ thống có thể tiếp thụ tư tưởng của Pháp. …… Như vậy tư tưởng của con người quy phạm được tạo ra mà khi nghe Pháp có thể nghe hiểu được Pháp là như thế nào? Bởi vì Pháp cần giảng thế nào, thì cần tạo thành văn hóa nhân loại và tư tưởng con người như thế ấy. Con người toàn thế giới đều hiểu được thế nào gọi là ‘đức’, thế nào gọi là ‘tín’, thế nào gọi là ‘thiện’, thế nào gọi là ‘ác’, ‘tốt’ và ‘xấu’; đó là những [điều] cơ bản nhất. Ở Trung Quốc thì biểu hiện cụ thể hơn, nội hàm sâu sắc hơn, bởi vì Pháp cần truyền tại nơi này, việc ấy cần làm tại nơi này; do vậy tại nơi đó cần sáng tạo một văn hóa phong phú thật sự có khả năng nhận thức và lý giải được Pháp.[6]

 

‘Tam quốc diễn nghĩa’ [có] giảng về chữ ‘nghĩa’. Trải qua một triều đại, ba thế lực cùng nhau ganh sức đã thể hiện đầy đủ được nội hàm của chữ ‘nghĩa’. ……Ông Nhạc Phi thời Nam Tống đã biểu hiện được chữ ‘trung’. ‘Trung’ là gì, chư vị chỉ đơn thuần nói rồi giải thích là không ổn. Qua quá trình một triều đại, mới có thể làm người ta thật sự lý giải được nội hàm chân chính và quan hệ tại tầng thâm sâu của nó cho đến biểu hiện của hành vi.[6] 

Trong lịch sử còn có bách gia chư tử, còn có tư tưởng ‘trung dung’ của Khổng Tử đề xuất ra ‘nhân lễ nghĩa trí tín’, v.v. Thích Ca Mâu Ni, Lão Tử cũng như Jesus xuất hiện, mới làm cho con người hôm nay thật sự nhận thức được thế nào là ‘chính tín’ và ‘tu luyện’, thế nào là ‘Phật Đạo Thần’, hết thảy những điều như thế. Lịch sử đã làm tư tưởng con người hôm nay phong phú lên, làm cho con người có thể nhận thức lý giải Pháp, có thể đắc Pháp. Hết thảy quá trình lịch sử của nhân loại đều là để đặt định cho cơ sở này; nói cách khác, chính vì để truyền Đại Pháp nên mới tạo ra con người và văn hóa con người; chứ không phải Pháp là giảng cho phù hợp với văn hóa nhân loại, lại càng không phải là sản phẩm của văn hóa nhân loại. Đó là những điều mà trong năm nghìn năm chúng ta đã làm [ra vậy].[6]

Giảng đến đây, nói một cách hình tượng nhất thì xã hội nhân loại giống như vở kịch. Từng triều đại [tiếp nhau], nó giống như cuốn màn lên, một triều bắt đầu diễn. Một triều kết thúc, màn lớn kia hạ xuống. Lại cuốn lên, hoán đổi triều đại. Từng triều từng đại, từng triều từng đại cứ bước ra trường [diễn] như thế, tiếp duyên, lưu lại lịch sử, tạo cho lịch sử, tạo cho nhân loại những văn hóa cần thiết, biểu diễn từng màn từng màn như thế.[6]

Mỗi triều mỗi đại ấy, con người mỗi triều đều là người trời của một triều, là đại biểu từ các thiên thể xa xôi đến, đại biểu cho vô số chúng sinh tại đó tới đây kết duyên, [sao cho] trong Chính Pháp những chúng sinh ấy không lạc mất. Trong khi kết duyên của một triều thì lưu lại văn hóa mà họ mang theo. Kết duyên xong sang đời sau chuyển sinh đến vùng đất khác chờ đợi ngày Đại Pháp khai truyền. Mỗi triều đều như vậy, tất cả các dân tộc trên toàn thế giới đều qua chuyển sinh tại Trung Quốc. Bao gồm nhân dân của các quốc gia; trừ một số lớn những sinh mệnh thượng giới đã đến [chuyển sinh] vào lúc cận kỳ bắt đầu truyền Pháp trở về sau, thì nhân dân các nước trong lịch sử đều chuyển sinh qua Trung Quốc. Bất kể là con người của quốc gia nào, thì đầu tiên lúc chư vị vào Địa cầu thì là người Trung Quốc, bởi vì lần thứ nhất chuyển sinh của chư vị chính là ở đó.

Tuy vậy 90% con người hiện nay đều là các sinh mệnh đến từ cao tầng, hơn nữa đa số có tầng rất cao; [họ] chỉ lợi dụng lớp da người do Thần tạo ra từ trước, [còn] bản thân họ không có quan hệ trực tiếp với các Thần đã tạo ra sinh mệnh con người.[6]

Giờ đây chúng ta đã biết được nguyên lai của nhân loại, nguyên lai của Tam giới, cũng biết rằng có thể chúng ta đều đến từ những thiên thể xa xôi nào đó, đại biểu cho vô lượng chúng sinh nơi đó, tại thời khắc lịch sử vũ trụ mới thay thế vũ trụ cũ, chúng ta có thể đắc Pháp được cứu độ từ đó tiến nhập vào vũ trụ mới, quay trở về thiên đường trong vũ trụ mới. Thần truyền cấp cho nhân loại văn hóa tu luyện của Nho giáo, Thích giáo, Đạo giáo để giúp nhân loại giữ tiêu chuẩn đạo đức ở một mức cao, đồng thời cũng giúp nhân loại nhận thức được Đại Pháp căn bản cứu độ vũ trụ, để có thể vào lúc Sáng thế chủ tới thế gian mà đồng hóa Đại Pháp cùng Sáng thế chủ quay về thiên thượng. Tuy nhiên do pháp lý tương sinh tương khắc của vũ trụ cũ, thiện ác đồng tại, trong khi an bài nhân loại ở Tam giới đắc Pháp cũng đồng thời an bài các loại khảo nghiệm khi người ta đắc Pháp. Làm bại hoại đạo đức nhân loại, làm bại hoại chính tín của nhân loại đối với Thần, đây chính là an bài của ma. Bởi vì ma cho rằng con người chỉ có thể trải qua khảo nghiệm lớn như vậy mới xứng đắc được Pháp lớn thế này, mới xứng tiến nhập vào vũ trụ mới tốt đẹp vô tỷ.

Hiện nay chính là thời khắc vũ trụ cũ thay thế vũ trụ mới, trong tôn giáo giảng rằng đây là thời kỳ mạt pháp mạt kiếp. Vào thời kỳ này, vạn ma xuất thế, con cháu của ma chuyển sinh vào trong các ngành nghề ở nhân loại, làm bại hoại đạo đức nhân loại. Chúng còn chuyển sinh vào trong các tôn giáo, phá hoại giới luật của Thần Phật, làm những chuyện thương thiên hại lý và bại hoại đạo đức nhân loại, từ trong nội bộ tôn giáo mà làm bại hoại tôn giáo, làm bại hoại chính tín của con người đối với Thần Phật.

Thuận theo loại thiên tượng này, sự xuất hiện của thuyết tiến hóa chính là nhằm mục đích làm bại hoại đạo đức nhân loại, đồng thời căn bản làm bại hoại chính tín của nhân loại đối với Thần. Darwin đã từng nói: “Một con lợn trưởng thành còn trông giống người hơn bất cứ một bào thai người nào”, thuyết tiến hóa khiến con người tin rằng bản thân con người được tiến hóa từ động vật chứ không phải do Thần tạo ra, do đó con người có thể không cần chịu trách nhiệm về những hành vi vô đạo đức của mình, thậm chí coi đạo đức giống như sự trói buộc, đề xướng việc tùy ý làm những gì mình thích. Tôn chỉ của thuyết tiến hóa là “Chọn lọc tự nhiên, thích nghi để sinh tồn”, theo tôn chỉ này, người ta có thể vì lợi ích của mình mà không quan tâm tới người khác, thậm chí làm hại người khác, không do dự đẩy người khác vào chỗ chết.

Khoa học hiện đại chọn thuyết tiến hóa làm lý luận về nguồn gốc của nhân loại, phủ nhận sự tồn tại của Thần, tương đương với việc làm bại hoại chính tín của nhân loại đối với Thần từ căn bản, khiến con người càng ngày càng xa rời Thần. Đạo đức nhân loại không ngừng tha hóa, khiến con người rơi vào vực sâu tai họa.

Sự tuyên truyền thù hận và bức hại tàn khốc của Trung Cộng đối với Pháp Luân Đại Pháp là khảo nghiệm lớn nhất, trực tiếp nhất và tà ác nhất đối với nhân loại, để xem trong hoàn cảnh ấy con người có thể đắc Pháp đắc độ hay không. Trung Cộng tập hợp toàn bộ lực lượng tà ác khắp nơi, lợi dụng cả bộ máy quốc gia vu khống, phỉ báng Pháp Luân Đại Pháp – bộ Đại Pháp căn bản sáng tạo vũ trụ tương lai, phỉ báng Sư phụ Lý Hồng Chí – nhà sáng lập Pháp Luân Công, bức hại tàn khốc các học viên Pháp Luân Công, bức bách họ lưu lạc khắp nơi, vợ chồng con cái ly tán, nhà tan cửa nát. Họ bị giam cầm, bị cải tạo lao động, bị kết án, thậm chí bị mổ cướp nội tạng sống bán kiếm lời. Sự tuyên truyền thù hận, giả dối, vu khống, phỉ báng của ma quỷ chính là muốn tiêu diệt sự ủng hộ và thiện niệm trong tâm mọi người, khiến con người không cách nào nhận thức được Đại Pháp căn bản cứu độ vũ trụ, khiến con người mất đi cơ hội được cứu độ tại thời khắc lịch sử vũ trụ canh tân, khiến cho ức vạn năm chờ đợi của chúng sinh vũ trụ trở thành vô ích.

Trong Thánh Kinh có rất nhiều đoạn nói về ngày phán xét, trong Thánh Kinh phúc âm Matthew có nói chi tiết về ngày phán xét đó. Những người bị “vị vương” nguyền rằng “bước vào ngọn lửa vĩnh hằng mà ma quỷ và sứ giả của chúng chuẩn bị cho”, là những “người nhỏ bé nhất trong các anh em của ta”, người mà không được ăn, không được uống, không chỗ nương thân, không có cái mặc, chịu bệnh tật, bị nhốt vào ngục không ai giúp đỡ, không ai đồng cảm. Ở Trung Quốc, các học viên Pháp Luân Công phải chịu sự bức hại tàn khốc còn hơn thế nữa. Nếu như các học viên Pháp Luân Công chính là “người nhỏ nhất trong các anh em của ta” được nói đến trong Thánh Kinh Matthew, nếu cuộc bức hại Pháp Luân Công chính là một bài kiểm tra về đạo đức lương tri của mỗi người để từ đó phán xét xem người ấy được lên thiên đường hay xuống địa ngục, vậy thì câu trả lời trong sâu thẳm nội tâm chúng ta là gì? Nếu như chúng ta vì bị lừa gạt bởi tuyên truyền thù hận của Trung Cộng mà tỏ ra lạnh lùng, vô tâm trước cuộc bức hại tàn khốc đối với các học viên Pháp Luân Công, thì mong bạn hãy nhanh chóng tìm hiểu sự thực về Pháp Luân Công. Đừng để những tuyên truyền phỉ báng giả dối của ma quỷ hủy mất lương tri của bạn, hủy mất cơ duyên quay về thiên thượng của bạn tại thời khắc lịch sử vũ trụ canh tân, khiến bạn uổng phí nghìn vạn năm chờ đợi.

Thần sẽ xuất hiện trong xã hội nhân loại [một cách] giống như con người, giảng ra đều lại là chân lý. Chính là xem ranh giới đạo đức người ta, xem quan niệm đạo đức của người ấy còn có thể nhận thức Ông hay không, còn có thể chấp nhận quy phạm đạo đức căn bản mà vũ trụ này quy định cho nhân loại, cũng chính là tiêu chuẩn đạo đức cuối cùng sẽ quyết định xem người ta còn nhận thức được Pháp đang đến cứu chúng sinh hay không. Nhận thức được, thì chư vị được đắc độ, đắc cứu.[8]

Nếu như chúng ta đều đến từ những thiên thể xa xôi, bản thân có liên hệ với vô lượng chúng sinh, thì liệu tại thời khắc lịch sử vũ trụ canh tân này, bạn có thể nghe thấy tiếng gọi tên bạn từ nơi sâu thẳm của đại khung xa xôi, cảm nhận được sự tha thiết trông mong của vô lượng chúng sinh trong thiên quốc của bạn không?

Ghi chú

Loạt bài này có nhiều chỗ trích dẫn nội dung trong các bài giảng Pháp của Sư phụ Lý Hồng Chí, hoàn toàn dựa trên lý giải một chiều và hạn chế của cá nhân tác giả, do đó khi trích dẫn khó tránh khỏi đoạn chương thủ nghĩa. Nguyên tác các bài giảng của Sư phụ Lý Hồng Chí có nội hàm thâm sâu và rộng lớn, các độc giả quan tâm xin hãy đọc các bài giảng Pháp nguyên văn của Sư phụ Lý Hồng Chí được đăng tải miễn phí tại trang web: http://phapluan.org.

Xem tiếp Phần 5

[2] Giảng Pháp tại Pháp hội Houston [1996]

[3] Pháp Luân Công

[4] Giảng Pháp tại Pháp hội quốc tế Washington DC [2001]

[5] Giảng Pháp tại Pháp hội miền Tây Mỹ quốc năm 2004

[6] Giảng Pháp trong chuyến đi quanh Bắc Mỹ [2002]

[7] Bài giảng thứ chín, Chuyển Pháp Luân

[8] Giảng Pháp tại Pháp hội New York năm 2007

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/152137

The post Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (4): Nhận thức về nhân loại first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (3): Nhận thức về vũ trụhttps://chanhkien.org/2017/11/loat-bai-nhan-thuc-ve-vu-tru-chan-thuc-3-nhan-thuc-ve-vu-tru.htmlThu, 30 Nov 2017 11:25:22 +0000http://chanhkien.org/?p=25166[ChanhKien.org] Vũ trụ hình thành như thế nào? Con người từ đâu đến? Vũ trụ phải chăng không có biên giới? Ngước nhìn lên bầu trời có vô vàn tinh tú, biết bao người đã từng tự hỏi bản thân như vậy. Nhưng dù có tra cứu tất cả các sách vở kinh điển, vẫn […]

The post Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (3): Nhận thức về vũ trụ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Vũ trụ hình thành như thế nào? Con người từ đâu đến? Vũ trụ phải chăng không có biên giới? Ngước nhìn lên bầu trời có vô vàn tinh tú, biết bao người đã từng tự hỏi bản thân như vậy. Nhưng dù có tra cứu tất cả các sách vở kinh điển, vẫn khó có thể tìm được đáp án đầy đủ. Đây đích thị là câu hỏi vĩnh viễn không có lời giải của nhân loại.

Từ trái đất là trung tâm của vũ trụ đến thuyết mặt trời là trung tâm của vũ trụ, từ thuyết Vụ nổ lớn Big bang đến thuyết Đa vũ trụ của Khoa học vũ trụ hiện đại, những phát hiện mới liên tục phủ định những nhận thức cũ. Phát hiện mới nhất cho thấy, vũ trụ của chúng ta có lẽ chỉ là một trong vô số các vũ trụ đan xen ngang dọc, thế giới ba chiều quen thuộc với chúng ta có lẽ chỉ là một thế giới hư ảo. Quá khứ, hiện tại, tương lai có lẽ cùng đồng thời tồn tại. Những nghiên cứu phát hiện này đã hoàn toàn đảo ngược những lý giải hiện hữu về vũ trụ. Trực giác của chúng ta đối với sự vật quen thuộc sao có thể nhận biết sai đến vậy chứ? Những điều rất kinh ngạc này có lẽ sẽ khiến bạn phải đặt câu hỏi rằng rốt cuộc mức độ đáng tin cậy của những nghiên cứu này ra sao? Loạt bài này sẽ cùng quý vị tìm hiểu những nghiên cứu và phát hiện mới nhất, đồng thời cũng mở ra một cánh cửa mới, có thể từ đây bạn có thể tìm ra được manh mối về vũ trụ chân thực.

Loạt năm bài: Nhận thức về vũ trụ chân thực, Phần 3: Nhận thức về vũ trụ

Trong lịch sử văn minh nhân loại có rất nhiều ghi chép và truyền thuyết liên quan đến sự ra đời của vũ trụ và nhân loại, từ truyền thuyết về hai vị thần Lahmu và Lahamu của người Babylon cổ đại cho đến truyền thuyết của người Ấn Độ cổ cho rằng vàng hóa thành trời, bạc hóa thành đất; từ chuyện Bàn Cổ khai thiên tịch địa, Nữ Oa tạo con người trong văn hóa Trung Quốc cổ đại đến ghi chép về Jehovah tạo ra trời đất và con người trong Kinh Thánh phương tây, những truyền thuyết này đang hướng con người đến những chỗ mê chưa được giải đáp về sự ra đời của vũ trụ và nhân loại. Thế nhưng, Con người hiện đại dựa vào nhận thức trực giác cảm quan thì đã không thể thừa nhận tính chân thực của những ghi chép này nữa, họ nhất loạt quy chúng thành truyền thuyết, thần thoại và lý luận triết học. Sự phát triển của khoa học thực chứng khiến con người ngày càng coi trọng những hiện tượng vũ trụ mà nhân loại có thể tiếp xúc đến được.

Dường như trong hầu hết những nền văn minh cổ đại, người xưa coi thế giới như một quả cầu tuyết, mặt đất bằng phẳng giống như cái đĩa, nằm ở trung tâm của vũ trụ, phía trên bao trùm bởi thiên khung, với vô số các ngôi sao treo ở trên thiên khung. Người xưa cho rằng Thần đã sáng tạo ra và duy trì vũ trụ. Quan điểm Thần sáng tạo ra vũ trụ này tồn tại đến thời trung cổ mới chịu sự nghi ngờ của con người, các nhà khoa học lúc đó dựa trên quan sát của mình để đưa ra đề xuất mặt trời là trung tâm vũ trụ, chỉ ra rằng trung tâm của vũ trụ không phải là Trái đất mà là Mặt trời. Cùng với việc máy móc thiết bị đo đạc quan trắc không ngừng cải tiến, các nhà khoa học nhận thức được rằng Mặt trời cũng không phải là trung tâm của vũ trụ, Hệ mặt trời chỉ nằm ở một góc nhỏ xíu ở rìa của hệ Ngân Hà, mà hệ Ngân Hà cũng chỉ là một trong mấy trăm tỷ thiên hà. Tất cả những thiên hà này tổ thành vũ trụ của chúng ta.

Khi lật đổ được quan niệm về vũ trụ của người xưa, các nhà khoa học dường như cảm thấy rất kiêu ngạo, họ đã phát triển rất nhiều lý luận mới nhằm giải thích cho sự khởi nguyên của vũ trụ và nhân loại, mà trong những lý thuyết này thông thường đều không có chỗ đứng cho Thần. Tuy nhiên, quan niệm về vũ trụ mới nhất lại cho rằng cái thế giới ba chiều mà khoa học thực chứng của chúng ta tiếp xúc được có thể chỉ thế giới hư ảo, vậy thì vũ trụ quan của người xưa có thật sự sai hay không? Hay vẫn tồn tại những bí ẩn mà con người hiện đại chúng ta không cách nào lĩnh ngộ được?

Aristotle từng nói: “Vũ trụ bao hàm tất cả sự vật, nhưng không nằm trong bất cứ sự vật nào”. Sức tưởng tượng của các nhà khoa học hiện đại đã đột phá khỏi khái niệm vũ trụ “bao hàm tất cả sự vật”, sức tưởng tượng của họ đã bay ra khỏi Hệ mặt trời, bay ra khỏi hệ Ngân Hà, thậm chí bay ra khỏi các thiên hà xa xôi khác, đã vượt qua biên giới của vũ trụ mà chúng ta quan sát được, họ phát hiện rằng vẫn còn có rất nhiều vũ trụ khác nữa. Đây chính là thuyết đa vũ trụ được tranh luận khá nhiều gần đây.

Thực ra, thuyết đa vũ trụ đã từng được đưa ra vào những năm 60 của thế kỷ trước, thế nhưng nó đã bị đưa vào quên lãng. Với sự phát hiện ra ngày càng nhiều hiện tượng vũ trụ mà họ không cách nào giải thích nổi, đã khiến thuyết đa vũ trụ lại được đưa ra bàn luận. Lý thuyết đa vũ trụ đầu tiên được ủng hộ bởi lý thuyết về nguồn gốc của vũ trụ – thuyết vụ nổ lớn. Lý thuyết này cho rằng vào 13,7 tỷ năm trước, vũ trụ của chúng ta từ một “điểm kỳ dị” đã xảy ra một vụ nổ mãnh liệt, trải qua mấy tỷ năm, vũ trụ lạnh đi và kết hợp lại, các hằng tinh, hành tinh và thiên hà theo đó được hình thành. Do tác động của vụ nổ đó mà cho đến nay vũ trụ vẫn đang trong quá trình giãn nở. Nếu như vũ trụ bắt đầu từ một “điểm kỳ dị”, mà thuyết lượng tử lại cho rằng vật chất rất dễ phân tách, vậy thì vũ trụ từ lúc bắt đầu ở “điểm kỳ dị” có thể đã phân tách thành hai hoặc nhiều hơn hai vũ trụ.

Đồng thời bản thân vụ nổ lớn cũng có thể không chỉ nổ ra một vũ trụ. Lý thuyết vụ nổ lớn sử dụng lực phản hấp dẫn để giải thích lý do tại sao vào thời kỳ đầu không gian vũ trụ đã trải qua một sự giãn nở lớn hơn vận tốc ánh sáng, sự phình to mạnh mẽ khiến cho khu vực lân cận hoàn toàn bị phân cách ra, sự phình to có thể đã dừng lại ở một số khu vực nào đó, còn tại một số khu vực khác có thể vẫn đang tiếp diễn. Điều này có nghĩa là những vụ nổ lớn mới có thể vẫn liên tục xảy ra, những vũ trụ mới vẫn liên tục được sinh ra, những vũ trụ mới vẫn liên tục được hình thành đó tổ thành đa vũ trụ.

Thuyết đa vũ trụ còn được ủng hộ bởi hai lĩnh vực khoa học hoàn toàn khác nhau, đó là lý thuyết năng lượng tối (dark energy theory) và lý thuyết dây (string theory).

Vũ trụ của chúng ta đang tăng tốc giãn nở, vậy thì trong không gian nhất định sẽ có tồn tại loại năng lượng nào đó làm tăng tốc giãn nở, các nhà khoa học gọi nó là “năng lượng tối”. Dựa trên tính toán toán học, các nhà khoa học đã tính được loại năng lượng thúc đẩy các thiên hà rời xa nhau kia là vô cùng to lớn. Nhưng kết quả quan trắc lại cho thấy năng lượng năng lượng thúc đẩy các thiên hà rời xa nhau kia lại nhỏ đến mức khó tin, gần như bằng 0, nhỏ hơn mấy nghìn tỷ lần so với số ước đoán. Kết quả khác nhau một trời một vực này khiến các nhà khoa học vô cùng kinh ngạc. Các nhà khoa học đã làm rất nhiều loại thí nghiệm, kết quả là đều cho ra kết quả tương tự. Sự khác nhau lớn giữa con số ước đoán lý thuyết và con số do được của các nhà thiên văn học này là một trong những bí ẩn lớn mà khoa học hiện nay vẫn chưa tìm ra lời giải.

Trong khi vẫn chưa tìm ra cách giải thích có sự sai biệt này, các nhà khoa học liền nghĩ tới thuyết đa vũ trụ. Nếu vũ trụ của chúng ta là một vũ trụ trong đa vũ trụ, mà số lượng vũ trụ trong đa vũ trụ lại là vô hạn, thì mỗi vũ trụ đều có mức độ năng lượng tối khác nhau, vậy thì sẽ có trường hợp năng lượng tối đo được nhỏ như thế. Những vũ trụ có mức năng lượng tối lớn hơn mức đo được sẽ giãn nở rất nhanh, vật chất hoàn toàn không có cơ hội kết hợp với nhau nên không thể tạo nên hằng tinh hay hành tinh, càng không thể hình thành thiên hà và nhân loại có trí tuệ. Còn vũ trụ có mức năng lượng tối nhỏ hơn rất nhiều so với giá trị đo được thì sẽ co lại. Sở dĩ vũ trụ của chúng ta có thể tồn tại được là bởi nó có mức năng lượng tối thích hợp cho sự tồn tại của sinh mệnh. Cách giải thích này đã trở thành một trong những cột trụ của thuyết đa vũ trụ.

Lý thuyết dây cố gắng giải thích sự vận hành của vũ trụ từ góc độ của thước đo vi quan. Chúng ta biết rằng bên trong nguyên tử còn có những hạt nhỏ hơn như proton, neutron, quark, neutrino…. Lý thuyết dây cho rằng những hạt hạ nguyên tử phụ này cũng có thể được cấu thành bởi những hạt nhỏ hơn nữa,tức là được cấu thành nên bởi những tuyến năng lượng rung động nhỏ dạng dây hoặc vòng năng lượng. Lý thuyết dây được coi là “chén thánh của giới vật lý”, ý nói là nó thể giải thích được hết thảy mọi thứ trong vũ trụ, gồm cả sự ra đời của vũ trụ. Lý thuyết dây cho rằng những dây với phương thức rung động khác nhau sẽ tạo nên các vi lạp khác nhau, chiều không gian phụ (extra dimension) của dây sẽ quyết định phương thức rung động của dây nhỏ hơn. Trạng thái của không gian của những chiều không gian phụ này lại quyết định đặc trưng căn bản nhất của vũ trụ chúng ta.

Vấn đề là phương thức cuộn của chiều không gian phụ mà các nhà lý thuyết dây phát hiện ra dường như là một con số rất lớn. Thừa nhận chung hiện nay là số lượng hình thức cuộn lên đến 10 mũ 500, tức là số 1 với 500 con số 0 ở phía sau. Với nhiều cách giải thích khác và hình dạng có thể hình thành khác nhau như thế, mỗi loại hình dạng có thể hình thành lại cũng dựa trên căn cứ đó, như vậy dường như rất hoang đường, vì vậy có nhà khoa học hoài nghi rằng bản thân lý thuyết dây đã từ vật lý học biến thành hình học rồi. Nhưng chính sự hoang đường này lại thổi một sức sống mới cho lý thuyết đa vũ trụ. Một số nhà lý thuyết dây tin rằng mỗi lời giải khác nhau của lý thuyết dây có lẽ đều đại biểu cho một vũ trụ chân thực nhưng khác nhau. Hay nói cách khác, lý thuyết dây đang mô tả một đa vũ trụ. Có điều cho đến nay, các nhà lý thuyết dây vẫn chưa phát hiện ra bất kể hình dạng có thể hình thành nào tương tự với vũ trụ của chúng ta.

Trong lý thuyết dây, số chiều thời không đã tăng lên 11 chiều. Trong bức tranh thời không như vậy, thì cái vũ trụ tưởng chừng to lớn vô biên mà chúng ta trực tiếp quan sát được chẳng qua chỉ là một siêu mặt cong bốn chiều trong thời không 11 chiều mà thôi, toàn bộ vũ trụ giống như một lớp màng mỏng, đây chính là thuyết màng vũ trụ. Rất nhiều màng vũ trụ đã hình thành nên một thể vũ trụ, nghĩa là cái vũ trụ bốn chiều của chúng ta đây chỉ là một tầng màng vũ trụ tồn tại trong thể vũ trụ chiều cao. Các màng vũ trụ khác nhau có thể tồn tại trong các chiều khác nhau, cho dù chỉ gần trong gang tấc, nhưng lại không thể thăm dò lẫn nhau. Cũng có người cho rằng thời không của chúng ta có lẽ không chỉ là bốn chiều, ngay bên cạnh chúng ta có thể ẩn chứa chiều không gian mà chúng vĩnh viễn không thể thăm dò được.

Dù là sự đo lường năng lượng tối hay là lý thuyết dây, trong điều kiện không thể giải thích được sự sai khác cực lớn giữa giá trị ước đoán và giá trị đo được cũng như không thể xử lý được tình huống về số lượng cực lớn các hình dạng có thể hình thành, thì 2 lý thuyết này đều có liên hệ với thuyết đa vũ trụ và sau đó trở thành một trụ cột của thuyết đa vũ trụ, thật đúng là biến thứ mục nát trở nên thần kỳ. Dẫu biết sự so sánh này xem chừng rất khiên cưỡng, nhưng bởi vì họ không tìm ra giải thích nào tốt hơn các nhà khoa học vẫn đành tiếp nhận lý thuyết này, đây chính là nỗi hổ thẹn mà các nhà khoa học hiện nay phải đối mặt.

Sự ủng hộ mạnh nhất cho sự tồn tại của thuyết đa vũ trụ bắt nguồn từ phát hiện về sóng hấp dẫn và bức xạ nền vi sóng vũ trụ. Các nhà khoa học phát hiện bức xạ trên biểu đồ bức xạ nền vi sóng vũ trụ không phân bố đồng đều, mà còn tồn tại những “điểm lạnh” mà đến nay các nhà khoa học vẫn không thể giải tích được, tức là vùng bức xạ trống không. Họ cho rằng những hiện tượng kỳ lạ này là do vũ trụ chúng ta lúc mới hình thành đã bị kéo bởi trọng lực của các vũ trụ khác, có nghĩa là bên ngoài vũ trụ mà chúng ta đang sống còn có vô số các vũ trụ khác.

Trên cơ sở của thuyết đa vũ trụ, các nhà khoa học dự đoán trong rất nhiều các vũ trụ cũng tồn tại vô số các hành tinh giống như Trái đất của chúng ta, thậm chí trên đó còn có các bản sao của mỗi chúng ta.

Sự xuất hiện của thuyết đa vũ trụ khiến cho cuộc tranh luận giữa quan điểm rằng vũ trụ do Thần sáng tạo ra và vũ trụ sinh ra do vụ nổ lớn càng thêm kịch liệt. Có một số nhà khoa học nói, chính vì có nhiều vũ trụ tồn tại như vậy, nên nếu nói sự xuất hiện của sinh mệnh có trí tuệ như loài người là kiệt tác của Thần thì chẳng thà nói rằng đó là kết quả của định luật xác suất thống kê còn hơn, tức là sự xuất hiện của nhân loại có trí tuệ chẳng qua chỉ như trúng xổ số vũ trụ mà thôi. Cũng có nhà khoa học nói rằng, nhận thức như thế chắc chắn không phải là một lý luận khoa học, mà là một dạng phỏng đoán trừu tượng (metaphysics). Nó vượt khỏi phạm trù vật lý học và trở thành một loại triết học nào đó. Về những tranh luận này, Đại sư Lý Hồng Chí qua các bài giảng Pháp của mình đã đưa ra đáp án gây chấn động nhất.

Vũ trụ hình thành như thế nào?

“Cấu thành của vũ trụ hoàn toàn không giống như khoa học gia hiện nay nói là do vụ nổ lớn hình thành. (Giảng Pháp tại Pháp hội Houston [1996])

“Sinh mệnh của các vũ trụ, thiên thể, thượng khung hay đại khung tại các tầng khác nhau, cũng chỉ là một niệm của Thần tại cao tầng sinh thành. (Giảng Pháp tại Pháp hội Vancouver ở Canada năm 2003-Giảng Pháp tại các nơi II)

Từ bài giảng Pháp của Đại sư Lý Hồng Chí, chúng ta hiểu được rằng trong dòng sông dài của lịch sử vũ trụ từ xưa đến nay, một niệm của Thần ở các tầng thứ khác nhau đã tạo ra vũ trụ ở các tầng thứ khác nhau. Vũ trụ mới thông thường đều được sinh ra sau khi vũ trụ cũ giải thể, tức vũ trụ cũ bị nổ hủy đi rồi thì mới hình thành vũ trụ mới. Sự vận động của vũ trụ cũng là có quy luật, hết thảy mọi thứ trong vũ trụ bao gồm bản thân vũ trụ đều chịu sự chi phối và chế ước của pháp lý vũ trụ. Pháp lý vũ trụ hiện nay của chúng ta chính là “thành, trụ, hoại, diệt, không”. Khi vũ trụ tiến và giai đoạn “diệt, không” thì vũ trụ sẽ xảy ra vụ nổ, vụ nổ đó sẽ khiến toàn bộ sinh mệnh cũ trong vũ trụ và toàn bộ đặc tính của vũ trụ cũ bị nổ tung. Thần sẽ lợi dụng vật chất của vũ trụ cũ bị nổ đó mà kiến tạo nên vũ trụ mới. Vũ trụ mới được hình thành sau khi vũ trụ cũ bị nổ, nhưng không có nghĩa là bản thân vụ nổ đã sản sinh ra vũ trụ mới. Khoa học thực chứng hiện đại khi phát hiện ra chứng cứ về việc vũ trụ chúng ta đã từng phát sinh một vụ nổ, bèn cho rằng vũ trụ của chúng ta được sinh ra bởi vụ nổ. Kỳ thực khoa học thực chứng hiện đại chỉ nhìn thấy hiện tượng bề mặt mà không biết thực chất bên trong của nó, chỉ biết nó là như thế mà không biết căn nguyên tại sao.

Vũ trụ có biên giới không?

“Khi tôi giảng vũ trụ đã nói đến khái niệm tiểu vũ trụ. Cái tiểu vũ trụ này không những con người không dám tưởng tượng là lớn đến đâu, đương nhiên tư tưởng con người cũng vẫn luôn muốn tìm tòi vũ trụ lớn ngần nào, tiểu vũ trụ mà tôi nói đến trong khoa học hiện nay còn chưa có khái niệm này, khoa học cho rằng cái vũ trụ này chính là vũ trụ mà mắt nhìn thấy, vũ trụ mà tôi vẫn giảng đây nó lớn ngần nào? Dùng con số của nhân loại, ngôn ngữ của nhân loại cũng không hình dung được, nhưng mà có thể giảng ra kết cấu đại khái — mọi người có biết trong tiểu vũ trụ có bao nhiêu tinh hệ giống như hệ Ngân Hà không? Có lẽ những người ngồi đây có sở trường về phương diện này đã được học từ sách vở, nhưng mà điều tôi giảng không như vậy. Tinh hệ như hệ Ngân Hà hiện nay trong cái tiểu vũ trụ này thì có hơn 2.7 tỷ cái, không đến 3 tỷ cái. Đây là dùng phương thức mà mắt người nhìn vật thể, dùng một loại hình thức kết cấu của tinh thể mà con người có thể nhận thức được mà nói, vũ trụ của tương lai cũng không giống với con số này. Thích Ca Mâu Ni từng giảng một câu, Ông nói Phật Như Lai nhiều như số cát sông Hằng. Thích Ca Mâu Ni cũng là Phật Như Lai, Ông từng nói Phật Như Lai như số cát sông Hằng. Đây là phương thức mà mắt Phật nhìn vật thể, kỳ thực vô lậu mà xét thì tinh thể trong tiểu vũ trụ nhiều như cát vậy, mật độ giống như phân tử. Phạm vi của cái tiểu vũ trụ này nó cũng có vỏ ngoài, vậy nó có phải là phạm vi lớn nhất của vũ trụ này không? Đương nhiên không phải, đứng ở không gian rộng lớn to lớn hơn nữa mà nhìn thì cái tiểu vũ trụ này cũng chỉ là một lạp tử của không gian cự đại mà thôi.” (Giảng Pháp tại Pháp hội Houston [1996])

“Vậy bên ngoài vũ trụ lại là cái gì? Trải qua một quá trình thời không dài đằng đẵng, ở nơi xa nhìn thì như là phát hiện một điểm sáng. Khi càng đến gần nó, sẽ phát hiện cái điểm sáng này càng lúc càng lớn, càng lớn, càng lớn, lúc này sẽ phát hiện nó cũng là một cái vũ trụ, so với cái vũ trụ của chúng ta kích cỡ không sai khác mấy. Vậy thì với vũ trụ kiểu như vậy thì có bao nhiêu? Vẫn là dùng phương thức con người nhìn vật thể mà nói, ước chừng có ba nghìn cái vũ trụ như vậy, đây đều là dùng nhận thức của con người và khái niệm con số đối với một loại nhận thức nhân tố vật chất. Kết cấu của vũ trụ là cực kỳ phức tạp. Bề ngoài ở đây lại có một tầng vỏ ngoài, vậy là cấu thành vũ trụ tầng thứ hai. Sau đó phạm vi lớn hơn bên ngoài vũ trụ tầng thứ hai này lại có ba nghìn cái vũ trụ lớn như thế, lại cấu thành vũ trụ tầng thứ ba.” (Giảng Pháp tại Pháp hội Houston [1996])

Có lẽ có người sẽ hỏi, vì sao đều là 3,000 nhỉ? Đại sư Lý Hồng Chí đã giảng giải thêm một bước nữa:

“Trong vũ trụ mệnh mông sinh mệnh hữu hình và sinh mệnh vô hình đồng thời tồn tại. Mà sinh mệnh vô hình khổng lồ dưới tác dụng của họ, họ đang cân bằng hết thảy của vũ trụ, đang tạo nên hết thảy của vũ trụ. Chư vị thử nghĩ xem, tại sao sắp xếp của phân tử sắt lại chỉnh tề như thế? Sắp xếp của phân tử vàng tại sao lại là như thế? Đồng tại sao là như thế? Còn nhôm tại sao lại là như thế? Hơn nữa lại sắp xếp một cách đồng đều, chỉnh tề? Nếu như nó sắp xếp một cách không đồng đều, không chỉnh tề thế thì sẽ phát sinh một sự biến hóa. Biến hóa gì? Nếu như vàng không chiểu theo sự sắp xếp phân tử của nguyên tố kim loại ấy, thì nó sẽ biến thành thứ khác, khác biệt chính là ở trên bề mặt. Như vậy hết thảy điều này đều là có quy luật, mà loại quy luật này tuyệt không phải tự nhiên hình thành, chỉ bất quá là khoa học hiện nay không biết, khám phá không đến.

……

“Con số ba nghìn này, vừa rồi tôi giảng chính là nói với mọi người nó là có quy luật, là có an bài, nhưng cũng không tuyệt đối đều là ba nghìn. Bởi vì tôi giảng đều là con số khái quát, vì để cho chư vị có thể hiểu ở mức độ tối đa, dùng ngôn ngữ của con người mà biểu hiện ra.” (Giảng Pháp tại Pháp hội Châu Âu [1998])

“Một cái tầng tiểu vũ trụ ấy thôi đối với nhân loại mà giảng đã là tương đối, tương đối lớn rồi, không thể tính đếm được các lạp tử tinh cầu lớn nhỏ khác nhau trong đó là có bao nhiêu. Tại sao vậy? Bởi vì chư Phật, Thần, Ðạo ở các tầng thứ rất cao có thể nhìn thấu tất cả, nhưng không ai có cái tư tưởng [ý nghĩ rằng] đi kiểm tra xem có bao nhiêu hạt bụi. Kỳ thực tinh cầu trong thiên thể cự đại thì nó chỉ như là một hạt bụi phiêu bạt trong thiên thể vũ trụ mà thôi.”(Giảng Pháp tại Pháp hội Thụy Sỹ [1998])

Đại sư Lý Hồng Chí tiếp tục mở rộng nhận thức cho các đệ tử của Ngài về vũ trụ thiên thể:

“Như vậy có 3000 vũ trụ lớn ngần này không ngừng khuếch đại triển khai phạm vi của nó, không ngừng khuếch đại triển khai thể hệ của nó. Ước chừng đến tầng thứ khoảng hơn 1000 thì xung xuất [khỏi] phạm vi thể hệ của thiên thể tầng thứ nhất. Nhưng ngay cả cái phạm vi đó cũng không chỉ có một: trong vũ trụ mênh mông khổng lồ nó cũng chỉ là một lạp tử, vậy mà tầng lạp tử đó cũng là hiện hữu khắp thiên thể mênh mang. Xuất ra khỏi phạm vi đó rồi, thì toàn bộ hình thành một trạng thái “không”. “Không” đến mức độ nào? Bất kể vật chất nào nội trong thể hệ này, nếu muốn tiến nhập vào, thì nó bằng như là tự giải thể. Bởi vì bất kể vật chất nào nội trong phạm vi thể hệ này thì đều là có sinh mệnh, có đặc tính, có tư tưởng. Tiến nhập vào trong cái “không” vi quan nhường ấy thì dường như lạp tử này đã không thể duy trì tư tưởng và sinh mệnh được nữa, nó sẽ ngay lập tức giải thể, cũng tức là bất kể thứ gì rơi vào đó rồi thì đều sẽ giải thể. Khái niệm này giảng như vậy thì chúng ta dễ lý giải. Nhưng sau khi vượt ra khỏi phạm vi của cái “không” ấy kỳ thực vẫn có những thiên thể khác, những thiên thể với phạm vi lớn hơn. Nhưng sinh mệnh ở cảnh giới này không thể di chuyển một bước sang kia được, là bởi vì tại vi quan hơn, vi quan hơn, vẫn còn có các nhân tố vi quan hơn tồn tại. Nhưng mà đến phạm vi lớn hơn chỗ kia, thì khái niệm vật chất và sinh mệnh của thiên thể ấy đã hoàn toàn khác rồi, khái niệm về vật chất đã không tồn tại nữa. Trong phạm vi của thiên thể đó, tầng số vũ trụ là khác nhau, nhưng cấu thành mỗi một tầng thiên thể đều có các lạp tử cơ bản nhất vi quan nhất. Mà lạp tử cơ bản đều là do đặc tính vũ trụ Chân–Thiện–Nhẫn tổ hợp mà thành.” (Giảng Pháp tại Pháp hội Thụy Sỹ [1998])

Đại sư Lý Hồng Chí tiếp tục giảng giải trong thiên thể các lạp tử với kích cỡ khác nhau đã tổ hợp thành thể hệ không gian hướng ngang, hướng dọc rối ren phức tạp.

“Khái niệm mà tôi đang giảng ở đây rất phức tạp. Bởi vì ngôn ngữ của con người thực sự là hữu hạn, chư vị cần phải chú ý nghe. Ví dụ nói, vật chất hạt lớn nhất của một tầng thiên thể nào đó, là do tự thân thể hệ của nó từ các lạp tử vô hạn vi quan tổ thành cho đến tầng lạp tử to lớn ngần ấy, đó gọi là thể hệ tổ hợp lạp tử theo hướng ngang. Tức là các lạp tử vật chất nó không những là từ trong một thể hệ vi quan theo hướng dọc mà tổ hợp lên, mà đồng thời tự thân nó cũng là do một thể hệ tự [hình] thành từ vật chất vi quan cho đến lớn hơn, lớn lớn hơn tổ thành. Cũng tức là nói mỗi một tầng các lạp tử lớn nhỏ khác nhau của thể hệ này tự thân nó cũng đều là một thể hệ do vật chất vi quan tổ thành. Nhưng mà mỗi một tầng các lạp tử lớn nhỏ khác nhau của thể hệ này lại là phân bố khắp hết thảy, cho nên giữa các lạp tử lớn nhỏ khác nhau ấy lại cấu thành một thể hệ tổ hợp theo hướng ngang. Như thế giữa lạp tử cơ bản nhất của nó và tầng lạp tử lớn nhất của nó thì cách nhau tương đối xa xôi.” (Giảng Pháp tại Pháp hội Thụy Sỹ [1998])

“Trong mỗi không gian còn có thế giới đơn nguyên, chính là như hình kết cấu nguyên tử mà chúng ta vẽ, giữa các quả cầu có mối liên kết, giao thoa cả bảy tám hình cầu, đều có liên kết, chính là rất phức tạp.” (Chương I-Pháp Luân Công)

Khi các nhà vũ trụ học hiện đại còn đang không ngừng tranh luận xem có hay không có đa vũ trụ, họ không thể tưởng tượng được rằng cái phạm vi vũ trụ mà họ đang tranh luận kia chẳng qua chỉ là một hạt bụi trong hạt bụi trong đại khung vũ trụ mà Đại sư Lý Hồng Chí mô tả ra mà thôi. Trong giảng Pháp của Đại sư Lý Hồng Chí còn có những sự thật khiến cho các nhà vũ trụ học hiện đại kinh ngạc, đó chính là trời và đất mà các nhà vũ trụ học hiện đại nhận định lại không phải là trời và đất mà Thần đã nói cho cổ nhân từ thuở sơ khai.

Khoa học thực chứng nhìn thấy Trái đất hình tròn, bèn cho rằng đã lật đổ được vũ trụ quan “đất là mặt phẳng” của người xưa rồi, nhưng sự thật là con người hiện đại chúng ta chỉ nhìn được hiện tượng bề mặt chứ chưa thể lĩnh ngộ được những bí ẩn thâm sâu hơn của vũ trụ.

Vì khi Thần tạo ra con người không phải là tạo ở trên thiên thượng, mà là tạo ở trên mặt đất, nghĩa là dùng vật chất trên đất để tạo ra. Trong kinh «Cựu Ước» hầu như là có giảng như vậy, Yahweh đã dùng bùn đất tạo ra con người. Kỳ thực phân tử là một loại lạp tử ở tầng bề mặt thấp nhất của vũ trụ, nói cách khác, trong mắt của Thần thì lạp tử tầng ấy chính là đất, là bùn đất. Vì vật chất kia của họ đều là tinh hoa của vật chất trong vũ trụ, vũ trụ càng xuống dưới càng thấp, các hạt vật chất càng lớn càng thô, cũng chính là càng không tốt, ở trong mắt họ mà nhìn cũng là càng dơ bẩn, do đó, trong mắt của họ, ‘trời’ và ‘đất’ là khác với nhận thức của con người. Con người nói ‘lên trời’ ấy, kỳ thực chư vị chẳng qua chỉ là [vẫn] trong phân tử mà lên cao, đi xa, chứ chư vị chưa thoát ly khỏi tầng không gian của phân tử, vì thế không phải thật sự lên thiên thượng đâu. Thần nói ‘trời’ ấy là do lạp tử vi quan hơn tổ hợp thành, đó mới là trời thật sự.

……

“Các nhà khoa học nói rằng ‘Ở đâu có Thần? Bầu trời kia thì kính viễn vọng của chúng tôi nhìn khắp rồi, nơi nào có Thần?’ Đó không phải là trời thật, đó là ‘trời’ trong quan niệm của con người, chứ không phải ‘thiên’ chân thật mà chúng sinh vũ trụ nói. Trái đất này cũng không phải khái niệm hoàn chỉnh của ‘địa’. Con người nhìn trái đất, ‘Ồ, trái đất này, đó là đất của chúng ta, chúng ta đặt chân trên trái đất này, và đất là tròn. Thần nói không phải tròn. Lẽ nào không phải là tròn nhỉ? Chúng ta nhìn thấy còn rõ ràng hơn cả Thần.’ Nhưng mọi người nghĩ xem, Thần nhận thức phân tử chính là chất đất trên mặt đất, tầng không gian này chẳng phải vật chất cấu do phân tử thành hay sao? Không khí mà con mắt của chúng ta nhìn không thấy ấy chẳng phải cũng do phân tử cấu thành? Trong không khí còn có hàng trăm triệu những thứ vật chất giống như không khí có mặt khắp nơi trong tam giới, chỉ là con mắt không thấy được các phân tử đó và lạp tử nhỏ hơn, nhưng chúng dày đặc tràn đầy khắp cả hết thảy không gian này, nhân loại chẳng qua được chôn vùi trong hàng đống phân tử và lạp tử nhỏ hơn. Hình thức ở bề mặt của thế gian con người đều là hình thức được tạo thành từ vật chất bề mặt do phân tử tổ hợp thành, có cái là Thần tạo ra, có cái là con người tạo ra. Con người tạo ra, ấy là như toà nhà này; có cái do Thần tạo ra, [như] nước, đá, thổ, không khí, kim loại, thực vật, động vật, con người, còn có các vì sao trên trời và trái đất nữa. Con người chẳng qua là ở trong không gian tạo thành bởi các lạp tử tầng này mà nhận thức thế giới, trong không gian vô cùng chật hẹp này mà nhận thức vũ trụ, trời và đất mà con người nhận thức không phải là thiên-địa chân thật. Trái đất và không khí cũng đều giống nhau là do phân tử cấu thành, trong con mắt chư Thần nhìn, thì đều là ‘địa’. Ở vi quan thì bản thân không gian do lạp tử tầng này cấu thành chính là ‘địa’, mà cảnh giới cấu thành từ các lạp tử vi quan hơn nữa mới là ‘thiên’ chân thật.” (Giảng Pháp tại Pháp hội quốc tế New York 2004)

Thì ra “địa” mà Thần nói đến không phải là địa cầu, mà là toàn bộ tầng diện phân tử, mà tầng diện này lại là phẳng!

Khoa học thực chứng nhìn thấy Trái đất không phải là trung tâm của Hệ mặt trời, càng không phải là trung tâm của hệ Ngân Hà, liền cho rằng đã lật đổ được vũ trụ quan “Trái đất là trung tâm của vũ trụ”. Kỳ thực nó cho thấy rõ vũ trụ học hiện đại của chúng ta đúng là “ếch ngồi đáy giếng”.

“Trái đất này của chúng ta, nó gần như là ở tại vị trí trung tâm của vũ trụ, thể hình cầu giống như Trái đất thế này tại những nơi khác chỉ còn tồn tại một lượng cực kỳ ít, nhưng chỉ duy nhất nơi này của chúng ta là ở vị trí trung tâm. Vậy thì vị trí trung tâm thì nó có tính đặc thù của nó. Nhưng mà không phải nói về khái niệm ở trong vũ trụ. Nếu trong xã hội người thường bình thường chúng ta, khi người thường học tri thức, đều cảm thấy trung tâm là cao nhất, tốt nhất. Nhưng tôi nói với mọi người, trong khái niệm về vũ trụ, vị trí trung tâm này của Trái đất là không tốt nhất. Vì sao vậy? Bởi vì vũ trụ là tròn mà, những sinh mệnh khác nhau trong vũ trụ đều sẽ rớt xuống dưới. Rớt đi đâu đây? Bởi vì vũ trụ là hình tròn mà, vậy thì bên trái này vẫn là trên, dưới đáy này cũng chẳng phải là trên sao? Bên phải này vẫn là trên (làm thế tay), phía sau này vẫn là trên, phía trước này cũng là trên, cho nên những thứ không tốt của nó đều rớt xuống dưới. Rớt đến đâu nhỉ? Chẳng phải rớt vào trung tâm sao, đúng không. Nhưng mà vũ trụ quá phức tạp rồi, còn có khái niệm trung tâm khác nữa. (Giảng Pháp tại Pháp hội Bắc Mỹ lần đầu [1998])

Một khái niệm trung tâm khác là gì?

“Trung tâm của vũ trụ vừa hay chính là lạp tử ở giữa các lạp tử lớn nhỏ này, từ lạp tử vi quan nhất đến tầng lạp tử lớn nhất ở vỏ ngoài của toàn bộ vũ trụ, cho nên là trung gian của toàn bộ lạp tử, mới có thể là vị trí trung tâm của vũ trụ này. Thân thể người là do tầng lạp tử này tổ thành. (Giảng Pháp tại Pháp hội miền Trung Mỹ Quốc [1999])

Từ đó có thể biết rằng, thân thể người là do tầng lạp tử phân tử tổ thành, phân tử vừa hay chính là lạp tử trung gian giữa lạp tử nhỏ nhất và lạp tử lớn nhất. Lạp tử lớn nhất mà khoa học thực chứng có thể quan trắc được là tinh cầu, nhân loại sinh tồn ở giữa lạp tử phân tử và lạp tử tinh cầu, ở trong không gian vô cùng chật hẹp này mà nhận thức thế giới và vũ trụ. Vậy thì từ phân tử trở xuống còn có bao nhiêu lạp tử vi quan đây?

Bề mặt vật chất mà nhân loại có thể nhận thức được, lạp tử lớn nhất nhìn thấy được chính là tinh cầu, hệ Ngân Hà; các lạp tử nhỏ nhất mà dùng máy móc có thể biết được còn có phân tử, nguyên tử, hạt nhân nguyên tử, neutron, điện tử, hạt quark, neutrino, xuống dưới nữa thì không biết được. Nhưng còn cách không biết là bao xa so với vật chất bản nguyên của con người, vật chất bản nguyên cấu thành các sinh mệnh. Gấp vô số ức lần, vô số ức vô số ức lần vẫn chưa đến tận cùng, vật chất vi quan đến mức độ ấy.” (Giảng Pháp tại Hội giao lưu Quốc tế tại Bắc Kinh [1996]–Giảng Pháp tại các nơi I)

Giờ đây chúng ta đã biết rằng vũ trụ quan của cổ nhân thực ra là chính xác. Khoa học hiện đại đã phủ định vũ trụ quan của cổ nhân là bởi vì con người hiện đại chúng ta quá ỷ lại vào khoa học thực chứng sờ tận tay, nhìn tận mắt, từ đó mà bị mất đi năng lực nhận thức những bí ẩn thâm sâu hơn vượt trên những gì khoa học thực chứng có thể tiếp xúc được.

“Nhân loại chỉ nhận thức được không gian do phân tử tổ [hợp] thành này, lại còn dậm chân tại chỗ, dùng các loại định nghĩa khoa học thực chứng mà tự hạn chế chính mình, đột phá không nổi. Ví như chư vị nói không khí, nước, sắt thép, gỗ, và cả thân thể con người, tất cả không gian chư vị sinh sống đều là do phân tử cấu thành. Chư vị giống như sinh sống trong đại dương của cảnh giới phân tử này, giống như một bức họa lập thể do phân tử tổ [hợp] thành. Phi thuyền vũ trụ bay cao đến đâu, cũng không chạy ra khỏi không gian cấu thành từ phân tử này; máy tính dẫu phát triển tới đâu cũng không sánh được não người. (Giảng Pháp tại Hội giao lưu Quốc tế tại Bắc Kinh [1996]–Giảng Pháp tại các nơi I)

Vũ trụ mà nhân loại nhận thức được chẳng qua chỉ là một hạt bụi trong hạt bụi trong đại khung vũ trụ mênh mông, cái không gian mà nhân loại đang sinh tồn lại là một không gian mê, không nhìn thấy sinh mệnh ở không gian khác, không nhìn thấy chân tướng của vũ trụ, mục đích là để con người ở trong mê mà có thể ngộ, có thể nâng cao tầng thứ sinh mệnh, bởi vì ở trong mê mới có thể khảo nghiệm chân tâm của con người. Đại sư Lý Hồng Chí đã chỉ ra con đường duy nhất khiến nhân loại nhận thức vũ trụ chân thực:

“Nhân loại nếu muốn liễu giải được bí ẩn của vũ trụ, thời không, và thân thể người, thì chỉ có tu luyện trong chính Pháp, đắc chính giác, đề cao tầng thứ của sinh mệnh. Trong tu luyện cũng khiến phẩm chất đạo đức được đề cao; khi phân biệt được thật sự thiện và ác, tốt và xấu, đồng thời vượt khỏi tầng thứ nhân loại, thì mới nhìn thấy được, mới tiếp xúc được vũ trụ chân thực và các sinh mệnh tại các tầng thứ khác nhau các không gian khác nhau. (Luận Ngữ-Chuyển Pháp Luân)

“Đề cao tầng thứ của sinh mệnh” mới là mục đích và ý nghĩa cuối cùng của nhân sinh, cũng là con đường duy nhất để nhận thức vũ trụ chân thực.

=========

Ghi chú

Loạt bài này có nhiều chỗ trích dẫn nội dung trong các bài giảng Pháp của Ngài Lý Hồng Chí, hoàn toàn dựa trên lý giải một chiều và hạn chế của cá nhân tác giả, do đó khi trích dẫn khó tránh khỏi đoạn chương thủ nghĩa. Nguyên tác các bài giảng của Ngài Lý Hồng Chí có nội hàm thâm sâu và rộng lớn, các độc giả quan tâm xin hãy đọc các bài giảng Pháp nguyên văn của Ngài Lý Hồng Chí được đăng tải miễn phí tại trang web: http://phapluan.org.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/150800

Tài liệu tham khảo

[1] PBS-TV/NOVA: “The Fabric Of The Cosmos” (Updated: November 2011).

[2] The Fabric of the Cosmos: Space, Time, and the Texture of Reality (2004). Alfred A. Knopf division, Random House, ISBY 0-375-41288-3

[3] Giảng Pháp tại Pháp hội Houston [1996]

[4] Giảng Pháp tại Pháp hội Vancouver ở Canada năm 2003

[5] Giảng Pháp tại Pháp hội Bắc Mỹ lần đầu [1998]

[6] Giảng Pháp tại Pháp hội Châu Âu [1998]

[7] Giảng Pháp tại Pháp hội Thụy Sỹ [1998]

[8] Pháp Luân Công

[9] Giảng Pháp tại Pháp hội quốc tế New York 2004

[10] Giảng Pháp tại Pháp hội miền Trung Mỹ Quốc [1999]

[11] Giảng Pháp tại Hội giao lưu Quốc tế tại Bắc Kinh [1996]

[12] Chuyển Pháp Luân

[13] Chuyển Pháp Luân – Luận Ngữ

Xem tiếp Phần 4

The post Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (3): Nhận thức về vũ trụ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (2): Nhận thức về thời gianhttps://chanhkien.org/2016/10/loat-bai-nhan-thuc-ve-vu-tru-chan-thuc-2-nhan-thuc-ve-thoi-gian.htmlWed, 12 Oct 2016 03:09:20 +0000http://chanhkien.org/?p=24900[ChanhKien.org] Thời gian là gì? Sự khác nhau giữa quá khứ, hiện tại và tương lai phải chăng chỉ là ảo giác ăn sâu vào tiềm thức? Tại sao thời gian luôn chuyển động hướng về tương lai? Thời gian có điểm bắt đầu và điểm kết thúc không? Mời các bạn đọc bài viết này […]

The post Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (2): Nhận thức về thời gian first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org] Thời gian là gì? Sự khác nhau giữa quá khứ, hiện tại và tương lai phải chăng chỉ là ảo giác ăn sâu vào tiềm thức? Tại sao thời gian luôn chuyển động hướng về tương lai? Thời gian có điểm bắt đầu và điểm kết thúc không? Mời các bạn đọc bài viết này để tìm  câu trả lời.

Bây giờ là mấy giờ? Câu hỏi này có lẽ mỗi cá nhân đều có thể trả lời được. Thời gian trôi qua vùn vụt, ngày tháng như thoi đưa, ngày và đêm, ánh sáng và bóng tối đan xen nhau, ai cũng cảm thấy rất quen thuộc với thời gian. Nhưng nếu thay đổi câu hỏi một chút, thời gian là gì? Có lẽ rất nhiều người sẽ cảm thấy mông lung.

Từ xưa đến nay, con người đã phát minh ra nhiều phương pháp và dụng cụ để đo lường, tính toán thời gian, từ đồng hồ cát, đồng hồ mặt trời, đồng hồ định vị thiên thể (còn gọi là thiên nghi), cho tới đồng hồ cơ khí, đồng hồ thạch anh, độ chính xác của các thiết bị đo thời gian có độ càng ngày càng cao. Hội nghị toàn thể về Cân đo đã đưa ra phương pháp dùng tần số dao động của nguyên tử cesium để đo lường thời gian, vì vậy đồng hồ nguyên tử cesium của Viện tiêu chuẩn và kĩ thuật Quốc gia Hoa Kỳ (NIST, trước kia NBS) đã trở thành công cụ đo thời gian chính xác nhất trên thế giới với sai số chỉ có 1 giây trong 100 triệu năm. Nhưng dù cho việc đo lường thời gian có chính xác đến mức độ nào đi nữa thì cũng không thể động chạm đến bản chất của thời gian. Cho dù tất cả các đồng hồ trên thế giới đều ngừng hoạt động thì thời gian vẫn cứ trôi đi không ngừng nghỉ. “Thệ giả như tư phu! Bất xả trú dạ!” (Thời gian trôi đi như nước chảy không kể ngày đêm – trích Luận Ngữ, Khổng Tử).

Thời gian như dòng nước chảy, dòng chảy thời gian không bao giờ ngừng nghỉ, từng khoảnh khắc vụt qua rất nhanh. Hơn nữa chuyển động của thời gian dường như luôn hướng về một hướng, đó là chảy đến tương lai, nó không thể bị tạm dừng cũng không thể quay ngược lại.  “Thời gian là vàng bạc, nhưng vàng bạc cũng không mua được thời gian” câu nói này đã mô tả chính xác sự quý giá một đi không trở lại của thời gian. Lời dạy của người xưa “Mạc đẳng nhàn, bạch liễu thiểu niên đầu, không bi thiết!” vẫn vang vọng bên tai (Bài thơ Mãn giang hồng, Nhạc Phi). Chúng ta treo thời gian trên tường, đeo thời gian trên tay, chúng ta dựa vào thời gian để sắp xếp kế hoạch hàng ngày. Xuân sinh, hạ trưởng, thu thu, đông tàng, dường như thời gian đang khống chế tất cả. Vậy thì thời gian rốt cuộc là gì? Các nhà khoa học đã phải bất lực mà thốt lên rằng: Chúng ta hoàn toàn chưa lý giải được bất kỳ phương diện nào của thời gian cả.

Theo Newton, thời gian là một tính chất vĩnh hằng bất biến của vũ trụ. Thời gian luôn trôi đi với tốc độ không đổi và không bị thay đổi bởi bất cứ sự vật gì. Những mô tả của Newton về thời gian rất phù hợp với những thể nghiệm trực giác của con người, tuy nhiên, Einstein lại chỉ ra rằng mô tả như vậy vẫn chưa chính xác. Einstein phát hiện thời gian có thể chuyển động với vận tốc khác nhau, tức là không có cái gọi là thời gian tiêu chuẩn của vũ trụ, và trong vũ trụ tồn tại các thời gian khác nhau. Nói một cách cụ thể, mỗi người đều có thời gian của riêng mình, thời gian của mỗi người lại vận hành với tốc độ khác nhau. Phát hiện của Einstein đã phủ định hoàn toàn những lý giải của Newton về thế giới hiện thực cũng đã lật đổ hoàn toàn những nhận thức trực giác của chúng ta về thời gian.

Einstein đã phát hiện ra rằng giữa sự dịch chuyển của không gian và sự dịch chuyển của thời gian có mối liên hệ cực kỳ tinh xảo và sâu xa. Nói một cách đơn giản, nếu sự chuyển động trong không tăng lên thì tốc độ thời gian lại giảm đi. Phát hiện này đã cho thấy sự vận chuyển của thời gian đối với mỗi người là có sự khác biệt, chỉ có điều sự sai khác này lại có biểu hiện cực kỳ nhỏ trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta nên chúng ta không cảm thấy được. Nhưng đối với hệ thống định vị toàn cầu được sửdụng rộng rãi hiện nay thì nó lại có ảnh hưởng rất rõ rệt. Do tốc độ chuyển động của các vệ tinh có sử dụng hệ thống định vị toàn cầu là rất cao, nên hệ thống định vị toàn cầu cần phải xét đến ảnh hưởng của sự di chuyển tốc độ cao này đối với thời gian, nếu không sẽ dẫn đến sai số trong toàn bộ hệ thống. Sự giãn nở của thời gian thật sự có tồn tại chứ không phải chỉ là suy nghĩ chủ quan điên rồ của một nhà toán học nào đó.

Không chỉ sự chuyển động là có thể làm cho thời gian giãn nở, Einstein còn phát hiện ra trọng lực cũng có thể làm cho thời gian chậm lại. Einstein đã liên kết thời gian với không gian để tạo ra khái niệm thế giới không gian – thời gian 4 chiều (gọi tắt là “thời-không”), ông phát hiện rằng vật thể có trọng lượng khổng lồ có thể uốn cong thời-không ở một mức độ rất lớn, nó không chỉ uốn cong không gian mà còn uốn cong được thời gian. Do loại uốn cong thời-không này, nên thời gian ở trên đỉnh và dưới tầng một của cùng một tòa nhà 30 lại khác nhau, thời gian ở tầng một sẽ chậm hơn một chút, dù là sự sai khác về thời gian này rất nhỏ nhưng chúng ta vẫn có thể đo được.

Trong thế giới thời-không 4 chiều của Einstein, mỗi một cá thể di chuyển đều có thời gian hoặc “thời khắc” khác nhau. Nếu như chụp lại tất cả các sự việc trong toàn bộ vũ trụ xảy ra trong nháy mắt rồi tập hợp lại thành một bức ảnh động, bởi vì mỗi cá thể di động có thời gian hoặc “thời khắc” khác nhau nên bạn sẽ phát hiện thấy trong bức ảnh này đều có tồn tại quá khứ, hiện tại và tương lai. Đúng như Einstein đã nói: “Sự khác biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai chỉ là một loại áo giác ăn sâu vào tiềm thức”. Trong cuốn sách “Điểm kết thúc của thời gian” (The End of Time), tác giả lại cho rằng thời gian không tồn tại, cảm giác về thời gian trôi đi là do bộ não của chúng ta tạo ra khi nó xử lý bức ảnh động này.

Mỗi khắc, mỗi giây của thời gian đều đã tồn tại, đây chính là kết quả nghiên cứu về thời gian của các nhà khoa học hiện đại. Có vẻ như kết quả dẫn đến do nỗ lực và quyết sách của mỗi cá nhân đều đã sớm được định sẵn ổn thỏa rồi, và từ 13,7 tỉ năm trước, khi vũ trụ bắt đầu hình thành thì kết quả của nó đã được định sẵn rồi. Có thật sự như vậy không?  Lẽ nào sự trôi đi của thời gian mà chúng ta thực sự cảm giác được lại chỉ là một ảo giác thôi sao?

Dựa trên nhận thức về thời gian này, thì “cỗ máy thời gian” không chỉ còn tồn tại trong các bộ phim khoa học viễn tưởng, các nhà khoa học đang thảo luận làm thế nào để thực hiện chuyến du hành vượt thời gian trở về quá khứ hay đến tương lai. Các nhà khoa học đã phác thảo ra hai phương pháp vượt thời gian: Một phương pháp là lợi dụng tính chất đặc thù của lực hấp dẫn, dựa vào thuyết tương đối rộng, nếu lực hấp dẫn càng mạnh thì thời gian sẽ trôi đi càng chậm. Hố đen được hình thành khi một tinh thể khổng lồ tự co rút lại và có sẵn lực hấp dẫn rất lớn. Nếu như có thể du hành vào hố đen trong thời gian ngắn khoảng 1-2 giờ đồng hồ, thì trên Trái Đất đã qua mấy chục năm rồi, do đó khi trở lại Trái Đất thì chính là đã đi vào Trái Đất của tương lai. Phương pháp thứ hai đó là lợi dụng lỗ sâu không gian (Wormhole hay Cầu Einstein-Rosen). Lỗ sâu này giống như một loại con đường tắt của thời-không, nó có thể liên kết một phần thời-không với thời-không sớm hơn nó, giống như một con đường vượt thời gian, chỉ cần vào lỗ sâu thì có thể trở về quá khứ. Các nhà khoa học vẫn đang thảo luận về những mâu thuẫn của loại xuyên thời gian này, ví dụ như hiện tượng bạn có thể gặp được chính bản thân mình trong quá khứ hoặc lịch sử có thể bị thay đổi. Trên thực tế, việc vượt thời gian tuy mới chỉ là giả tưởng khoa học, nhưng nó là giả tưởng khoa do các nhà khoa học đưa ra.

Xuân hạ thu đông, bốn mùa thay đổi tuần hoàn. Những trải nghiệm hàng ngày của chúng ta đã nói cho chúng ta rằng thời gian chỉ có thể luôn trôi về phía trước. Tại sao thời gian lại luôn hướng đến tương lai? Có thể đảo ngược để trôi ngược về quá khứ không? Các định luật vật lý học dùng các phương trình toán học để miêu tả tất cả các sự vật, trong đa số các phương trình dùng để mô tả vũ trụ mà chúng ta có thể nhận thức được xung quanh mình, không có phương trình nào mô tả hướng chuyển động của thời gian. Dù thời gian trôi về phía trước hay về phía sau, thì những phương trình này vẫn rất hợp lý. Tức là, từ góc độ vật lý học mà xét thì thời gian có thể đảo ngược, nhưng từ hiện thực mà xét thì thời gian lại không thể đảo ngược được. Để giải thích hiện tượng này, các nhà khoa học đã sử dụng phương trình Boltzmann để giải thích ý nghĩa của thống kê vi quan với Entropy.

Entropy là một chỉ tiêu đo lường tính ngẫu nhiên và độ hỗn độncủa một hệ thống. Phương trình Boltzmann đã cho chúng ta biết, mọi vật trong vũ trụ đều từ trạng thái có trật tự chuyển sang trạng thái vô trật tự một cách tự phát, và với sự dịch chuyển ngày càng tăng của thời gian thì nó cũng gia tăng, hướng đi của thời gian lại quyết định bởi xu thế của tự nhiên, theo đó khi thời gian trôi đi, những vật chất càng trở nên hỗn loạn. Dựa trên thuyết vụ nổ Big bang, trong khoảng khắc trước khi xảy ra vụ nổ, tức khởi điểm dẫn đến vụ nổ, là bắt nguồn từ khởi đầu có trật tự với entropy rất thấp. Vụ nổ lớn có trật tự cao, trong tất cả các hiện tượng thì có lẽ đây là hiện tượng có trật tự nhất. Tất cả các sự việc xảy ra sau đó, dần dần trở nên hỗn loạn. Nói cách khác, chính vụ nổ lớn đã quyết định hướng trôi của thời gian, tất cả các sự việc phát sinh sau đó có thể chỉ là chịu tác động của một loại lực đẩy, khiến nó càng trở nên hỗn loạn hơn so với 13,7 tỉ năm trước. Phải chăng điều này nói lên rằng một khoảng khắc đó của vụ nổ có thể là khởi điểm của thời gian, vậy thì phải chăng thời gian cũng có điểm kết thúc?

Đứng trên cơ sở một sự thật là vũ trụ đang tăng tốc độ giãn nở, một lý luận cho rằng cuối cùng hố đen sẽ chi phối cả vũ trụ, lúc đó các tinh hệ sẽ biến mất và chỉ còn sót lại các hạt lạp tử nhỏ phân tán, bay lơ lửng khắp nơi trong vũ trụ. Trong một tương lai mà tất cả đều suy tàn, bất kể sự vật nào đến một mức độ nào đó sẽ trở thành bằng phẳng, nhẵn nhụi và không thay đổi. Do không có thay đổi nên sẽ không thể có một khái niệm rõ ràng về sự trôi đi của thời gian. Nếu như không có sự việc nào xảy ra thì sẽ rất khó tưởng tượng được sự tồn tại của thời gian, thậm chí còn không thể phân biệt được thời gian trôi về phía trước hay lùi lại phía sau. Đến lúc đó, thời gian có thể sẽ mất đi ý nghĩa tồn tại của nó, có thể đó cũng sẽ là điểm kết thúc của thời gian.

Trên đây là những nhận thức của khoa học hiện đại về thời gian. Vậy sự trôi qua của thời gian có thật chỉ là một ảo giác hay không? Quá khứ, hiện tại và tương lai có thật sự cùng tồn tại không? Thời gian có thật sự có điểm kết thúc không? Những nhận thức này có mức độ đáng tin cậy đến đâu? Thời gian có thể tự chứng minh tất cả điều này hay không?

Ngài Lý Hồng Chí – người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp đã giảng và phân tích rất rõ ràng về thời gian trong các bài giảng Pháp của Ngài, qua đó có lẽ mọi người có thể tìm được đáp án cho câu hỏi thời gian là gì.

Trong vũ trụ từ lớn đến bé, từ vi quan vô hạn đến hoành quan vô hạn có vô số các lạp tử, mà trên mỗi lạp tử đều có một thời gian độc lập, mỗi thời gian đều nhanh chậm khác nhau. Mà ở trong lạp tử với các thế giới lớn bé khác nhau do các lạp tử cấu thành nên [cũng] có thời gian; và ở trong lạp tử với thiên thể to lớn hơn nữa cấu thành từ vô số lạp tử cũng có thời gian, toàn bộ quần thể to lớn các lạp tử của các lạp tử cùng trong một tầng lại còn có thời gian to lớn hơn nữa. Các thời gian trong vũ trụ cũng giống như các sinh mệnh trong vũ trụ là không cách nào đếm xuể; ngoài ra vũ trụ trên tổng thể cũng lại có một thời gian tổng thể, trong đó có vô vàn vô số các thời gian cụ thể khởi tác dụng trong các không gian [khác nhau]; hết thảy đều là vì phương thức tồn tại của các chúng sinh tại các không gian khác nhau mà được tạo ra. Như vậy có thời gian của không gian là rất nhanh, có thời gian của không gian là rất chậm. Đó là điều mà vừa rồi tôi có nói về sự nhanh chậm của các không gian; từ khi tôi bắt đầu giảng cho đến bây giờ, thì có không gian có thời gian là đồng bộ với tôi, có không gian đã trải qua mấy ngày liền rồi, có không gian đã trải qua hàng bao nhiêu vạn năm rồi, có không gian đã trải qua hàng mấy trăm triệu năm, hàng mấy tỷ năm rồi, nó nhanh đến như vậy. Bởi vì vũ trụ quá to lớn, các lạp tử trong đó là vi quan vô hạn, là hoành quan vô hạn, chúng đều có tồn tại thời gian của tự bản thân.  (Giảng Pháp trong chuyến đi quanh Bắc Mỹ [2002])

Từ những phân tích của ngài Lý Hồng Chí, chúng ta có thể thấy được trong vũ trụ có vô số vô vàn thời gian không thể tính đếm được, trong tổng thể vũ trụ còn có một thời gian tổng tổng thể, nhưng thời gian tổng này thì khoa học của nhân loại lại không cách nào động chạm đến được, bởi vì nó không tồn tại trong thời-không của nhân loại chúng ta. Trong trường thời gian này của chúng ta cũng có điểm tương tự. Xung quanh Trái Đất có một trường thời gian, đây là thời gian tổng thể của tất cả mọi sự vật trong thế gian. Dựa theo thuyết tương đối, khi mọi sự vật đang ở trạng thái tĩnh, dừng lại thì thời gian của chúng và thời gian tổng thể này sẽ đồng nhất với nhau. Nhưng khi chúng vận động thì mỗi sự vật lại có thời gian riêng. Thực ra tình huống thực tế lại khác xa, không đơn giản như vậy. Bởi vì tầng thứ và cảnh giới khác nhau của mỗi sinh mệnh, kích thước lớn nhỏ và kết cấu khác nhau của các phân tử cấu thành nên vạn vật trên thế gian, nên sẽ tạo ra sự gián cách về thời gian khác nhau, chỉ có điều khoa học hiện đại ngày nay vẫn không cách nào nhận thức được vấn đề này.

Vậy thời gian là gì?

Trong thiên thể thì vật chất mênh mông nào cũng đều là Thần. Nhân loại nhìn nhận rằng Ông [Thời Gian] là một loại quan niệm. Mặt trời mọc lên, trời tối, trời sáng, nào là đồng hồ đang chạy, nào là vật chất đang phát sinh biến dị, trái cây khi trời nóng rất nhanh hỏng, cơm mà không ăn sẽ thiu, nào là cây lương thực đang chín, nào là một năm có bốn mùa, hết thảy hệt như là biểu hiện của [khái niệm] thời gian. Tin rằng nó là một loại khái niệm. Kỳ thực để tôi bảo chư vị rằng hết thảy những xúc tiến ấy, là bản thân Thời Gian đang nắm, Ông là Thần. Ngay cả mặt trời mọc lên, lặn xuống, tốc độ Trái Đất vận chuyển quanh Mặt Trời thảy đều là Thời Gian tạo thành.  (Giảng Pháp tại Pháp hội các phụ đạo viên ở Trường Xuân [1998])

Thời gian là Thần! Sự vận chuyển của các thiên hà và chu kỳ của sinh mệnh v.v. đều do Thần Thời gian thúc đẩy. Khoa học hiện đại ngày nay vẫn mong muốn tìm ra tung tích của Thần, nhưng hàng ngày đối diện với với Thần Thời gian mà lại không nhận ra.

Khoa học hiện đại cho rằng sự phân biệt với quá khứ, hiện tại và tương lai là một loại ảo giác, điều này rất gần với lý hết thảy trong vũ trụ đều có định số được nói đến trong các sách của Pháp Luân Đại Pháp, tuy nhiên về bản chất lại có sự khác biệt.

Vũ trụ hết thảy đều có định số’ là nói về chỉnh thể vũ trụ, tỷ như Pháp Lý cũ đã định ra định số thành-trụ-hoại-diệt của nó rồi, đó là hạn chế về trí huệ của cựu Pháp; đành rằng vũ trụ có định số của mình như thế, đành rằng căn bản của sinh mệnh cụ thể là có quan hệ với lịch sử của nó {vũ trụ}, nhưng đã nói đến sinh mệnh nào đó thì vị ấy làm cụ thể những gì, vị ấy có nghiệp lực bao nhiêu, vị ấy phải hoàn trả, nghiệp lực của vị ấy trở nên lớn thì phải tiêu huỷ, thì đó đều là việc của chính bản thân sinh mệnh đó; một sinh mệnh tự nó đi tới bước nào, thì những cái đó về cơ bản không ổn định. Tuy nhiên người ta có thể thông qua những gì sinh mệnh đó làm và theo đuổi, mà thấy được bước tiếp theo, bước tiếp theo, bước tiếp theo nữa của sinh mệnh ấy trong vũ trụ, nghĩa là, khi ly khai khỏi hoàn cảnh không gian thời gian của vũ trụ này của chúng ta, khi ở trong hoàn cảnh thời gian khác thì có thể thấy được rằng về sau vị ấy có thể sẽ làm gì, đó cũng là chiểu theo trạng thái của vị ấy hôm nay mà kéo dài ra cho đến bước ấy. Nếu trạng thái hiện nay của vị ấy đột nhiên biến [đổi], thế thì, trạng thái của bước tiếp theo cũng sẽ biến [đổi], do đó những điều này là không ổn định. Định số tổng thể của thành-trụ-hoại của vũ trụ là ổn định. (Giảng Pháp tại Pháp hội miền Tây Mỹ quốc năm 2004 – Giảng Pháp tại các nơi V)

 Pháp Luân Đại Pháp còn cho chúng ta biết loại định số hết thảy mọi thứ trong vũ trụ là đã được đinh ra từ khi vũ trụ được sinh ra:

“Như mọi người đều biết trong lịch sử quá khứ vũ trụ hễ cảnh giới nào xuất vấn đề, không còn tốt nữa và phải đào thải, thì sẽ có đại kiếp tiểu kiếp, đó đều là những việc trong quá trình của cựu vũ trụ, vì khi kiến lập vũ trụ ấy là kiến lập một cách đồng thời từ đầu tới đuôi, đồng thời đều có, chỉ là biểu hiện của chúng sinh trong đó, trong sinh mệnh đã có con đường đi từ đầu chí cuối, tựa như đều có trong kịch bản vậy, con người chỉ là diễn từ đầu đến cuối thôi, chỉ là trong vũ trụ khổng lồ có thời gian khác nhau, không gian khác nhau, thân ở một không gian chậm thì có thể thấy sinh mệnh ở không gian nhanh trải qua từng đời từng đời trong một chớp mắt, thậm chí có thể thấy hết cả quá trình của vũ trụ ấy, vì nó đã đồng thời ở đó rồi. Chúng đều là tồn tại một cách đồng thời, chỉ là thời gian phân cách thành các thời-không khác nhau, các hoàn cảnh thời gian khác nhau”. (Giảng Pháp tại Pháp hội New York năm 2010)

Định số này tồn tại giống như một kịch bản mà trong đó quá trình của một sinh mệnh, quá trình của vũ trụ vẫn chưa kết thúc. Kịch bản nào đã thể hiện ra trí huệ cực hạn của Pháp sinh ra vũ trụ này? Nhưng mà ở trong một thời-không mà thời gian trôi đi rất chậm hoặc là trong một thời-không không có khái niệm thời gian thì có thể nhìn thấy được ở trong một thời-không nơi thời gian trôi nhanh toàn bộ quá trình mà một sinh mệnh đã đi hết thậm chí là nhìn thấy toàn bộ quá trình của vũ trụ.

Công năng túc mệnh thông mà người ta thường nhắc đến chính là minh chứng cho việc hết thảy mọi thứ đều có định số.

Sao lại gọi là ‘túc mệnh thông’? Ấy là có thể biết được tương lai và quá khứ của cá nhân; lớn nữa thì có thể biết được sự thịnh suy của xã hội; còn lớn hơn nữa thì có thể thấy được những quy luật biến hoá của toàn thiên thể; đó chính là ‘công năng túc mệnh thông’. Vì vật chất chiểu theo quy luật nhất định mà vận động; trong không gian đặc thù, bất kể vật thể nào đều có hình thức tồn tại trong rất nhiều không gian khác. (Bài giảng thứ hai – Chuyển Pháp Luân)

Trong một không gian đặc định, người ta làm xong một việc gì, [ví dụ] người ta huơ tay làm một việc gì, tất cả đều là tồn tại vật chất; làm việc gì thì cũng lưu lại một hình tượng và tín tức. Tại không gian khác, nó là bất diệt, vĩnh viễn tồn tại ở đó, người có công năng nhìn một cái là thấy được cảnh tượng tồn tại trong quá khứ, nên hiểu biết liền. (Bài giảng thứ hai – Chuyển Pháp Luân)

Trong [Kinh Thánh] có nói về ngày phán quyết, Thượng đế sẽ dựa vào những lời nói và hành vi của người đó trong quá khứ để phán quyết một người. Có người không hiểu điều đó, họ cho rằng những sự việc trong quá khứ đã qua đi không trở lại, thực ra nó không biến mất, mà nó là một loại tồn tại vật chất, nó tồn tại trong một không gian khác. Khi một người chết đi và rời khỏi thế giới này, họ sẽ nhìn thấy rõ mồn một những lời nói và hành vi trong toàn bộ cuộc đời của họ.

Người có công năng túc mệnh thông có thể nhìn thấy quá khứ, hiện tại và tương lai của một người. Một đời của con người đã sớm được định trước rồi, người ta thường nói về nghiệp lực luân báo, nhân quả báo ứng, một đời của con người chính là do sinh mệnh cao cấp hơn đã an bài dựa theo nghiệp lực của người đó. Có thể có người không chấp nhận được việc này, cho nên một đời của họ tranh đấu ngược xuôi vì lợi ích của bản thân. Pháp Luân Đại Pháp đã giảng rõ rằng sự tranh đấu này có thể gây ra hậu quả xấu: “Thực ra phấn đấu cá nhân có thể thay đổi được những thứ nhỏ trong đời người, một số thứ nhỏ thôi; bằng phấn đấu cá nhân có thể có được những thay đổi ấy. Nhưng chính vì nỗ lực cải biến của chư vị mà có thể chịu nhận nghiệp lực; nếu không thế thì không tồn tại vấn đề tạo nghiệp, cũng không tồn tại vấn đề làm việc tốt [và] làm việc xấu. Khi ngoan cố làm việc gì đó, họ sẽ chiếm tiện nghi của người khác, họ làm điều xấu. Do đó trong tu luyện nhắc lại [nhiều lần] rằng cần phải thuận theo tự nhiên, đó chính là đạo lý; bởi vì chư vị qua nỗ lực mà làm hại người khác. Nguyên sinh mệnh của chư vị không có thứ đó, nhưng tại xã hội chư vị lại được những thứ vốn thuộc về người khác; vậy là chư vị đã mắc nợ người ta rồi. (Bài giảng thứ hai – Chuyển Pháp Luân)” Khi một người tạo nghiệp thì sẽ mang đến những đau khổ, khó nạn trong cuộc đời của chính mình. Trong Phật giáo giảng lục đạo luân hồi, một người chính là phải luân hồi bồi thường nghiệp nợ trong nghiệp lực luân báo của lục đạo luân hồi.

Nơi trở về cuối cùng của đời người có thể được thay đổi bởi hành vi của người đó. Pháp Luân Đại Pháp đã nói rõ hai loại tình huống quyết định nơi trở về cuối cùng của một sinh mệnh.

“Chính là cá nhân ấy toàn làm điều xấu, không điều ác nào mà không làm; vị ấy có thể thay đổi được cuộc đời của mình, nhưng vị ấy sẽ đương đầu với sự huỷ diệt triệt để. Chúng tôi từ cao tầng mà nhìn, thấy [khi] con người chết rồi, [nhưng] nguyên thần bất diệt. Nguyên thần bất diệt là sao? Chúng tôi thấy rằng sau khi người ta chết, [thì xác] người ở chốn an nghỉ kia, chẳng qua chỉ là các tế bào của thân người trong không gian này của chúng ta mà thôi. Các tổ chức tế bào của nội tạng và bên trong thân thể, toàn bộ thân người, và từng tế bào tại không gian này đều thoát rơi ra; còn thân thể tại các không gian khác như phân tử, nguyên tử, proton, cho đến các vật chất vi lạp thành phần nhỏ hơn thì không chết; chúng vẫn ở trong các không gian khác, [chúng] vẫn tồn tại trong các không gian vi quan. Nhưng điều mà kẻ không điều ác nào mà không làm sẽ đương đầu chính là việc toàn bộ tế bào giải thể hết, trong Phật giáo gọi là ‘hình thần toàn diệt.” (Bài giảng thứ hai – Chuyển Pháp Luân)

Còn có một cách có thể cho phép con người biến đổi đời của họ; đây là cách duy nhất; chính là cá nhân ấy từ nay trở đi sẽ bước trên con đường tu luyện. Vậy tại sao đi theo con đường tu luyện có thể làm biến đổi đời người của họ? Ai có thể tuỳ tiện [tác] động đến điều ấy? Bởi vì [khi] cá nhân ấy hễ muốn đi theo đường tu luyện, ý niệm ấy vừa mới động, [thì] giống như ánh vàng kim loé sáng, chấn động mười phương thế giới. Khái niệm vũ trụ đối với Phật gia là học thuyết thế giới mười phương. Bởi vì [đứng] tại sinh mệnh cao cấp mà xét, thì sinh mệnh [đời] người không phải vì để làm người. Họ cho rằng sinh mệnh con người là [được] sản sinh trong không gian vũ trụ, có cùng tính chất với vũ trụ, là lương thiện, là cấu thành từ chủng vật chất Chân Thiện Nhẫn. Nhưng họ cũng có quan hệ [mang] tính quần thể; trong quần thể khi họ phát sinh quan hệ xã hội, một số biến đổi không còn tốt nữa, do vậy bị rớt xuống dưới; tại tầng [dưới] ấy họ cũng không trụ lại được nữa, họ lại biến thành tệ hơn nữa, họ lại rớt thêm một tầng nữa; rớt, rớt, rớt mãi cuối cùng rớt đến tầng người thường này.

[Rơi rớt đến] tầng này, cá nhân ấy nên bị huỷ diệt, bị tiêu huỷ. Nhưng các Đại Giác Giả đã xuất phát từ tâm đại từ bi, mà đặc cách tạo một chủng không gian này, như không gian của xã hội nhân loại chúng ta. Tại không gian này, họ được cấp thêm một nhục thân, thêm một cặp mắt chỉ nhìn được vật thể hạn cuộc trong không gian vật chất của chúng ta; cũng có nghĩa là rơi vào [cõi] mê, làm cho họ không nhìn thấy được chân tướng của vũ trụ; trong khi tại các không gian khác đều có thể nhìn thấy được. Ở trong [cõi] mê ấy, tại trạng thái ấy, một cơ hội thế này được lưu lại cho họ. Bởi vì ở trong mê, nên cũng là khổ nhất; có mang thân thể này, chính là phải chịu khổ. Người tại không gian này nếu có thể quay trở về trên, Đạo gia luyện công giảng ‘phản bổn quy chân’, vị ấy nếu mang tâm muốn tu luyện, chính là Phật tính xuất hiện, [thì] cái tâm ấy là trân quý nhất, mọi người sẽ giúp đỡ vị ấy. Con người ở trong hoàn cảnh khổ như thế này mà chưa bị mê mất, còn muốn quay trở về, do đó mọi người sẽ giúp đỡ vị ấy, giúp đỡ một cách vô điều kiện, việc gì cũng có thể giúp được. Tại sao chúng tôi có thể vì người tu luyện mà làm những sự việc này, nhưng không thể làm cho người thường? Đó chính là đạo lý. (Bài giảng thứ hai – Chuyển Pháp Luân)

Lựa chọn sự thăng hoa trở về của sinh mệnh mới là lựa chọn đúng đắn nhất trong cuộc đời. Trong số các học viên Pháp Luân Công, có rất nhiều người đã từng mắc các bệnh nan y, bị bệnh viện không chữa được đưa về nhà chờ chết, nhưng khi học Pháp Luân Công thì tất cả các bệnh tật đã không cánh mà bay. Đó là bởi họ đã lựa chọn sự thăng hoa trở về của sinh mệnh, bước trên con đường tu luyện chân chính, đó là duyên cớ vì sao con đường đời của họ đã được an bài lại từ đầu.

Khoa học hiện đại cho rằng lý do thời gian chỉ có tiến về phía trước chứ không thể quay ngược lại là do kết quả của vụ nổ lớn đã làm mọi thứ từ có trật tự diễn hóa thành vô trật tự. Thực ra không phải như vậy, mọi thứ trong vũ trụ đều chịu sự chi phối của Pháp lý vũ trụ. Pháp Luân Đại Pháp cho chúng ta biết Pháp lý vũ trụ hiện nay của chúng ta là “thành, trụ, hoại, diệt, không”, 5 giai đoạn này không thể đảo ngược được, không thể thay đổi thứ tự được, cũng không thể tạm dừng được. Tuy nhiên, nó không ngừng lặp đi lặp lại.

Đặc tính gì, đó là “thành-trụ-hoại-diệt-không”, ấy là vũ trụ quá khứ. Vũ trụ rất to lớn, khi ở diện tích nhỏ hoặc cục bộ xuất hiện hoại-diệt thì [cho] tạc nổ đi, nổ đi rồi chính là ‘không’. Sau khi ‘không’ thì vật chất chúng vẫn tồn tại, Thần sẽ lợi dụng vật chất tử vong ấy để tạo lại mới ra tầng vũ trụ ấy một lần mới. Trạng thái này so với ‘tân trần đại tạ’ ở thân thể người là hầu như phi thường tương tự. Vậy thì khi phạm vi lớn hơn mà có vấn đề, thì phạm vi lớn hơn cũng cần tạc nổ đi, sau đó lại tạo ra các sinh mệnh mới. (Giảng Pháp tại Pháp hội quốc tế New York 2004)

Khi vũ trụ bước sang giai đoạn “không” thì thời gian của vũ trụ này cũng kết thúc. Một chu kỳ mới bắt đầu và thời gian mới cũng bắt đầu. Khoa học thực chứng cứ luôn nhận thức hiện tượng từ biểu hiện bên ngoài của hiện tượng đó chứ không hiểu biết được thực chất phía sau nó. Khoa học thực chứng quan sát thấy được bằng chứng về vụ nổ lớn trước khi có vũ trụ này của chúng ta, liền cho rằng vũ trụ của chúng ta sinh ra được do vụ nổ lớn đó, vụ nổ lớn cũng đã trở thành khởi điểm của thời gian trong vũ trụ này của chúng ta. Thực ra, vụ nổ lớn mà khoa học hiện đại quan sát được đó chính là điểm kết thúc của vũ trụ cũ, tức là điểm kết thúc của thời gian của vũ trụ chu kỳ trước.

Vũ trụ của chúng ta hiện nay đã đi đến giai đoạn “diệt”. Thời kỳ “Mạt thế” mà Cơ đốc giáo nói đến, thời kỳ “mạt Pháp, mạt kiếp” Phật giáo nói đến là chỉ thời kỳ này của chúng ta.

Toàn bộ vũ trụ hiện nay đã xuất hiện một biến đổi rất to lớn; mỗi khi xuất hiện sự biến đổi như vậy, toàn bộ các sinh mệnh của toàn vũ trụ đều [bị] xử [lý] huỷ diệt, toàn bộ đều [bị] đặt vào trạng thái huỷ diệt. Mỗi một khi phát sinh tình huống như vậy, thì đặc tính tồn tại từ trước trong vũ trụ và vật chất trong đó đều cần phải [bị] làm cho nổ tung; thông thường đều bị nổ chết hết; tuy nhiên qua mỗi lần nổ cũng không có sạch hết. Khi vũ trụ mới được những Đại Giác Giả cực cao cực cao kiến tạo lại mới xong rồi, trong đó vẫn có [còn tồn tại] một số không bị nổ chết. Các Đại Giác Giả kiến tạo vũ trụ [mới] này là chiểu theo đặc tính của bản thân mình, [theo] tiêu chuẩn của bản thân mình mà kiến tạo vũ trụ ấy; do đó [so] với đặc tính vũ trụ của thời kỳ trước đó có những chỗ bất đồng. (Bài giảng thứ năm – Chuyển Pháp Luân)

Từ lịch sử của Trái Đất mà xét, không phải toàn bộ sinh mệnh của Trái Đất chu kỳ trước đều bị hủy diệt hết, mà những sinh mệnh không bị nổ chết cũng không phải là ngẫu nhiên. Đó là những sinh mệnh cực kỳ tốt của Trái Đất chu kỳ trước, do đó mới được lưu lại.

Do vậy [người ta] nhìn nhận rằng nhiều lần văn minh nhân loại gặp phải đợt huỷ diệt, chỉ có một số ít người sống sót; sau đó sống một cuộc sống nguyên thuỷ, dần dần sinh sôi thành [xã hội] nhân loại mới, tiến vào nền văn minh mới. Sau đó lại đi đến huỷ diệt, dần dần sinh sôi thành nhân loại mới; nó đã trải qua những chu kỳ biến đổi như thế. (Bài giảng thứ nhất – Chuyển Pháp Luân)

Một số ít người được lưu lại đã kể lại cho thế hệ sau những gì chính bản thân họ đã trải qua và nó đã trở thành những câu truyện thần thoại được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Sự vận động của Trái Đất và nhân loại chính là có chu kỳ như thế, nhưng đó chẳng qua chỉ là sự tuần hoàn lặp lại mang tính chu kỳ trong phạm vi nhỏ của Pháp lý vũ trụ cũ  quá khứ mà thôi.

Vũ trụ mới được các Giác Giả cực cao cực cao kiến tạo lại mới sẽ có đặc tính và Pháp lý của vũ trụ mới. Vũ trụ của chúng ta hiện nay đang trải qua các vụ nổ và trùng tổ, Sáng Thế Chủ đang kiến tạo lại vũ trụ của chúng ta. Vũ trụ mới sẽ không tiếp tục bị chi phối bởi pháp lý “thành, trụ, hoại, diệt, không” của vũ trụ cũ nữa.

Vũ trụ tương lai có sự cải biến về phương diện này, một khi đến lúc ‘hoại’ thì cần viên dung nó, canh tân nó, khiến nó biến thành tốt. Đó chính là khác với vũ trụ cũ. (Giảng Pháp tại Pháp hội quốc tế New York 2004)

Vũ trụ mới là viên dung, tốt đẹp không gì sánh bằng, những người có thể bước sang vũ trụ mới quả là vô cùng có phúc phận.

Bạn đã chuẩn bị sẵn sàng để bắt đầu cho thời gian mới, nghênh đón vũ trụ mới hay chưa?!

Ghi chú

Loạt bài này có nhiều phần trích dẫn nội dung trong các bài giảng Pháp của Ngài Lý Hồng Chí, hoàn toàn dựa trên lý giải một chiều và lý giải hạn chế của cá nhân tác giả. Do đó khi trích dẫn khó tránh khỏi đoạn chương thủ nghĩa. Nguyên tác các bài giảng của Ngài Lý Hồng Chí có nội hàm thâm sâu và rộng lớn, các độc giả quan tâm xin hãy đọc các bài giảng Pháp nguyên văn của Ngài Lý Hồng Chí được đăng tải tại trang web: http://phapluan.org.

 

Tài liệu trích dẫn:

【1】 Giảng Pháp trong chuyến đi quanh Bắc Mỹ (2/2002) – Lý Hồng Chí

【2】 Giảng Pháp tại Pháp hội các phụ đạo viên ở Trường Xuân [1998]  – Lý Hồng Chí

【3】Giảng Pháp tại Pháp hội miền tây Mỹ quốc 2004 [Los Angeles] – Lý Hồng Chí

【4】 Giảng Pháp tại Pháp hội New York năm 2010 – Lý Hồng Chí

【5】 Chuyển Pháp Luân – Lý Hồng Chí

【6】Giảng Pháp tại Pháp hội quốc tế New York 2004 – Lý Hồng Chí

Tài liệu tham khảo:

  • PBS-TV/NOVA: “The Fabric Of The Cosmos” (Updated: November 2011).
  • The Fabric of the Cosmos: Space, Time, and the Texture of Reality (2004). Alfred A. Knopf division, Random House, ISBY 0-375-41288-3
  • Nguyên lý toán học của triết học tự nhiên (xuất bản năm 2006), tác giả Newton, bản dịch tiếng Trung của Triệu Trấn Giang, mã xuất bản ISBN 7-100-04513-4

Xem tiếp Phần 3

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/2015/12/02/149636.五集系列片-认识真实的宇宙之二:认识时间.html

The post Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (2): Nhận thức về thời gian first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (1): Nhận thức về không gianhttps://chanhkien.org/2016/07/loat-bai-nhan-thuc-ve-vu-tru-chan-thuc-1-nhan-thuc-ve-khong-gian.htmlFri, 01 Jul 2016 15:46:15 +0000http://chanhkien.org/?p=24791[ChanhKien.org] Vũ trụ hình thành như thế nào? Con người từ đâu đến? Vũ trụ phải chăng không có biên giới? Ngước nhìn lên bầu trời đầy rẫy các vì tinh tú, biết bao người đã từng tự hỏi bản thân như vậy. Nhưng dù có tra cứu tất cả các sách vở kinh điển, […]

The post Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (1): Nhận thức về không gian first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Vũ trụ hình thành như thế nào? Con người từ đâu đến? Vũ trụ phải chăng không có biên giới? Ngước nhìn lên bầu trời đầy rẫy các vì tinh tú, biết bao người đã từng tự hỏi bản thân như vậy. Nhưng dù có tra cứu tất cả các sách vở kinh điển, vẫn khó có thể tìm được đáp án đầy đủ. Đây đích thị là câu hỏi vĩnh viễn không có lời giải của nhân loại.

Từ Trái Đất là trung tâm của vũ trụ đến thuyết Mặt Trời là trung tâm của vũ trụ, từ thuyết Vụ Nổ lớn Big Bang đến thuyết Đa vũ trụ của khoa học vũ trụ hiện đại, những phát hiện mới liên tục phủ định những nhận thức cũ. Phát hiện mới nhất cho thấy, vũ trụ của chúng ta có lẽ chỉ là một trong vô số các vũ trụ đan xen ngang dọc, thế giới ba chiều quen thuộc với chúng ta có lẽ chỉ là một thế giới hư ảo, quá khứ, hiện tại, tương lai có lẽ cùng đồng thời tồn tại. Những nghiên cứu phát hiện này đã hoàn toàn đảo ngược những lý giải hiện hữu về vũ trụ của chúng ta. Trực giác của chúng ta đối với sự vật quen thuộc sao có thể nhận biết sai đến vậy chứ? Những điều quá kinh ngạc này có lẽ sẽ khiến bạn phải đặt câu hỏi rằng rốt cuộc mức độ đáng tin cậy của những nghiên cứu này ra sao? Loạt bài này sẽ cùng quý vị tìm hiểu những nghiên cứu và phát hiện mới nhất, đồng thời cũng mở ra một cánh cửa mới cho quý vị, có thể từ đây bạn có thể tìm ra được manh mối về vũ trụ chân thực.

Phần 1: Nhận thức về không gian

Trong Tề Tục Huấn – Hoài Nam Tử có viết: “Bốn phương, trên dưới gọi là vũ, từ quá khứ đến hiện tại gọi là trụ”. Người Trung Quốc cổ đại lý giải “vũ” là không gian rộng lớn vô hạn, “trụ” là thời gian liên tục vĩnh hằng. Ngành vũ trụ học hiện đại thông thường gọi vũ trụ là tên gọi chung cho tất cả không gian và thời gian.

Vậy thì không gian là gì? Vấn đề xem ra có vẻ đơn giản này lại đang đánh đố các nhà khoa học hiện nay. Không gian bao hàm vạn vật, vạn vật lại bao hàm không gian. Các nhà khoa học từng thốt lên rằng đây là một trong những đề tài khó và thâm sâu nhất của vật lý học.

Các nhà vật lý học ban đầu cho rằng không gian kỳ thực là trống rỗng không có gì cả. Newton, cha đẻ của ngành khoa học hiện đại, đã miêu tả không gian là một sân khấu rộng lớn mênh mông, mãi mãi bền vững không thay đổi. Mọi thứ trong vũ trụ đều đang biểu diễn trên sân khấu này, vạn vật đều thay đổi vai diễn trên sân khấu này. Diễn xuất không ảnh hưởng tới sân khấu, sân khấu cũng không ảnh hưởng tới diễn xuất. Trong con mắt của Newton, vũ trụ giống như một cỗ máy chính xác vận hành theo một quy luật cố định. Ví như Trái Đất quay quanh Mặt Trời, các thiên hà giống như các bánh răng của chiếc đồng hồ khổng lồ. Đây là quan niệm thời không cứng nhắc, đóng khung thời gian, không gian vào một thể hệ riêng biệt, tức coi thời gian và không gian là hoàn toàn độc lập với nhau. Các định luật cơ học của Newton đã miêu tả rõ ràng các hiện tượng có thể cảm nhận bằng trực giác xảy ra xung quanh chúng ta, từ các hiện tượng nhỏ như quả táo rơi, đến các hiện tượng lớn như Trái Đất chuyển động theo quỹ đạo quanh Mặt Trời. Trải qua hàng trăm năm thí nghiệm kiểm chứng, định luật này mới được toàn thế giới công nhận.

Nhưng Einstein với cách suy nghĩ độc đáo đã chỉ ra rằng, thực ra không gian là một thực thể giống như tấm thảm cao su, có thể khiến nó uốn cong, cũng có thể khiến nó gấp khúc, hoặc có thể khiến nó rung động. Thông thường chúng ta không ý thức được sự tồn tại của không gian, giống như cá bơi trong nước, chúng không ý thức được sự tồn tại của nước là vì chúng luôn ở trong nước. Einstein chỉ ra rằng, trong khi vật thể đang chuyển động, không gian và thời gian sẽ dùng một phương thức đặc thù nào đó để gây ảnh hưởng lẫn nhau, phối hợp với nhau. Trong quá trình vận động, không gian và thời gian lại hòa hợp với nhau, từ đó hình thành một khái niệm quen thuộc là “thời không” (tức thời gian và không gian). Lý luận không gian và thời gian là một thể thống nhất này đã làm chấn động giới khoa học, đồng thời về cơ bản đã phá vỡ lý luận “không gian là một sân khấu lớn” của Newton.

Lý luận này chính là Thuyết tương đối hẹp và Thuyết tương đối rộng của Einstein. Thuyết tương đối hẹp được xây dựng dựa trên nền tảng giả thiết về nguyên lý vận tốc ánh sáng không đổi, tức là vận tốc ánh sáng sẽ không thay đổi theo sự vận động tương đối của hệ tham chiếu của nguồn ánh sáng và người quan sát. Einstein cho rằng, vận tốc ánh sáng sở dĩ luôn cố định không đổi, là bởi vì sự thay đổi không gian và thời gian gây nên. Cùng với sự gia tăng tốc độ chuyển động của vật thể, thời gian sẽ giãn nở ra, không gian sẽ thu hẹp lại và khối lượng sẽ tăng lên. Tốc độ chuyển động của vật thể càng lớn thì hiệu quả sẽ càng rõ nét. Trong khi nghiên cứu về lực hấp dẫn, Einstein còn phát hiện ra do sự tồn tại của vật chất nên đã làm cho không gian của chúng ta không phải là không gian bằng phẳng và bất biến; nó có thể bị uốn cong, mà loại uốn cong này lại chính là hiện tượng lực hấp dẫn. Nói cách khác, lực hấp dẫn thực ra là một ảo giác, sự uốn cong thời không mới là bản chất. Mặt Trăng quay theo quỹ đạo không phải do tác động của một sức mạnh thần bí nào đó của Trái Đất, mà là vì nó chuyển động theo một thời không lõm do Trái Đất sinh ra. Thời gian và không gian không chỉ là một chỉnh thể, nó còn có thể bị uốn cong do chịu ảnh hưởng của vật chất. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại xuất hiện lý luận trái ngược với trực giác của con người.

Không chỉ những phát hiện trong nghiên cứu vĩ mô đã lật đổ hoàn toàn những nhận thức hiện hữu về không gian, mà những nghiên cứu trong lĩnh vực vi quan cũng lật đổ nhận thức về vũ trụ.

Chúng ta biết rằng, khoa học hiện đại cho rằng nguyên tử là đơn vị cơ bản nhất tổ hợp thành mọi vật trên thế giới. Tuy vậy trong những hạt nguyên tử vi quan này lại tồn tại không gian vô cùng rộng lớn. Khi tìm kiếm các không gian vi quan, các nhà khoa học đã phát hiện rằng ngay cả trong không gian vi quan hư không lại không phải là trống rỗng. Đó là một không gian phức tạp và liên tục thay đổi, các hạt bay lơ lửng khắp nơi, va chạm vào nhau, tạo nên một cảnh tượng hỗn loạn, vô cùng kinh hãi. Các hạt lạp tử giống như bong bóng tan vỡ trong nháy mắt. Ngày càng nhiều nhà khoa học đã chấp nhận điều được gọi là lý thuyết về hạt Higgs (Higgs boson) và trường hạt Higgs (Higgs field). Lý luận này đưa ra giả thiết không gian giống như một đại dương mênh mông, các loại hạt bị vùi trong biển lớn này, khi chúng chuyển động trong nước biển, chúng sẽ có được trọng lượng. Hạt nào càng cố gắng ngoi lên trên thì sức cản của nước biển đối với hạt đó sẽ càng lớn, và trọng lượng của nó sẽ càng lớn. Mặc dù đến nay chưa có chứng minh nào hoàn toàn đúng về trường Higgs, nhưng những đột phá trong tìm kiếm hạt Higgs đã cho thấy những dấu hiệu đáng mừng trong việc chứng minh sự tồn tại của trường Higgs.

Trong nghiên cứu cơ học lượng tử, người ta còn phát hiện ra một hiện tượng kỳ lạ vượt khỏi sự ảnh hưởng lẫn nhau của không gian, mà đến nay khoa học vẫn không cách nào giải thích được. Giữa hai lạp tử vi quan cùng nguồn gốc có tồn tại một loại quan hệ ràng buộc, dù chúng có bị tách ra bao xa, thì chúng vẫn luôn giữ mối liên hệ với nhau. Tức là nếu làm cho một lạp tử này nhiễu động, thì dù lạp tử còn lại dù có cách bao xa đi nữa, nó cũng sẽ lập tức cảm thụ được loại chấn động này. Loại chấn động này gọi là “rối lượng tử” hay “vướng víu lượng tử”. Đây là hiện tượng có thể nói là kỳ lạ nhất của cơ học lượng tử, bởi vì nó có thể sinh ra “sức hút ma quái có tác dụng ở khoảng cách cực xa”.

Các nhà khoa học đã thành công trong việc dùng rối lượng tử để đưa photon đến một nơi rất xa chỉ trong nháy mắt. Họ dự đoán rằng trong tương lai, nhân loại có lẽ có thể ứng dụng hiện tượng rối lượng tử này để “dịch chuyển tức thời” người hoặc vật thể từ nơi này đến nơi khác. Loại sức hút ma quái có tác dụng ở khoảng cách cực kỳ xa này, dường như đã vượt trên vận tốc ánh sáng, vượt qua tất cả những nhận thức của chúng ta về khái niệm thời không. Mãi cho đến trước lúc qua đời, Einstein vẫn không thể nào lý giải được loại hiện tượng này. Có nhà khoa học cho rằng, mối quan hệ ràng buộc giữa các lượng tử này thực ra là biểu hiện của ý thức giữa các lượng tử.

Trong nghiên cứu tỉ lệ giãn nở của vũ trụ, người ta đã phát hiện trong không gian mà chúng ta đang ở còn có tồn tại một thành phần cơ bản vô cùng bí ẩn không thể trắc định được; phát hiện này đã làm chấn động toàn bộ giới khoa học. Hiện nay thuyết về Vụ nổ lớn là lý luận phổ biến được nhiều người tiếp nhận. Thuyết này cho rằng, vào khoảng 13,7 tỉ năm trước, vũ trụ của chúng ta đã trải qua một vụ nổ vô cùng đáng sợ trong chưa đầy một giây. Vụ nổ này đã làm cho không gian nở ra bên ngoài một cách vô hạn, từ đó đến nay không gian không ngừng giãn nở. Mấy chục năm nay, đa số các nhà khoa học đều cho rằng dưới tác động của lực hấp dẫn tốc độ giãn nở của không gian chậm lại. Nhưng kết quả quan trắc lại cho thấy sự giãn nở của vũ trụ không có bất kỳ dấu hiệu chậm lại nào cả, trên thực tế, tốc độ giãn nở của vũ trụ vẫn đang tăng. Điều này có nghĩa là, cái không gian mà chúng ta thông thường cho rằng không có vật gì, lại là nguồn gốc động lực của việc vũ trụ giãn nở ra. Đa số các nhà khoa học đều nhất trí rằng, có một loại vật chất nào đó đang lấp đầy không gian, triệt tiêu ảnh hưởng lực hấp dẫn của vật chất thông thường đối với không gian, xé rách các thiên hà trong vũ trụ, kéo giãn cấu tạo cơ bản nhất của vũ trụ. Loại vật chất bí ẩn lấp đầy không gian này được gọi là “năng lượng tối” (dark energy), phát hiện này đã hoàn toàn lật ngược lại tất cả những nhận thức trước đó về vũ trụ của các nhà khoa học.

Ngoài năng lượng tối, trong vũ trụ còn tồn tại “vật chất tối” (dark matter). Qua đo đạc phát hiện thấy vật chất thông thường ước tính chiếm 5% tổng khối lượng của vũ trụ, phần còn lại của vũ trụ do 25% vật chất tối và 70% năng lượng tối cấu thành. Nói cách khác, 95% vũ trụ là vật chất tối và năng lượng tối, nhưng các nhà khoa học lại không hiểu chút gì về chúng. Các loại máy móc chính xác hiện nay, cơ học lượng tử, thuyết tương đối, vật lý hạt, tất cả đều không có tác dụng trong việc tìm hiểu vật chất tối và năng lượng tối. Nhìn chung, nhận thức của chúng ta đối với vũ trụ hoàn toàn dựa trên vỏn vẹn 5% vật chất thông thường cấu tạo nên vũ trụ, nhưng khoa học hiện đại ngày nay còn xa mới có thể nhận thức rõ ràng về 5% vật chất thông thường này.

Những manh mối mới lật ngược lại những tri thức hiện nay vẫn không ngừng xuất hiện. Lý luận hiện đại về nguồn gốc của hố đen cho thấy, thế giới ba chiều mà chúng ta đang sinh tồn này có lẽ là một loại hư huyễn. Những sự tồn tại cực kỳ chân thực được lưu giữ trong thế giới hai chiều ở mặt ngoài của vũ trụ. Tức là, bất cứ vật thể nào trong vũ trụ, từ các thiên hà cho đến nhân loại, thậm chí cả bản thân không gian, chẳng qua chỉ là những tín tức được lưu giữ trong mặt phẳng hai chiều ở một nơi xa xôi chiếu xạ đến trước mặt chúng ta. Mọi thứ chúng ta trải qua trong thế giới hiện thực này cũng chỉ giống như hình ảnh phản chiếu của toàn bộ tín tức, hình tượng mà thôi.

Trên đây là những nhận thức mới nhất của khoa học hiện đại về không gian vũ trụ. Có thể thấy, mặc dù không gian ở khắp mọi nơi nhưng khoa học hiện đại vẫn còn một chặng đường dài để nhận thức chính xác về không gian. Giống như Tô Đông Pha đã nói: “Bất thức Lư sơn chân diện mục, chỉ duyên thân tại thử sơn trung” (Sở dĩ không biết rõ diện mạo của núi Lư Sơn là bởi bản thân người quan sát đang đứng ngay trên núi Lư Sơn) – trích từ bài Đề Tây Lâm Bích của Tô Đông Pha. Chúng ta có thể nhận thức được một số đặc tính của không gian nhưng vĩnh viễn không thể nào thực sự nhận thức được không gian, bởi vì chúng ta đang ở bên trong nó.

Từ hơn 2,000 năm trước, Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói với đệ tử của Ngài rằng hết thảy mọi thứ trên thế gian đều là huyễn tượng. Ngành vũ trụ học hiện đại cũng nhận thức rằng không gian ba chiều của chúng ta đây là một thứ hư huyễn giống như toàn bộ tín tức hay hình ảnh. Dường như khoa học hiện đại càng có nhiều nhận thức về vũ trụ thì càng rời xa Phật Pháp. Thực ra, Einstein đã từng nói thế này: “Nếu trong tương lai có một lý thuyết nào đó có thể thay thế khoa học, thì đó nhất định là Phật Pháp, bởi vì Phật Pháp quá hoàn mỹ, và đã đạt đến cảnh giới chí thiện rồi”. Pháp Luân Đại Pháp là Đại Pháp căn bản của vũ trụ, đã tiết lộ rất nhiều những bí ẩn về vũ trụ. Đại sư Lý Hồng Chí đã nói với đệ tử của Ngài rằng:

Pháp này của chúng ta là giảng ra Chân Lý của vũ trụ, là điều mà từ khi khai thiên tịch địa đến nay chưa từng có người giảng. [Giảng Pháp tại Pháp hội các phụ đạo viên ở Trường Xuân 1998]

Thông qua những luận thuật về không gian vũ trụ của đại sư Lý Hồng Chí, chúng ta có thể thấy được hình dáng chân thực của không gian vũ trụ, đồng thời cũng biết được lý do vì sao mà khoa học hiện đại không thể thực sự nhận thức được không gian vũ trụ.

Không gian, chúng ta nhìn nó rất phức tạp. Nhân loại chúng ta chỉ biết về không gian mà nhân loại hiện đang tồn tại, các không gian khác là vẫn không cách nào thăm dò ra được. Đối với không gian khác, khí công sư chúng tôi đã nhìn được mấy chục tầng thứ không gian, từ lý luận cũng có thể giải thích được, nhưng về khoa học thì không cách nào chứng thực. [Chương I – Pháp Luân Công]

Tôi đã giảng cho mọi người cấu thành của không gian. Ví như nói vật chất là do phân tử và lạp tử vi quan hơn tổ thành. Không gian chúng ta nhận thức [được] cũng do những lạp tử này tổ thành. Khoa học hiện nay biết các lạp tử có phân tử, nguyên tử, neutron, hạt nhân nguyên tử, điện tử, sau đó còn có quark, neutrino, xuống dưới nữa thì khoa học hiện nay cũng không biết là gì. Vậy điều tôi giảng là, chỗ tồn tại ‘cảnh giới’ mỗi tầng lạp tử như vậy, chúng ta gọi nó là một ‘tầng diện’. Kỳ thực lạp tử phân bố không là [theo] diện, mà là tồn tại khắp nơi ở tầng thứ đó chứ không [theo] diện. Nhân loại không có danh từ này, nên bèn gọi nó là ‘diện’ vậy, chỉ có thể hình dung như vậy. Tức là trong cảnh giới ấy, trong cảnh giới một tầng lạp tử đó nó cấu thành nên một không gian. Giữa lạp tử và lạp tử là không gian, mà bên trong bản thân lạp tử cũng lại là không gian. Mà lạp tử lại có thể tổ thành các lạp tử lớn nhỏ khác nhau, rồi ở giữa các lạp tử lớn nhỏ khác nhau mà được tổ thành từ các lạp tử đồng nhất ấy cũng lại là không gian. Đây chính là khái niệm ‘không gian’ mà lần trước tôi giảng cho mọi người. [Giảng Pháp tại Pháp hội San Francisco – Giảng Pháp tại Pháp hội Mỹ quốc [1997]]

Chúng ta biết rằng ở trong nguyên tử có hạt nhân nguyên tử và đìện tử. Hình thức vận động của điện tử xoay quanh hạt nhân nguyên tử có giống với hình thức mà địa cầu này của chúng ta và mấy đại hành tinh vận chuyển xung quanh mặt trời không? Chư vị chớ thấy nó nhỏ, lạp tử mặc dù vi quan, nhưng mà tầng diện của nó có thể càng lớn, cũng tức là nói tổng thể tích rất lớn. Thí dụ nhìn con người, chỉ nhìn một cái lạp tử phân tử của con người thì không thấy được người ta, có thể nhìn được tất cả tầng lạp tử mà tổ thành bề mặt cấu thành nên con người thì mới có thể thấy được con người. Giả sử dùng kính hiển vi có bội số phóng đại cao lấy nguyên tử phóng đại lớn đến mức như địa cầu mà nhìn xem trên đó có bao nhiêu sinh vật, đương nhiên con người hiện nay không làm được, nếu thấy được chư vị sẽ phát hiện đó là một cảnh tượng khác, đối với những sinh mệnh kia mà nói đó cũng là một [khoảng] trời đất rộng lớn. [Giảng Pháp tại Pháp hội Houston năm 1996]

Không chỉ không gian giữa phân tử và nguyên tử, giữa nguyên tử và hạt quark, giữa hạt quark và neutrino, mà không gian giữa các lạp tử vi quan hơn cũng đều cùng nơi cùng lúc tồn tại với không gian của chúng ta.

Người ta cảm giác không ra sự sai khác về không gian này, nháy mắt liền tiến vào đó, sự khác biệt của nó với thời-không chúng ta, là không thể dùng cách đo lường bình thường để biểu thị, xa cách mười vạn tám nghìn dặm, thì ở đây chỉ là một điểm, chính là tồn tại một cách đồng thời và ở cùng một chỗ. [Chương I – Pháp Luân Công]

Bất kể vật thể nào, kể cả thân thể người, cũng đều đồng thời tồn tại [tại các] tầng không gian cùng với không gian vũ trụ, [chúng] cũng có tương thông [với nhau]. Vật lý học hiện đại của chúng ta nghiên cứu các vi lạp vật chất, [nó] chỉ nghiên cứu từng vi lạp, phân tích, phân tách nó; phân tách hạt nhân nguyên tử rồi lại nghiên cứu thành phần phân rã [của hạt nhân]. Nếu có các thiết bị có thể triển khai mà nhìn thấy trong tầng ấy—toàn bộ thể hiện của tất cả thành phần nguyên tử hoặc thành phần phân tử ở trong tầng này—nếu có thể nhìn thấy được cảnh tượng ấy, thì chư vị đã đột phá được đến không gian ấy mà nhìn thấy được chân tướng tồn tại ở các không gian khác. [Bài giảng thứ hai – Chuyển Pháp Luân]

Khoa học hiện đại không thể nhận thức được cùng nơi cùng lúc đồng thời có tồn tại các không gian khác nhau, đó là đặc tính của không gian chúng ta đang sống, đó cũng là những đặc tính của không gian khác phản ánh vào không gian này của chúng ta, nhưng khoa học hiện đại lại không thể tiến hành phân tích nó. Đồng thời, chúng ta lại đang hoàn toàn đứng tại thời không của mình để quan sát những hiện tượng của không gian khác phản ánh đến không gian này của chúng ta, dùng những quan niệm hình thành trong không gian này để đi nhận thức những hiện tượng của không gian khác, chúng ta lại vận dụng quy luật vận động của sự vật trong không gian này để phân tích không gian khác, thì tự nhiên sẽ cảm thấy khó hiểu, không ăn khớp. Một thứ ở trong không gian này của chúng ta dường như không có khoảng cách, nhưng ở không gian khác có thể cách nhau tới 10 vạn 8 ngàn dặm. Cũng như vậy, khoảng cách 10 vạn 8 ngàn dặm trong không gian của chúng ta, nhưng trong thời không của một một tầng lạp tử lớn hơn lại có thể không có khoảng cách. Có thể nhận thức được sự tồn tại cùng lúc cùng nơi của các không gian khác nhau cũng như là sự khác nhau giữa chúng, vậy thì cũng không khó để lý giải tính không xác định và sự cần thiết trong việc sử dụng xác suất trong cơ học lượng tử.

Khoa học hiện nay cho rằng vận tốc ánh sáng là tốc độ nhanh nhất và bất biến trong vũ trụ của chúng ta, kỳ thực không phải vậy.

Einstein giảng tốc độ ánh sáng là tốc độ cao nhất, tôi nói cho mọi người rằng trong cùng một tầng thứ thì niệm lực của các sinh mệnh còn nhanh hơn tốc độ ánh sáng, hơn nữa tầng thứ cao hơn mà vượt qua tầng thứ nhân loại này thì do thời gian khác nhau, tốc độ chậm nhất cũng sẽ nhanh hơn tốc độ nhanh nhất tại tầng thấp hơn. Sinh mệnh là có tầng thứ, tầng thứ khác nhau lại có hình thức thời gian và không gian khác nhau, hết thảy chúng sinh và vật chất đều chịu sự hạn chế của thời gian và không gian khác nhau, tầng thứ càng cao thì tốc độ của nó càng nhanh, cũng tức là nói [tốc độ] chậm nhất tại cao tầng còn nhanh hơn nhiều so với tốc độ ánh sáng mà con người nhận thức được tại tầng thấp. [Giảng Pháp tại Pháp hội Houston năm 1996]

Kỳ thực, “không bị thời gian chế ước là nhanh nhất”, nhưng đối với con người mà nói, chư vị vĩnh viễn cũng không thể thật sự lý giải được nội hàm chân chính của câu ấy. Dùng khái niệm của chư vị là “Trong vũ trụ loại tốc độ nào nhanh nhất” đều là tư tưởng của con người, nhận thức của con người. Kể cả trong không gian hiện hữu này của chúng ta, thời gian này cũng không phải là tuyệt đối. Mọi người biết rằng trong “Chuyển Pháp Luân”, tôi nói rằng nhìn được ngôi sao kia đến chỗ chúng ta là có khoảng cách 15 vạn năm ánh sáng. Kỳ thực tôi cũng chỉ là dùng khoa học hiện nay mà con người có thể nhận thức được mà giảng vậy thôi. Trên thực chất vẫn không phải chuyện như vậy. Vì sao không phải chuyện như vậy? Mọi người nghĩ xem, các không gian khác nhau tồn tại thời gian khác nhau, trong phạm vi của trái đất chúng ta có một trường thời gian. Hết thảy đều giới hạn trong phạm vi của cái thời gian này. Ngay khi cái vệ tinh nhân tạo kia ra khỏi tầng khí quyển của chúng ta, nó đã là một [trường] thời gian khác rồi, [nó] với thời gian của trái đất tuyệt đối không phải cùng một trường thời gian. Như vậy khi đi qua tinh cầu khác, thì lại có trường thời gian của tinh cầu ấy. Thiên thể càng to lớn, thì thời gian, tốc độ của nó sai khác càng lớn.

Trong hệ Ngân Hà phát sinh sự việc, chư vị nói phải 15 vạn năm ánh sáng mới có thể thấy được, kỳ thực tôi nói cho mọi người, không chừng hai, ba năm là chư vị có thể thấy được. Vì sao? Bởi vì tốc độ ánh sáng cũng chịu khống chế của trường thời gian. Khi xuyên qua các trường thời gian khác nhau, tốc độ ánh sáng “xoạt–, xoạt–, xoạt–” liền trở nên chợt nhanh chợt chậm, khi đến nơi trái đất chúng ta đây, lại [phải] phù hợp với trường thời gian của trái đất, liền trở nên hết sức chậm. Chư vị dùng trường thời gian trái đất mà nhân loại có thể hiểu được để đo lường cái thời gian này của vũ trụ, thì căn bản không cách nào đo lường được. Nhận thức của nhân loại đối với chân lý, nhận thức đối với vật chất, nhận thức đối với sinh mệnh, khái niệm đối với vũ trụ, nhận thức đối với rất nhiều sự vật đều không chính xác, bao gồm cả [nhận thức về] sự phát triển của nhân loại. [Giảng Pháp tại Pháp hội Thụy Sỹ [1998]]

Khoa học hiện đại vẫn còn một chặng đường rất dài để có thể quan sát trực tiếp được thể hiện chân thực của vận tốc ánh sáng khi xuyên qua các hành tinh. Nhưng những Giác Giả thông qua tu luyện lại có thể nhìn thấy được, bởi vì tu luyện là quá trình tu luyện nâng cao tầng thứ, các Giác Giả sẽ hình thành con mắt ở các tầng thứ khác nhau, tầng thứ càng cao thì càng có nhiều con mắt, liếc mắt một cái là có thể nhìn thấy hết tất cả các tầng thứ. Điều này hoàn toàn khác biệt với khoa học hiện đại, thực ra tu luyện mới là con đường duy nhất để nhân loại có nhận thức đúng đắn về vũ trụ chân thực.

Tầng thứ của sinh mệnh được nói đến ở đây là do điều gì quyết định? Pháp Luân Đại Pháp cho chúng ta biết rằng, vũ trụ ngoài tồn tại vật chất thì còn tồn tại đặc tính Chân Thiện Nhẫn, đặc tính Chân Thiện Nhẫn của vũ trụ đang chế ước tất cả mọi thứ.

Cũng như vũ trụ mà tôi giảng, nó có tồn tại vật chất, đồng thời nó có tồn tại đặc tính. Đặc tính Chân Thiện Nhẫn trong vũ trụ kia, người thường không cảm nhận được sự tồn tại của nó, bởi vì toàn thể người thường cùng ở trên mặt của một tầng này. Khi chư vị siêu xuất khỏi tầng của người thường, thì có thể quan sát được. Quan sát như thế nào? Bất kể vật chất nào trong vũ trụ, bao gồm tất cả toàn thể những vật chất tràn đầy trong toàn vũ trụ, chúng đều là những linh thể, chúng đều có tư tưởng; chúng đều là những hình thái tồn tại của Pháp vũ trụ tại các tầng khác nhau. [Bài giảng thứ nhất – Chuyển Pháp Luân]

Chính là đặc tính Chân Thiện Nhẫn này đã khai sáng môi trường tồn tại và phương thức sinh tồn của sinh mệnh tại các tầng thứ khác nhau, chế ước mọi sự vật trong các tầng thứ khác nhau và các không gian khác nhau, bao gồm cả bản thân không gian đó. Tầng thứ của sinh mệnh được quyết định bởi việc sinh mệnh đó đồng hóa nhiều hay ít với đặc tính Chân Thiện Nhẫn.

Nhận thức của khoa học hiện đại về đặc tính Chân Thiện Nhẫn của vũ trụ vốn dĩ vẫn thiếu sót. Bởi vì điều này động chạm đến phương diện tinh thần và đạo đức, phương diện này lại luôn bị khoa học hiện đại bài xích và chống đối. Mà đặc tính Chân Thiện Nhẫn này của vũ trụ lại tràn ngập trong hết thảy các vật chất từ vi quan đến hoành quan của tất cả các không gian.

Hiện tượng lực hấp dẫn vẫn luôn là một nan đề gây bối rối cho giới khoa học. Cơ học Newton có thể tính toán ra được lực hút lớn nhỏ ra sao, tuy nhiên nó lại không thể giải thích lực hấp dẫn được sinh ra như thế nào. Einstein sử dụng hiện tượng lõm của thời không để giải thích sự sản sinh của lực hấp dẫn, nhưng thực ra cách giải thích này cũng không đúng. Khi một sinh mệnh đề thăng tầng thứ, vậy thì đặc tính của tầng thứ này sẽ không còn ước chế sinh mệnh đó nữa, lúc này dường như hiện tượng lực hút mà khoa học nhận thức sẽ không còn tồn tại nữa. Ví dụ, trong thời không này của chúng ta, tại sao mọi người có thể đứng vững trên Trái Đất mà không bị rơi vào không gian vũ trụ? Giải thích của khoa học là nhờ có lực vạn vật hấp dẫn hoặc độ lõm của thời không của Trái Đất, nhưng thực ra không phải như vậy, Pháp Luân Đại Pháp cho chúng ta biết được đó là do đặc tính vũ trụ đang khởi tác dụng thông qua sự liên kết mà ta nhìn không thấy giữa các vật chất và lạp tử tràn đầy trong không gian này của chúng ta.

Khoa học cho rằng con người hiện nay sinh tồn ở trên trái đất, có thể đứng trên trái đất không rớt vào trong không gian, không rớt xuống, là bởi vì trái đất có lực hấp dẫn. “Lực vạn vật hấp dẫn” kỳ thực chúng tôi phát hiện không phải là chuyện như thế. Tôi giảng Pháp không phải giảng cho người trong xã hội nghe, là giảng cho các đệ tử tu luyện của tôi ở đây nghe, nói cho chư vị chân lý của vũ trụ, tình huống chân thực của sinh mệnh, tồn tại vật chất. Bởi vì trong vũ trụ này, xung quanh trái đất có một môi trường vật chất khổng lồ, hết sức hết sức vi quan, do tầng tầng sinh mệnh vật chất tổ thành, đã cấu thành cho con người một môi trường như thế này, có thể ở đây mà sinh tồn. Hơn nữa có nước ở vi quan của các tầng thứ khác nhau mà chư vị không nhìn thấy, đã tạo thành cho chư vị rất nhiều rất nhiều nhân tố mà có thể có thực vật, động vật và vật chất tồn tại, có thể khiến con người ở đây mà có sinh cơ, có thể sinh sống.

Có một chủng vật chất nó có thể khiến con người đứng thẳng trên mặt đất, không để họ bị nghiêng đi; có một chủng vật chất kiểu như áp lực, ấn chắc con người và vật thể không để họ lơ lửng lên; có một chủng vật chất có thể đảm bảo khiến bộ não con người và hết thảy cơ quan đều ổn định. Bộ não và các loại cơ quan của chư vị nếu không ổn định, chư vị đang đứng bình thường, chư vị sẽ cảm thấy chư vị y như là đang nằm; hoặc dù chư vị có đứng thẳng đến mấy, chư vị cũng sẽ phát hiện chư vị như thể là luôn đứng không được thẳng……

Con người có môi trường sinh tồn, các tinh cầu đều sắp đặt ở đó, chính là sinh mệnh vũ trụ khổng lồ sắp xếp cho nó ở tại đó, cũng giống như trình tự sắp xếp của phân tử, nguyên tử bên trong đồng, sắt, vàng hiện nay của chúng ta không đổi. Tôi nói không có hiện tượng tự nhiên, tất cả những gì khoa học giải thích không nổi đều quy chung chung thành “tự nhiên”, mà lại có thể lừa người, [chỉ một] câu này lại có thể lừa được tất cả mọi người. [Giảng Pháp tại Pháp hội châu Âu [1998]]

Giữa các lạp tử trong không gian này của chúng ta có tồn tại một mối quan hệ liên đới kỳ diệu, chính là mối quan hệ liên đới tạo nên hiện tượng mà khoa học hiện đại cho là “lực hấp dẫn” giữa các lạp tử.

Bởi vì hết thảy các sinh mệnh và vật chất tại trái đất và trong tam giới, kể cả không khí, nước, bao gồm hết thảy những vật thể tồn tại trong tam giới đều do những lạp tử của các tầng trong tam giới cấu thành nên; có quan hệ liên đới giữa các loại lạp tử của các tầng. {liên đới được dịch trong bản tiếng Anh là interconnection} Loại liên đới này trong tam giới có thể khi chịu lực kéo liền duỗi ra hoặc di động; nói cách khác, [nếu] chư vị kéo nó, nó giống như cái dây chun, [nó] có thể duỗi ra; buông [tay] ra nó lại trở về như cũ. Nói cách khác, giữa những lạp tử với nhau có một phương thức để ổn định cơ bản; điều ấy tạo thành điều mà chư vị đưa một vật thể nào đi nữa trong môi trường {hoàn cảnh} của Trái Đất thì nó đều quay về mặt đất. Tất nhiên không định nói về việc viên đá này khi được ném ra chỗ khác thì không thể quay về chỗ ban đầu; không phải khái niệm ấy. Bề mặt Trái Đất là một giới hạn của một tầng; trong một tầng thì có thể vận động theo chiều ngang; bởi vì đều trong một tầng; còn vận động lên một tầng cao hơn hẳn, thì bị kéo trở lại; bởi vì các vật thể trên Trái Đất đều là những lạp tử của tầng trong cảnh giới này. [Giảng Pháp tại Pháp hội Canada năm 2001 – Đạo Hàng]

Người tu luyện sau khi thông qua tu luyện đề cao tầng thứ thì không còn chịu sự khống chế của tầng thứ này nữa, tựa như “lực hấp dẫn” không tồn tại nữa, và họ có thể bay lên không trung.

Chính là vì thân thể của chư vị — vốn tạo từ các lạp tử có quan hệ đến bề mặt Trái Đất — đã thay đổi; đối với các lạp tử trong hoàn cảnh này nó đã đoạn đứt liên quan; chư vị không còn chịu lực kết dính của chúng nữa, không còn chịu lực chi phối của chúng nữa; [chư vị] có thể bay lên không [gian] được. Nên khi chư vị tu vào đến một cảnh giới nào đó, thì phần của chư vị tại sinh mệnh vi mô {vi quan} trở lên có liên quan đến cảnh giới ấy; chư vị lại tu lên cao hơn nữa, thì chư vị lại theo liên quan đến [cảnh giới] cao hơn, và đoạn tuyệt [mối] liên quan đã có với tầng thấp hơn. Nó chính là cái quan hệ ấy. [Giảng Pháp tại Pháp hội Canada năm 2001 – Đạo Hàng]

Mọi người có thể đã [xem] trong các cuốn cổ thư như «Thần tiên truyện» hoặc «Đan Kinh», «Đạo tạng», «Tính mệnh khuê chỉ» đều thấy viết về một câu là “bạch nhật phi thăng”, tức là ban ngày sáng tỏ người kia bay lên. Thực ra tôi nói với mọi người, hễ đại chu thiên [khai] thông một cái là cá nhân ấy có thể [bay] lên không trung, đơn giản vậy thôi. [Bài giảng thứ tám – Chuyển Pháp Luân]

Từ những luận thuật của Đại sư Lý Hồng Chí chúng ta có thể thấy, khoa học hiện đại đối với sự tồn tại của không gian, tốc độ ánh sáng và lực hấp dẫn vẫn còn nhiều nhầm lẫn và hạn chế, chứ chưa nói tới nhận thức của đặc tính vũ trụ là Chân – Thiện – Nhẫn vốn vượt lên trên hết thảy các chủng loại vật chất ấy.

Nhân loại cho rằng khoa học của mình phát triển thế này phát triển thế kia; thật đáng thương! Nó hoàn toàn không hề đột phá tầng không gian phân tử này, không thấy được không gian khác; con người còn đang dương dương tự đắc. [Giảng Pháp tại thành phố New York – Giảng Pháp tại Pháp hội Mỹ quốc [1997]]

Nhân loại về nhận thức khoa học vĩnh viễn đều đang mò mẫm. Người mù sờ voi, hiện nay khoa học này chính là vậy. Họ mò tới chân voi, hoặc cái vòi, thì họ nói khoa học là thế. Thật ra là họ không thấy chân tướng hoàn chỉnh. [Giảng Pháp tại thành phố New York – Giảng Pháp tại Pháp hội Mỹ quốc [1997]]

Khoa học hiện nay dường như đã đi vào ngõ cụt, làm thế nào có thể đột phá, làm thế nào có được nhận thức đúng đắn về những sự thực đã biết và những phát hiện thời văn hóa tiền sử? Làm thế nào nhận thức được các loại hiện tượng từ không gian khác phản ánh đến không gian này của chúng ta? Làm thế nào nhận thức được những hiện tượng tồn tại chân thực trong không gian của chúng ta nhưng khoa học thực chứng vẫn chưa thể tiếp xúc được, gồm cả tinh thần, tín ngưỡng, Thần ngôn, Thần tích? Đây đều là những câu hỏi mà khoa học khó tìm ra lời giải đáp và cũng là thách thức đối với nhân loại. Pháp Luân Đại Pháp đã mở ra cái nhìn hoàn toàn mới cho nhân loại khi nhận thức vũ trụ chân thực.

Ghi chú: Loạt bài này có nhiều chỗ trích dẫn nội dung trong các bài giảng Pháp của Ngài Lý Hồng Chí, hoàn toàn dựa trên lý giải một chiều và hạn chế của cá nhân tác giả, do đó khi trích dẫn khó tránh khỏi đoạn chương thủ nghĩa. Nguyên tác các bài giảng của Ngài Lý Hồng Chí có nội hàm thâm sâu và rộng lớn, các độc giả quan tâm xin hãy đọc các bài giảng Pháp nguyên văn của Ngài Lý Hồng Chí được đăng tải miễn phí tại trang web: http://phapluan.org.

Tài liệu tham khảo

– PBS-TV/NOVA: “The Fabric Of The Cosmos” (Updated: November 2011).

– The Fabric of the Cosmos: Space, Time, and the Texture of Reality (2004). Alfred A. Knopf division, Random House, ISBY 0-375-41288-3

– Nguyên lý toán học của triết học tự nhiên (xuất bản năm 2006), tác giả Newton, bản dịch tiếng Trung của Triệu Trấn Giang, mã xuất bản ISBN 7-100-04513-4

– Giảng Pháp trong buổi ra mắt cuốn “Chuyển Pháp Luân” tại Bắc Kinh (4/1/1995) – Lý Hồng Chí

– Bài “Phật tính và ma tính” trong “Pháp Luân Đại Pháp – Tinh Tấn Yếu Chỉ” – Lý Hồng Chí

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2015/10/11/148542

The post Loạt bài nhận thức về vũ trụ chân thực (1): Nhận thức về không gian first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>