Văn hoá Trung Quốc | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 10 Apr 2025 00:14:36 +0000en-UShourly1Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (12): Phượng hoàng tới báo điềm lànhhttps://chanhkien.org/2024/10/khai-quat-ve-van-hoa-trung-quoc-12-phuong-hoang-toi-bao-diem-lanh.htmlFri, 25 Oct 2024 04:44:19 +0000https://chanhkien.org/?p=34784Tác giả: Tử Duyên [ChanhKien.org] Tác giả: Đới Hồng, nhà Thanh, trích từ sách “Linh thọ vạn năm, Phượng hoàng tường vân”. (Hình minh họa lấy từ The Epoch Times) Trung Quốc từ xưa đã lưu truyền rằng “Lân, Phượng, Quy, Long” (Kỳ lân, Phượng hoàng, Rùa, Rồng) là tứ linh. “Rồng” đại diện cho […]

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (12): Phượng hoàng tới báo điềm lành first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Tử Duyên

[ChanhKien.org]

Tác giả: Đới Hồng, nhà Thanh, trích từ sách “Linh thọ vạn năm, Phượng hoàng tường vân”. (Hình minh họa lấy từ The Epoch Times)

Trung Quốc từ xưa đã lưu truyền rằng “Lân, Phượng, Quy, Long” (Kỳ lân, Phượng hoàng, Rùa, Rồng) là tứ linh. “Rồng” đại diện cho Thiên tử, là linh vật được đàm luận đến nhiều nhất, chứng cứ chứng minh cho sự tồn tại của rồng cũng xác thực nhất. Hôm nay, chúng ta hãy cùng tìm hiểu một chút về “Phượng hoàng” – linh vật gắn liền với người phụ nữ:

“Khổng Diễn Đồ” có viết: “Phượng, hỏa tinh” (Phượng hoàng là tinh hoa của lửa).

“Mao Thi Sơ” có viết: Phượng hoàng chi tính phi ngô đồng bất thê, phi trúc thực bất thực (Phượng hoàng, không phải cây ngô đồng thì không đậu, không phải quả trúc thì không ăn).

Hứa Thận viết trong “Thuyết văn giải tự” rằng: “Phượng hoàng là chim thần. Xuất hiện ở phương Đông, nơi sinh sống của bậc quân tử, bay lượn khắp bốn phương. Bay qua núi Côn Luân, uống nước ở núi Để Trụ, rửa lông ở sông Nhược Thủy, tối ngủ ở cung điện. Khi xuất hiện thì thiên hạ sẽ thái bình. Chữ Phượng (鳳) gồm chữ “điểu” (鳥) và chữ “phàm” (凡) ghép lại. Phượng hoàng bay thì muôn vàn loài chim sẽ theo sau”.

“Luận Ngữ trích Suy Thánh” có viết: Phượng hoàng có lục tượng, cửu bao. Lục tượng gồm: một là đầu giống trời, hai là mắt giống mặt trời, ba là lưng giống mặt trăng, bốn là cánh giống gió, năm là chân giống đất, sáu là đuôi giống vệt sao. Cửu bao gồm: một là miệng vâng lệnh, hai là tâm độ lượng, ba là tai nghe rõ, bốn là lưỡi co duỗi, năm là màu sắc rực rỡ, sáu là mào xếp nếp, bảy là cựa sắc như móc câu, tám là tiếng kêu vang vọng, chín là bụng có hoa văn. Tiếng hót vui tươi khi bay lượn, hót nhẹ nhàng khi đậu xuống, hót thân thiện vào ban đêm, hót chào mừng vào sáng sớm, hót ngợi ca khi bay cao. Chỉ có người có tâm hồn thanh cao, hiểu được đạo lý mới hiểu ta, mang theo những phẩm chất tốt đẹp đến, nên ta muốn sống ở những nơi thanh bình, xa lánh trần tục, cùng phượng hoàng vui chơi, hưởng thụ sự thanh tao, an lạc.

Theo “Đế Vương thế ký” của Hoàng Phủ Mật: Hoàng đế đang trai giới trong cung điện, ngồi trên đài Huyền Hỗ bên bờ sông Lạc. Bỗng nhiên, có một con chim lớn xuất hiện. Chim có đầu gà, mỏ én, cổ rùa, thân rồng, cánh lân, đuôi cá, hình dáng giống hạc. Toàn thân mang đủ năm màu, ba hình trên lông tạo thành chữ. Chữ trên đầu là “Thuận Đức”, chữ trên lưng là “Tín Nghĩa”, chữ trên ngực là “Nhân Trí”. Không ăn côn trùng sống, không dẫm lên cỏ xanh. Thi thoảng đậu ở vườn phía Đông của Vua, làm tổ trên gác cung điện. Khi ăn uống, nhất định phải tự hát múa, tiếng kêu như sáo trúc.

(Hình minh họa lấy từ Shenyun.com)

Trong “Thi Kinh – Đại Nhã – Quyển A”: Phượng hoàng tung cánh bay, lông vũ rực rỡ muôn màu, đậu ở đâu cũng mang niềm vui.

Trong “Mạnh Tử – Công Tôn Sửu Thượng” viết: Kỳ lân thuộc loài thú, phượng hoàng thuộc loài chim.

Trong “Tả Truyện – Trang Nhị Nhị Niên” viết: Phượng hoàng tung cánh bay, tiếng hót vang vọng.

Trong “Hàn Thi Ngoại Truyền” viết: Phượng trống hót kêu ‘Jī Jī (phiên âm pinyin)’ (即即), phượng mái hót kêu ‘Zú Zú’ (足足). Hót vào buổi tối kêu ‘Gù Cháng’ (固常), hót vào buổi sáng kêu là ‘Fā Míng’ (發鳴), hót vào ban ngày kêu là ‘Bǎo Zhāng’ (保章), hót khi bay lên kêu là ‘Shàng Xíang’ (上翔), hót khi đậu xuống kêu là ‘Guī Chāng’ (歸昌). Trích – Thái Bình Ngự Lãm.

Trong “Tuân Tử Phú” viết: Li long hóa chuồn chuồn, cú mèo hóa phượng hoàng. Tỷ Can bị mổ bụng, Khổng Tử bị giam cầm. Ôi sáng tỏ thay cho trí tuệ của họ!

Tổng hợp lại những ghi chép trong các sách cổ, chúng ta thấy rằng:

“Phượng hoàng” là tên một loài chim trong truyền thuyết tượng trưng cho điềm lành, có ngoại hình giống như: mỏ gà, cổ rắn, hàm én, lưng rùa, đuôi cá, lông ngũ sắc, cao khoảng sáu thước, dáng như con hạc.

Tương truyền rằng đó là loài “chim thần” – vua của các loài chim. Con đực gọi là “Phượng”, con cái gọi là “Hoàng”, thường được gọi chung là “Phượng” hoặc “Phượng Hoàng”(鳳凰). Cũng có thể gọi là “Phượng Hoàng”(鳳皇).

Nó có bản tính cao ngạo, không hòa hợp với đám đông, tuy là loài chim nhưng không ăn sâu bọ, đôi chân tôn quý ấy, chẳng bao giờ dẫm lên cỏ dại trên mặt đất! Nơi đậu xuống phải là cành của cây “ngô đồng”, thức ăn phải là “quả trúc” (chỉ quả của các loại trúc như trúc rừng, hình dạng khá giống lúa mì, có thể chế biến thành bột để ăn, còn được gọi là “trúc mễ”).

Theo chú thích của Hứa Thận trong “Thuyết Văn giải tự”, phượng hoàng đến từ “đất nước quân tử phương Đông”. Vì là phương Đông, lại là đất nước quân tử, nên đương nhiên là nơi đạo đức hưng thịnh! Nghĩ đến thời thượng cổ, ngoài “Thần Châu”, “Trung Thổ” ra, đi đâu có thể tìm được quốc gia như vậy? Có thể thấy phượng hoàng chỉ ở Trung Quốc mới có!

Phượng hoàng có lục tượng, cửu bao. Lục tượng có nghĩa là: đầu giống như trời, mắt giống như mặt trời, lưng giống như mặt trăng, cánh giống như gió, chân giống như đất, đuôi giống vệt sao (tức là ngũ vĩ, còn gọi là ngũ tinh, người Trung Quốc lấy Kim tinh, Mộc tinh, Thủy tinh, Hỏa tinh, Thổ tinh hợp lại với nhau, chúng tương ứng với ngũ hành lần lượt là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).

Trong “Bão Phác Tử”, người ta mô tả về màu sắc các bộ phận khác nhau trên thân thể phượng hoàng như sau: đầu màu xanh, cổ màu trắng, mỏ màu đỏ, ngực và lưng màu đen, ngón chân và móng vuốt màu vàng.

Loài chim này, con đực và con cái kêu tiếng khác nhau (con đực kêu “ji ji”, con cái kêu “zu zu”, hót cùng nhau thì nghe “cheng cheng”); chúng thích tụ tập thành đàn và những con chim khác thì bay theo sau, số lượng lên đến hàng vạn con; tuy nhiên chúng lại không giỏi bay mà lại sống trong hang (ở cung Đan và hang Phong); chân của chim phượng hoàng rất cao, dáng người như con hạc, đi lại chậm rãi, kiêu ngạo và giỏi nhảy múa.

Trên bộ lông ngũ sắc của chim phượng hoàng ẩn hiện các chữ: đầu hiện lên hai chữ “Thuận Đức”, lưng là một cụm “Tín Nghĩa”, mà trước ngực thì ghi “Nhân Trí”. Có thể thấy việc chúng được người xưa gọi là chim thần, chim cát tường cũng là có nguyên do, bởi vì đức hạnh cao quý của chúng. Khi đến giờ kiếm ăn, chúng nhất định phải tự hát (hót) tự múa, âm thanh mỹ diệu như tiếng tiêu sáo.

Theo “Dịch Lâm” của Tiêu Cống viết: “Phượng hoàng có mười con, chung ổ chung mẹ, vui vẻ bảo vệ nhau”. Lại nói: “Chim phượng hoàng sinh năm con, lớn lên ở Nam Quách”. Có thể thấy gia đình chim phượng hoàng sống tập trung cùng tổ, đau buồn cùng hưởng, vui vẻ bảo vệ lẫn nhau, và dường như còn sinh sản rất nhiều.

Sau đây là một vài câu chuyện liên quan đến phượng hoàng, tôi sẽ dùng lối văn bạch thoại để kể lại cho các bạn:

Trong “Hán Thư” đã ghi lại một sự kiện: Vào năm Nguyên Thủy thứ ba, chim phượng hoàng đã xuất hiện ở Đông Hải. Triều đình đặc biệt cử sứ thần đến lập đền thờ ở đó. Đến thời Hán Tuyên Đế, tại kinh đô đồng thời xuất hiện hai loài chim quý là phượng hoàng và thần tước. Hơn nữa đất trời mưa thuận gió hòa, giải trừ hạn hán kéo dài. Vì vậy, Hoàng đế vui mừng khôn xiết, đại xá thiên hạ, phượng hoàng tụ họp về Thượng Lâm Uyển, Hoàng thượng đã cho xây dựng “Điện Phượng hoàng” để tạ ơn trời đất ban điềm lành.

Trong “Xuân Thu Hợp Thành Đồ” ghi rằng: Hoàng đế ngồi bên bờ sông Lạc, trong một căn phòng đá gọi là “Huyền Hỗ”, cùng với Đại Tư Mã (tên chức vị) Dung Quang và những người khác ngắm cảnh. Bỗng nhiên một con phượng hoàng mỏ ngậm cuộn tranh đặt trước mặt Hoàng đế, ngài bái lạy hai lần rồi mới nhận cuộn tranh.

Sách còn ghi rằng: Vua Nghiêu ngồi trên thuyền ngắm cảnh cùng với Thuấn lúc đó đang nhậm chức Thái úy. Một con phượng hoàng đột nhiên bay đến, mang theo cuộn tranh trao cho vua Nghiêu. Cuộn tranh được đựng trong một chiếc hộp bằng ngọc thạch màu đỏ, dài ba thước, rộng tám tấc, có dây đai bằng ngọc vàng, dây buộc bằng ngọc trắng. Hai đầu được đóng kín, trên nắp có đóng dấu năm chữ “Thiên Xích Đế Phù Ấn”.

Trong “Nghiệp Trung Ký” có viết: Hoàng hậu Thạch Quý Long đang ở trên đài ngắm cảnh thì thấy một tờ chiếu thư bằng giấy ngũ sắc rơi vào miệng con phượng hoàng. Thế là phượng hoàng liền ngậm chiếu thư bay lượn vòng trên không đợi chờ, các thị nữ và người hầu thả xuống dây thừng màu đỏ sậm dài hàng trăm trượng, giống như guồng kéo nước giếng quay lên quay xuống vậy, phượng hoàng mới bay xuống.

Trong “Đông Quan Hán Ký” viết: Năm Kiến Vũ thứ 17, có chim phượng hoàng đến. Nó cao tám, chín thước với bộ lông ngũ sắc. Bay đến bên bờ Dĩnh Xuyên, muôn loài chim từ bốn phương tám hướng quần tụ lại ở đây và vây quanh nó, số lượng nhiều đến mức phủ kín cả một vùng rộng vài mẫu. Đàn chim lưu lại 17 ngày rồi mới bay đi.

Một phần hình của Cuộn tranh “Bách điểu triều Phượng” (Trăm loài chim triều kiến Phượng hoàng), tác giả: Thẩm Thuyên, nhà Thanh. Tranh lụa màu cao 40 cm, dài 1.600 cm. (Hình minh họa lấy từ Chinashj.com)

Trong “Thập Khán Ký” của Vương Tử Niên: Vua Chu Chiêu Vương dùng lông chim phượng xanh làm thành hai chiếc áo choàng lông, một bộ tên là Úc Chất, một bộ tên là Huyên Cơ, có tác dụng giữ ấm cực tốt, thường dùng để chống rét vào mùa đông lạnh giá. Sau đó được truyền lại cho đời sau, đến cuối đời vua Chu Lệ Vương, hoàng thất vẫn rất trân trọng những món đồ này. Sau này, Vua Chu Lệ Vương cai trị độc đoán, bị người dân lưu đày đến đất Trệ, có người may mắn sở hữu hai chiếc “áo choàng lông phượng” này và vô cùng quý trọng chúng. Tương truyền rằng, những người phạm tội tử hình (một trong năm hình phạt thời cổ đại), có thể dùng lông chim phượng xanh để chuộc tội, có thể thoát chết; mà một sợi lông phượng có thể đổi được cả nghìn vàng.

Gần đây, một chiếc bình gốm trắng được khai quật tại di chỉ văn hóa Cao Miếu ở Hồng Giang, Hồ Nam có khắc hình ảnh con phượng hoàng cổ xưa nhất của Trung Quốc, có lịch sử cách đây 7800 năm. Sự xuất hiện của phượng hoàng chắc chắn có liên quan mật thiết đến xã hội nông nghiệp thời cổ đại, có thể nói nó vốn là sản phẩm của việc trồng trọt hoa màu. Hình ảnh phượng hoàng được khai quật ở di chỉ Đại Đường, Trường Sa cách đây 7000 năm, với chim phượng hoàng trong miệng ngậm bông lúa, chính là một minh chứng rất có sức thuyết phục.

Bình gốm trắng có khắc Phượng hoàng nguyên thủy. (Hình minh họa lấy từ: New.qq.com)

Trong tâm trí người dân, phượng hoàng là loài chim may mắn tượng trưng cho sự thái bình thịnh trị. Người xưa tin rằng khi thái bình thịnh thế, phượng hoàng sẽ bay đến. Chữ Phượng (鳳) trong chữ giáp cốt giống với chữ Phong (風), đại biểu cho sự hiện diện khắp nơi và tính linh động như gió; chữ Hoàng (凰) lại là chữ Hoàng đế (皇), mang ý nghĩa cao nhất vĩ đại nhất. Phượng hoàng cũng là biểu tượng của Hoàng tộc Trung Hoa, thường được sử dụng cùng với Rồng, Phượng phụ thuộc vào Rồng, được dùng cho Hoàng hậu và phi tần, “Long Phượng trình tường” (Rồng và Phượng mang đến sự thịnh vượng, may mắn và cát tường) là biểu tượng mang đậm nét đặc sắc nhất của Trung Hoa. Còn “Phượng hoàng vu phi” (đôi chim Phượng hoàng bay lượn), Rồng Phượng kết đôi được dùng để chúc phúc và mong đợi điều tốt lành cho cuộc hôn nhân giữa hai họ. Thực tế, trong thời cổ đại, bất cứ sự vật gì đến tay người Trung Quốc có thể được sử dụng một cách chính đáng, tốt đẹp, đều có thể được tô điểm, mở rộng và phát triển nội hàm cũng như ý nghĩa sâu sắc của nó.

Trích từ “Sơ Học Ký – Quyển 30 – Bộ Điểu”

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/62098

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (12): Phượng hoàng tới báo điềm lành first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khái quát về văn hóa Trung Quốc (11): Nghệ thuật hang động Trung Quốchttps://chanhkien.org/2024/08/khai-quat-ve-van-hoa-trung-quoc-11-nghe-thuat-hang-dong-trung-quoc.htmlFri, 16 Aug 2024 02:31:48 +0000https://chanhkien.org/?p=33735Tác giả: Tâm Duyên [ChanhKien.org] Nghệ thuật hang động là một loại kiến trúc đền chùa Phật giáo từ thời xa xưa ở Trung Quốc, đa phần được xây dựng dựa vào vách núi. Loại hình nghệ thuật này được cấu thành từ kiến trúc, tượng Phật và bích họa. Kiến trúc là nơi chứa […]

The post Khái quát về văn hóa Trung Quốc (11): Nghệ thuật hang động Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Nghệ thuật hang động là một loại kiến trúc đền chùa Phật giáo từ thời xa xưa ở Trung Quốc, đa phần được xây dựng dựa vào vách núi. Loại hình nghệ thuật này được cấu thành từ kiến trúc, tượng Phật và bích họa. Kiến trúc là nơi chứa đựng, nó bao gồm kết cấu mái vòm gỗ và kiến trúc hội họa; các bức bích họa dùng để trang trí cho hang động, chiếm diện tích rất lớn, nội dung tương đối đơn giản; tượng Phật là vị Thần linh chính được thờ phụng trong Phật giáo, là chủ thể của nghệ thuật hang động, do tượng Phật có nội dung phong phú và tầm ảnh hưởng lớn, vì vậy loại hình hang động này trở nên nổi tiếng thế gian.

Nghệ thuật hang động có nguồn gốc ban đầu từ Ấn Độ cổ, được truyền nhập vào Trung Quốc vào thế kỷ thứ 3 sau công nguyên. Tại miền Bắc Trung Quốc, trong thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều đến thời Đường thịnh vượng, lần lượt xuất hiện hai giai đoạn đỉnh cao về điêu khắc tượng; vào nửa sau thế kỷ thứ 8, ở miền nam lưu vực sông Trường Giang lại xuất hiện một thời kỳ đỉnh cao về điêu khắc tượng. Từ cuối thế kỷ thứ 9 đến giữa thế kỷ thứ 13, những tác phẩm điêu khắc đá lớn ở Đại Túc được xây dựng, trong đó điêu khắc tượng trên vách “Ngũ Sơn” làm tiêu biểu, từ đó kéo dài thêm lịch sử nghệ thuật hang động của Trung Quốc hơn 400 năm. Sau đó, nghệ thuật hang động Trung Quốc bị đình trệ, và ở những nơi khác không còn xây dựng thêm bất kì hang động lớn nào nữa.

Trong quá trình phát triển lâu dài, nghệ thuật hang động của mỗi một thời kỳ đều hình thành mô thức và nội hàm đặc sắc của riêng mình.

Đỉnh cao điêu khắc tượng lần thứ nhất: Thời Ngụy-Tấn-Nam Bắc triều.

Thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều tuy là một thời kỳ chia rẽ và hỗn loạn lớn, nhưng về phương diện văn hóa và khoa học kỹ thuật lại không hề bị đình trệ, hơn nữa về mặt nghệ thuật đã đạt đến một tầm cao mới. Đặc biệt là sự thịnh hành của Phật giáo không chỉ tạo nên phong cách độc đáo riêng cho điêu khắc và hội họa của thời kỳ này, mà còn lưu lại cho hậu thế những tác phẩm nghệ thuật hang động ngoạn mục, trong đó có hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng, Cam Túc, được đánh giá là kỳ quan thế giới.

Nghệ thuật điêu khắc trong thời kỳ này chủ yếu thể hiện qua việc điêu khắc tượng Phật. Thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều là thời kỳ Phật giáo rất hưng thịnh, nhiều Hoàng đế và Vương công quý tộc cũng đều tin theo Phật giáo. Vì để thể hiện sự tôn kính đối với Phật, một số Hoàng đế của Bắc triều đã ra lệnh đi khắp nơi mở núi, đào hang và điêu khắc tượng Phật, từ đó hình thành nên nghệ thuật hang động. Trong số đó, nổi tiếng nhất là hang động Vân Cương ở Đại Đồng, Sơn Tây, hang động Long Môn ở Lạc Dương, Hà Nam và hang động Mạc Cao ở Đôn Hoàng, Cam Túc – còn gọi là hang động ngàn Phật. Trong các hang động này được bài trí rất nhiều tượng Phật và những tác phẩm nghệ thuật quý giá khác.

Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng, những hang động thời kỳ đầu ở các khu vực kể trên đều chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ nghệ thuật hang động Tân Cương, vì vậy để tìm hiểu nguồn gốc và truyền thừa nghệ thuật hang động ở Trung Quốc, chúng ta buộc phải đi sâu tìm hiểu về hang động Tân Cương. Ngoài ra, điêu khắc tượng Phật thời kỳ đầu chịu ảnh hưởng từ Ấn Độ, mang diện mạo đặc trưng của người Hy Lạp cổ đại, các pho tượng với mái tóc gợn sóng, vầng trán cao, mũi nhọn, môi mỏng, hốc mắt sâu. Về sau này, diện mạo của tượng Phật dần dần thể hiện xu hướng bản địa hóa, đã mang nét đặc trưng của người Trung Quốc.

Hang động Tân Cương

Các hang động đá ở Tân Cương chủ yếu phân bố dọc theo tuyến đường phía bắc lòng chảo Tarim từ Kashgar về phía đông. Hiện nay đã phát hiện di tích hang động có ở bốn khu vực, lần lượt từ tây sang đông là khu vực Shule cổ (nay là Kashgar), khu vực Quy Từ cổ (nay là Kuchar, Bái Thành), khu vực Karasahr cổ (nay là Yên Kỳ) và khu vực Cao Xương cổ (nay là Turfan).

Về mặt hình dạng kiến trúc, ở Tân Cương có rất nhiều hang thờ Phật được bố trí xung quanh trụ tháp trung tâm. Hang đại Phật dựng tượng Phật khổng lồ, hang dành cho tăng nhân sinh hoạt hàng ngày, hang thiền cho tăng nhân tu thiền đả tọa và tổ hợp hang động tạo thành nhiều hình dạng hang động khác nhau, cũng có một số ít quần thể hang thiền. Sau thế kỷ thứ 5, số lượng hang có điện thờ Phật hình vuông tăng lên, còn xuất hiện cả hang Phật đàn có đàn thờ Phật đặt ở vị trí trung tâm. Tại khu vực An Kỳ, Turfan là một dải các hang động thường được nối tiếp bằng gạch bùn ở phía trước hoặc hoàn toàn được xây bằng gạch bùn. Trong những hang động có hình dạng khác nhau này thường vẽ những bức bích họa, ban đầu đa số còn có tượng đắp (hiện nay phần lớn đã bị phá hủy). Các tác phẩm điêu khắc trước thế kỷ thứ 6 chủ yếu là tượng Phật Thích Ca Mâu Ni và tượng Phật Di Lặc.

Hang động Vân Cương

Núi Vũ Châu ở ngoại ô phía tây thành phố Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây có hang động Vân Cương được xây dựng vào thời kỳ Hòa Bình của triều đại Bắc Ngụy (từ năm 460 đến năm 465), do vị hòa thượng nổi tiếng Đàm Diệu chủ trì việc kiến tạo năm hang động. Hiện nay, hang động số 16 đến 20 của Vân Cương chính là những hang động được xây dựng sớm nhất thời bấy giờ, còn gọi là “hang động Đàm Diệu”. Các hang động chính khác phần lớn cũng được hoàn thành vào năm Thái Hòa thứ 18 của triều đại Bắc Ngụy (năm 494) trước khi Hiếu Văn Đế dời đô sang Lạc Dương.

Hang động Vân Cương trải dài 1.000 mét từ đông sang tây, hiện nay còn lại 45 hang động chính, 252 hang động lớn nhỏ và hơn 51 nghìn tượng đá điêu khắc, là một trong những quần thể hang động cổ có quy mô lớn nhất Trung Quốc. Tượng Phật cao nhất 17 mét, thấp nhất chỉ vài cm.

Hang động Vân Cương nổi tiếng thế giới với vẻ đẹp hùng vĩ, nội dung phong phú và kỹ thuật điêu khắc tinh xảo. Nhà địa lý học cổ đại Lệ Đạo Nguyên đã mô tả nó như sau: “Đục đá khai sơn, dựa vào đá mà xây dựng, hình dáng đồ sộ, hiếm có trên đời, sơn đường thủy điện, hương chùa nối tiếp”. Đây là những miêu tả chân thực về cảnh đẹp rực rỡ của hang động thời bấy giờ. Nghệ thuật điêu khắc nơi đây vừa tiếp thu và học hỏi nghệ thuật Phật giáo Gandhara (Kiền Đà La) Ấn Độ, vừa dung hòa một cách nhuần nhuyễn phong cách nghệ thuật truyền thống Trung Quốc, chiếm một địa vị vô cùng quan trọng trong lịch sử nghệ thuật điêu khắc thế giới.

Hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng, Cam Túc – Động Ngàn Phật

Hang Mạc Cao nằm trên con đường tơ lụa, là tuyến giao thương quan trọng nối liền phương Đông và phương Tây, nằm tại phía đông của chân núi Minh Sa. Tương truyền vào thời Tiền Tần (năm 366), một nhà sư tên là Lạc Tôn đi qua núi Tam Nguy ở phía đông nam Đôn Hoàng vào lúc hoàng hôn, đột nhiên trên núi Tam Nguy phát ra ánh sáng vàng kim rực rỡ, vạn Phật hiện ra trong ánh sáng ấy. Lạc Tôn vì thế đã hóa duyên và xây dựng hang động đầu tiên ở đây. Sau đó, lại có một nhà sư khác tên là Pháp Lương hành hương đến đây, ông đã cho xây dựng hang động thứ hai. Đến thời kỳ Nam Bắc triều, ngày càng có nhiều nhà sư đến đây hành hương và xây dựng thêm nhiều hang động khác. Đến thời Tùy-Đường, nghệ thuật của hang Mạc Cao đạt đến đỉnh cao.

Hang Mạc Cao trải dài gần hai kilomét từ bắc xuống nam, chia thành năm tầng hang động trên dưới, những hang động này sắp xếp cao thấp xen kẽ nhau, vô cùng hùng vĩ. Vì đá ở Đôn Hoàng không thích hợp để điêu khắc, nên tượng Phật chủ yếu được làm bằng đất sét. Những hang động này trước đây thường có tượng Phật tròn, sau này dần chuyển sang tượng Phật cao, tượng Phật bóng, tượng Phật nổi trên tường.

Trải qua nhiều đời xây dựng, đến thế kỷ thứ 7 thời nhà Đường, ở Mạc Cao đã có hơn một nghìn hang động Phật, vì vậy, hang động Mạc Cao còn được gọi là “Động Ngàn Phật”. Hiện nay còn lại 492 hang động, trong đó có 32 hang động được xây dựng vào thời Bắc Ngụy thuộc thời kỳ Nam Bắc triều. Các hang động thời Bắc triều chủ yếu có hình thức kiến trúc “tháp trụ trung tâm”. “Tháp trụ trung tâm” tức là dựng một cột vuông thông từ trên xuống dưới ở trung tâm hang động, tượng trưng cho không gian bên trong tháp Phật. Kiểu hang động này được phát triển từ tháp giáo đường của Ấn Độ cổ. Lúc này, tượng Phật trong hang động chủ yếu là Phật Thích Ca hoặc Phật Di Lặc tương lai, hai bên tượng còn có hai vị Bồ Tát hoặc một vị Phật, hai đệ tử đi theo. Phần lưng tượng thường được nối liền với bích họa.

Hang động Long Môn, Lạc Dương, Hà Nam

Hang động Long Môn ở Lạc Dương được xây dựng vào khoảng thời gian trước và sau khi Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế dời đô về Lạc Dương (năm 494). Trải qua các triều đại Đông Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Tề, Bắc Chu, Tùy, Đường và Bắc Tống, trong đó hang động vào thời Bắc Ngụy và thời nhà Đường được xây dựng với quy mô lớn nhất. Hiện tại vẫn còn hơn 2.100 hang động, hơn 40 tháp Phật, hơn 3.600 bia ký và hơn 100.000 pho tượng trên toàn bộ khu vực núi. Cổ Dương động, Tân Dương động và Liên Hoa động thuộc thời Bắc Ngụy là những hang động tiêu biểu của thời kỳ đó.

Đỉnh cao điêu khắc tượng lần thứ hai: Đường triều.

Đến thời nhà Tùy, do Tùy Văn Đế ra sức hồng dương Phật pháp, hang động Mạc Cao cũng được đổi mới hoàn toàn. Số lượng hang động được xây dựng và trùng tu lại vào thời nhà Tùy lên tới 94 hang, gần như gấp đôi số hang động ở Mạc Cao được xây dựng trong suốt 200 năm trước đó. Các tượng Phật trong hang động bỗng chốc trở nên đồ sộ và tráng lệ, không còn vẻ lạnh lẽo hoang sơ nữa, mà thay vào đó là rất nhiều vị Bồ Tát, Kim Cang rực rỡ sắc màu, như thể bỗng chốc các vị Thần linh tụ hội về mảnh đất Hoa Hạ. Đến thời nhà Đường, nghệ thuật hang động đã được mở rộng và phát triển mạnh mẽ đạt đến đỉnh cao chưa từng có.

Hang động điêu khắc ở Long Môn

Hang động điêu khắc ở Long Môn được xây dựng trên diện rộng vào thời Bắc Ngụy và thời nhà Đường. Hiện tại có hơn 2.100 hang thờ cúng, hơn 40 tòa tháp Phật, khoảng 3.600 tấm bia ký và hơn 100.000 pho tượng trên toàn bộ khu vực núi. Trong đó, gian thờ tượng Phật Lư Xá Na ở chùa Phụng Tiên có khí thế hùng vĩ, chạm trổ tinh xảo, hoàn thành vào năm thứ 2 thời vua Đường Cao Tông Lý Trị (năm 675), là hang động chính có quy mô lớn nhất, nghệ thuật tinh mỹ và còn mang tính tiêu biểu trong các hang động ở Long Môn thời nhà Đường. Pho tượng chính Phật Lư Xá Na cao 17,14 mét, khuôn mặt đầy đặn thanh tú, đôi mắt tĩnh lặng, khóe miệng khẽ mỉm cười. Hai bên là Ca Diếp trang nghiêm và điềm tĩnh, A Nan điềm đạm và thành kính, các vị Bồ Tát trang nghiêm và nhã nhặn, các vị Thiên Vương nhíu mày giận dữ, các vị lực sĩ mạnh mẽ và uy nghi. Các bức tượng trong chùa Phụng Tiên có hình dáng sinh động, mỗi bức tượng mang một phong thái riêng, thể hiện trình độ nghệ thuật điêu khắc cao siêu thời nhà Đường.

Động Vạn Phật được xây dựng vào năm Vĩnh Long thứ nhất (năm 680) niên hiệu Đường Cao Tông Lý Trị. Do trên vách động hai bên Nam Bắc có khắc đầy tượng Phật nhỏ, tổng cộng khoảng 15.000 bức, nên được gọi là động Vạn Phật. Tượng Phật ở bức tường chính ngồi trang nghiêm trên đài sen tám cạnh có bệ đỡ, vị Phật chính trong hang này là Phật A Di Đà, ngồi đả tọa trên đài sen hướng về núi Tu Di, một tay đặt trước ngực, một tay khẽ đặt trên đầu gối. Người đời sau gọi đây là “Ấn thuyết pháp”. Vách sau có khắc 54 bông hoa sen, trên mỗi bông sen có một vị Bồ Tát hoặc người cúng dường ngồi lên, hình dáng độc đáo. Trên nền vách hai bên Nam Bắc khắc các nhạc công, vũ công với tà áo phấp phới, dáng vẻ duyên dáng; các nghệ sỹ cầm nhạc cụ trong tay, hình tượng sinh động. Trên bức tường phía nam bên ngoài động là tượng Quan Thế Âm Bồ Tát, tay trái cầm bình tịnh, tay phải nâng phất trần, tỷ lệ cân đối hài hòa, thần thái động tĩnh đều được khắc họa rất tự nhiên. Tháp gỗ được xây dựng trên bệ cao, bệ cao hơn bốn mét, chia thành hai tầng trên dưới. Bệ ở tầng trên và các góc của nguyệt đài đều có đá góc, nhìn vào thấy những con sư tử nhô ra từ đá góc, phong cách điêu khắc cổ kính, có lẽ là vật quý từ thời nhà Liêu. Chiều cao tổng thể của tháp gỗ là 67,31 mét, trong đó chóp tháp cao khoảng 10 mét. Mặt bằng tháp hình bát giác, đường kính tầng đáy là 30,27 mét. Tháp có năm tầng lộ thiên, xen kẽ là các tầng ẩn, thực ra là chín tầng. Tầng đáy có mái xếp tầng và hành lang, do đó nhìn từ bên ngoài tháp có sáu tầng mái hiên. Tỷ lệ tổng thể của tháp cân đối, hình dáng bên ngoài cũng toát lên vẻ trang nghiêm.

Hang động điêu khắc ở Đôn Hoàng

Thời kỳ Tùy-Đường là thời kỳ toàn thịnh của hang Mạc Cao, đặc biệt là vào thời Đường. Phật giáo đạt đến thời kỳ đỉnh cao, việc xây dựng hang động cũng bước vào thời kỳ hưng thịnh nhất. Trong số 492 hang động hiện có của Mạc Cao, có đến 247 hang động được xây dựng vào thời nhà Đường.

Kiểu dáng của hang động thời nhà Tùy được thay đổi từ kiểu tháp trung tâm thời Bắc triều sang bàn thờ Phật trung tâm, các pho tượng được sắp xếp giống như thời Nam Bắc triều. Vào thời Đường đã xuất hiện sự kết hợp của một Phật, hai đệ tử, hai Thiên Vương hoặc hai lực sĩ. Các pho tượng cũng chuyển từ tạo hình “gầy gò thanh tú” ban đầu sang “to cao vạm vỡ”. Những bức bích họa trong hang chủ yếu là tranh lớn khung cảnh thuyết Pháp và tranh kinh biến đơn giản. Tượng Phật lớn nhất ở hang Mạc Cao đều được tạc vào thời Đường, tượng Đại Phật ở hang 96 là tượng Phật lớn nhất trong khu hang động Mạc Cao. Bức bích họa thời Đường là tranh kinh biến đa dạng, quy mô vô cùng hùng vĩ, thể hiện cảnh tượng tráng lệ của Thiên quốc.

Đại Phật Lạc Sơn

Có câu tục ngữ “Đến núi Nga Mi nhất định phải đến thăm Đại Phật Lạc Sơn”. Đại Phật Lạc Sơn tọa lạc tại phía đông thành phố Lạc Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, trên núi Lăng Vân, nơi hội tụ của ba con sông Mân Giang, Thanh Y Giang và Đại Độ Hà. Đây là bức tượng Phật bằng đá khắc trên vách núi nguyên khối ven sông Lăng Vân, hoàn toàn dựa vào sức người đục đẽo mà thành. Tượng cao 71 mét, đầu cao 14,7 mét, tai dài 6,12 mét, mũi dài 5,33 mét, vai rộng 24 mét, ngón tay dài 8,3 mét, mu bàn chân rộng 9 mét và dài 11 mét. Đây là tượng Phật khắc đá lớn nhất trên thế giới hiện nay. Tượng Phật này hai tay đặt lên đầu gối, thần thái trang nghiêm, hướng mắt nhìn ra sông nước mênh mông. Không chỉ có kích thước khổng lồ, tượng còn sở hữu kỹ thuật điêu khắc cao siêu, kết cấu cân đối, tỷ lệ hài hòa và đường nét mượt mà. Trên đầu và thân tượng còn ẩn tàng một hệ thống thoát nước khéo léo để tránh nước chảy xói mòn và giảm thiểu sự phong hóa. Trên vách đá bên trái hang động Phật có một con đường núi hiểm trở được xây dựng cùng lúc với tượng Phật, do uốn lượn chín khúc nên được gọi là “Cửu Khúc Sạn Đạo”. Từ con đường này có thể đi xuống chân tượng Phật.

Đại Phật Lạc Sơn được khởi công xây dựng vào đầu những năm Khai Nguyên Đường Cao Tông (năm 713), hoàn thành sau 90 năm. Khi đó, vị tăng nhân Hải Thông rất nổi tiếng của chùa Lăng Vân nhìn thấy nơi tụ hội của ba con sông mỗi khi đến mùa nước lớn liên tục xảy ra lũ lụt, nên ông đã nảy sinh ý tưởng muốn xây dựng tượng Phật lớn để trấn yểm thủy quái. Thế là ông đã trải qua bao gian khổ, đi khắp nơi hóa duyên trong 20 năm để quyên góp tiền. Sư Hải Thông không đợi được đến ngày tượng Phật hoàn thành thì qua đời. Sau đó, Tiết độ sứ Kiếm Nam Xuyên Tây là Vi Cao, đã tiếp tục xây dựng hoàn thành công trình này. Hiện nay, động Hải Sư trên đỉnh núi Lăng Vân được lưu truyền là nơi tu tập của sư Hải Thông, trong động có khắc tượng ông cao hai mét, ngồi xếp bằng, tay bưng khay đựng nhãn cầu, khuôn mặt cương nghị, uy nghiêm.

Đỉnh cao điêu khắc tượng lần thứ ba: Từ cuối triều Đường đến triều Tống.

Chạm khắc đá Đại Túc Trùng Khánh là đại diện cho nghệ thuật hang động giai đoạn sau này (từ cuối thế kỷ thứ 9 đến giữa thế kỷ 13, thời kỳ hậu Đường đến Nam Tống), trên cơ sở tiếp thu và dung hợp tinh hoa nghệ thuật hang động của các thời kỳ trước, nó đã có những điểm khác biệt so với các triều đại trước về mặt lựa chọn chủ đề, hình thức nghệ thuật, kỹ thuật tạo hình và sở thích thẩm mỹ. Với điểm nổi bật về đặc sắc dân tộc hóa và hiện thực hóa, nó đã trở thành hình mẫu của nghệ thuật hang động mang phong cách Trung Quốc.

Trong khu vực huyện Đại Túc, Trùng Khánh, có hơn một trăm địa điểm chạm khắc tượng đá từ thời Đường Tống với hơn 60 nghìn bức tượng, được gọi chung là Đại Túc Thạch Khắc (Những bức chạm khắc đá ở Đại Túc). Trong số đó, tượng đá trên núi Bắc Sơn và Bảo Đỉnh Sơn có quy mô lớn nhất, mang tính quy mô nhất và tráng lệ nhất. Tượng đá trên núi Bắc Sơn, nằm cách thị trấn một kilômét về phía tây bắc, được xây dựng vào cuối thời Đường, trải qua thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc và Nam Tống, chạm khắc tượng Phật, Bồ Tát, v.v., với gần 10 nghìn bức tượng thanh lịch và tao nhã nổi tiếng thế giới. Hình tượng con người thời Đường đoan trang đầy đặn, khí chất thuần phác; kỹ thuật điêu khắc tinh xảo, con người hòa hợp với Thần linh.

Mặc dù trải qua hàng nghìn năm bị bào mòn, thậm chí bị con người tàn phá, nhưng một số hang động đá ở Trung Quốc vẫn còn bảo tồn được vẻ đẹp ban đầu, trở thành những bảo tàng nghệ thuật vô song trên thế giới. Ngày nay, người ta có thể thông qua nội dung điêu khắc trong các hang động đá từ các thời kỳ khác nhau mà thấy được lòng thành kính Phật Pháp và sự tôn kính vô hạn của tổ tiên đối với Phật. Có lẽ đây cũng là một trong những tài sản quý giá nhất mà tổ tiên để lại cho thế hệ ngày nay.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/48625

The post Khái quát về văn hóa Trung Quốc (11): Nghệ thuật hang động Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khái quát về văn hóa Trung Quốc (10): Sự phát triển của âm nhạc truyền thống Trung Quốchttps://chanhkien.org/2024/07/khai-quat-ve-van-hoa-trung-quoc-10-su-phat-trien-cua-am-nhac-truyen-thong-trung-quoc.htmlFri, 05 Jul 2024 04:23:30 +0000https://chanhkien.org/?p=33462Tác giả: Tâm Duyên [ChanhKien.org] Theo một số tài liệu hiện nay, âm nhạc Trung Quốc xuất hiện sớm nhất vào thời kỳ Phục Hy, khoảng 7.000 năm TCN. Tương truyền rằng Phục Hy đã dựa trên số lượng chu thiên và ngũ hành để chế tạo ra đàn cổ cầm, phỏng theo hình dạng […]

The post Khái quát về văn hóa Trung Quốc (10): Sự phát triển của âm nhạc truyền thống Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Theo một số tài liệu hiện nay, âm nhạc Trung Quốc xuất hiện sớm nhất vào thời kỳ Phục Hy, khoảng 7.000 năm TCN. Tương truyền rằng Phục Hy đã dựa trên số lượng chu thiên và ngũ hành để chế tạo ra đàn cổ cầm, phỏng theo hình dạng cánh phượng hoàng chế tạo ra tiêu. Ngoài ra, ông còn sáng tác bản nhạc cổ “Giá Biện”.

Vào thời Hoàng Đế khoảng 5.000 năm trước, nhạc khúc “Vân Môn Nhạc” ra đời. Đến thời Chuyên Húc đế, vì ông rất thích nghe âm thanh gió thổi như rì rào, vi vu, xào xạc, nên đã cho người sáng tác nhạc phỏng theo tiếng gió từ tám phương và đặt tên là “Thừa Vân”, chuyên dùng để tế Trời. Thời kỳ này, người xưa còn phát minh ra trống. Vào thời Đế Khốc, ông lệnh cho Hàm Hắc sáng tác các ca khúc như “Cửu Chiêu”, “Lục Liệt”, “Lục Anh”, còn cho người chế tác các loại nhạc cụ như trống, chuông, đàn đá, khèn. Khi diễn tấu còn có chim phượng hoàng, chim thiên trĩ nhảy múa. Đế Khốc dùng điệu múa này để ca ngợi công đức của Thiên Đế. Sau khi vua Nghiêu lên ngôi, ông lệnh cho Quỳ sáng tác nhạc. Quỳ mô phỏng âm thanh của núi rừng, thung lũng để sáng tác nhạc, rồi lấy da hươu bọc lên chum đất để gõ. Ông còn vỗ vào phiến đá, mô phỏng âm thanh Ngọc Bàn (nghĩa là đá ngọc) của Thiên Đế, nhằm thôi thúc muôn thú nhảy múa. Nhạc khúc này được đặt tên là Cửu Đại Chương (Nghĩa là chín bài nhạc long trọng) dùng để tế Trời. Cổ Tẩu còn cải tiến đàn sắt năm dây thành đàn sắt 15 dây, ông cũng để lại cho hậu thế bài “Đại Thành Nhạc”.

Sau khi vua Thuấn lên ngôi, Ngưỡng Diên đã cải tiến cây đàn tranh do Cổ Tẩu (cha của vua Thuấn) lên 23 dây. Vua Thuấn lại lệnh cho Quỳ sửa đổi các bài hát như “Cửu Chiêu”, để tôn vinh ân đức của Thiên Đế. Vua Thuấn nói: “Quỳ, ta bổ nhiệm ngươi làm quan cai quản nhạc lễ, dùng âm nhạc giáo hóa người trẻ tuổi, giúp cho họ có được nhân cách như: nhân hậu ung dung mà lại cẩn trọng trang nghiêm, kiên cường chính trực nhưng không độc ác tàn bạo, độ lượng và không kiêu ngạo. Khuyến khích họ dùng thơ ca để bày tỏ chí hướng và khát vọng, lời nói của họ dùng để ca hát và ngâm thơ, âm thanh trầm bổng du dương phải phù hợp âm luật của thơ ca, âm luật phải hài hòa với ngũ âm (cung, thương, giốc, chuỷ, vũ). Tám loại nhạc cụ (Kim, Thạch, Thổ, Da, Dây, Gỗ, Bầu, Trúc) phải hài hòa, phối hợp nhịp nhàng với nhau, chỉ có như vậy, con người và Thần linh mới hòa hợp, mới có thể cảm động đất trời”. Quỳ nói: “Vâng, thần sẽ dựa theo cách này để gõ khánh đá tạo ra âm nhạc, khiến muông thú nhảy múa theo điệu nhạc”. Nhạc khúc nổi tiếng thời bấy giờ là “Đại Thiều Nhạc”. Sau này Khổng Tử từng nói câu: “Nghe Thiều Nhạc, ba tháng không biết mùi vị thịt”.

Có thể thấy, mục đích sáng tác âm nhạc vào thời kỳ đầu của Trung Quốc là nhằm mục đích câu thông giữa con người và Thần, dùng để phản ánh việc con người tôn kính Thần linh mà có được sự bình yên, niềm hân hoan và cảm giác vui mừng, hơn nữa thông qua âm nhạc giáo hóa người dân không đi theo cực đoan. Các vị Đế Vương thời Tam Hoàng Ngũ Đế coi trọng âm nhạc cũng bởi vì nó có thể khơi gợi lòng tôn kính, hy vọng và sự gửi gắm của con người đối với Thần linh.

Thêm vào đó, cổ nhân cho rằng việc sáng tác âm nhạc cần phải có điều kiện tiên quyết, đó là phải tiết chế dục vọng. Người không tham dục, không phóng túng mới có thể sáng tác âm nhạc. Hơn nữa, việc sáng tác âm nhạc còn có phương pháp nhất định, cần phải xuất phát từ sự ôn hòa, mà sự ôn hòa lại được sinh ra từ Đạo.

Nhạc khúc “Đại Hạ Nhạc” được sáng tác từ thời Đại Vũ trở nên nổi tiếng hơn bao giờ hết vào thời nhà Hạ. Vào thời nhà Thương, nhiều bộ nhạc cụ được ra đời. Hiện nay, người ta đã tìm thấy sáo đất nung, khánh đá, chuông đồng, nao đồng, trống vào thời nhà Hạ. Điều này chứng minh rằng, nền âm nhạc thời bấy giờ đã đạt trình độ khá cao. Nhạc cụ thời nhà Thương có ảnh hưởng sâu sắc đến hậu thế, trong đó phải kể đến chuông và khánh. Đặc biệt là chiếc khánh đá lớn được khai quật tại ngôi mộ lớn ở làng Vũ Quan, thành phố An Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Âm cao của nó chỉnh hơi cao hơn nốt #c1 (nốt Đồ thăng). Âm thanh trầm ấm vang dội, âm sắc gần giống với đồng thau và có tiếng vang ngân dài. Chiếc khánh đá lớn này là độc nhất vô nhị, được gọi là khánh đặc biệt, là một nhạc cụ cỡ lớn ra đời sớm nhất được phát hiện cho đến nay. Ca múa thời nhà Thương có thể được khảo chứng là “Tang Lâm” và “zC”. “Tang Lâm” ban đầu là chỉ một hoạt động tế lễ quy mô lớn của quốc gia. Cho đến thời kỳ Xuân Thu (khoảng thế kỷ thứ 5 TCN), “Tang Lâm” vẫn là hoạt động tế lễ lớn được quần chúng quan tâm. Các tác phẩm ca múa được sử dụng trong lễ tế “Tang Lâm” cũng được gọi là “Tang Lâm” theo tên gọi của lễ tế. “zC” ở thời nhà Chu được dùng để tế tổ mẫu Khương của nhà Chu, có người nói rằng nội dung của nó có liên quan đến việc nhà Thương tế tổ mẫu Giản Địch.

Thuận theo việc đạo đức con người ngày càng trượt dốc, người ta cũng dần trở nên mơ hồ đối với nội hàm của Đại Đạo, cách lý giải về âm nhạc cũng có sự thay đổi, âm nhạc đã mất đi ý nghĩa và công dụng ban đầu của nó. Vị bạo chúa cuối triều Hạ là Hạ Kiệt và Trụ Vương của triều Ân đã cho ra đời những bản nhạc phóng đãng, coi sự hoành tráng là điều tốt, coi sự đa dạng là tráng lệ, hưởng thụ quá độ, không tuân thủ pháp luật. Đây chính là khởi đầu cho sự suy đồi của âm nhạc.

Đến triều Chu, âm nhạc bắt đầu kết hợp với các nghi lễ nhân gian (nghi thức tế lễ, yến tiệc,v.v.) để quy phạm hành vi của con người, được gọi là “lễ nhạc”. Lễ nhạc vào triều Chu phân cấp bậc rất chặt chẽ, trong những trường hợp khác nhau, người có thân phận khác nhau, không chỉ nghi lễ khác nhau, mà nhã nhạc và nhạc cụ được sử dụng cũng khác nhau. Ví dụ trong nhã nhạc triều Chu, khi tế lễ Trời và Thần linh, người ta sẽ tấu Hoàng Chung, hát bài Đại Lữ, múa “Vân Môn”; khi tế lễ Đất, sẽ tấu bài Thái Thốc, hát bài Ứng Chung, múa “Hàm Trì”; khi tế lễ sông núi, sẽ tấu bài Nhuy Tân, hát Hàm Chung, múa “Đại Hạ”; khi hai vị quân chủ gặp nhau, thì họ sử dụng bài nhạc đại nhã “Văn Vương”, v.v. Nhạc cụ, vũ đạo và ca hát thông thường được thực hiện chuyên biệt, không hoàn toàn kết hợp chung với nhau, ví dụ vũ đạo kết hợp với các loại sáo trúc và ca hát, ca hát được đệm tấu bằng đàn tranh hoặc kèn sáo. “Kim tấu” là sự hòa tấu của chuông, trống và khánh. Nó có yêu cầu rất cao, chỉ có Thiên Tử và chư hầu mới được phép sử dụng. Quan lại và sĩ tử chỉ có thể đơn giản là dùng trống. Chuông và khánh với âm lượng lớn và âm sắc đặc trưng đan xen tạo thành âm thanh trang nghiêm và tráng lệ, kết hợp với tiếng trống, thực sự có thể tạo ra hiệu quả “chí cao vô thượng” và vô cùng “uy nghiêm” của Thiên Tử và chư hầu. Vào thời điểm đó có thể nhìn thấy “Lục Đại Nhạc Vũ” (ca múa nhạc của sáu triều đại), tức là “Vân Môn” thời Hoàng Đế, “Hàm Trì” thời Nghiêu, “Thiều” thời Thuấn, “Đại Hạ” thời Vũ, “Đại zC” thời Thương và “Đại Vũ” thời Chu.

Nhà Chu còn lập ra tổ chức âm nhạc “Đại Tư Nhạc” để đào tạo âm nhạc một cách bài bản cho con cháu quý tộc. Khi đó, người ta đã chú ý đến sức ảnh hưởng của âm nhạc đối với tình cảm và ý chí của con người. Trong “Chu Lễ – Xuân Quan – Đại Tư Nhạc”, có đề cập đến vũ điệu “Đại Vũ” nổi tiếng thời Tây Chu, thể hiện sự kiện lịch sử Chu Vũ Vương phạt Trụ. Theo ghi chép trong “Lễ Ký – Nhạc Ký”, “Đại Vũ” có quy mô rất lớn, được trình diễn trong thời kỳ Xuân Thu gồm có sáu phần, có ca hát và dàn nhạc đệm tấu. Nó có hình thức kết cấu hoàn chỉnh và có trình độ nghệ thuật khá cao.

Nhạc cụ thời Tây Chu có số lượng hàng chục loại, chỉ riêng trong bộ “Kinh Thi” đã xuất hiện 29 loại nhạc cụ. Không chỉ có các loại nhạc cụ gõ và nhạc cụ hơi, mà còn có nhạc cụ dây. Nhạc cụ thời bấy giờ có thể phân thành tám loại dựa trên chất liệu, bao gồm: Kim, Thạch, Thổ, Da, Dây, Gỗ, Bầu, Trúc. Sách sử gọi là “Bát Âm”. Ngoài ra, dàn nhạc hòa tấu cỡ lớn được gọi là “Chuông Trống Chi Nhạc” cũng ra đời vào thời Tây Chu, nhạc cụ chính của dàn nhạc này là chuông nhạc và trống lớn. Lúc này, chuông nhạc đã phát triển từ ba cái trước đây thành năm cái, thậm chí tám cái. Chuông đá được khai quật ở thôn Tề Gia, huyện Phù Phong, tỉnh Thiểm Tây, với tổng âm vực là ba quãng tám, và được sắp xếp theo thứ tự Vũ, Cung, Giác, Trưng, Vũ, Cung.

Nhà Chu còn xác lập lý luận về thập nhị luật và ngũ âm (Cung, Thương, Giác, Trưng, Vũ). Thời bấy giờ, người ta đã biết rằng âm Cung đóng vai trò chủ đạo trong ngũ âm hoặc thất âm. Việc thay đổi vị trí âm Cung được gọi là Toàn Cung, nhờ đó có thể đạt được hiệu quả chuyển gam.

Thời nhà Chu, âm nhạc gắn liền với đời sống, tuy nhiên những dòng nhạc xa xỉ vẫn không ngừng xuất hiện. Ví dụ, khi nước Tống suy tàn, họ sáng tác bài Thiên Chung; khi nước Tề suy tàn, họ lại sáng tác bài nhạc Đại Lữ; khi nước Sở suy tàn, họ lại sáng tác ra thứ âm nhạc ma quái. Những loại nhạc này đã hoàn toàn mất đi ý nghĩa vốn có của nó.

Kể từ sau thời nhà Chu, âm nhạc truyền thống Trung Quốc chú trọng nhiều hơn vào hình thức bề mặt và kỹ xảo, nhưng lại không chú trọng nội hàm thực sự của âm nhạc giống như con người ở thời kỳ thượng cổ. Tuy nhiên, khi lịch sử phát triển đến thời nhà Đường, là thời kỳ tư tưởng Phật giáo và Đạo giáo thịnh hành, sáng tác âm nhạc đã đạt đến một đỉnh cao mới.

Sự phóng khoáng cởi mở trong văn hóa nghệ thuật ở thời kỳ nhà Đường đã làm cho âm nhạc và vũ đạo từ các dân tộc thiểu số vùng biên giới và các nước láng giềng du nhập mạnh mẽ vào Trung Nguyên. Nhờ vậy, những thành tựu rực rỡ về ca vũ dưới thời nhà Đường đã đạt đến đỉnh cao chưa từng có. “Thanh Thương Nhạc”, “Quy Từ Nhạc” và “Tây Lương Nhạc” tạo thành trào lưu âm nhạc chính dưới thời Đường. “Thanh Thương Nhạc” hình thành từ thời kỳ Ngụy Tấn, là nhạc dân gian của người Hán ở Trung Nguyên, nó sử dụng các nhạc cụ truyền thống như cổ cầm, đàn sắt, đàn trúc, đàn tỳ bà, khèn, tiêu, sáo, đàn tranh, đàn hạc nằm, chuông nhạc, khánh, v.v.. Âm thanh tao nhã êm dịu, bởi vì đa số các vũ nữ đều biểu diễn trên sân khấu, nên tổng số người múa và hát tối đa là bốn người, kỹ thuật biểu diễn tinh xảo. “Tây Lương Nhạc” có nguồn gốc từ nhà nước Hậu Lương, thường kết hợp với các nhạc cụ của người Hán như chuông, khánh, sáo, đàn tranh, đàn hạc nằm, đàn hạc đứng của Tây Vực và đàn tỳ bà. Vậy nên, trong “Tùy thư – Âm nhạc chí hạ” gọi nó là “Âm nhạc thanh điệu khác biệt với sách sử”, là sự kết hợp giữa âm nhạc của người Hồ và người Hán. “Quy Từ Nhạc” đến từ vùng biên ải Tây Bắc xa xôi thời Tiền Tần, nó được liệt vào danh sách các loại nhạc cụ chính của Tây Lương như hichiriki, đàn tỳ bà năm dây, vỏ sò, chập cheng, phách, trống lớn, v.v.. Phần lớn do các nghệ sĩ của Lập Kỹ Bộ đứng biểu diễn trên sân khấu, số lượng các nghệ sĩ có thể từ 64 người cho đến 180 người, khí thế hùng tráng, vũ điệu dứt khoát mạnh mẽ, mang đến một phong cách nghệ thuật cởi mở và rung động lòng người.

Âm nhạc thời Đường được phân thành đại khúc và tiểu khúc. Đại khúc hoành tráng hùng vĩ, tiểu khúc nhẹ nhàng sống động. Trong đại khúc có một phần gọi là pháp khúc, có nguồn gốc từ tôn giáo, vì vậy thường được trộn lẫn với âm nhạc của Đạo giáo.

“Tần Vương phá trận nhạc” (còn gọi là thất đức) do Thái Tông sáng tác, thuộc thể loại múa võ. Lời bài hát do Lữ Tài, Lý Bách Dược, Ngu Thế Nam, Trữ Lượng và Ngụy Trưng sáng tác. Trong bữa tiệc có 120 người mặc giáp, cầm kích nhảy múa, vua tránh ngồi vào ngai vàng để mọi người trong yến tiệc đều vui vẻ. Nhạc khúc này “tiếng trống vang dội, xen lẫn với Quy Từ nhạc, âm thanh vọng xa trăm dặm, rung chuyển cả núi rừng”. “Khánh Thiện nhạc” (còn gọi là Cửu Công) cũng do Thái Tông sáng tác, thuộc thể loại văn vũ. Khúc này chỉ dùng nhạc Tây Lương, rất thanh nhã. Nhạc khúc gồm có 64 vũ công múa, mặc áo tím, tay áo rộng, vạt áo ngắn, đội búi tóc giả, đi ủng da. Vũ điệu nhẹ nhàng khoan thai, tượng trưng cho đạo đức nhân văn và thiên hạ thái bình.

“Nghê Thường Vũ Y” là nhạc khúc nổi tiếng nhất thời nhà Đường. Bạch Cư Dị có bài thơ viết: “Thiên ca bách vũ bất khả số, tựu trung tối ái vũ y vũ” (Tạm dịch: Trong hàng ngàn ca khúc trăm vũ điệu thì yêu nhất là vũ điệu Vũ Y). Tương truyền vào một đêm rằm trung thu năm Khai Nguyên (niên hiệu của Vua Đường Huyền Tông), đạo sĩ Diệp Pháp Thiện đã mời Huyền Tông cùng du ngoạn cung trăng, lắng nghe khúc nhạc tiên “Tử Vân khúc”. Huyền Tông thông hiểu âm luật, đã lén ghi nhớ lại, khi quay về ngài đã đích thân phổ nhạc và dạy cho các vũ nữ của Lê Viên Nhạc biểu diễn. Đó chính là nguồn gốc của nhạc khúc “Nghê Thường Vũ Y” tuyệt đẹp. Trong nhạc có nhiều tiếng đàn sáo, thanh nhã uyển chuyển; các vũ công mặc áo khổng tước xanh cùng với chiếc váy tươi sáng như cầu vồng, uyển chuyển như tiên nữ giáng trần, trông giống như cảnh tượng mọc cánh thành Tiên bay lên của Đạo gia.

Từ đó về sau, âm nhạc xuất hiện trong các triều đại có âm nhạc êm đềm, có âm nhạc phóng đãng, có lúc chính thống, có lúc dâm tà. Người hiền minh nhờ giúp phát triển âm nhạc chính thống mà hưng vượng, kẻ ngu si vì nó mà diệt vong.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/48624

The post Khái quát về văn hóa Trung Quốc (10): Sự phát triển của âm nhạc truyền thống Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (9): Nho, Thích, Đạo và văn hóa truyền thống Trung Quốc (Phần 2)https://chanhkien.org/2024/01/khai-quat-ve-van-hoa-trung-quoc-9-nho-thich-dao-va-van-hoa-truyen-thong-trung-quoc-phan-2.htmlSun, 21 Jan 2024 03:18:26 +0000https://chanhkien.org/?p=32411Tác giả: Tâm Duyên [ChanhKien.org] Lão Tử – Đạo gia – Văn hóa truyền thống Trung Quốc Lão Tử họ Lý, tên Trọng Nhĩ, tự Bá Dương, là người nước Sở thời Xuân Thu. “Lão” ý chỉ người tuổi cao đức lớn, “Tử” là cách gọi thể hiện sự kính trọng với nam tử thời […]

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (9): Nho, Thích, Đạo và văn hóa truyền thống Trung Quốc (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Lão Tử – Đạo gia – Văn hóa truyền thống Trung Quốc

Lão Tử họ Lý, tên Trọng Nhĩ, tự Bá Dương, là người nước Sở thời Xuân Thu. “Lão” ý chỉ người tuổi cao đức lớn, “Tử” là cách gọi thể hiện sự kính trọng với nam tử thời cổ đại, “Lão Tử” là tôn xưng mà người đời đặt cho ông. Không rõ ngày tháng năm sinh và năm mất của ông.

Tương truyền Lão Tử có khí chất thiên tư không giống người thường. Ông am hiểu chuyện xưa, thông thuộc lễ chế. Ông đã trải qua thời kỳ của Văn Vương, Vũ Vương, từng làm qua chức “Thủ tàng thất sử” của triều Chu (tương đương với giám đốc thư viện quốc gia hoặc giám đốc bảo tàng lịch sử quốc gia hiện nay) và chức “Trụ hạ sử” (tương đương với chức ngự sử thời Tần Hán). Năm 520 trước Công nguyên (TCN), vương thất nhà Chu phát sinh nội chiến để tranh đoạt vương vị, Lão Tử vì thế mà liên lụy, bị bãi miễn chức quan. Lão Tử cảm nhận sâu sắc được sự hiểm ác của nhân thế, liền “Tự ẩn vô danh”, lưu lạc tứ phương.

Một ngày vào tháng 9 năm 478 TCN, Lão Tử đi về phía Tây tới nước Tần. Lúc đi qua cửa Hàm Cốc Quan, quan lệnh Duẫn Hỉ thông qua bói toán mà dự đoán được rằng sẽ có Thần nhân đi qua nơi này, liền ra lệnh cho người dọn dẹp 40 dặm đường để nghênh đón. Quả nhiên là Lão Tử đến. Duẫn Hỉ nói: “Tiên sinh ngài sẽ đi ẩn cư, sau này không còn được nghe tiên sinh dạy bảo nữa, xin tiên sinh hãy cố gắng soạn sách để truyền lại cho thế nhân!” Lão Tử chưa từng truyền dạy điều gì ở vùng đất Trung Nguyên, ông biết rằng trong mệnh của Duẫn Hỉ đã định trước là sẽ đắc Đạo, liền ở lại nơi đó một thời gian ngắn, viết nên tác phẩm nổi tiếng thiên cổ “Đạo Đức Kinh”. Sau đó, Lão Tử ra khỏi Hàm Cốc Quan đi về phía Tây, vượt Lưu Sa mà đi… Lưu Sa chính là chỉ vùng sa mạc lớn ở Tân Cương, không ai biết ông cuối cùng đi đâu.

Tư tưởng của Lão Tử, đại bộ phận được bảo tồn trong tác phẩm “Lão Tử”. “Lão Tử” tổng cộng có 81 chương, có hai thiên Thượng và Hạ. Quyển Thượng có 37 chương, quyển Hạ 44 chương, tổng cộng có hơn 5.000 chữ. Vì những điều trong sách giảng là vấn đề Đạo và Đức, nên người ta sau này bèn gọi là “Lão Tử Đạo Đức Kinh”. Cuốn sách “Lão Tử” mà chúng ta thấy hiện nay lại không phải là nguyên tác của Lão Tử, mà là văn tự của một người thời Chiến Quốc tên Tăng Ích, nhưng tư tưởng chủ yếu bên trong lại là của Lão Tử. Phạm trù tư tưởng cơ bản là “Đạo”, cho nên được gọi là “Đạo gia”. Danh xưng “Đạo gia” được thấy sớm nhất trong cuốn “Luận lục gia chi yếu chỉ” của Tư Mã Thiên thời nhà Hán.

Đời sau rất nhiều người coi cuốn “Lão Tử” là một tác phẩm triết học vĩ đại. Nhưng những người thực sự hữu duyên lại xem nó là pháp để tu luyện đắc Đạo, cũng theo đó mà tiến hành tu luyện, đạt được mục đích của đời người là phản bổn quy chân. Chính như Lão Tử trong thiên mở đầu đã giảng: “Đạo, khả Đạo, phi thường Đạo”. “Đạo” của Lão Tử không phải là “thường Đạo”, mà người có Đạo như ông với người phàm cũng có khác biệt một trời một vực. “Tục nhân chiêu chiêu, ngã độc hôn hôn. Tục nhân sát sát, ngã độc muộn muộn. Chúng nhân giai hữu dĩ, nhi ngã độc ngoan thả bỉ. Ngã độc dị vu nhân, nhi quý thực mẫu” (Tạm dịch: Người đời sáng rõ, riêng ta mơ màng. Người đời tinh tươm, riêng ta rầu rĩ. Mọi người đều có chỗ dùng, riêng ta ngu dốt mà bỉ lậu. Riêng ta khác người, mà quý Mẹ nuôi muôn loài).

Chính là vì Ông không phải là một “Đạo” bình thường, không thể tùy tiện để người khác đắc được, cho nên mới trân quý phi thường. Mà Đại Đạo truyền ra, thái độ của con người trong hoàn cảnh mê tại thế gian này cũng không giống nhau. “Thượng sĩ văn đạo, cần nhi hành chi; trung sĩ văn đạo, nhược tồn nhược vong; hạ sĩ văn đạo, đại tiếu chi, bất tiếu bất túc dĩ vi đạo” (Tạm dịch: Kẻ sĩ bậc thượng được nghe đạo sẽ tích cực cố gắng mà thực hành theo, kẻ sĩ bậc trung nghe đạo xong lúc nhớ lúc quên, kẻ sĩ bậc thấp nghe đến đạo thì bật cười to, nếu không bị cười nhạo thì không đủ gọi là Ðạo. Lão Tử chia “sĩ” làm ba loại thượng-trung-hạ, dựa vào cảnh giới của thế nhân sau khi nghe Đạo mà phân chia) (*).

Vì để người hữu duyên có thể đắc Đạo, để những kẻ sĩ bậc thượng cuối cùng phản bổn quy chân, Lão Tử trong vỏn vẹn 5.000 chữ đã nói cho mọi người biết hàm nghĩa của “Đạo” cùng một loạt các vấn đề như sự hình thành của vũ trụ, quan hệ của bản nguyên vạn vật, làm người như thế nào và làm thế nào để cuối cùng đạt được phản bổn quy chân, mà việc trình bày các vấn đề khác cũng chính là vì mở đường cho mục đích cuối cùng này. Lão Tử vì để cho người tu Đạo hiểu được phương pháp tu Đạo, còn nhiều lần nói tới việc thánh nhân có “Đạo” đã làm như thế nào khi gặp phải các vấn đề khác nhau, lấy đó làm tấm gương để mọi người học theo.

Chủ trương chính trị cơ bản của Đạo gia là vô vi mà trị. “Xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo”, tức là quản lý quốc gia, hết thảy đều thuận theo tự nhiên, đối với bách tính thì áp dụng chính sách không can thiệp hoặc can thiệp ít, lấy vô vi để đạt được mục đích “vô bất vi”, tạm dịch là cái gì cũng có cả. Chính trị lý tưởng là xã hội nước nhỏ ít dân. “Lân quốc tương vọng, kê khuyển chi thanh tương văn, dân chí lão tử bất tương vãng lai” (Tạm dịch: có thể nhìn thấy nước láng giềng, có thể nghe thấy tiếng gà chó, người dân tới lúc già, lúc chết không qua lại với nhau).

Nghe nói năm đó Khổng Tử từng đến đô thành của triều Chu và có tới chào Lão Tử. Từ chỗ của Lão Tử trở về, Khổng Tử ba ngày không nói câu nào. Tử Cống thấy lạ quá, liền hỏi thầy có chuyện gì vậy. Khổng Tử nói: “Điểu, ngã tri đạo tha năng phi; ngư, ngã tri đạo tha năng du; thú, ngã tri đạo tha năng bào. Năng bào đích, ngã khả dĩ dụng võng khứ tróc tha; năng du đích, ngã khả dĩ dụng ti tuyến khứ điếu tha; năng phi đích, ngã khả dĩ dụng tiễn khứ xạ tha. Chí vu long, ngã bất tri đạo tha thị chẩm yêu thừa phong vân thượng thiên đích. Ngã kim thiên kiến đáo lão tử, tha tựu tượng long nhất dạng thâm bất khả trắc a!” (Tạm dịch: “Chim, ta biết nó có thể bay; cá, ta biết nó có thể bơi; thú, ta biết nó có thể đào. Loài biết đào, ta có thể dùng lưới để bắt nó; loài biết bơi, ta có thể dùng sợi tơ để câu nó; loài biết bay, ta có thể dùng tên để bắn hạ nó. Về phần rồng, ta không biết rồng làm thế nào để mượn gió mây mà lên trời được. Hôm nay ta gặp được Lão Tử, ông ấy tựa như con rồng không lường trước được!”)

Có thể thấy rằng, Giác Giả độ nhân và nhà tư tưởng trong nhân thế có tồn tại sự khác biệt căn bản. Đạo của Lão Tử, vi diệu khó hiểu, là giáo hóa của Thần; lời của Khổng Tử, chẳng qua cũng chỉ là học vấn của con người, là pháp để quy phạm đạo đức hành vi của nhân loại.

Cũng giống như tư tưởng Nho gia của Khổng Tử, tư tưởng Đạo gia của Lão Tử cũng trở thành một trong những chủ thể văn hóa truyền thống Trung Quốc. Tính trọng yếu của việc này nằm ở chỗ sau thời kỳ Thần và nhân cùng tồn tại ở văn minh Trung Hoa, ông đã lần đầu tiên nói cho con người biết con đường phản bổn quy chân. Ông chỉ bảo cho con người biết làm thế nào để nhận thức trời, đất, tự nhiên, vũ trụ, xã hội và tự thân. Ví như Lão Tử cho rằng pháp tắc của thiên địa là không vì ý chí của con người mà thay đổi, vạn vật sinh tử đều phải thuận theo tự nhiên, cho nên sinh hoạt của con người tại thế gian cũng cần phải thuận theo tự nhiên. Nói tóm lại, Nho gia là tư tưởng “Nhập thế”, còn Đạo gia là tư tưởng “Xuất thế”, ông để lại cho con người chính là phương pháp tu luyện. Những người tu Đạo sau này, phàm là tuân theo Đạo của Lão Tử, đều phải từ bỏ vinh hoa phú quý của thế tục, tu thân dưỡng tính, mà tại loạn thế hiểm ác không gặp phải hoạn nạn long đong. Học Đạo của Lão Tử uyên bác thâm thúy, nguồn gốc thì xa xưa mà thời gian lưu truyền lại dài, đây là càn khôn đã định, vì để làm gương sáng cho muôn đời, cho nên những người tu Đạo sau này cũng đều xem Lão Tử là tông sư của họ vậy.

Ngoài ra, chủ trương chính trị “Vô vi mà trị” của Đạo gia cũng tạo ra ảnh hưởng quan trọng tới những người thống trị đời sau.

Trong thời Đông Hán, Lão Tử cùng với các đạo thuật trong dân gian kết hợp, hình thành nên Đạo giáo. Lão Tử được Đạo giáo tôn làm thủy tổ. Tuy nhiên, Đạo giáo và Đạo gia là hai khái niệm không hề giống nhau.

Sự truyền bá tư tưởng của Đạo gia cũng là để cung cấp điều kiện tất yếu cho sự truyền nhập tư tưởng Phật gia sau này.

Thích Ca Mâu Ni – Phật gia – Văn hóa truyền thống Trung Quốc

Vào thời điểm Đại Đạo của Trung Quốc lưu truyền tại Thần Châu đại địa, thì cùng lúc đó, tại Ấn Độ cổ xưa cũng có nền văn minh phương Đông đã bắt đầu được truyền rộng – đó chính là Phật Pháp của Thích Ca Mâu Ni.

Thích Ca Mâu Ni sinh ra tại thành Kiếp Bỉ La của nước Già Bì La Vệ thuộc Ấn Độ cổ. Mẹ của ông là Ma Da phu nhân trên đường về nhà mẹ đẻ đã hạ sinh Thích Ca Mâu Ni tại vườn Lam Bì Ni (nay ở phía Nam nước Nepal). Thích Ca Mâu Ni từ nhỏ đã có tấm lòng từ bi nhân ái, thường trách trời thương dân, thích suy ngẫm về chân lý cuộc sống nhân sinh. Năm 19 tuổi, Thích Ca Mâu Ni từ bỏ vương vị, rời khỏi vương cung, xuất gia tu hành. Ấn Độ lúc bấy giờ có các loại phương pháp tu luyện của các tông phái. Những phương pháp tu luyện này từ trước thời Thích Ca Mâu Ni đã tồn tại. Thích Ca Mâu Ni đầu tiên tu “Vô tưởng định” trong ba năm, cuối cùng cũng tu thành. Nhưng ông nhận ra đây không phải là Đạo, không phải là căn bản nên vứt bỏ không cần. Thích Ca Mâu Ni lại tu “Phi tưởng – phi phi tưởng định” ba năm, cuối cùng đạt được cảnh giới này. Nhưng ông phát hiện đây cũng không phải là Đạo, cho nên lại bỏ đi không cần. Thích Ca Mâu Ni hai lần “biết là không phải liền bỏ”, lúc đó cũng không tìm đâu ra được minh sư, buộc lòng phải lên núi tuyết lạnh lẽo khắc nghiệt để tu khổ hạnh. Ông một ngày chỉ ăn một quả khô, đói tới mức không ra hình người. Ông khổ tu như vậy là muốn đi tìm một chân lý. Nhưng sáu năm sau, ông cho rằng khổ hạnh cũng không phải là Đạo, ông liền xuống núi.

Thích Ca Mâu Ni gầy yếu đi đến bên bờ sông Hằng. Ông thực sự đói tới mức đứng không nổi, ngất xỉu bên bờ sông. Vừa may có một cô gái chăn dê đi qua, cho ông uống sữa đặc rất ngon, Thích Ca Mâu Ni nhận được dưỡng chất, khôi phục lại thể lực. Nhưng ông không có cách nào tìm ra một minh sư có thể chỉ đạo cho mình, liền vượt qua sông Hằng đến dưới gốc một cây bồ đề đả tọa, phát thệ nếu không tu thành “Vô thượng chính đẳng chính giác” thì sẽ chết ở nơi này.

Thích Ca Mâu Ni dưới cội bồ đề đả tọa suốt bảy bảy bốn mươi chín ngày. Vào hừng đông ngày thứ bốn mươi chín, ông ngẩng đầu lên nhìn trời, nhìn thấy sao Kim trên bầu trời. Từ lúc đó, thần thông và công năng ngay lập tức khai nổ, tư duy của ông trong nháy mắt được đả khai, ông lập tức nhớ lại những gì mình đã tu luyện trước đây, biết được kiếp trước, kiếp này của bản thân và nhiều điều nên biết sau khi khai ngộ. Sóng năng lượng được phóng xuất ra trong khi khai ngộ, khiến cho một phạm vi địa lý rộng lớn xung quanh nơi Thích Ca Mâu Ni khai ngộ bị rung động. Người đương thời phát hiện có động đất nhẹ, núi lở và sóng thần xảy ra, kỳ thực là do Phật Thích Ca Mâu Ni khai ngộ mà tạo nên. Đương nhiên, năng lượng của Phật là từ bi, không gây ra tổn hại đến con người. Thích Ca Mâu Ni biết rằng mình đã đắc Đạo, bởi vì ông đã có đầy đủ trí tuệ và năng lực sau khi khai ngộ. Trải qua 12 năm tu hành cực kỳ gian khổ, Phật Thích Ca Mâu Ni cuối cùng nhìn sao Kim mà ngộ Đạo. Sau đó, Phật Thích Ca Mâu Ni lại bắt đầu cuộc đời 49 năm truyền Pháp.

Đặc điểm pháp môn của Phật Thích Ca Mâu Ni gọi là “Giới, Định, Huệ”. “Giới” chính là cấm hẳn hết thảy dục vọng và chấp trước của người thường. “Định” là chỉ người nhập định tu hành. “Huệ” là chỉ người khai công khai huệ. Đại tạng kinh có bao nhiêu vạn cuốn sách, đều không rời xa ba chữ này. Đương nhiên, biểu hiện cụ thể của nó tương đối phức tạp, nhưng thực chất chính là ba chữ này.

Lúc ấy, ở Ấn Độ có tám loại tôn giáo đồng thời lưu truyền. Phật Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền cùng bảy loại tôn giáo kia vẫn luôn phát sinh tranh luận về hình thái ý thức. Thế lực của Bà La Môn giáo bấy giờ rất lớn, tranh luận nhiều nhất với Phật Thích Ca Mâu Ni. Lời nói việc làm của mọi người đều đi ngược lại với những giáo huấn của Phật thời tiền sử. Cứ như vậy, Bà La Môn giáo đi vào thời kỳ mạt pháp. Vào thời điểm đó, Phật Pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni thuận lợi truyền bá ở Ấn Độ. Vì Thích Ca Mâu Ni truyền là chính Pháp, trong quá trình truyền Pháp, Phật Thích Ca Mâu Ni không ngừng bác bỏ giáo lý của các tôn giáo khác, vì vậy liên tục có những người ngoại đạo bỏ đạo cũ mà quy y Phật giáo. Như Xá Lợi Phất trí huệ đệ nhất nguyên trước đây là người của Bà La Môn giáo. Ông biện luận cùng Phật Thích Ca Mâu Ni, biết rằng Phật Thích Ca Mâu Ni truyền là chính Pháp, liền ly khai Bà La Môn giáo trở thành đệ tử có trí huệ nhất của Phật Thích Ca Mâu Ni. Cứ như vậy, Phật Pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni càng ngày càng hưng thịnh, còn các tôn giáo khác càng ngày càng suy yếu. Phật Pháp dần dần không thể dung hòa với các tôn giáo khác. Sau cùng mâu thuẫn giữa các tôn giáo trở nên gay gắt, xuất hiện sự tình những người ngoại đạo Lõa Hình sát hại đệ tử của Phật. Đệ nhất thần thông Mục Kiền Liên bị người của đạo Lõa Hình lên trên núi đẩy đá xuống đè chết, trở thành vị đệ tử của Phật đầu tiên tuẫn giáo. Người ngoại đạo còn lùng bắt các đệ tử của Phật, đẩy vào hầm lửa, hoặc cột vào cột rồi dùng tên bắn chết. Sau khi Phật diệt, đệ tử của Phật còn bị chém đầu một lần cả 500 người. Những sự kiện bức hại đó đều khiến cho lòng người vô cùng đau khổ!

Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni niết bàn, các tôn giáo khác lại bắt đầu hưng thịnh trở lại. Cuối cùng Phật giáo ở Ấn Độ kết hợp lại cùng Bà La Môn giáo, trở thành một loại tôn giáo mới – Ấn Độ giáo. Ấn Độ giáo không còn tin vào Thích Ca Mâu Ni, cũng không còn thờ phụng vị Phật nào nữa. Vì vậy, Phật giáo sinh ra tại Ấn Độ, cuối cùng lại tiêu mất ở Ấn Độ. Tuy nhiên tại những nơi như Đông Nam Á, Trung Quốc, Phật Pháp lại được truyền bá rộng khắp, ảnh hưởng sâu sắc tới văn hóa của những quốc gia này.

Phật Pháp truyền nhập vào Trung Quốc khi nào, có ảnh hưởng ra sao tới văn minh Trung Hoa?

Nghe nói ở những năm cuối triều Tây Hán, Phật giáo thông qua đường biên cương bắt đầu truyền nhập vào trong nội địa Trung Quốc. Hồi Phật giáo mới tiến nhập vào Trung Quốc, đã phát sinh rất nhiều mâu thuẫn với văn hóa truyền thống Trung Quốc. Không ít văn nhân bài xích văn hóa ngoại lai, còn xuất hiện sự kiện Bắc Ngụy Thái Vũ Đế và Bắc Chu Vũ Đế hai lần diệt Phật với quy mô lớn. Nhưng trải qua sự va chạm và kết hợp của hai thời Đông Hán, Ngụy Tấn trong hơn 200 năm, Phật giáo cùng văn hóa bản thổ của Trung Quốc từ đối kháng chuyển sang thích ứng, đồng thời còn ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.

Thời kỳ Nam Bắc triều, Phật giáo từ Nam tới Bắc, từ Đông tới Tây, vượt qua các địa khu, vượt qua biên giới các quốc gia mà truyền bá rộng khắp. Dưới điều kiện hấp thu văn hóa truyền thống Trung Quốc mà hình thành nên Phật giáo Trung Quốc đặc sắc và độc đáo. Phật giáo Trung Quốc cũng giống như Nho gia, Đạo gia, trở thành một cột trụ trọng yếu của văn hóa truyền thống Trung Quốc, tạo ra ảnh hưởng rất sâu sắc tới các phương diện của xã hội Trung Quốc. Phật giáo Trung Quốc phát triển đến thời Tùy Đường thì tiến nhập vào thời kỳ hưng thịnh. Quốc gia thống nhất, kinh tế phồn vinh, lại được hoàng đế các thời kỳ trọng thị Phật giáo, nên một lượng lớn kinh Phật đã truyền nhập vào Trung Quốc, được dịch thành Hán văn, lưu truyền rộng khắp, bắt đầu xuất hiện các hệ phái Phật giáo với các phong cách khác nhau. Như Thiên Thai tông, Từ Ân tông, Hoa Nghiêm tông, Luật tông, Thiền tông, v.v, trong đó ảnh hưởng lớn nhất là Thiền tông. Phật giáo thời kỳ đó đã thẩm thấu vào chính trị, kinh tế, văn hóa và sinh hoạt của con người tại Trung Quốc.

Đến thời nhà Tống, ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn hóa Trung Quốc đã thẩm thấu toàn diện vào triết học, văn học, luân lý học cũng như lĩnh vực luật học, đối với thơ ca ảnh hưởng còn nhiều hơn nữa. Có rất nhiều tăng nhân có văn hóa cũng viết một lượng lớn thơ để nói về Thiền, một lượng lớn các áng thơ từ theo đuổi thiền cảnh yên lặng trống vắng tới bắt đầu theo đuổi thiền cơ thiền thú cơ trí hoạt bát, theo đuổi tìm chọn ngôn ngữ trong Phật giáo, theo đuổi lý tính trong Thiền tông.

Có thể nói, sau thời Tùy Đường, tư tưởng Phật gia có ảnh hưởng tương đối rộng khắp tới văn hóa nghệ thuật Trung Quốc. Chủ yếu biểu hiện tại: thứ nhất, nghệ thuật truyền thống Trung Quốc, như kiến trúc, nặn tượng đúc tượng, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, hí kịch, v.v xuất hiện một lượng lớn các tác phẩm có quan hệ tới “Phật”. Thứ hai, tác phẩm văn học Trung Quốc xuất hiện thiết âm, quan niệm văn phạm (pháp lệnh thành văn thời xưa), danh từ mới, văn thể mới, các khái niệm và đề tài mới cho thi ca, ngữ lục thể, tiểu thuyết truyền kỳ, tạp kỹ v.v. Thứ ba, ảnh hưởng tới tư tưởng triết học Trung Quốc.

Ngoài ra, tư tưởng Phật gia cũng ảnh hưởng tới khoa học truyền thống Trung Quốc như y dược, thiên văn, số học.

Mà Phật giáo cũng có ảnh hưởng rất lớn tới phong tục tập quán của Trung Quốc. Cụ thể biểu hiện như sau: thứ nhất, tin vào tam thế (quá khứ – hiện tại – tương lai). Phật gia cho rằng, vạn sự vạn vật nơi thế gian đều do nhân duyên hòa hợp mà sinh ra, hết thảy đều nằm trong luân hồi, con người có sinh lão bệnh tử, trời có trăng sao tròn khuyết, hoa nở hoa rụng, hết sinh lại diệt. Sau khi Phật giáo truyền nhập vào Trung Quốc, người Trung Quốc bắt đầu biết con người có tam thế, biết rằng sinh ra là đến, chết rồi là đi. Thứ hai, tin vào lục đạo. Phật giáo có thuyết về lục đạo luân hồi. Mặc dù đời này làm việc ác vẫn đắc phúc sống thọ, nhưng nghiệp quả không báo vào đời này thì sẽ báo vào đời sau. Thứ ba, tin vào thiện ác hữu báo. Con người tin vào tam thế lục đạo, cho nên tin rằng thiện ác chắc chắn có quả báo, hoặc là báo vào chính bản thân mình, hoặc báo vào con cháu mình, hoặc báo vào đời sau của mình. Đồng thời còn dẫn xuất ra những quan niệm như hối tội thực phúc (hối lỗi ăn năn để gây dựng phúc báo), duyên thọ (kéo dài tuổi thọ), tiến vong (tụng kinh hoặc làm các việc cho vong linh sớm siêu thoát), tu đức nhương tai (tu dưỡng đạo đức để cầu an), thiết cung kì nguyện (bố trí dâng cúng cầu nguyện).

Nói tóm lại, mức độ ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn hóa truyền thống Trung Quốc, có thể nói là vừa sâu vừa rộng.

(Còn tiếp)

(*) để hiểu sâu sắc hơn câu nói của Lão Tử, mời đọc giả hãy tìm hiểu thêm bài giảng thứ chín, trong quyển sách “Chuyển Pháp Luân” của ngài Lý Hồng Chí.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/38455

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (9): Nho, Thích, Đạo và văn hóa truyền thống Trung Quốc (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (8): Nho, Thích, Đạo và văn hóa truyền thống Trung Quốc (Phần 1)https://chanhkien.org/2024/01/khai-quat-ve-van-hoa-trung-quoc-8-nho-thich-dao-va-van-hoa-truyen-thong-trung-quoc-phan-1.htmlSat, 06 Jan 2024 22:55:01 +0000https://chanhkien.org/?p=32293Tác giả: Tâm Duyên [ChanhKien.org] Chương 10: Nho, Thích, Đạo và văn hóa truyền thống Trung Quốc (Thượng) Trong hơn 2.500 năm sau thời Xuân Thu, ảnh hưởng sâu sắc nhất đến văn hóa truyền thống Trung Quốc là Nho gia, Thích gia và Đạo gia. Vì vậy thủy tổ của ba gia này: Khổng […]

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (8): Nho, Thích, Đạo và văn hóa truyền thống Trung Quốc (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Chương 10: Nho, Thích, Đạo và văn hóa truyền thống Trung Quốc (Thượng)

Trong hơn 2.500 năm sau thời Xuân Thu, ảnh hưởng sâu sắc nhất đến văn hóa truyền thống Trung Quốc là Nho gia, Thích gia và Đạo gia. Vì vậy thủy tổ của ba gia này: Khổng Tử, Phật Thích Ca Mâu Ni và Lão Tử trong dòng sông dài đằng đẵng của lịch sử vẫn nhận được sự kính ngưỡng và sùng bái lâu dài của hậu nhân.

Không biết là sự trùng hợp của lịch sử hay an bài của Thiên ý, mà Khổng Tử, Phật Thích Ca Mâu Ni và Lão Tử đều xuất hiện vào cùng một thời đại. Năm sinh của Lão Tử không rõ ràng. Ngày 8 tháng 4 năm 566 trước Công nguyên (TCN), Thích Ca Mâu Ni sinh ra tại khu vực là nước Nepal ngày nay. 15 năm sau, tức ngày 27 tháng 8 năm 551 TCN, Khổng Tử ra đời ở Khúc Phụ, Sơn Đông. Văn minh Trung Hoa cũng nhờ có ba vị thánh nhân này mà phát triển rực rỡ.

Khổng Tử – Nho gia – Văn hóa truyền thống Trung Quốc

Năm 551 TCN, Khổng Tử sinh ra tại nước Lỗ. Ông tên Khâu, tự là Trọng Ni, họ Khổng Thị. Nhà Khổng Tử rất nghèo, địa vị xã hội cũng rất thấp. Sau khi lớn lên, ông từng làm Tiểu Lại, là một chức quan nhỏ không có phẩm cấp thời phong kiến. Vì để tuyên truyền chủ trương chính trị của mình, ông dùng phần lớn thời gian cuộc đời dẫn dắt các đệ tử chu du liệt quốc, bôn ba du thuyết các nước. Tuy nhiên chủ trương của ông vẫn luôn không được trọng thị. Tới năm 63 tuổi, Khổng Tử về lại nước Lỗ. Nước Lỗ cuối cùng cũng không trọng dụng Khổng Tử, ông cũng không yêu cầu ra làm quan nữa.

Từ đó về sau, Khổng Tử dốc lòng dạy học, biên soạn điển tịch, trong chín năm tuổi xế chiều này cuối cùng đã xây dựng được Nho học thành một thể hệ tư tưởng. Nổi tiếng nhất là: Khổng Tử đã hoàn thành xong việc biên soạn “Lục Nghệ” gồm “Thi”, “Thư”, “Nhạc”, “Lễ”, “Dịch” và “Xuân Thu”. Trừ “Nhạc” sau này bị thất lạc, các kinh thư còn lại luôn là tài liệu giảng dạy cơ bản của các vương triều hậu thế.

Khổng Tử còn căn cứ vào tài liệu lịch sử của nước Lỗ mà viết nên “Xuân Thu”, bắt đầu từ năm đầu của Lỗ Ẩn Công (năm 722 TCN), kết thúc vào năm thứ 14 của Lỗ Ai Công (năm 481 TCN), bao quát 12 vị quốc quân của nước Lỗ. Lấy nước Lỗ làm trung tâm mà ghi chép, tôn kính tính chính thống của vương thất nhà Chu, lấy sự tích thời Ân Thương làm điều răn, kế thừa truyền thống của nhà Hạ, Thương và Chu, văn từ ngắn gọn súc tích mà ý nghĩa lại uyên thâm. Nước Ngô, nước Sở tự xưng là vương, nhưng trong “Xuân Thu” lại bị hạ xuống xưng là tử tước. Tấn Văn Công cùng chư hầu gặp mặt để liên kết đồng minh, thực tế là triệu Chu Tương Vương tới nhập hội cùng, nhưng trong “Xuân Thu” lại kị húy mà viết rằng: “Chu thiên tử tuần thú đến Hà Dương”. Cứ như vậy mà suy, “Xuân Thu” chính là sử dụng nguyên tắc như vậy mà bình luận về các sự kiện lúc bấy giờ, hậu thế gọi đây là bút pháp “Xuân Thu”.

Khổng Tử là cá nhân đầu tiên thu nhận học trò dạy học trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Trước ông, việc học tập diễn ra tại quan phủ. Khổng Tử mở ra trường học tư, thu nhận môn đồ rộng khắp, mở rộng đối tượng giáo dục tới người dân bình thường, đưa văn hóa tri thức truyền bá tới dân gian, làm ra cống hiến vĩ đại với giáo dục cổ đại.

Đệ tử theo học Khổng Tử ước chừng có khoảng 3.000 người, trong đó có 72 người tinh thông sáu loại kỹ nghệ là Lễ, Nhạc, Xạ, Ngự, Số, Thuật. Còn như những đệ tử được Khổng Tử dạy bảo nhiều phương diện khác nhưng không chính thức ghi vào danh sách lại càng nhiều hơn nữa.

Khổng Tử sau khi qua đời được mai táng bên bờ Tứ Thủy ở phía Bắc Lỗ Thành. Có hơn 100 nhà là những đệ tử của ông và những người dân khác của nước Lỗ, lần lượt tới bên mộ của ông mà ở, cho nên nơi này được gọi là “Khổng lý”. Các thế hệ người dân nước Lỗ truyền lại rằng, mỗi năm đều phải đúng ngày đúng giờ quy định tới trước mộ của Khổng Tử tế bái, mà giới nho sinh cũng đúng thời điểm này đến nơi đây để nghiên cứu và học tập lễ nghi, tiến hành lễ uống rượu và các nghi thức như thi bắn cung.

Khu mộ của Khổng Tử rộng khoảng một khoảnh (tương đương 100 mẫu đất của Trung Quốc, ước chừng 6,67 hécta). Gian nhà chính nơi Khổng Tử từng ở cùng những phòng trong mà đệ tử ở sau này được cải tạo thành miếu, lưu giữ lại những đồ vật mà Khổng Tử từng dùng như y phục, mũ mão, đàn, xe, sách vở, v.v. Một mạch cho tới tận thời nhà Hán, hơn 200 năm chưa từng bị bỏ hoang.

Sau này các đệ tử của Khổng Tử căn cứ theo ngôn hành của ông mà biên soạn thành “Luận ngữ”, đây là tư liệu trực tiếp đáng tin cậy nhất để con người hiện đại chúng ta nhận thức về Khổng Tử. Khổng Tử đã sáng tạo ra một học thuyết hoàn chỉnh lấy “Nhân”, “Lễ, “Trung Dung”, “Giáo” và “Học” làm nội dung chủ yếu, bao quát chính trị, luân lý, đạo đức, giáo dục và các tư tưởng khác, kỳ vọng quy phạm hành vi từ quân vương tới bách tính lê dân. Ông nói cho người ta biết thế nào là Trung Dung, thế nào là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, v.v. đã tạo ra ảnh hưởng to lớn tới lịch sử văn hóa của Trung Quốc và thậm chí cả Đông Nam Á.

Như vậy tư tưởng Nho gia của Khổng Tử bao hàm những nội dung chủ yếu gì?

Một, “Nhân” (仁) là cốt lõi trong tư tưởng học thuyết của Khổng Tử. Khổng Tử đã đề xuất một cách minh xác rằng, “Nhân” tức “ái nhân” (Nhan Uyên), tạm dịch “Nhân” là yêu thương con người. Làm sáng tỏ thêm một bước nữa thì “Phu Nhân giả, kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân” (Ung dã), tạm dịch là người Nhân là người muốn đứng vững thì giúp người khác đứng vững, muốn thành đạt thì giúp người khác thành đạt. Nếu Nhân thì phải làm được “Kỷ sở bất dục, vật thi vu nhân” (Nhan Uyên), tạm dịch là điều nào mình không muốn người khác làm với mình thì cũng không làm với người khác. Tư tưởng đã này xuyên suốt các phương diện học thuyết tư tưởng của Khổng Tử.

Khổng Tử lại chỉ rõ thêm ra rằng “Năng hành ngũ giả vu thiên hạ, vi nhân hĩ”, tạm dịch là có thể làm được năm điều ở trong thiên hạ thì là Nhân vậy. Năm điều này chính là “Cung, khoan, tín, mẫn, huệ”. Bởi vì “Cung tắc bất vũ, khoan tắc đắc chúng, tín tắc nhân nhậm yên, mẫn tắc hữu công, huệ tắc túc dĩ sử nhân” (Dương hóa), tạm dịch là khiêm cung thì không khinh nhờn, khoan dung thì được lòng người, tín thì người ta tin cậy được, mẫn (cán) thì có công, huệ thì đủ (sai) khiến được người. Năm loại phẩm đức này đều được kiến lập trên cơ sở tôn trọng, quan tâm và thông cảm với con người. “Tử dĩ tứ giáo, văn, hành, trung, tín”, chính là học sinh phải học tập bốn phương diện: học vấn, ngôn hành, trung thành, khoan dung và tín nghĩa.

Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh giá trị và tác dụng của “Nhân”. Ông cho rằng, “Nhân” đã là điều mà mỗi cá nhân cần thiết phải tu dưỡng, cũng là nguyên tắc trị quốc bình thiên hạ tất yếu phải tuân theo. Đối với việc thi hành chính trị, ông khởi xướng phải dựa vào sự quan tâm và quý trọng người dân, lấy phương thức giáo hóa để đạt được mục đích an bang trị quốc. Ông đề xuất: “Vi chính dĩ đức, thí như bắc thần cư kì sở nhi chúng tinh cộng chi.” (Vi chính), tạm dịch là cầm chính quyền thì phải có Đức, ví như sao Bắc Đẩu ở nơi cố định để các ngôi sao khác vây quanh vậy. Cái gọi là Đức này, chính là thể hiện tinh thần của “Nhân”.

Trên cơ sở khởi xướng “Nhân” và “Đức”, Khổng Tử đề xuất một loại xã hội lý tưởng “Đại Đồng”, chính là: Ở thời Đại Đạo thực hành thì thiên hạ là của chung, cả thiên hạ đều vì việc công, chọn người hiền năng, coi trọng thành tín, sống trên thuận dưới hòa, người ta không chỉ thương kính với cha mẹ của mình, không chỉ yêu thương con cái mình, người già được nuôi dưỡng trọn đời, người tráng niên có chỗ được sử dụng, con trẻ được chăm sóc tới khi trưởng thành, những người góa bụa cô độc, những người cô đơn mất vợ, những người bệnh tàn phế tật nguyền đều được nuôi dưỡng… Được như vậy thì âm mưu quỷ kế không thịnh hành, bạo loạn trộm cướp không xảy ra, đi ra ngoài không phải đóng cửa, như thế là đại đồng. (Lễ Kí – Lễ Vận). Xã hội đại đồng này, thực tế chính là tinh thần của “Nhân” được thể hiện toàn diện đầy đủ ngoài xã hội.

Lý tưởng “Đại Đồng” khó mà thực hiện được, Khổng Tử lùi một bước đề xuất lý tưởng xã hội “Tiểu Khang”: Xây dựng thành quách, đào hào bảo vệ thành để thêm kiên cố, đặt ra lễ nghi làm kỷ cương dùng để quy phạm quan hệ vua tôi, khiến quan hệ cha con thân mật, anh em hòa thuận, vợ chồng hòa ái, dùng lễ nghi xây dựng các loại chế độ, phân chia ruộng đất và hộ tịch… nhờ đó mà xây dựng lễ nhượng (khiêm cung, thủ lễ, lấy cách cư xử cao đẹp mà nhường nhau) kiểu mẫu theo nghi lễ, làm gương cho bách tính noi theo lễ pháp mà chấp hành… Như thế là Tiểu Khang. Đây là xã hội bước đầu quán triệt được tinh thần của “Nhân”.

Hai, “Lễ” (礼) là một phạm trù quan trọng khác trong học thuyết tư tưởng của Khổng Từ. “Lễ” là một loại quy phạm hành vi xã hội đã tồn tại từ lâu. Khổng Tử cho rằng, tới thời nhà Chu, “Lễ” đã phát triển tới mức độ hoàn mỹ nhất, vì vậy ông sùng bái nhất là Chu Lễ, tức là Lễ của nhà Chu.

Theo cách nhìn của Khổng Tử, “Lễ” là quy phạm hành vi mà mỗi người nhất định phải tuân thủ, từ Thiên tử cho tới thứ dân. Cái “Lễ” của Khổng Tử bao hàm hai phương diện là tinh thần bên trong và hình thức bên ngoài. Cái tinh thần bên trong này đã duy hộ chế độ tông pháp (1) cấp bậc cùng các loại quan hệ luân lý tương ứng đương thời.

Hình thức bên ngoài của “Lễ” bao gồm các lễ tiết nghi thức như tế tự, quân đội, lễ đội mũ, kết hôn, tang sự, mai táng, triều bái kết thân, liên kết đồng minh, v.v. Khổng Tử cho rằng, chú trọng tinh thần bên trong của “Lễ” tất nhiên là quan trọng, nhưng tinh thần bên trong chung quy vẫn cần dựa vào hình thức bên ngoài để thể hiện. Cho nên đối với những lễ tiết nghi thức này, Khổng Tử không chỉ chuyên chú học tập, tự mình thực hành, mà còn yêu cầu các đệ tử nghiêm khắc tuân thủ. Bởi vì tinh thần bên trong của “Lễ” là duy hộ chế độ tông pháp cấp bậc, cho nên còn liên quan tới địa vị danh phận của mỗi cá nhân. Hành vi tuân thủ nghiêm ngặt với danh phận của bản thân chính là giữ “Lễ”, vượt quá danh phận của bản thân chính là trái với “Lễ”. Đề xuất “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”, tạm hiểu là vua phải ra vua, quan phải ra quan, cha phải ra cha, con phải ra con. “Lễ nhạc chinh phạt tự thiên tử xuất,” (lễ nhạc và hiệu lệnh chinh phạt đều ở trong tay thiên tử), không thể “Tự pháp hầu xuất” (ở trong tay vua chư hầu), lại càng không thể “Bồi thần chấp quốc mệnh” (do bề tôi nắm giữ vận mệnh quốc gia). Trong phương diện gia đình thì “Phụ vi tử ẩn, tử vi phụ ẩn”, tạm hiểu là cha che giấu cho con, con che giấu cho cha. (2)

Bởi vậy, Khổng Tử không chỉ đề xuất rõ ràng chủ trương “Chính danh”, mà còn thông qua việc biên soạn “Xuân Thu” mà châm biếm bài xích các chủng các loại hành vi trái lễ đi quá giới hạn.

Ba, Khổng Tử còn đưa ra tư tưởng “Trung dung”.

Tại đây có hai điểm quan trọng: thứ nhất là “Trung”, thứ hai là “Hòa”. Cái “Trung” của Khổng Tử, không phải là thỏa hiệp và nhượng bộ, mà là trong lúc nhận thức và xử lý sự vật khách quan, cần phải làm được “Thích độ” (vừa phải), “Kháp như kì phân” (đúng mực, thích đáng). Mà cơ sở của “Thích độ” và “Kháp như kì phân” chính là bắt nguồn từ thực tế.

Khổng Tử còn đưa ra quan điểm “Hòa vi quý”. “Lễ” vốn là dùng để biểu thị sự khác biệt về cấp bậc trong bối cảnh mọi người có thân phận khác nhau. Nhấn mạnh “Hòa vi quý”, chính là nhấn mạnh sự phối hợp và hài hòa quan hệ khi có sự khác biệt và không cùng cấp bậc này. Đối với tư tưởng “Trung” và “Hòa” này, Khổng Tử chủ trương không chỉ xem nó là một phương pháp nhận thức và xử lý sự vật, mà còn thông qua tu dưỡng và rèn luyện, đưa nó dung nhập vào tính cách và phẩm chất của bản thân, trở thành mỹ đức của con người.

Bốn, Khổng Tử cả đời “Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện” (học không biết chán, dạy người không biết mệt). Ông trong quá trình dạy học đã tích lũy được kinh nghiệm phong phú. Tư tưởng “Giáo” và “Học” là bộ phận quan trọng hình thành nên học thuyết tư tưởng của ông.

Khổng Tử nơi nào cũng học, không có vị thầy nào cố định truyền thụ, cả đời khiêm tốn hiếu học. Ông đề xướng “Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã” (Vi chính), tạm dịch là: biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, vậy mới thật là biết. Ông còn nói “Tam nhân hành, tất hữu ngã sư yên. Trạch kì thiện giả nhi tòng chi, kì bất thiện giả nhi cải chi.” (Thuật nhi), tạm dịch là: trong ba người đi cùng đường, tất có người là thầy của ta, lấy cái thiện của họ mà học, nhìn ra cái bất thiện của họ mà sửa mình. Lại nói “Mẫn nhi hảo học, bất sỉ hạ vấn”, tạm dịch là người minh mẫn hiếu học, không ngại hỏi kẻ dưới. Khổng Tử cũng học tập học sinh của mình, ông đề xướng “Đương nhân, bất nhượng vu sư” (Vệ Linh Công), tạm dịch là: việc nhân đức không nhường ai, làm điều nhân đức thì dẫu là thầy cũng không nhường.

Trong “Bát dật” có đoạn trò chuyện giữa đệ tử Tử Hạ và Khổng Tử như sau:

Tử Hạ: Khéo cười tươi đẹp làm sao, mắt đẹp làm sao, nền trắng vẽ bức tranh tươi đẹp, nói như vậy nghĩa là sao?

Khổng Tử: Phải có nền trắng đẹp trước, sau mới vẽ tranh.

Tử Hạ: Vậy Lễ cũng đứng sau Nhân sao?

Khổng Tử: Trò có thể bàn luận “Thi” với ta được rồi.

Để tổng kết kinh nghiệm học tập của bản thân, ông nói: “Ngô thường chung nhật bất thực, chung dạ bất tẩm, dĩ tư, vô ích, bất như học dã” (Vệ Linh Công), tạm dịch là: ta từng cả ngày không ăn, cả đêm không nghỉ, suy tư, nhưng vô ích, không bằng đi học.

Ông đề xuất học tập phải cố gắng nỗ lực, coi trọng phương pháp học tập. Về vấn đề hình thành tích lũy tri thức, ông nhấn mạnh tính trọng yếu của việc học và cầu, nói rằng tự mình là “Ngã phi sinh nhi tri chi giả, hảo cổ, mẫn dĩ cầu chi giả dã “ (Thuật nhi), tạm dịch là ta sinh ra không phải đã biết tất cả, là do thích đạo cổ xưa, cần mẫn học hỏi mà nên. Ông yêu cầu các đệ tử phải “Phát phấn vong thực”, nghĩa là cố gắng nỗ lực quên ăn, “Học nhi thì tập chi” (học thì phải luyện tập), “Ôn cố nhi tri tân” (ôn lại cái cũ để biết cái mới). Ông nói: “Đa văn, trạch kỳ thiện giả bất nhi tòng chi, đa kiến nhi thức chi, tri chi thứ dã” (Thuật nhi), tạm dịch là nghe nhiều, chọn lấy điều thiện mà làm theo, nhìn nhiều rồi ghi nhớ thành tri thức của mình, biết được như vậy là người có trí rồi. Lại nói: “Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi” (Vi chính), tam dịch là học mà không suy nghĩ thì mất hết, nghĩ mà không học thì nguy hiểm. Một mặt thì yêu cầu suy nghĩ phân tích phải dựa trên cơ sở tìm tòi học tập, mặt khác lại yêu cầu phải học, phải nghe, phải nhìn mọi thứ thêm vào đó là phân tích nghiên cứu, biến thành tri thức của mình, giúp tri thức của mình phong phú, đạt được đề cao. Ông còn nhấn mạnh học kết hợp với hành. Ông nói: “Quân tử dục nột vu ngôn nhi mẫn vu hành” (người quân tử không nên nói nhiều mà quan trọng ở hành). Cho rằng chỉ nói mà không làm là điều đáng xấu hổ, “Sỉ cung chi bất đãi dã” (Lý nhân), tạm dịch là sợ sẽ xấu hổ nếu nói mà không làm được. “Quân tử sỉ kì ngôn nhi quá kì hành” (Hiến văn), tạm dịch là quân tử phải biết hổ thẹn vì lời nói quá so với việc làm. Thực tiễn và kinh nghiệm giáo dục của Khổng Tử đã đặt định ra cơ sở hình thành lý luận giáo dục truyền thống của Trung Quốc.

Có thể nói, Khổng Tử là người đặt nền móng cho văn hóa truyền thống Trung Quốc. Tư tưởng kể trên của ông đã trở thành một trong những chủ thể văn hóa truyền thống của Trung Quốc đời sau, đối với các phương diện như phương thức tư duy, định hướng giá trị cũng như tâm lý xã hội của người Trung Quốc đều có ảnh hưởng sâu sắc. Lấy “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cơ sở, tư tưởng Nho gia coi trọng tu dưỡng đạo đức của con người, giảng khí tiết, trọng đạo nghĩa, quan tâm tới người khác, đề xướng khoan dung nhẫn nại bình hòa, độ lượng lạc quan, quan tâm tới chỉnh thể lợi ích của quốc gia và nhân dân, coi trọng tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Những điều này có ý nghĩa quan trọng với việc đề cao tu dưỡng đạo đức của con người, bảo trì sự hài hòa trong quan hệ xã hội, ổn định xã hội, v.v. Bởi vậy những quốc quân có đạo đức của nhiều triều đại đều tuân theo tư tưởng trị quốc bình thiên hạ của Khổng Tử.

Tư Mã Thiên, sử gia thời Hán đã đánh giá Khổng Tử là: “Thi” trung hữu giá dạng đích thoại: “Tượng cao sơn nhất bàn lệnh nhân chiêm ngưỡng, tượng đại đạo nhất bàn nhượng nhân tuân tuần.” tạm dịch là trong “Thi” có một câu nói như thế này: “Giống như núi cao khiến người khác phải chiêm ngưỡng, giống như Đại Đạo khiến người phải tuân theo.” Từ xưa đến nay, trong thiên hạ từ quân vương cho tới hiền nhân cũng nhiều, khi còn sống thì hiển quý vinh hoa, nhưng tới lúc chết thì cũng chẳng còn gì. Khổng Tử là một người bình dân, những người đọc sách đều tôn ông làm tông sư. Từ thiên tử vương hầu tới người làm lục nghệ trong toàn quốc đều xem học thuyết của Khổng Tử là chuẩn tắc tối cao, vậy có thể nói Khổng Tử là Thánh nhân chí cao vô thượng rồi. Vì vậy, người biết Trung Hoa tất biết Khổng Tử, không biết Khổng Tử thì không thể chân chính hiểu rõ văn hóa truyền thống Trung Hoa.

Đáng tiếc là tới lịch sử cận đại Trung Quốc, đặc biệt là sau thời Trung Cộng nắm được chính quyền, chẳng e dè gì mà không ngừng phá hoại văn hóa truyền thống Trung Quốc, tư tưởng của Khổng Tử cũng bị phê phán. Những hiện thực xấu xí ở Trung Quốc ngày nay như đạo đức xã hội chẳng còn, nhân tâm không còn như xưa, chính trị hủ bại chính là hậu quả xấu từ sự phá hoại văn hóa truyền thống của Trung Cộng.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/38439

Chú thích:

(1): Quý độc giả có thể tìm hiểu thêm về “chế độ tông pháp” trên trang Wikipedia.

(2): Theo hiểu biết của người dịch “Phụ vi tử ẩn, tử vi phụ ẩn”, có ý là cha và con che giấu lỗi cho nhau là lẽ thường tình vì có tình phụ tử, nên không thể nói là không ngay thẳng. Vậy, lý và tình có khi không nhất trí với nhau mà là quan hệ tư pháp còn chứa đựng mâu thuẫn. Về lý, con làm chứng cha phạm tội là theo lý ngay thẳng, không sai. Nhưng về tình, cha che giấu tội con cũng thường xảy ra. Quan điểm Khổng Tử là phải đem lý và tình thống nhất được với nhau mới phù hợp thực tế thời bấy giờ.

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (8): Nho, Thích, Đạo và văn hóa truyền thống Trung Quốc (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 7): Chữ Hán Thần truyềnhttps://chanhkien.org/2023/12/khai-quat-ve-van-hoa-trung-quoc-phan-7-chu-han-than-truyen.htmlWed, 06 Dec 2023 02:55:53 +0000https://chanhkien.org/?p=32004Tác giả: Tâm Duyên [ChanhKien.org] Chương 9: Chữ Hán Thần truyền Trong quá trình hình thành và phát triển của tiếng Hán có xuất hiện rất nhiều tiếng địa phương. Vì lẽ gì ở một nơi có nhiều tiếng địa phương như Trung Quốc, trong quá trình phát triển mấy nghìn năm vẫn có thể […]

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 7): Chữ Hán Thần truyền first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Chương 9: Chữ Hán Thần truyền

Trong quá trình hình thành và phát triển của tiếng Hán có xuất hiện rất nhiều tiếng địa phương. Vì lẽ gì ở một nơi có nhiều tiếng địa phương như Trung Quốc, trong quá trình phát triển mấy nghìn năm vẫn có thể bảo trì được sự thống nhất và truyền thừa về văn hóa trong phần lớn thời gian? Mà những nơi sử dụng ngôn ngữ đồng nhất như Đế quốc La Mã, Đế quốc Ả Rập sớm đã chia năm xẻ bảy? Nguyên nhân căn bản là nhờ công cụ ghi chép của Hán ngữ – Hán tự là một loại văn tự hình khối (vuông) hết sức đặc biệt. Chữ Hán dù là khắc trên mai rùa, đúc trên khí cụ đồng đen, khắc trên thẻ tre, hay viết trên giấy trắng, trong 5.000 năm qua hình thức của chữ Hán có biến đổi, nhưng đặc tính biểu ý của chữ Hán không biến đổi.

Tương truyền sau khi Nữ Oa tạo ra con người ở vùng đất Trung Nguyên, lại có một số Thần tới nhân gian dạy con người những kỹ năng sinh tồn cơ bản. Lúc ban đầu, mọi người giao tiếp với nhau là thông qua một số âm tiết và thế tay đơn giản, chính Thần Phục Hy đã sáng tạo cho nhân loại những ký hiệu văn tự sớm nhất để thay thế cho việc thắt nút dây ghi nhớ sự việc.

Đến thời kỳ Hoàng Đế là chủ chung của thiên hạ, các loại phát minh như văn tự, y học, toán số, lịch pháp, nhạc khí, gốm sứ, nuôi dâu tằm lần lượt xuất hiện. Tương truyền bên cạnh Hoàng Đế có một sử quan tên Thương Hiệt đã sáng tạo ra văn tự. Nghe nói, trên đầu Thương Hiệt có bốn con mắt, có thể nhìn thấy thần minh. Ông ngẩng đầu có thể nhìn thấy hình dạng Khuê tinh viên khúc (ý nói sao Khuê tròn và chòm sao Khuê khúc khuỷu), cúi đầu có thể quan sát được hoa văn trên mai rùa và dấu chân của chim muông cầm thú. Thông qua việc thu thập rộng khắp nhiều loại hình tượng xinh đẹp ở thế gian, Thương Hiệt đã đem chúng tổng hợp lại thành văn tự, đây chính là “Thượng cổ văn tự” mà người đời sau hay nói. Sự kiện tương đối quan trọng đối với nhân loại này đương nhiên cũng đã kinh động tới trời xanh, cho nên mới có truyền thuyết “Thương Hiệt tạo tự, thiên vũ túc, quỷ dạ khóc”, ý nói vào lúc Thương Hiệt tạo ra chữ Hán, cảm động Thần linh, gạo từ trên trời rơi xuống, ban đêm nghe thấy tiếng quỷ đang kinh hãi khóc rống. Bởi vậy có thể thấy rằng, chữ Hán ban đầu là do người có đức hạnh thông qua thần thông truyền cấp cho nhân loại, đối với sự phát triển của nhân loại trong tương lai có tác dụng trọng yếu mang tính quyết định.

Trên cơ sở văn tự Thần truyền, vào thời nhà Chu, người xưa đề xuất ra phương pháp tạo chữ Lục Thư (xem trong “Chu Lễ”). Căn cứ vào cách nói của nhà văn tự học thời Đông Hán là Hứa Thận, thì “Lục Thư” là chỉ: tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, chuyển chú và giả tá.

“Tượng hình tự” là thông qua đặc trưng chủ yếu của sự vật khách quan mà tiến hành miêu tả và sáng lập ra văn tự, ví như các chữ 日 (nhật)、月 (nguyệt)、山 (sơn)、川 (xuyên)、人 (nhân)、大 (đại)、女 (nữ)、田 (điền)、井 (tỉnh)、雨 (vũ)…

“Chỉ sự tự” có một loại là văn tự ký hiệu đơn thuần, ví như 一 (nhất)、二 (nhị)、三 (tam); một loại là tại cơ sở của chữ tượng hình mà thêm vào ký hiệu để biểu đạt ý nghĩa, ví như 本 (bản)、末 (mạt)…

“Hội ý tự” là những văn tự được hình thành thông qua việc tổ hợp từ hai hoặc nhiều hơn hai chữ Hán trở lên, ví như 林 (lâm)、森 (sâm)、步 (bộ)、取 (thủ)…

“Hình thanh tự” là chỉ các chữ được hình thành từ việc tổ hợp các chữ Hán biểu ý và các chữ Hán biểu thanh, ví như 空 (không)、悲 (bi)… Hình thanh tự là phương pháp được sử dụng nhiều nhất để tạo chữ, vậy nên trong chữ Hán thì chữ hình thanh là nhiều nhất.

“Chuyển chú tự” là chỉ những chữ Hán có cùng một bộ thủ và ý nghĩa tương đồng có khả năng giải thích cho nhau, ví như 考 (khảo) và 老 (lão).

“Giả tá tự” là mượn dùng những chữ đồng âm đã có để biểu đạt một khái niệm nào đó. Nói một cách nghiêm khắc thì “chuyển chú” và “giả tá” không phải là phương pháp tạo chữ, mà là “tự pháp” (1).

Các phương pháp tạo chữ kể trên cho thấy, chữ Hán cổ đại của Trung Quốc đều có liên hệ chặt chẽ với vạn sự vạn vật, có cùng nguồn gốc với bản chất của sự vật. Hứa Thận thời Đông Hán đã thành công sử dụng Dịch Kinh và Ngũ Hành để hoàn nguyên cấu tạo của chữ Hán trở lại như cũ, lần đầu phân tích và giải thích một cách có hệ thống 540 thiên bàng bộ thủ, viết ra một cuốn “Thuyết Văn Giải Tự” chưa từng có.

Theo sự phát triển dần dần của văn hóa nhân loại, ngôn ngữ văn tự của Trung Quốc cũng càng ngày càng phong phú hơn lên. Người ta căn cứ vào các phương pháp tạo chữ kể trên cùng với cơ sở các bộ thủ mà Hứa Thận cung cấp, căn cứ vào nhu cầu của mình mà sáng tạo ra lượng lớn chữ Hán. Chữ Hán không chỉ có thể biểu đạt âm thanh, mà còn có thể biểu đạt ý tứ, không chỉ có hình tượng cấu thành mười phần sinh động, mà nội hàm cũng có đủ tính thần truyền. Chữ Hán cùng với văn hóa cổ đại của Trung Quốc một mạch kế thừa và hỗ trợ lẫn nhau, bác đại tinh thâm. Mỗi chữ Hán chính thống đều quán xuyến đạo đức truyền thống của Trung Quốc, nội hàm Thiên – Địa – Nhân, thậm chí đến cả đạo lý tu luyện.

Ví như chữ 儒 (Nho – học trò, tên chung của người có học), từ thiên bàng bộ thủ mà xét, từ 人 (Nhân) và 需 (Nhu) mà giảng thì là yêu cầu (nhu) của con người (nhân), con người yêu cầu những gì đây? Một là đồ để ăn, hai là giáo dục. Thức ăn dinh dưỡng bắt đầu từ sữa mẹ, giáo dục bắt đầu từ khi còn là trẻ con. Cho nên, chữ Nho là từ Nhân và Nhu tổ thành, hơn nữa lại đồng âm với chữ 乳 (Nhũ – sữa).

Lại nói hai chữ 羞耻 (Tu sỉ – có nghĩa là cảm thấy xấu hổ, hổ thẹn) gồm chữ 羞 (Tu) và chữ 耻 (Sỉ). Chữ 羞 (Tu) phân tích thì có nghĩa là làm việc này kém (bộ 羊 – dương), nhìn thấy xấu (bộ 丑 – sửu). Chữ 耻 – Sỉ có ý nghĩa là câu trách cứ người khác: cái lỗ tai ngươi còn nghe được không (bộ 耳 – Nhĩ), ngươi còn không ngừng hành vi của mình lại (bộ 止 – Chỉ)?

Hay như chữ 福 (Phúc), thế nào là Phúc? 一口 (Nhất khẩu) một người , 一田 (nhất điền) một mảnh ruộng, 一衣 (nhất y) một bộ quần áo, nghĩa là Phúc, có thể thấy cổ nhân đối với lý giải về Phúc thật là vô cùng giản dị và lạc quan.

Ví như chữ 仁 (Nhân – nhân ái, lòng nhân từ) là chữ Hội ý, gồm có 人 (Nhân) và 二 (Nhị). Theo Thuyết Văn Giải Tự, “Nhân – con người” là “Thiên đích chi sinh, tối quý giả dã”, có nghĩa người là do trời sinh ra, là trân quý nhất. Còn nói phàm là thuộc về người thì đều có bộ 人 (Nhân). 二 (Nhị) là từ hội ý, cũng chính là chữ cổ văn của chữ “Thượng” (上) (2) . 二 (Nhị), 上 (Thượng) đều có ý nghĩa là cao. Thuyết Văn Giải Tự viết, 二 (Nhị) là số của đất. Như vậy, kết hợp lại mà xét, 仁 (Nhân – nhân ái, lòng nhân từ) chính là tình cảm cao thượng mà chỉ có con người trên thế gian mới có. Trong Nho gia giảng “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín”, Nhân chỉ đứng đằng sau Đức, là một loại tình cảm sâu đậm tốt đẹp mà chỉ con người mới có. Trong Thuyết Văn Giải Tự viết, “Nhân, Thân dã”. Người với người quan tâm thân thiết (亲 – chữ Thân trong thân thiết) lẫn nhau. Trong Lễ Ký có viết: “Thượng hạ tương thân vị chi Nhân”, tạm dịch là trên dưới quan tâm thân thiết là Nhân (nhân ái). Còn có “Ôn lương giả, nhân chi bổn dã”, tạm dịch là ôn hòa hiền lành là căn bản của Nhân (nhân ái). “Nhân giả khả dĩ quan kì ái yên”, tạm dịch là người có lòng nhân (ái) có thể tỏ ra được sự yêu thương. Trong tác phẩm “Xuân Thu – Nguyên Mệnh Bao” có viết “Nhân giả, tình chí hảo sinh ái nhân, cố lập tự nhị nhân vi nhân”. Nhân giả là cách gọi người nhân đức. Từng có thời kì dùng chữ Nhân này để chỉ có ân với sự sinh sôi của vạn vật. Cổ đại xưa nay tôn sùng chính trị nhân từ, cho rằng người có đức hạnh cao mới có thể gọi là vương. Hiện nay gọi hạt của hoa quả là 仁 (Nhân). Kỳ thực vào thời cổ đại đều dùng từ 人 (Nhân) này, như 果人 (quả nhân – hạt của quả)、核桃人 (hạch đào nhân – hạt quả hạch đào). Từ thời nhà Minh mới cải biến thành 仁 (Nhân).

Ví như chữ 義 (Nghĩa), chính thể của chữ Nghĩa này là chữ hội ý, gồm có 我 (Ngã) và 羊 (Dương). 我 (Ngã) là chữ hội ý, có chữ 戈 (Qua). 戈 (Qua) là giáo – một loại binh khí thời cổ. Chữ 羊 (Dương) là chữ tượng hình biểu thị việc cúng tế gia súc. Chữ Qua có tính kim khí này khiến cho chữ 義 (Nghĩa) mang một bầu không khí dương cương đầy tiếng leng keng, bởi vì trong đó có nguy hiểm và trách nhiệm. Còn chữ Dương mang nghĩa hiến tế kia lại chứng tỏ Nghĩa là hy sinh sự giàu có của bản thân để kính Thần. Cổ nhân giảng: “Nghĩa bất sát sinh, nghĩa bất sát thiểu”. Ý nghĩa ban đầu của Nghĩa là phù hợp với hành vi đạo đức hoặc đạo lý. Xả sinh thủ nghĩa, tạm dịch là xả bỏ sinh mệnh để đạt được đạo nghĩa, là đạo lý mà người xưa hết lòng tin tưởng không thể chối từ. Nhưng hiện tại lại đơn giản hóa thành chữ 义 (Nghĩa) này, hoàn toàn không còn thấy được nội hàm ban đầu nữa rồi.

Nói về chữ 禮 (Lễ), Thuyết văn giảng, “Lễ, Lí dã. Sở dĩ sự thần trí phúc dã.” Ý nghĩa ban đầu là cử hành nghi lễ, tế thần cầu phúc. Nho gia xưa nay coi trọng Lễ, chữ Lễ này đúng thật là có ý nghĩa như vậy. Chữ 禮 (Lễ) là chữ hội ý, có chữ 示 (Thị hoặc Kỳ), chữ 匚 (Phương). Chữ 匚(Phương) là chữ tượng hình, là đồ vật dùng trong tế tự thời cổ đại, nếu như được dùng trong Thần sự (các sự việc liên quan tới thờ cúng các vị thần linh) thì được gọi là 禮 (Lễ). 示 (Kỳ) là chữ hội ý, chữ Tiểu Triện. Phía trên chữ 示 (Kỳ) có chữ 二 (Nhị), trong cổ văn có nghĩa là 上 (Thượng), phía dưới có chữ 小 (Tiểu) có nghĩa là tam thụ, tam thụ đại biểu cho Nhật (mặt trời), Nguyệt (mặt trăng), Tinh (sao). Trong Chu Dịch giảng: “Thiên thùy tượng, kiến cát hung”. Chỉ có quan sát thiên văn ở trên trời mới có thể thấy rõ được biến hóa ở thế gian, đó là vì thiên tượng là biện pháp mà Thần sử dụng để chiếu cố mách bảo cho nhân loại. Kỳ còn là một bộ thủ trong tiếng Hán. Chữ Kỳ có nhiều trong các chữ có liên quan đến việc tế Thần. Ví như chữ 祝 (Chúc) là một từ khen ngợi dùng trong việc tế chủ. Chữ 福 (Phúc), có thiên thần bảo hộ thì mới gọi là Phúc. Chữ 禅 (Thiền), chỉ một hình thức tế trời của đế vương. Chữ 社 (Xã), chỉ thần thổ địa. Kết hợp lại mà xét, nội hàm của chữ 禮 (Lễ) là hướng tới thần linh mà tế tự, biểu đạt sự thành kính và tôn trọng. Đây là nội dung trọng yếu nhất của văn hóa Nho gia. Nghĩa rộng trong sinh hoạt hàng ngày là chỉ sự tôn trọng đối với người khác. Trong “Tả truyện” có viết, “Phu lễ, thiên chi kinh dã, địa chi nghĩa dã, dân chi hạnh dã”, tạm dịch là cái Lễ của người là đạo của trời, nghĩa của đất, đức hạnh của con người. Nhưng sau này đơn giản hóa lại thành 礼 – Lễ, hoàn toàn không còn nội hàm kính Thần kính người nữa.

Ví như chữ 智 (Trí), đây là một chữ hội ý kiêm hình thanh, là chữ có sau chữ 知 (Tri). Chữ Trí có chữ 日 (Nhật) và chữ 知 (Tri). Tri cũng là chỉ thanh. Chữ 知 (Tri) là chữ hội ý, gồm có chữ 矢 (Thỉ) và chữ 口 (Khẩu). 矢 (Thỉ) là chữ tượng hình, phỏng theo hình mũi tên có gắn lông chim, có nghĩa là tên, mũi tên, nghĩa rộng là chính trực, đoan chính. Chữ 口 (Khẩu) đứng cạnh chữ 矢 (Thỉ) hiểu rộng ra nữa là mở miệng đưa ra lời thề không hối hận. 知 (Tri) là từ cổ của 智 (Trí), có tài thông hiểu thiên đạo, hiểu rõ lý của nhân thế gọi là Trí, cũng chính là Tri. Hơn nữa, Tri, Trí chân chính, nhất định là chân lý, nhất định là chân tướng, cũng nhất định không lệch khỏi quỹ đạo của nhân nghĩa đạo đức.

Ví như chữ 信 (Tín), đây là chữ hội ý gồm chữ 人 (Nhân) và chữ 言 (Ngôn). Ý nghĩa ban đầu của 信 (Tín) là chân tâm thành ý, chuyên nhất không thay đổi. Ngôn luận của con người nên là thành thật, chân thật, không giả dối. 言 (Ngôn) là từ chỉ sự, trong chữ 言 (Ngôn) Giáp cốt thì phía dưới là chữ 舌 (Thiệt – cái lưỡi), phía dưới gạch ngang biểu thị Ngôn (lời nói) là từ Thiệt (cái lưỡi) mà ra, là tượng hình của việc mở miệng uốn (duỗi) lưỡi nói chuyện. Còn chữ Ngôn thiên bàng bộ thủ đều có quan hệ với nói chuyện và đạo đức. Trong Thuyết Văn Giải Tự có nói, “Trực ngôn viết ngôn, luận nan viết ngữ”, chính là nói trong tâm có cái gì trực tiếp nói ra thì là 言 (Ngôn), còn suy lí biện luận chất vấn thì nên phải gọi là 語 (Ngữ). Bởi vậy “Pháp ngôn nghĩa sơ – Vấn Thần” viết, “Ngôn, tâm thanh dã”. Nếu như một người nào đó ngôn bất do trung, nghĩa là nghĩ một đằng nói một nẻo, nói lời giả dối, thì khẳng định là không có Tín. “Thi – Vệ Phong – Manh” viết: “Tín thệ đán đán”, nghĩa là lời thề son sắt. Người cổ đại một khi đã phát lời thề, thì sẽ không bao giờ có chuyện không thực hiện.

Từ một số ví dụ kể trên có thể thấy rằng, nội hàm của Hán tự chính thống thật phong phú biết bao.

Mà hình thể của chữ Hán trong quá trình phát triển dài đằng đẵng, trải qua Giáp cốt văn, Kim văn, Đại triện, Tiểu triện, Lệ thư và Khải thư, sau đó vào những năm cuối nhà Hán cố định lại, khiến cho văn hóa Trung Hoa có thể tương truyền qua các thời đại.

Nghiên cứu của các nhà khoa học phát hiện ra rằng, chữ Hán kì diệu hết sức có lợi cho việc phát triển đại não. Tháng 5 năm 1982, bài viết của nhà tâm lí học Richard Lynn trên tạp chí khoa học “Nature” có tiếng nhất toàn cầu đã gây ra tiếng vang mạnh mẽ trên thế giới. Ông đã tiến hành trắc định và kiểm tra chỉ số IQ của trẻ em năm nước Anh, Mỹ, Pháp, Tây Đức và Nhật Bản, phát hiện ra chỉ số IQ trung bình của trẻ em bốn nước Âu Mỹ là 100, còn IQ trung bình của trẻ em Nhật Bản là 111, nguyên nhân là vì trẻ em Nhật Bản có học tập chữ Hán. Một vị giáo sư của Pháp nói, “Dạy trẻ em Pháp văn tự chữ Hán, mục đích chủ yếu không phải để nắm vững một loại công cụ ngôn ngữ nữa, mà là thông qua học tập chữ Hán để mở mang trí tuệ của trẻ em Pháp”.

Tuy nhiên ở gần trăm năm, đặc biệt là gần 50 năm trở lại đây, dưới sự thống trị tà ác của Trung Cộng, văn minh cổ xưa của Trung Quốc gặp phải một trường hạo kiếp, những truyền thống ưu tú bị phá hoại gần như không còn, vô số văn vật trân quý bị đốt sạch. Tải thể của văn hóa Trung Hoa – chữ Hán cũng khó tránh khỏi kiếp nạn. Trong quá trình phá hoại vô lối (của Trung Cộng), chữ Hán truyền thống đã bị bóp méo thành cái gọi là “chữ giản thể”.

Sự xuất hiện của “chữ giản thể” đã gây ra ảnh hưởng rất to lớn tới sự biểu đạt chuẩn xác nội hàm của chữ Hán, ví như chữ “義” và chữ “义” đã nói ở trên. Lại ví như chữ “車 (Xa – xe cộ)” truyền thống, ở giữa chữ là thân xe, trên dưới là bánh xe, một cái trục bánh xe nối liền cả lại. Từ chữ 車 có thể dễ dàng nhìn ra ý nghĩa của nó. Còn chữ 车 (xa) viết theo chữ giản thể thì căn bản không nhìn ra hàm nghĩa nguyên thủy của nó nữa rồi.

Ngoài ra, sự xuất hiện của chữ giản thể đã làm cho người Trung Quốc sau năm 1949 không còn biết làm thế nào để đặt tên chính xác cho các sự vật mới xuất sinh. Cho dù đặt cho nó một cái danh từ thì cũng đã đánh mất liên hệ với bản tính và tầng tầng ý nghĩa sâu hơn của sự vật. Từ mặt này mà giảng, chữ Hán cũng chỉ còn lại một chút ý tứ nông cạn bề mặt. Chữ Hán giản thể cũng đã khiến thuộc tính âm dương, ngũ hành nguyên bản của chữ Hán biến mất gần như không còn.

Nói tóm lại, chữ Hán truyền thống bị biến dị thành chữ giản thể, kỳ thực chính là cắt đứt huyết mạch đã tương truyền qua các thời kỳ của văn minh Trung Hoa 5000 năm, hủy diệt quan niệm đạo đức chính thống để làm người của con người.

Ghi chú của người dịch:

(1) “字法” : “Tự pháp” là cách dùng chữ chứ không phải là phương pháp tạo chữ.

– Chữ chuyển chú là chữ có tự dạng giống nhau, cách phát âm tùy vào vị trí chữ mà có cách phát âm khác biệt. Ví dụ: Chữ 考 (Khảo: thọ/già) và 老 (Lão: già) là hai chữ khác nhau nhưng có cùng nghĩa chỉ người già.

– Chữ giả tá thuộc dạng chữ mượn có sẵn rồi phát âm chệch đi hoặc giữ nguyên âm đọc, thay đổi nghĩa khác. Ví dụ: 長 (Trường) là dài bị mượn và đọc ra thành Trưởng có nghĩa trưởng thành 長大 (Zhǎng dà).

Xem tham khảo tại đây.

(2) Chữ cổ văn (Giáp cốt văn và Kim văn) của chữ 上 (Thượng) chính là chữ 二 (Nhị), xem tham khảo tại đây.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/38214

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 7): Chữ Hán Thần truyền first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 6): Họ tên của người Trung Quốchttps://chanhkien.org/2023/11/khai-quat-ve-van-hoa-trung-quoc-phan-6-ho-ten-cua-nguoi-trung-quoc.htmlWed, 15 Nov 2023 02:45:51 +0000https://chanhkien.org/?p=31819Tác giả: Tâm Duyên [ChanhKien.org] Chương 8: Họ tên của người Trung Quốc Tương truyền Thần Phục Hy là người sớm nhất đặt định ra họ, ông tự đặt họ cho mình, và là người đặt ra tập tục này, từ đó về sau người Trung Quốc bắt đầu có họ. Mỗi người Trung Quốc […]

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 6): Họ tên của người Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Chương 8: Họ tên của người Trung Quốc

Tương truyền Thần Phục Hy là người sớm nhất đặt định ra họ, ông tự đặt họ cho mình, và là người đặt ra tập tục này, từ đó về sau người Trung Quốc bắt đầu có họ.

Mỗi người Trung Quốc đều xem trọng họ của mình, mỗi một người Trung Quốc đều có họ của riêng mình. Trung Quốc hiện tại có hơn 3.500 họ, nhưng trong lịch sử từng xuất hiện hơn 22.000 họ. Tuy nhiên họ mà người Trung Quốc thường sử dụng chỉ khoảng 100 họ.

Ở Trung Quốc mấy ngàn năm trước, ý nghĩa của Tính (姓) và Thị(氏) không giống nhau. “Tính” chủ yếu là để phân chia thị tộc, tránh để người có cùng “tính”, hay cùng họ lấy nhau. “Thị” ban đầu là nhánh của “tính”, chủ yếu là để phân biệt thân phận cao thấp. Người tôn kính có tính có thị, kẻ thấp hèn có tính mà không có thị.

Sau khi nhà Tần thống nhất Trung Quốc, “tính” và “thị” mới có ý nghĩa giống nhau.

Nguồn gốc các tên họ ở Trung Quốc rất phức tạp, chủ yếu có các nguồn sau đây:

1. Đến từ tộc hiệu của tổ tiên, ví như Đường, Hạ.

2. Đến từ tên của quốc gia được phân phong, như Tống, Tề.

3. Đến từ chức quan từng đảm nhiệm, như Tư Mã là chức quan quản việc giáo dục và văn hóa.

4. Đến từ tước vị, như Vương.

5. Đến từ thụy hiệu được đặt sau khi chết, như Vũ.

6. Đến từ địa phương cư trú, như Trì (ao).

7. Đến từ nghề nghiệp công tác, như Đào (gốm sứ).

8. Đến từ thứ bậc trong họ hàng, như Quý (út, thứ tư).

Ở Trung Quốc hiện đại, “danh” và “danh tự” có cùng ý nghĩa giống nhau là chỉ tên của một người. Tuy nhiên ở Trung Quốc cổ đại thì ý nghĩa của “danh” và “tự” lại không giống nhau. Người Trung Quốc cổ đại sau khi sinh thì được đặt “danh tự” (tên), sau khi thành niên (nam tử từ 20 tuổi trở đi) được đặt một “danh” khác, cũng chính là “tự”. Tự thường là giải thích và bổ sung cho “danh”. Ví như trong thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng có tự là Khổng Minh, ý nghĩa của Lượng và Khổng Minh là giống nhau. Người cổ đại ngoài “danh” và “tự” còn có “hiệu”. Thường thì đây là tôn xưng, hay cách gọi kính trọng. Ví dụ như thi nhân Lục Du thời nhà Tống có hiệu là Phóng Ông.

Vào thời cổ đại trong giao thiệp giữa người với người thông thường không trực tiếp gọi tên của đối phương. Chỉ có người trên đối với người dưới, người lớn tuổi đối với người nhỏ tuổi có thể gọi bằng tên.

Phương thức đặt tên của người Trung Quốc cũng rất phong phú, tên của người nam và người nữ cũng không giống nhau. Ví như trong động vật có Long, Hổ, trong thực vật có Tùng, Bách thường được dùng để đặt tên cho bé trai. Phượng, Yến và Mai, Lan thường được dùng để đặt tên cho bé gái.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/38062

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 6): Họ tên của người Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 5): Màu sắc trong văn hóa truyền thống Trung Quốchttps://chanhkien.org/2023/11/khai-quat-ve-van-hoa-trung-quoc-phan-5-mau-sac-trong-van-hoa-truyen-thong-trung-quoc.htmlSat, 11 Nov 2023 02:15:38 +0000https://chanhkien.org/?p=31776Tác giả: Tâm Duyên [ChanhKien.org] Chương 7: Màu sắc trong văn hóa truyền thống Trung Quốc Trong lịch sử mấy nghìn năm ở Trung Quốc, ngoài thời kỳ Tiên Tần và triều Tần thì các màu sắc mà người xưa sử dụng trong một thời gian rất lâu là các sắc màu tươi sáng, phong […]

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 5): Màu sắc trong văn hóa truyền thống Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Chương 7: Màu sắc trong văn hóa truyền thống Trung Quốc

Trong lịch sử mấy nghìn năm ở Trung Quốc, ngoài thời kỳ Tiên Tần và triều Tần thì các màu sắc mà người xưa sử dụng trong một thời gian rất lâu là các sắc màu tươi sáng, phong phú với năm màu chủ đạo: vàng, xanh, đỏ, trắng và đen, so với nhận thức của con người hiện nay thì trái ngược hẳn lại. Trước thời nhà Minh người xưa đều không đặc biệt coi trọng màu đỏ.

“Sắc thái” (色彩) hay còn gọi là “Nhan sắc” (颜色) có nghĩa là màu sắc. Tuy nhiên, thời Trung Quốc cổ đại, từ “Nhan sắc” có ý nghĩa hoàn toàn không giống với từ “Nhan sắc” hiện nay. Ban đầu từ này còn được dùng để chỉ sắc mặt (1). Ví như trong “Sở từ – Ngư phụ” có câu “Nhan sắc tiều tụy”. Trong “Thuyết văn giải tự” có viết: “Nhan, mi chi gian dã; sắc, nhan khí dã”, ý nói Nhan là vùng ở giữa hai mi, còn Sắc có nghĩa là khí. Đoàn Ngọc Tài chú giải: “Phàm tu quý hỷ ưu vị chi nhan sắc”, nghĩa là “Tất cả xấu hổ, vui mừng, âu lo những cái đó là nhan sắc”, bởi vì “Tâm đạt vu khí, khí đạt vu mi gian”, ý nói tâm thông đến khí, khí thông đến vùng giữa hai mi. Có thể thấy được ban đầu “Nhan sắc” là chỉ sắc mặt, chứ không có ý chỉ màu sắc của vạn vật. Tới thời nhà Đường, “Nhan sắc” mới có hàm nghĩa chỉ màu sắc của tự nhiên. Ví như nhà thơ Đỗ Phủ thời nhà Đường trong bài thơ “Hoa Để” có viết: “Thâm tri hảo nhan sắc, mạc tác ủy nê sa” có nghĩa là biết rõ những màu sắc đẹp, không bằng lòng với việc làm bùn cát. Thành ngữ “Ngũ nhan lục sắc” cũng phản ánh ý nghĩa này của từ “Nhan sắc”.

Khoảng 5.000 năm trước công nguyên vào thời của Hoàng Đế, người bấy giờ tôn sùng đơn sắc. Sau thời của Hoàng Đế, trải qua các thời nhà Thương, Thang, Chu, Tần, các bậc đế vương căn cứ vào học thuyết “Âm dương ngũ hành” (trình tự của ngũ hành là thủy, hỏa, mộc, kim, thổ, lần lượt đối ứng với màu đen, đỏ, xanh, trắng, vàng) để lựa chọn màu sắc biểu tượng cho mình. Vì người Trung Quốc xưa cho rằng ngũ hành sinh ra năm chủng nguyên tố là bản nguyên của vạn vật trong tự nhiên, nên nguồn gốc của hết thảy sự vật cũng lại như thế, màu sắc cũng không phải ngoại lệ. Trên hai cơ sở đặc thù là “Tự sinh kì minh”, có nghĩa là màu sắc đến từ tự nhiên, và “Thủ tiên hắc bạch”, có nghĩa là hai màu đen trắng là đầu tiên, người bấy giờ dần dần xây dựng mối quan hệ giữa màu sắc và sự vận động tự nhiên theo thiên đạo của phép ngũ hành. Họ còn căn cứ vào biến đổi của vạn vật tự nhiên theo xuân hạ thu đông và dựa vào học thuyết ngũ hành mà lựa chọn quần áo, đồ ăn, xe ngựa, thay đổi nơi ở. Vì thế mà hình thành nên học thuyết ngũ sắc hay năm màu kể trên.

Hệ thống năm màu truyền thống của Trung Quốc coi màu đen, đỏ, xanh, trắng và vàng là chính sắc, hay màu sắc chính.

Màu đen trong “Dịch Kinh” được xem là màu của trời. Khởi nguồn của cách nói “Thiên đích huyền hoàng” là người xưa cảm thấy bầu trời ở phương Bắc trong thời gian dài đều hiển hiện một màu đen thần bí. Họ cho rằng sao Bắc Cực là nơi ở của Thiên Đế, nên ở Trung Quốc cổ đại màu đen là vua của các màu, cũng là màu đơn sắc được sùng bái trong thời gian dài nhất ở lịch sử Trung Quốc cổ đại. Thái Cực đồ của Trung Quốc cổ đại cũng lấy hai màu đen và trắng để biểu hiện âm dương hợp nhất.

Trong quan niệm về màu sắc ở Trung Quốc cổ đại, màu trắng mang nhiều ý nghĩa. Thuyết “ngũ hành” nói màu trắng và màu vàng kim là đối ứng với nhau, chứng tỏ người Trung Quốc xưa cảm thấy màu trắng tượng trưng cho quang minh, được xếp vào hàng chính sắc, biểu hiện cho bản chất thuần khiết, quang minh và phong phú.

Màu đỏ tại dân gian tượng trưng cho may mắn vui mừng.

Màu vàng là màu trung tâm, tượng trưng cho màu sắc của mặt đất. Ở Trung Quốc có cách nói “Hoàng sinh âm dương”, đem màu vàng tôn sùng là chủ của các màu. Là màu sắc chính thống ở vị trí trung tâm, là màu trung hòa, đứng trên các loại màu sắc, được cho là màu đẹp nhất.

Màu xanh (bao gồm cả màu lục) tượng trưng cho mùa xuân tràn trề sức sống.

Vào thời Tiên Tần, các màu sắc ở Trung Quốc cổ đại tượng trưng cho khuynh hướng phát triển đa nguyên hóa (2). Khổng Tử xuất phát từ việc duy hộ Lễ của nhà Chu, lấy màu vàng, xanh, trắng, đỏ và đen làm “Chính sắc” hay “Thượng sắc”. Ông còn lấy năm màu này cùng với nhân, đức, thiện kết hợp lại, vận dụng trong các hình thức của “Lễ”. Nhà Chu sùng bái màu đỏ. Nhưng Lão Tử lại đề xuất “Ngũ sắc lệnh nhân mục manh”, có nghĩa năm màu làm cho con người mù mắt, vì vậy lấy màu đen (màu huyền) để tượng trưng cho Đạo.

Trong thời kỳ này, tính tượng trưng của màu sắc trở thành căn cứ chủ yếu để người Trung Quốc cổ nắm bắt mùa vụ và phương vị. Người xưa gắn cho mỗi mùa một màu và phương hướng. Xuân là thanh dương, phương hướng chủ Đông, thần bảo vệ là Thanh Long. Hạ là chu minh, phương hướng chủ Nam, thần bảo vệ là Chu Tước. Thu là bạch thu, phương hướng chủ Tây, thần bảo vệ là Bạch Hổ. Đông là huyền đông, phương hướng chủ Bắc, thần bảo vệ là Huyền Vũ. Màu vàng là màu sắc trung tâm tượng trưng cho Ngũ Đế thời viễn cổ. Ở Trung Quốc, màu vàng có ý nghĩa tượng trưng đặc biệt, nó ở chính giữa ngũ hành là tượng trưng cho màu sắc của mặt đất.

Năm 221 trước công nguyên, Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, ông vẫn tuân theo cách truyền thống của tiền nhân mà quan sát vạn vật và chọn biểu tượng, phân biệt đen và trắng, tôn kính đức của nước. Ông còn định ra “Dĩ đông thập nguyệt vi niên thủ, sắc thượng hắc”, nghĩa là lấy mùa đông vào tháng 10 là đầu năm và màu sắc của nó là màu đen”. Sau khi Tần Thủy Hoàng đăng cơ, “Dịch phục sắc dữ kì vi hắc”, nghĩa là màu sắc trang phục và màu cờ đều là màu đen.

Sau thời nhà Tần, công năng của màu sắc dần chuyển biến sang tác dụng trang trí. Các màu sắc ở Trung Quốc cổ đại cũng phát triển theo hướng rực rỡ và phong phú.

Trong suốt các triều đại từ nhà Hán trở về sau, màu vàng với đặc tính gần với sự rực rỡ của vàng kim đã trở thành màu sắc tượng trưng chuyên dùng cho hoàng gia. Bách tính bình dân không được lấy màu đỏ và màu vàng làm màu của quần áo. Ở các triều đại khác nhau màu sắc trang phục của quan viên cũng khác nhau. Thông thường người ta lấy hỗn hợp các màu đỏ, vàng, xanh, trắng và đen gọi là hạ ngũ sắc. Vào thời nhà Hán, màu tím sáng trong hạ ngũ sắc thường được xem là một màu cực kì quý và hiếm. Vào thời nhà Đường, màu tím là màu trang phục cho quan từ ngũ phẩm trở lên, cùng với màu vàng trở thành hai màu được hoàng gia yêu thích. Màu tím được xem là màu sắc thanh cao nhã nhặn.

Trong văn hóa Trung Quốc, giữa màu sắc và công nghệ, màu sắc và mỹ thuật, màu sắc và thi ca, màu sắc và phong tục, v.v. có mối quan hệ rất khăng khít.

Việc vận dụng màu sắc trong các phương diện như kiến thiết thành thị, bích họa trên tường và hội họa cũng đa dạng. Ví như từ sau triều Minh, ở cố đô Bắc Kinh, chỉ có hoàng thân quốc thích mới được ở trong kiến trúc có tường đỏ mái vàng. Dân thường chỉ được ở trong kiến trúc có gạch xanh ngói xanh. Nhưng ở phương diện điêu khắc và trang trí xà cột thì màu sắc sử dụng lại rất phong phú. Kiến trúc dùng trong dân gian phần nhiều là tường trắng ngói đen.

Như tại hang đá Đôn Hoàng có niên đại cách đây 1.500 năm đang bảo tồn hơn một vạn bức bích họa trân quý, nhưng màu sắc của những bức bích họa ở các thời kỳ khác nhau cũng khác nhau. Ví như trong thời kỳ Bắc Ngụy thì chủ yếu dùng tông màu đỏ, phối với màu lam và màu đen. Thời kỳ nhà Đường thì có thêm màu vàng, các ứng dụng của màu sắc cũng muôn màu muôn vẻ, sáng sủa mà hoa lệ. Còn nhà Tống thì lấy màu lam và màu xanh lục làm chủ đạo.

Tranh Trung Quốc thì chủ yếu thông qua sự đậm nhạt của mực mà biểu hiện thần vận của bức tranh. Như “Mặc phân ngũ sắc”, có nghĩa là mực phân ra năm màu, “Bất thi đan thanh, quang thải chiếu nhân”, có nghĩa là màu sắc chói lọi mà không cần dùng màu sáng, trong sự đậm nhạt mà thể hiện ra cảnh giới nghệ thuật siêu nhiên. “Mặc phân ngũ sắc” tức là tiêu, nùng, hôi, đạm, thanh, có nghĩa là cháy, đậm, tro, nhạt và trong. Trong mắt của người họa sĩ thì bốn màu nước cũng rất rõ ràng. Trong “Lâm tuyền cao trí” của Quách Hi có viết: “Thủy sắc: xuân lục, hạ bích, thu thanh, đông hắc”. Trong hội họa Trung Quốc cũng không thiếu vẻ đẹp của màu sắc. Trong “Đường triều danh họa lục” có ghi lại, bức tranh sơn thủy màu xanh lục đậm của Lý Tư Huấn từng được Đường Huyền Tông xưng là “Quốc triều sơn thủy đệ nhất”. Màu sắc trong các loại tranh cung đình này hay dùng các loại như thạch thanh (azurit), thạch lục, thạch hoàng, chu sa, son, bột chì, nhũ kim. Trước tiên vẽ nét sau đó tô màu, màu sắc vừa rực rỡ vừa lộng lẫy. Mà người Trung Quốc lại giỏi vận dụng một lượng lớn các khoáng vật và thực vật trong tự nhiên, từ đó chế ra thuốc màu, bởi vậy độ sáng và độ bão hòa của màu sắc trong tranh Trung Quốc lại càng nhiều và phong phú.

Thi và họa của Trung Quốc có cùng một nguồn gốc, thường có một loại quan hệ “Thi trung hữu họa, họa trung hữu thi”, có nghĩa là trong thơ có họa, trong họa có thơ. Trong thơ ca cũng có màu sắc xuất hiện, điều này dần dần trở thành trào lưu, rất nhiều thi nhân cũng là cao thủ miêu tả màu sắc. Có thi nhân nhờ lấy màu sắc để hình thành ý cảnh tuyệt diệu mà được lưu danh như Thôi Hộ. Tác phẩm “Đề đô thành nam trang” của ông có câu:

Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng

Tạm dịch:

Ngày này năm ngoái trong sân
Khuôn mặt và hoa đào ánh màu đỏ hồng lên nhau

đã trở thành câu thơ thiên cổ độc nhất vô nhị.

“Mộ Giang Ngâm” của Bạch Cư Dị có câu:

Nhất đạo tàn dương phô thủy trung
Bán giang sắt sắt bán giang hồng

Tạm dịch:

Một đạo tà dương trải trên mặt nước
Một nửa sông run rẩy một nửa sông màu hồng

Vẻ đẹp của màu sắc trong bài thơ này khiến con người nghìn năm qua phải nghiền ngẫm. Còn “Nhạn môn Thái thú hành” của Lý Hạ đúng là một bản giao hưởng về màu sắc trong thơ:

Hắc vân áp thành thành dục tồi,
Giáp quang hướng nhật kim lân thai.
Giác thanh mãn thiên thu sắc lí,
Tắc thượng yêu chi ngưng dạ tử.
Bán quyển hồng kì lâm dịch thủy,
Sương trọng cổ hàn thanh bất khởi.
Báo quân hoàng kim thai thượng ý,
Đề huề ngọc long vi quân tử.

Tạm dịch (3):

Mây đen trên thành như muốn đè nát thành,
Áo giáp vàng lóng lánh ánh vẩy cá trong nắng.
Tiếng tù và thổi vang trời trong sắc thu,
Ban đêm quan ải màu tía như phấn kẻ lông mày.
Cờ đỏ cuốn một nửa khi quân tới sông Dịch,
Sương mù dày, trời lạnh, trống thúc quân không nổi.
Để báo đáp ơn vua qua ý nghĩa của đài Hoàng Kim,
Nguyện đem kiếm Ngọc Long vì vua mà chiến đấu tới chết.

Những nhà thơ và câu thơ như thế này trong lịch sử văn hóa Trung Quốc nhiều không kể xiết.

Trong tiếng Hán có nhiều màu sắc đều có bộ Mịch “纟”, “Thuyết văn giải tự” đã hệ thống lại 24 chữ nói về màu sắc của sợi tơ như 红- hồng (đỏ), 绿 – lục (xanh lục), 紫 – tử (tím), 绛 – giáng (đỏ thẫm), 绯 – phi (đỏ tươi), 绀 – cám (đỏ tím), 绢 – quyên (lụa), 缥 – phiếu (lụa màu trắng xanh), 缇 – đề (đỏ da cam), 素- tố (trắng). Có thể thấy những màu sắc rực rỡ này là tượng trưng cho sự phồn vinh của ngành nhuộm tơ thời cổ đại.

Gốm sứ và sơn mài Trung Quốc lại càng không thể thiếu sự tô điểm của màu sắc. Các loại phát minh về men sứ màu tạo ra sự rực rỡ và bóng láng cho vẻ ngoài của chúng. Từ Đường Tam Thải (gốm 3 màu) trứ danh tới Ngũ Thải (gốm 5 màu), từ sứ men xanh tới sứ men trắng, từ gốm trắng và xanh tới men có màu, màu sắc đóng một vai trò rất quan trọng. Gốm nhiều màu và gốm đen là đỉnh cao đệ nhất của công nghệ làm gốm cổ đại Trung Quốc. Đồ sơn mài và đồ dệt của Trung Quốc cũng có hoa văn tinh mỹ, màu sắc tươi sáng. Đồ trang sức sơn mài thời Chiến Quốc đã đạt tới trình độ trước đây chưa từng có. Nước Tề thời Chiến Quốc có rất nhiều “vải vóc có màu sắc đẹp đẽ”. Một số lụa là thu được sau khi khai quật các ngôi mộ cổ cũng được nhuộm các màu như nâu, đỏ, đen, tím, vàng.

Trong phong tục truyền thống Trung Quốc, văn hóa màu sắc lại càng phong phú. Màu vàng là màu của đế vương. Các kiến trúc của hoàng cung, xã tắc, đàn miếu chủ yếu dùng màu vàng. Màu vàng cũng được xem là màu siêu phàm thoát tục, là màu được tôn trọng và sùng kính trong Phật giáo. Trang phục của hòa thượng là màu vàng, các chùa miếu cũng là màu vàng. Màu đỏ là màu người Trung Quốc thích nhất, mỗi khi tới dịp năm mới hoặc dịp lễ hội, ngày lành hoặc có dịp đáng vui mừng, bạn bè thân quyến tụ hội, đều không thể thiếu màu đỏ. Màu tím là màu của điềm lành, trang trọng, dân gian có câu “Hoa lương tử yến, đối đối hàm nê, phi lai hựu khứ”, có nghĩa là đôi chim yến màu tím trên xà nhà chạm trổ, ngậm bùn trong miệng, bay đi bay lại. Màu trắng là màu của việc bất hạnh hay tang tóc. Người Trung Quốc chỉ khi có tang sự mới mặc đồ trắng, đội mũ nón trắng, cho tới nay vẫn như vậy.

Tuy nhiên tới thời cận đại, đặc biệt sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm được chính quyền, màu đỏ lại được sử dụng rộng khắp. Màu đỏ có thêm hàm nghĩa nguy hiểm, đẫm máu, bạo lực và hành vi cực đoan.

Chú thích của người dịch:

(1) 顏: nhan, dung nhan, vẻ mặt; 色: sắc, màu sắc, nhưng khi hai chữ này đi liền nhau thì gọi là màu sắc (theo nghĩa hiện nay).

(2) 多元化 Đa nguyên hoá: là sự đa dạng về sắc màu văn hóa – dân tộc

(3) Nguồn: thivien.net

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/37821

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 5): Màu sắc trong văn hóa truyền thống Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 4): Những ngày lễ tết truyền thống của Trung Quốchttps://chanhkien.org/2023/10/khai-quat-ve-van-hoa-trung-quoc-phan-4-nhung-ngay-le-tet-truyen-thong-cua-trung-quoc.htmlThu, 12 Oct 2023 03:34:31 +0000https://chanhkien.org/?p=31517Tác giả: Tâm Duyên [ChanhKien.org] Chương 6: Những ngày lễ tết truyền thống của Trung Quốc Tết Nguyên Đán Trung Quốc (1) Thời cổ đại ở Trung Quốc có một loại quái thú tên là “Niên”, đầu dài sừng nhọn, hung mãnh dị thường. “Niên” sống quanh năm ở sâu dưới đáy biển. Mỗi khi […]

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 4): Những ngày lễ tết truyền thống của Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Chương 6: Những ngày lễ tết truyền thống của Trung Quốc

Tết Nguyên Đán Trung Quốc (1)

Thời cổ đại ở Trung Quốc có một loại quái thú tên là “Niên”, đầu dài sừng nhọn, hung mãnh dị thường. “Niên” sống quanh năm ở sâu dưới đáy biển. Mỗi khi tới giao thừa, nó lại lên bờ ăn súc vật và làm hại con người. Thành thử mỗi khi tới giao thừa, người dân các thôn làng lại dìu già dắt trẻ trốn vào nơi núi sâu để tránh bị “Niên” hại.

Một đêm giao thừa nọ, khi mọi người đều đang vội vàng thu dọn đồ đạc trốn vào núi sâu, thì ở phía Đông thôn có một ông lão tóc bạc đi tới. Ông lão nói với gia đình một bà lão rằng chỉ cần cho ông ở nhà bà một đêm, ông nhất định có thể đuổi “Niên” đi. Mọi người đều không tin, bà lão khuyên ông lên núi tránh đi thì tốt hơn, nhưng ông lão vẫn kiên trì ở lại, mọi người thấy khuyên ông lão không được, liền hối hả lên núi lánh nạn.

Khi quái thú “Niên” chuẩn bị xông vào trong thôn tàn sát bừa bãi như những năm trước, thì đột nhiên có tiếng pháo nổ vang lên. “Niên” toàn thân rủi rẩy, không dám tiến về phía trước nữa, thì ra quái thú “Niên” sợ nhất là màu đỏ, ánh lửa và tiếng nổ. Đúng lúc đó cửa lớn mở rộng, chỉ thấy trong sân có một ông lão trên người khoác chiếc áo lụa màu đỏ đang cười lớn, thú “Niên” sợ quá liền bỏ chạy.

Ngày hôm sau, khi mọi người từ núi sâu quay trở lại thôn, thì phát hiện trong thôn bình yên vô sự. Lúc này mọi người mới bừng tỉnh hiểu ra mọi chuyện, thì ra ông lão tóc bạc chính là Thần Tiên tới giúp con người xua đuổi thú “Niên” đi. Đồng thời mọi người còn phát hiện ra ba loại pháp bảo mà ông lão đầu bạc đã dùng để đuổi “Niên”. Từ đó về sau, mỗi năm vào giao thừa, nhà nhà đều dán câu đối màu đỏ, đốt pháo, thắp đèn sáng rực rỡ và thức đêm để đón chào năm mới. Phong tục này ngày càng được lan truyền rộng rãi và Tết Nguyên Đán hay còn gọi là Quá Niên (Đón tết) đã trở thành ngày lễ tết truyền thống long trọng nhất của người dân Trung Quốc.

Hằng năm trước khi kết thúc năm cũ, cũng chính là từ ngày 23 đến ngày 30 tháng chạp âm lịch, mọi người gọi khoảng thời gian này là “Tiểu Niên”. Mỗi nhà đều phải quét dọn vệ sinh, ngăn nắp sạch sẽ đón chào năm mới.

Ngoài việc quét dọn vệ sinh, mỗi gia đình còn phải chuẩn bị đồ cho ngày Tết như thịt gà, thịt vịt, cá, trái cây, kẹo, v.v. Mỗi nhà còn phải chuẩn bị quà để tặng người thân vào dịp năm mới, còn phải mua quần áo mới cho con trẻ.

Vào đêm giao thừa, cả nhà đoàn tụ quây quần bên nhau. Ở miền Bắc Trung Quốc có tập tục ăn bánh chẻo hay sủi cảo, vì trong tiếng Trung, sủi cảo đọc là “jiao” đồng âm với “Giao”. Hợp và Giao cùng có ý là gặp nhau, vì vậy sủi cảo tượng trưng cho việc đoàn tụ sum vầy. Đồng thời còn có ý là “Canh Tuế Giao Tử”. Canh có nghĩa là thay thế, Tuế là năm, Giao có nghĩa là gặp nhau, Tử là tí thời, giờ Tý. Canh Tuế Giao Tử có nghĩa là năm mới thay thế năm cũ vào giờ Tý.

Ở phương Nam người dân ăn bánh mật, tượng trưng cho một năm mới với cuộc sống ngọt ngào hạnh phúc, từng bước từng bước đi lên. Buổi tối vào 12:00 đêm, cũng chính là lúc năm mới tới, việc đầu tiên mà mỗi nhà làm chính là đốt pháo.

Ngày mùng một, mọi người đều mặc quần áo mới, trước tiên chúc Tết người cao tuổi trong gia đình. Con trẻ chúc Tết người lớn, và còn được nhận tiền mừng tuổi. Mùng hai, mùng ba, mọi người bắt đầu đi thăm họ hàng bè bạn, chúc tết lẫn nhau.

Đường phố trong dịp Tết cũng rất náo nhiệt. Ở một số địa phương trên đường phố còn có các tập tục như tổ chức múa sư tử, múa rồng, dạo chợ hoa, đi hội chùa, hội làng.

Sau Tết Nguyên Tiêu vào ngày rằm tháng giêng thì Tết Nguyên Đán mới thật sự kết thúc.

Tết Nguyên Tiêu

Ngày mười lăm tháng giêng theo âm lịch hàng năm là ngày Tết Nguyên Tiêu truyền thống của Trung Quốc.

Tháng giêng là tháng 1 âm lịch, người xưa gọi ban đêm là “tiêu”, vì vậy gọi ngày mười lăm tháng giêng là Tết Nguyên Tiêu. Đêm ngày mười lăm tháng giêng là đêm trăng tròn đầu tiên trong một năm, cũng là đêm đầu tiên xuân về trên thế gian. Tết Nguyên Tiêu đã sớm xuất hiện vào thời Tây Hán cách đây hơn 2.000 năm trước.

Thời gian diễn ra Tết Nguyên Tiêu trong từng triều đại cũng không giống nhau. Triều Hán một ngày, triều Đường ba ngày, triều Tống dài đến năm ngày, triều Minh treo đèn từ ngày mùng 8 tới 17 mới hạ đèn, kéo dài suốt 10 ngày. Triều Thanh thay đổi chỉ còn bốn đến năm ngày, nhưng nội dung lại có thêm các tiết mục như múa rồng, múa sư tử, đi cà kheo, múa ương ca (một loại ca vũ kịch ở nông thôn miền Bắc Trung Quốc). Hiện nay Tết Nguyên Tiêu chỉ còn diễn ra trong một ngày.

Vào ngày Tết Nguyên Tiêu, mọi người treo rất nhiều đèn với màu sắc rực rỡ để chào mừng. Ngày hôm đó, người dân cũng ra đường dạo phố để ngắm đèn, đoán quẻ trên lồng đèn và ăn chè trôi nước.

Chè trôi nước được làm từ gạo nếp, có loại đặc ruột, có loại có nhân. Nhân có đậu, đường trắng, quả sơn tra hoặc các loại quả khác. Khi ăn có thể nấu, chiên, chưng, luộc đều được. Chè trôi nước còn được gọi là “Thang viên”, có nghĩa là đoàn viên, tượng trưng cho mọi thành viên trong gia đình đều đoàn tụ sum họp, hòa thuận hạnh phúc.

Tết Nguyên Tiêu xuất hiện như thế nào?

Về nguồn gốc của Tết Nguyên Tiêu, có rất nhiều cách nói khác nhau, tuy nhiên nhận thức phổ biến là Tết Nguyên Tiêu được hình thành từ thời nhà Hán.

Tương truyền Tết Nguyên Tiêu là do Hán Văn Đế kỉ niệm sự kiện “Bình Lữ” mà ra. Sau khi Hán Cao Tổ Lưu Bang băng hà, con của Lữ Hậu là Lưu Doanh đăng cơ, xưng là Hán Huệ Đế. Huệ Đế bản tính yếu đuối, không quả quyết, đại quyền dần dần rơi vào tay Lữ Hậu. Sau khi Hán Huệ Đế vì lâm bệnh mà chết, Lữ Hậu độc chiếm triều chính, biến thiên hạ của nhà họ Lưu thành thiên hạ của nhà họ Lữ. Các lão thần trong triều và dòng dõi họ Lưu đều oán giận sâu sắc, nhưng đều vì e sợ Lữ Hậu tàn bạo nên phẫn nộ mà không dám nói gì.

Sau khi Lữ Hậu lâm bệnh chết, người nhà họ Lữ hoang mang lo sợ rơi vào cảnh bị hại hoặc bị trừ khử. Vì thế, nên bí mật tập hợp tại nhà của Thượng Tướng quân Lữ Lộc âm mưu làm loạn, hòng triệt để chiếm đoạt giang sơn nhà họ Lưu.

Việc này truyền tới tai Tề vương Lưu Nang thuộc tông thất nhà Hán. Lưu Nang vì để bảo toàn giang sơn nhà họ Lưu, quyết định khởi binh thảo phạt bè lũ họ Lữ. Ông cùng với hai khai quốc lão thần là Chu Bột và Trần Bình trù tính việc tiêu diệt Lữ Lộc. “Chư Lữ Chi Loạn” cuối cùng cũng được bình định triệt để.

Sau khi bình loạn, chúng thần ủng hộ việc lập người con thứ hai của Lưu Bang là Lưu Hằng đăng cơ, xưng là Hán Văn Đế. Mà ngày bình định được phản loạn lại đúng vào ngày mười lăm tháng giêng. Nên từ đó về sau cứ mỗi năm vào đêm ngày mười lăm tháng giêng, Hán Văn Đế lại xuất cung du ngoạn, chung vui cùng người dân, đồng thời đặt cho ngày này là “Tết Nguyên Tiêu”. Từ đó về sau, ngày mười lăm tháng giêng trở thành một ngày hội mừng vui khắp chốn trong dân gian – Ngày “Náo Nguyên Tiêu”.

Sách sử còn ghi lại, vào thời Hán Vũ Đế, Hán thất phải cúng tế một vị Thần gọi là “Thái Nhất” – vị Thần chủ tể của toàn vũ trụ. Hoạt động cúng tế vị “Thái Nhất Thần” này cũng được định vào ngày mười lăm tháng giêng.

Tết Đoan Ngọ

Ngày mùng năm tháng năm âm lịch là ngày lễ tết truyền thống dân gian Trung Quốc – ngày Tết Đoan Ngọ.

Vào thời Chiến Quốc hơn 2.000 năm trước, người Trung Quốc đã bắt đầu mừng Tết Đoan Ngọ. Căn cứ vào nghiên cứu của các chuyên gia, Tết Đoan Ngọ ban đầu là ngày dân tộc Ngô Việt ở phía Nam Trung Quốc thời cổ đại cử hành cúng tế vật tổ (tô tem). Tuy nhiên, thuyết được lưu truyền rộng nhất là thuyết kỷ niệm Khuất Nguyên.

Khuất Nguyên là một vị đại thần của nước Sở thời Xuân Thu, ông cũng là một thi nhân nổi tiếng. Khuất Nguyên vô cùng yêu nước. Khi nước ông bị nước khác công phá, Khuất Nguyên vào ngày mùng năm tháng năm đã nhảy xuống sông tự vẫn. Người nước Sở vô cùng thương tâm, đi dọc bờ sông tìm kiếm thi thể ông. Một số ngư dân đem những đồ ăn như cơm nắm, trứng gà ném xuống sông, nói là để cho cá tôm ăn, sẽ không ăn xác của Khuất Nguyên nữa. Sau này vì e cơm nắm bị giao long dưới sông ăn mất, nên người dân nghĩ ra cách lấy lá cây xoan bọc cơm lại, bên ngoài cột dây lụa màu, đó chính là khởi đầu của món bánh ú.

Sau này, cứ vào ngày mùng năm tháng năm hàng năm, phong tục ăn bánh ú, đua thuyền rồng chính là để kỉ niệm thi nhân ái quốc Khuất Nguyên.

Hiện nay có rất nhiều loại bánh ú với màu sắc khác nhau, có bánh ú nhân táo đỏ, nhân đậu, nhân thịt, nhân dăm bông, nhân lòng đỏ trứng gà và nhiều loại nhân khác.

Phong tục ăn bánh ú trải qua nghìn năm vẫn còn được lưu hành ở Trung Quốc. Hơn nữa còn truyền tới Triều Tiên, Nhật Bản và các nước ở Đông Nam Á.

Tết Trung Thu

Ngày mười lăm tháng tám âm lịch hàng năm là ngày Tết Trung Thu truyền thống. Ngày này là vào chính giữa mùa thu của năm, nên được gọi là Trung Thu. Ánh trăng trong ngày mười lăm tháng tám cũng tròn hơn, sáng hơn ngày mười lăm của các tháng khác, vì vậy cũng gọi là “Bát nguyệt tiết”. Vào tối ngày này, mọi người ngắm ánh trăng sáng tỏ, rồi nhớ về người thân đang ở phương xa. Cho nên, Trung Thu còn được gọi là “Tết Đoàn Viên”.

Vào Tết Trung Thu thời cổ đại, mọi người phải tế bái Nguyệt Thần. Lúc tế bái Nguyệt Thần, phải dâng bánh Trung Thu và các loại trái cây như dưa hấu, nho v.v… Tới triều Đường, Tết Trung Thu lại càng được mọi người coi trọng. Trong tối Trung Thu, mọi người từ trong nhà ra ngoài ngắm trăng, thưởng nguyệt. Tới thời Minh Thanh, Tết Trung Thu trở thành một trong những ngày lễ vô cùng quan trọng của người Trung Quốc.

Liên quan đến Tết Trung Thu còn có một truyền thuyết rất thú vị là: “Thường Nga Bôn Nguyệt”. Nghe nói, vào thời Trung Quốc cổ đại có 10 mặt trời, hoa màu và người dân đều bị nắng chiếu tới chết. Có một vị anh hùng tên Hậu Nghệ đã bắn hạ chín mặt trời, còn nghiêm khắc ra lệnh cho mặt trời cuối cùng còn lại phải lên xuống đúng giờ, tạo phúc cho người dân. Mọi người đều vô cùng tôn kính Hậu Nghệ. Sau đó Hậu Nghệ dạy người dân săn bắn. Hậu Nghệ có một người vợ xinh đẹp thiện lương, tên là Thường Nga.

Sau đó rất nhiều người đến theo học Hậu Nghệ. Trong đó có một người phẩm hạnh không tốt tên là Bồng Mông cũng trà trộn tới học.

Một ngày nọ, Hậu Nghệ đến núi Côn Luân gặp được một vị Thần Tiên, còn được ông ấy tặng cho một túi thuốc bất tử. Nghe nói, uống thuốc này có thể lập tức thăng thiên thành Tiên. Hậu Nghệ đem thuốc bất tử này giao cho Thường Nga cất kỹ. Nhưng Bồng Mông biết được việc này, hắn định ăn trộm thuốc bất tử để tự mình thành Tiên.

Ba ngày sau, Hậu Nghệ ra ngoài săn thú, Bồng Mông giả bộ sinh bệnh nên ở lại. Không lâu sau khi Hậu Nghệ rời đi, Bồng Mông liền uy hiếp đòi Thường Nga giao ra thuốc bất tử. Thường Nga biết rằng bản thân mình không phải là đối thủ của Bồng Mông, liền đem thuốc bất tử một hơi nuốt hết. Thường Nga uống xong thuốc, thân thể lập tức bay lên khỏi mặt đất, thoát ra ngoài cửa sổ mà bay lên trời, bay đến tận mặt trăng vốn là nơi gần nhân gian nhất rồi trở thành Tiên.

Hậu Nghệ về nhà biết chuyện, vô cùng thương tâm, đành bày một án hương ở vườn hoa sau nhà nơi Thường Nga yêu thích, rồi bày lên đó trái cây tươi và những đồ ngọt mà Thường Nga bình thường thích ăn nhất, để tế lễ từ xa cho Thường Nga đang một mình quyến luyến ở Cung Trăng.

Hiện nay mọi người đón Tết Trung Thu, hoạt động chủ yếu nhất là ngắm trăng và ăn bánh Trung Thu. Bánh Trung Thu hình tròn thể hiện sự mong mỏi đoàn viên của người dân.

Đông chí

Đông chí là một Tiết khí rất quan trọng trong âm lịch của Trung Quốc, cũng là một ngày Tết truyền thống. Đến nay vẫn có không ít địa phương còn có các tập tục về Đông chí. Đông chí thường được gọi bằng những tên như “Đông Tiết”, “Trường Chí Tiết”, “Á Tuế”… Vào thời Xuân Thu hơn 2.500 năm trước, Trung Quốc đã dùng thổ khuê (một loại dụng cụ đo bóng nắng) quan sát mặt trời để xác định được Đông chí. Đây là một trong 24 tiết khí được xác định sớm nhất. Thời gian thường là vào ngày 22 hoặc ngày 23 tháng 12 dương lịch hàng năm.

Đông chí là ngày ngắn nhất, đêm dài nhất trong cả năm ở Bắc bán cầu. Qua Đông chí, ngày sẽ ngày một dài hơn. Người xưa với Đông chí có cách nói như thế này: “Âm cực chi chí, dương khí thủy sinh, nhật nam chí, nhật đoản chi chí, nhật ảnh trường chi chí, cố viết “Đông chí”. Tạm dịch là: âm khí cực thịnh, dương khí bắt đầu sinh sôi, Mặt Trời chiếu thẳng vào phía Nam đến cực điểm, ngày ngắn nhất, bóng Mặt Trời dài nhất, nên gọi là “Đông chí”. Sau ngày Đông chí, khí hậu các nơi sẽ tiến vào giai đoạn lạnh nhất, cũng chính là “Tiến cửu” mà mọi người thường nói đến. Dân gian Trung Quốc có cách nói “Lãnh tại tam cửu, nhiệt tại tam phục”, nghĩa là ngày lạnh nhất năm là ngày tam cửu, ngày nóng nhất năm là ngày tam phục. (2)

Tết Đông chí có từ thời nhà Hán, nở rộ vào thời Đường Tống và kéo dài cho tới hôm nay. Trong “Thanh Gia Lục” (Những ghi chép về triều Thanh) thậm chí còn có cách nói “Đông chí đại như niên”, có nghĩa là Đông chí quan trọng như năm mới vậy. Mọi người cho rằng, qua Đông chí, ban ngày càng ngày càng dài hơn, dương khí bắt đầu thăng lên, là khởi đầu sự tuần hoàn của các tiết khí, cũng là một ngày lành, nên chúc mừng. Triều Hán lấy ngày Đông chí làm “Đông tiết”, quan phủ phải cử hành nghi thức chúc mừng tên là “Hạ Đông”, theo lệ là bắt đầu kỳ nghỉ. Trong “Hậu Hán Thư” có ghi chép lại thế này: “Đông chí tiền hậu, quân tử an thân tĩnh thể, bách quan tuyệt sự, bất thính chính, trạch cát thần nhi hậu tỉnh sự”, có nghĩa là “Trước sau ngày Đông chí, hoàng đế nghỉ ngơi an dưỡng thân thể, quan lại ngừng làm việc không nghe chính sự, chọn ngày lành tháng tốt thì sau này sẽ bớt việc rắc rối”. Cho nên trong ngày này triều đình trên dưới đều nghỉ ngơi. Trong “Tấn thư” có ghi chép lại: “Ngụy Tấn Đông chí nhật thụ vạn quốc cập bách liêu xưng hạ… Kì nghi á vu chính đán”. Có nghĩa là “Trong thời Ngụy Tấn ngày Đông chí các quốc gia láng giềng và các quan đều tới chúc mừng… tầm quan trọng của ngày này chỉ sau Lễ Năm mới”. Điều này cho thấy sự coi trọng của người xưa với ngày Đông chí.

Thời Đường Tống, Đông chí là ngày tế trời tế tổ. Hoàng đế trong ngày này phải ra vùng ngoại thành cử hành đại lễ cúng trời, bách tính trong ngày này phải cúng tế phụ mẫu và các bậc bề trên.

Hiện nay ở một số địa phương vẫn còn chúc mừng ngày Đông chí. Ở khu vực phía Bắc có tục tế dê, ăn sủi cảo, ăn mì hoành thánh. Khu vực phía Nam trong ngày này có tập quán ăn Đông chí mễ đoàn (một loại bánh làm từ gạo), ăn Đông chí trường tuyến (một loại mì dài), và ăn thịt chó. Có một số địa phương trong ngày Đông chí còn có tập tục tế trời tế tổ.

Trong quá khứ người Bắc Kinh xưa còn có cách nói “Đông chí hồn đồn hạ chí diện”, có nghĩa là vào ngày Đông chí ăn hồn đồn (hoành thánh), Hạ chí ăn mì. Tương truyền vào triều Hán, tộc Hung Nô ở phương Bắc thường xuyên nhũng nhiễu biên cương, trăm họ không thể sinh sống yên bình. Lúc đó trong bộ lạc Hung Nô có hai thủ lĩnh là Hồn và Đồn, cực kỳ hung bạo. Bách tính căm hận hai người này tới tận xương tủy, bèn lấy bột bọc nhân thịt lại thành hình cái sừng, mượn hai âm “Hồn” và “Đồn”, gọi là hồn đồn. Người dân ăn món này để giải tỏa nỗi hận, cũng mong cầu chiến loạn ngừng lại, có thể được sống những ngày thái bình. Người xưa ban đầu làm món hồn đồn vào ngày Đông chí, đến hôm nay vào ngày Đông chí nhà nhà đều ăn hồn đồn.

“Niết đống nhĩ đóa” là tên thường gọi của việc ăn sủi cảo vào ngày Đông chí của người Hà Nam. Tương truyền Y thánh Nam Dương Trương Trọng Cảnh từng có thời làm quan ở Trường Sa. Ông cáo lão về quê đúng vào ngày đông trời có tuyết lớn, lạnh lẽo thấu xương. Ông thấy hai bên bờ sông Bạch Hà ở Nam Dương người dân không có đủ manh áo che thân, không ít người tai bị đông cứng lại. Trong tâm ông cảm thấy rất khó chịu, liền bảo đệ tử ở Quan Đông Nam Dương dựng lều trị bệnh. Ông lấy thịt dê, ớt cùng một vài vị thuốc trừ hàn cho vào trong nồi nấu chín. Sau đó băm ra thành miếng nhỏ, lấy bột bọc nhân này lại làm thành hình cái tai, rồi đem luộc trong nồi làm thành món “Khư hàn kiều nhĩ thang” (Canh trừ hàn có bánh hình tai). Món canh thuốc này sau đó cấp cho bách tính ăn. Ăn xong, tai của mọi người liền ấm trở lại bình thường. Từ đó về sau, vào mỗi dịp Đông chí người ta lại bắt chước nấu món này để ăn, từ đó hình thành tập tục “Niết đống nhĩ đóa”. Người đời sau gọi món này là “Sủi cảo”, cũng có nơi gọi nó là “Há cảo” hay “Thang diện giảo”. Người người còn truyền rằng ăn sủi cảo vào ngày Đông chí sẽ không cảm thấy lạnh.

Tập tục ăn thịt chó vào ngày Đông chí nghe nói có từ thời Hán. Tương truyền, Hán Cao Tổ Lưu Bang vào ngày Đông chí ăn món thịt chó do Phàn Khoái nấu, cảm thấy hương vị rất ngon, khen ngợi không thôi. Từ đó trong dân gian hình thành tập tục ăn thịt chó vào ngày Đông chí.

Ở vùng sông nước Giang Nam, vào đêm ngày Đông chí người dân có tập tục cả nhà đoàn tụ cùng ăn món cơm gạo nếp đậu đỏ. Tương truyền, có một người tên là Cộng Công, con của hắn bất tài, làm nhiều việc ác, chết vào ngày Đông chí. Sau khi chết biến thành dịch quỷ (quỷ gây bệnh), tiếp tục làm hại bách tính. Tuy nhiên, con dịch quỷ này rất sợ đậu đỏ, cho nên người bấy giờ bèn ăn đậu đỏ vào ngày Đông chí, với mong muốn xua đuổi dịch quỷ, phòng ngừa tai ương và trừ bỏ bệnh tật.

Chú thích của người dịch:

(1) Tết Nguyên Đán của Trung Quốc còn được gọi là Xuân Tiết (春节/春節 – Chūn Jié), đánh dấu sự kết thúc của mùa đông và khởi đầu mùa xuân mới. Ngoài ra, Tết Nguyên Đán còn thường được gọi là Quá Niên [ăn/đón tết] (过年/過年).

(2) Sau Đông chí chia làm ba giai đoạn, mỗi giai đoạn có quãng thời gian chín ngày, tam cửu có nghĩa là chín ngày của giai đoạn thứ ba. Tương tự thế, phục có nghĩa là quãng thời gian 10 ngày trong mùa hè, tam phục là 10 ngày của giai đoạn thứ ba trong mùa hè.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/37820

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 4): Những ngày lễ tết truyền thống của Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 3): 24 tiết khí và Rồng Trung Quốchttps://chanhkien.org/2023/09/khai-quat-ve-van-hoa-trung-quoc-phan-3-24-tiet-khi-va-rong-trung-quoc.htmlTue, 26 Sep 2023 01:47:40 +0000https://chanhkien.org/?p=31369Tác giả: Tâm Duyên [ChanhKien.org] Chương 4: 24 tiết khí của Trung Quốc Lịch pháp (cách làm lịch) của Trung Quốc cổ đại và công lịch (dương lịch) đang được sử dụng ở Trung Quốc hiện đại là không giống nhau. Kể từ năm 1911, Trung Quốc bắt đầu sử dụng công lịch, cho nên […]

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 3): 24 tiết khí và Rồng Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Chương 4: 24 tiết khí của Trung Quốc

Lịch pháp (cách làm lịch) của Trung Quốc cổ đại và công lịch (dương lịch) đang được sử dụng ở Trung Quốc hiện đại là không giống nhau. Kể từ năm 1911, Trung Quốc bắt đầu sử dụng công lịch, cho nên gọi lịch pháp trước đây là nông lịch.

Hiện nay, người ta thường chia một năm làm bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Nhưng, vào 3000 năm trước ở Trung Quốc, người bấy giờ cũng đã chia một năm thành bốn mùa như vậy, lại còn xác định được cả ngày Đông chí và Hạ chí. Sau đó, người ta lại phát hiện ra một năm có hai ngày mà thời gian ngày và đêm dài bằng nhau, bèn đặt tên cho hai ngày này là ngày Xuân phân và Thu phân.

Hơn 2000 năm trước vào thời Chiến Quốc, người ta lại xác định được ngày bắt đầu của bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, nên đặt tên cho những ngày này là: lập xuân, lập hạ, lập thu và lập đông. Từ đó, người Trung Quốc đã có tám tiết khí là lập xuân, lập hạ, lập thu, lập đông, đông chí, hạ chí, xuân phân và thu phân. Nó phản ánh nhận thức của người Trung Quốc cổ đại về các hiện tượng tự nhiên như khí hậu.

Vào thời Tây Hán 2000 năm trước, người Trung Quốc lại đem tám tiết khí này phát triển thành 24 tiết khí, càng tiến thêm một bước phản ánh được sự biến hóa của thời tiết. Mọi người căn cứ vào những biến hóa này của thời tiết mà thu xếp các hoạt động nông nghiệp.

Ở nông thôn Trung Quốc ngày nay, người dẫn vẫn thích căn cứ vào 24 tiết khí này để sắp xếp cuộc sống và lao động của mình.

Chương 5: Rồng Trung Quốc

Trong văn hóa cổ đại Trung Quốc, rồng là một trong bốn loại thú cát tường trong truyền thuyết. Trong “Lễ ký – Lễ Vận Thiên” có viết: “Long Lân Quy Phụng, vị chi tứ linh”. Trong truyền thuyết, lân là vua của các loài thú, phụng (phượng) là vua của các loài chim, quy (rùa) là vua của các loài giáp xác có vỏ hoặc mai ở dưới nước, long (rồng) là vua của các loài có vẩy. Sự xuất hiện của chúng đều là điềm báo tốt lành và may mắn. Ví như trong hồi thứ 80 của “Tam Quốc Diễn Nghĩa” có viết: “Kỳ lân giáng sinh, phượng hoàng lai nghi, hoàng long xuất hiện”, chính là dùng để nói về điềm báo trước của thịnh thế. Long, Phượng và Kỳ Lân ở đây đều là loài động vật cực kỳ có linh tính trong truyền thuyết.

Nghe nói, rồng có đầu giống lạc đà, sừng hươu, tai trâu, thân rắn, có vẩy, móng của chim ưng và đuôi rùa. Nó có thể bay ở trên trời, lại có thể bơi dưới đáy biển.

Sự sùng bái rồng ở Trung Quốc có lịch sử hơn 5.000 năm. Trong các thời kỳ quân chủ, rồng là tượng trưng cho hoàng quyền, đế vương tự xưng là “Chân long thiên tử”. Triều Tây Hán được thành lập hơn 2000 năm trước là một trong những thời kỳ cường thịnh nhất trong lịch sử cổ đại Trung Quốc. Hoàng đế lúc đó tự nhận mình là hóa thân của rồng, còn con cháu của mình là con rồng cháu rồng. Đồ ăn, đồ mặc, đồ dùng, đồ đi lại của hoàng đế toàn bộ đều có họa tiết hình rồng, những người khác không thể dùng các họa tiết hình rồng này. Hoàng đế các vương triều sau này đều tiếp tục sử dụng cách làm này.

Hiện tại ở rất nhiều địa phương tại Trung Quốc nơi các hoàng đế từng sinh sống, người ta đều có thể nhìn thấy các di tích về văn hóa rồng. Ví như trong Cố Cung, tại các bậc thang, trên cửa chính, trên các bức tranh trong phòng, trên đèn, ở những nơi như ghế ngồi của hoàng đế, đều có thể nhìn thấy đủ các kiểu hình rồng khác nhau.

Hàn Phi Tử từng nói, rồng và đế vương là giống nhau, đều có “Nghịch lân” (hay vảy ngược) không thể chạm vào, nếu không long nhan đại nộ, sẽ bị tru di cửu tộc. Cho nên nhà thơ Lý Bạch mới có câu thơ: “Hữu sách bất cảm phạm long lân, thoán thân nam quốc tị hồ trần” (ý rằng có mưu lược cũng không dám phạm vảy rồng mà dâng lời can gián, ta chạy về phía Nam lánh chiến loạn). Hôm nay, rồng hạ xuống thần đàn (đàn tế lễ của Thần), mỗi con dân Hoa Hạ, vô luận là đang ở phương nào, đều xưng mình là “truyền nhân của rồng”.

Theo lịch sử ghi lại, rồng Trung Quốc có gia tộc rất lớn, có hoàng long, thanh long, xích long, bạch long, ô long, kim long, ứng long là rồng ngàn năm, chúc long là rồng không chân, cù long là rồng có sừng, li long là rồng không sừng, v.v…Chúng có loài tốt loài xấu, loài thiện loài ác. Rồng phương Đông đại đa số có hình tượng chính diện, là hộ pháp bên cạnh Phật tổ, là thân vàng kim cuốn quanh cột trụ trên đại điện trong hoàng cung, là một trong rất nhiều thiên tượng hoành tráng vĩ đại trong lịch sử, từng hiển hiện tại nhân gian cùng với hạc và phượng. Trong quyển thứ 28 “Phong Thiền Thư” của “Sử ký” có viết: “Hoàng đế thừa long thượng thiên, quần thần vô pháp cân tùy, chích năng bão trứ lạp đoạn đích long nhiêm khốc khấp”. Có nghĩa là hoàng đế theo rồng lên trời, quần thần không thể đi theo, chỉ có thể ôm kéo đoạn râu rồng mà khóc. Lấy hoàng long tượng trưng cho hoàng đế, cổ nhân Trung Quốc lấy rồng làm tôn chủ. Nhưng trong truyền thuyết cũng không thiếu những ghi chép về đồ long, đấu long, như Nữ Oa giết hắc long, Đại Vũ giết xuẩn long, cha con Lý Băng hàng phục nghiệt long, Chu Xử trừ giao long, v.v. Ví như Na Tra náo hải, ngộ sát tam thái tử của Long Vương. Long Vương giận giữ, nhất định muốn lấy mạng Na Tra. Lý Tĩnh quỳ xuống khẩn cầu Long Vương từ bi. Nhưng Long Vương không tha, khiến cho nước ngập cả nhà, Lý Tĩnh chỉ có thể trơ mắt nhìn con mình tự vẫn.

Tuy rằng rồng là tượng trưng của hoàng quyền, nhưng tại dân gian Trung Quốc, rồng cũng được người dân xem là tượng trưng cho cát tường phú quý. Ý nghĩa tượng trưng này được thể hiện trong các phong tục và các phương diện cuộc sống hàng ngày của người dân. Ví như, trong dịp năm mới, rất nhiều địa phương có biểu diễn múa rồng. Mấy người hoặc mười mấy người điều khiển một khung hình rồng lớn, múa theo điệu nhạc, trông vô cùng đẹp mắt. Mọi người nhân sự kiện này mà biểu đạt nguyện vọng tốt đẹp của mình. Còn có các phong tục như treo đèn rồng và đua thuyền rồng ở phía Nam.

Tết đến, có nhà theo tập tục truyền thống dán tranh vẽ môn Thần trước cửa nhà. Việc này cũng có quan hệ với rồng. Trong truyện “Tây Du Ký” có miêu tả lại tỉ mỉ việc này. Kính Hà Long Vương vì đánh cược cùng với một vị thầy bói, nên vi phạm giới luật của trời, tội này phải trảm. Ngọc Đế bổ nhiệm Ngụy Trưng làm quan giám sát việc trảm long. Kính Hà Long Vương vì muốn giữ mạng nên cầu cứu Đường Thái Tông. Đường Thái Tông nhận lời, đến đúng lúc trảm long, bèn tuyên triệu Ngụy Trưng tới đánh cờ cùng mình. Nhưng không ngờ Ngụy Trưng đang đánh cờ thì ngủ gục, hồn liền thăng thiên, chém đầu Long Vương.

Long Vương oán giận Thái Tông nói mà không giữ lời, ngày đêm ở ngoài cung kêu khóc đòi mạng. Thái Tông báo cho quần thần biết việc này. Đại tướng Tần Thúc Bảo thưa: “Nguyện cùng Uất Trì Kính Đức mặc quân phục đứng ngoài cửa đón tiếp”. Thái Tông bằng lòng. Đêm hôm đó quả nhiên vô sự. Thái Tông không đành lòng để hai vị tướng của mình phải cực nhọc, liền ra lệnh cho những người thợ khéo tay lấy màu vẽ chân dung hai vị tướng, dán lên trên cửa. Người đời sau liền bắt chước theo. Thế là, hai vị đại tướng liền trở thành Thần trấn thủ môn Thần của thiên gia vạn hộ. Hiện nay tại Triều Sán trên hai cánh cửa lớn một số căn nhà kiểu cũ, chúng ta có thể thấy Thần Trà, Thần Uất Lũy hoặc hai viên chiến tướng oai vệ hùng dũng. Hình tượng của họ có vẻ giống nhau, nhưng nếu cẩn thận quan sát, thì trong đó có một vị cầm cương tiên (roi thép), một vị cầm kiếm sắt. Vị cầm cương tiên là Uất Trì Kính Đức, vị cầm kiếm là Tần Quỳnh.

Ngoài ra, người Trung Quốc khi kết hôn thường sẽ nói “Long Phượng cát tường”. “Long” là chỉ tân lang (chú rể), “Phượng” chỉ tân nương (cô dâu). Khi bé trai mới chào đời, người ta cũng thích dùng chữ “Long” để đặt tên cho cháu.

Hiện nay, hình tượng rồng được sử dụng rộng khắp ở các loại lĩnh vực như kiến trúc, nghệ thuật, văn học, hội họa, điêu khắc, phục sức, nhằm biểu đạt nguyện vọng tốt đẹp của mọi người.

Như vậy rồng có tồn tại thật hay không? Nếu quả thực rồng là do con người không có căn cứ tưởng tượng mà ra, thì vì lẽ gì ở trong lịch sử của rất nhiều quốc gia, trong các niên đại triều đại khác nhau, mà đặc biệt là trong thời trung cổ, lại có rất nhiều ghi chép về rồng như vậy. Thậm chí từ “Long” này cũng được sử dụng hàng ngày, được phiên dịch thành đủ loại ngôn ngữ như thế?

Mà người Trung Quốc xác thực trong lịch sử đã nhìn thấy rồng, hơn nữa còn có ghi chép tỉ mỉ, có hẳn là rồng đã biến mất hay không? Hay chúng đang sống ở một nơi bí ẩn nào đó?

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/37819

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 3): 24 tiết khí và Rồng Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 2): Phạm vi địa lý của Trung Quốchttps://chanhkien.org/2023/09/khai-quat-ve-van-hoa-trung-quoc-phan-2-pham-vi-dia-ly-cua-trung-quoc.htmlTue, 12 Sep 2023 02:21:26 +0000https://chanhkien.org/?p=31277Tác giả: Tâm Duyên [ChanhKien.org] Chương 3: Phạm vi địa lý của Trung Quốc Ban đầu người Trung Quốc không có khái niệm về phạm vi địa lý, mà chỉ có khái niệm về quần thể người. Mọi người theo bộ lạc mà di chuyển. Thuận theo sự phát triển của nông nghiệp, con người […]

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 2): Phạm vi địa lý của Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Chương 3: Phạm vi địa lý của Trung Quốc

Ban đầu người Trung Quốc không có khái niệm về phạm vi địa lý, mà chỉ có khái niệm về quần thể người. Mọi người theo bộ lạc mà di chuyển. Thuận theo sự phát triển của nông nghiệp, con người dần chuyển từ di cư không ngừng sang định cư. Bởi lẽ có một số địa khu nhất định bị hạn chế trong thời gian dài, từ đó dần dần hình thành quan niệm khu vực. Dấu hiệu chủ yếu nhất là sự hình thành của quốc gia. Quốc gia chân chính đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc là vương triều nhà Hạ xuất hiện vào thế kỷ 21 trước công nguyên.

Căn cứ vào các tư liệu khảo cổ và văn hiến, khu vực trung tâm của triều Hạ nằm ở phía Tây tỉnh Hà Nam, bờ Bắc sông Hoàng Hà và phía Nam tỉnh Sơn Tây ngày nay. Lúc ấy ảnh hưởng của nhà Hạ từng vươn tới khu vực giữa sông Trường Giang và sông Hoài. Mặc dù nhà Hạ có phạm vi hoạt động tương đối cố định ở lưu vực sông Hoàng Hà, nhưng chưa có quản lý và phân biệt địa giới một cách thống nhất.

Tới thời Chiến Quốc, các nước khi đó đều cố gắng mở rộng lãnh thổ ra bên ngoài, xây dựng Trường Thành. Quan niệm “thiên hạ” mà người đời sau ưa dùng cũng hình thành từ thời kỳ này, đây cũng chính là cách gọi chung để chỉ lãnh thổ quốc gia của các nước trong thời Chiến Quốc. Các trước tác về địa lý Trung Quốc thời kỳ đầu có “Vũ Cống”, “Chức Phương” có ghi chép lại về “thiên hạ cương vực” như sau: “Mang mang vũ tích, hóa vi Cửu Châu”, có nghĩa là lấy thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc làm bản đồ sơ bộ. “Thiên hạ” chính là “Cửu Châu”, ý nghĩa của “Cửu Châu” chính là chỉ chín khu vực địa lý lớn trong thiên hạ.

Vào thời Tiên Tần, các nước chư hầu đều có một thành trì làm biểu tượng cho quốc gia. Thành mất thì nước mất, câu “Thành phá quốc vong” chính là có ý tứ này. Lúc ấy đô thành và nước chư hầu (đặc biệt là các nước nhỏ) đều có chung một tên. Sau này khi nhà Tần thống nhất các nước và thực hành chế độ quận, huyện, thì các đô thành này thường trở thành địa điểm xử lý việc công của quận, huyện đó.

Sự phát triển của lãnh thổ Trung Quốc cổ đại dưới thời các triều đại sau khi nhà Tần thống nhất đất nước

Năm 221 trước công nguyên, Tần vương đã chấm dứt cục diện cát cứ kéo dài suốt thời Chiến Quốc, thành lập nên chính quyền trung ương tập quyền đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc – nhà Tần. Kinh đô đặt tại Hàm Dương, nay là vùng phụ cận Tây An tỉnh Thiểm Tây. Tần vương tự xưng là Thủy Hoàng Đế, nghĩa là vị hoàng đế đầu tiên.

Lãnh thổ của nhà Tần phía Đông tới Tây Bắc bán đảo Liêu Đông, phía Tây tới phía Đông của tỉnh Cam Túc ngày nay, giáp với dải Tứ Xuyên – Vân Nam, phía Nam đến vùng Lĩnh Nam (ở Quảng Đông), phía Bắc tới cao nguyên Mông Cổ. Vì các chính sách tàn bạo của hoàng đế, triều Tần tồn tại chưa đến 20 năm thì diệt vong.

Sau đó Trung Quốc lại trải qua các triều Tây Hán, Đông Hán, Tam Quốc, Ngụy Tấn Nam Bắc Triều, Tùy, Đường, Tống, Nguyên, Minh và Thanh. Tây Hán, Đường và Thanh là ba triều đại thịnh thế. Vào các triều đại này, lãnh thổ của Trung Quốc được khuếch trương, mở rộng đến quy mô rất lớn, cuối cùng đặt định cho phạm vi lãnh thổ rộng lớn của Trung Quốc hôm nay.

Triều Tây Hán (năm 206 – 8 TCN) và triều Đông Hán (25 – 220) đều tập trung xây dựng quốc gia, chính trị, kinh tế và văn hóa tại khu vực trung hạ lưu của sông Hoàng Hà, dựa trên cơ sở lãnh thổ, bờ cõi thời nhà Tần (Tây Hán định đô ở Trường An, Đông Hán đặt tại Lạc Dương). Nhưng phạm vi lãnh thổ của mỗi triều lại có biến đổi và phát triển riêng. Sự mở rộng phạm vi lãnh thổ của nhà Tây Hán diễn ra chủ yếu dưới thời Hán Vũ Đế. Phía Đông Bắc mở rộng đến miền trung bán đảo Triều Tiên, Tây Bắc đến hành lang Hà Tây và khu Tây Vực, Tây Nam đến Vân Nam và khu vực Tứ Xuyên cùng với phía Bắc đảo Hải Nam. Con đường tơ lụa nổi tiếng chính là được khai thông vào thời kỳ này, ý nghĩa trọng yếu của nó là tăng cường mối quan hệ giữa Trung Quốc với khu vực Trung, Tây Á và châu Âu.

Tới thời Đông Hán, vì tộc Hung Nô ở phương Bắc xâm chiếm xuống phía Nam nên lãnh thổ quốc gia bị thu nhỏ lại. Phạm vi thế lực không bằng Tây Hán. Phạm vi quản hạt bị thu nhỏ chủ yếu vì thất bại không bảo vệ được quận Sóc Phương (nằm ở khu vực Nội Mông ngày nay).

Sau Đông Hán là các thời kỳ cát cứ diện rộng ở Trung Quốc như thời Tam Quốc (220 – 280), Lưỡng Tấn (265-420) và Nam Bắc Triều (420 – 581).

Lãnh thổ Trung Quốc vào thời Tam Quốc không khác biệt mấy so với thời Đông Hán. Ba nước Ngụy, Thục, Ngô đều tiến hành việc mở rộng biên cương một cách nhất định.

Nhà Tây Tấn thống nhất dựa trên cơ sở chính quyền của ba nước Ngụy, Thục, Ngô, do đó lãnh thổ quốc gia về cơ bản gần giống với thời Lưỡng Hán và Tam Quốc. Thời Đông Tấn 16 nước và thời Nam Bắc Triều, các châu (đơn vị hành chính ngày xưa) được thiết lập càng ngày càng nhiều và phức tạp, rơi vào thời kỳ hỗn loạn.

Sau đó Dương Kiên thống nhất Trung Quốc, lập nên nhà Tùy (581- 618). Nhà Tùy chỉ tồn tại vỏn vẹn 38 năm. Vào thời cực thịnh của nó thì lãnh thổ cũng không thể so với thời Hán, mà chỉ có thể so sánh với nhà Tây Tấn. Mặc dù có được khu vực Hà Sáo và khu vực Đông Nam của cao nguyên Mông Cổ, nhưng lại mất đi Liêu Đông, miền Tây của Tây Vực và đại bộ phận cao nguyên Vân Quý.

Sau khi nhà Tùy ngắn ngủi diệt vong, Trung Quốc nghênh đón một triều đại huy hoàng kế tiếp sau nhà Tây Hán – chính là triều Đường (618 – 907). Đặc biệt là vào thời kỳ Trinh Quán trị vì những năm đầu nhà Đường, các phương diện về văn hóa, kinh tế, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, buôn bán, giao thông, v.v… đều vượt rất xa các thời đại trong quá khứ. Lúc ấy trên thế giới không nước nào là không biết tới nhà Đường. Sau này “Đường” trở thành từ đồng nghĩa với Trung Quốc. Một mạch cho tới hôm nay, người nước ngoài vẫn gọi người Hoa là “Đường nhân”, gọi khu vực có nhiều người Hoa sinh sống là “Phố Đường nhân”, gọi trang phục người Hoa mặc là “Đường trang”.

Sự thịnh suy giữa thời Tiền Đường và Hậu Đường có mức độ tương phản rất lớn, lãnh thổ quốc gia khác biệt cũng thật rõ ràng. Lãnh thổ nhà Đường vào thời huy hoàng nhất không chỉ có được phạm vi lãnh thổ giống như Tần Hán (chỉ thiếu khu vực Tây Nam của tỉnh Vân Nam ngày nay), mà phía Đông Bắc còn tiến tới tận bờ Tây biển Nhật Bản, đảo Khố Trang (đảo Sakhalin) và Tây Nam bán đảo Triều Tiên. Phía Bắc tới hồ Baikal và vùng thượng du sông Diệp Ni Tắc (sông Yenisey). Phía Nam mở rộng đến miền Nam đảo Hải Nam. Về phía Tây, triều Đường còn thống nhất được Tây Vực, tăng cường sự thống trị với Tây Vực. Biên giới mở rộng ra tận Hàm Hải (biển Aral), phạm vi thế lực kéo dài tới Lý Hải (biển Caspian).

Sau năm 755 nhiều biến động, lãnh thổ nhà Đường suy giảm rất nhiều, đặc biệt là ở Đông Bắc và Tây Vực.

Vào những năm cuối nhà Đường xuất hiện tình trạng hỗn chiến quân phiệt kéo dài đến 54 năm, thời kỳ này được gọi Ngũ Đại Thập Quốc (907 – 960). Sau đó là sự xuất hiện của nhà Liêu (947 – 1075), nhà Tống (Bắc Tống 960 – 1127 và Nam Tống 1127 – 1279) và nhà Kim (1123 – 1223) cùng nhiều triều đại khác.

Lãnh thổ của nước Liêu chỉ giới hạn ở vùng Đông Bắc và bộ phận khu vực Hoa Bắc hiện nay. Lãnh thổ của nhà Bắc Tống so với lãnh thổ thời kì cuối của nhà Đường cũng có sự thay đổi. Biên giới phía Nam của Bắc Tống đã không còn miền Bắc của Việt Nam, Tây Bắc đến Hoành Sơn, Thiểm Tây, phía Đông đến Cam Túc, lưu vực sông Hoàng Thủy, Thanh Hải tiếp giáp với Tây Hạ, Thổ Phiên. Phía Bắc thì giằng co vùng Hà Bắc và miền trung của Sơn Tây với nước Liêu.

Nước Kim do dân tộc Nữ Chân thành lập và triều Nam Tống giằng co ở vùng Sông Hoài và Tần Lĩnh hơn trăm năm, họ chiếm cứ vùng Đông Bắc và cả khu vực Trung Nguyên rộng lớn. Triều Nam Tống khuất nhục chấp nhận địa vị phục tùng nhà Kim, đánh mất cả vùng Trung Nguyên rộng lớn. Vào các thời kỳ Liêu, Tống, Kim, ở Tây Nam tại cao nguyên Thanh Tạng có các nước như Thổ Phiên. Còn ở cao nguyên Vân Nam thì có chính quyền nước Đại Lý lấy khu vực Đại Lý làm trung tâm.

Tới thời nhà Nguyên (1206 – 1368), cùng với việc mở rộng đối ngoại, lãnh thổ quốc gia từng có thời điểm trải dài ra cả hai đại lục Á Âu: Đông Bắc đến biển Nhật Bản, Bắc tới khu vực Siberia tại vòng cực Bắc của nước Nga ngày nay, Tây Bắc tiếp giáp với Hãn quốc của Oa Khoát Thái (con trai thứ ba của Thành Cát Tư Hãn), vốn là khu vực Tân Cương ngày nay, Hãn quốc của Sát Hợp Thai (con trai thứ ba của Thành Cát Tư Hãn), cũng là Tân Cương ngày nay, Khâm Sát Hãn quốc (do cháu của Thành Cát Tư Hãn là Bạt Đô lập nên), nằm ở nước Nga ngày nay, và Y Lợi Hãn Quốc (do cháu của Thành Cát Tư Hãn là Húc Liệt Ngột lập nên), nằm tại Iran ngày nay. Tay Nam giáp với Nepal, Ấn Độ, Myanmar, Việt Nam. Đông Nam giáp biển.

Thời kỳ đầu nhà Minh (1368 – 1661), lãnh thổ quốc gia về cơ bản không sai khác mấy với lãnh thổ thời kỳ cuối nhà Nguyên. Đông Bắc tiếp giáp Triều Tiên lấy sông Áp Lục (Yalu) làm ranh giới. Ở phương Bắc cùng với các bộ lạc Mông Cổ có quan hệ phiên thuộc (chư hầu, lệ thuộc) ở mức độ khác nhau. Ở Tây Bắc tiếp giáp với phía Tây của thành phố Hami ngày nay và nước Diệc Lực Bả Lí (vốn là Hãn quốc của Sát Hợp Thai phát triển mà thành). Những năm về sau của nhà Minh, cương vực của các bộ lạc Mông Cổ ở phương Bắc có sự phát triển. Các bộ lạc này phân chia lãnh thổ với nhà Minh từ phía Tây của Trường Thành tại Gia Dục Quan tới phía Đông Trường Thành tại Sơn Hải Quan. Biên giới tại Đông Bắc lui về lưu vực sông Liêu Hà, Tây Bắc giáp với các vương quốc do các bộ lạc Mông Cổ thành lập. Ở Tây Nam, ranh giới phía Tây của Vân Nam cũng đã dịch chuyển về phía Đông. Vào những năm cuối của triều đại nhà Minh, đảo Macao và Đài Loan cũng bị người phương Tây xâm chiếm.

Tới thời kỳ cuối của nhà Minh, nước Hậu Kim do dân tộc Nữ Chân thành lập bắt đầu trở nên lớn mạnh, tới năm 1636 đổi quốc hiệu là Thanh. Nhà Thanh cuối cùng cũng hoàn thành sứ mệnh lịch sử đặt định ra lãnh thổ quốc gia Trung Quốc. Lãnh thổ quốc gia vào thời hoàng đế nổi tiếng nhất nhà Thanh là Khang Hy thống trị có phía Đông giáp biển, phía Tây tới núi Thông Lĩnh (núi Pamir), phía Nam tới vùng biển phía Nam của Trung Quốc, phía Bắc tới bên ngoài dãy Hưng An, Tây Bắc tới hồ Balkhash, Đông Bắc đến Khố Trang đảo. Tổng diện tích là 13 triệu km².

Lãnh thổ vào thời kỳ cuối triều Thanh và Trung Hoa Dân Quốc

Từ giữa thế kỷ 19 trở về sau, các quốc gia phương Tây bắt đầu xâm chiếm Trung Quốc, chia nhau cát chiếm lãnh thổ Trung Quốc. Đây là thời kỳ quan trọng nhất trong vấn đề biên cương. Việc các quốc gia phương Tây xâm chiếm lãnh thổ Trung Quốc đại khái có thể chia làm bốn loại hình như sau:

Loại thứ nhất là các nước láng giềng chiếm đoạt lãnh thổ Trung Quốc. Nga và Nhật Bản là điển hình của loại này. Ở Đông Bắc, nước Nga thông qua việc ép buộc nhà Thanh ký kết Điều ước Trung Nga Aigun năm 1859 và Điều ước Trung Nga Bắc Kinh năm 1860 chiếm đoạt khu vực phía Bắc Hắc Long Giang và phía Đông Ô Tô Lý Giang (sông Ussuri). Ở Tây Bắc, nước Nga thông qua việc ký kết các hiệp ước bất bình đẳng như Ước ký điều chỉnh biên giới Tây Bắc Trung – Nga năm 1864 (Điều ước Chuguchak) và Điều ước Y lê năm 1881 (Điều ước Saint Petersburg) nhằm chiếm đoạt một vùng lãnh thổ rộng lớn từ Đường Nỗ Ô Lương Hải (Tannu Uriankhai), Khoa Bố Đa đến hồ Balkhash và dãy núi Pamir. Nhật Bản một năm sau khi đánh bại Trung Quốc trong chiến tranh Giáp Ngọ (1894) đã buộc Trung Quốc phải ký kết Điều ước Mã Quan Trung – Nhật, chiếm tỉnh Đài Loan của Trung Quốc.

Loại thứ hai là các cường quốc châu Âu sáp nhập lãnh thổ Trung Quốc vào các thuộc địa mà họ thành lập ở các nước xung quanh Trung Quốc. Anh và Pháp là hai nước điển hình. Anh quốc đem không ít lãnh thổ Trung Quốc từ khu vực Mạt Mễ Nhĩ ở phía Bắc, qua Tây Tạng tới Vân Nam sáp nhập vào các thuộc địa vốn có của mình. Pháp quốc thì đem Điền Nam Ô Đắc, Mạnh Ô hai vùng đất này nhập vào thuộc địa của mình là vùng Giao Chỉ.

Loại thứ ba là các nước Tây phương cưỡng ép Trung Quốc cho thuê hoặc chiếm đoạt các khu vực duyên hải. Như Bồ Đào Nha ở Macao, Anh quốc ở Hồng Kông, Uy Hải, Đức ở Vịnh Giao Châu, Nga (và sau này Nhật Bản) ở Lữ Thuận Khẩu tại vịnh Đại Liên, Pháp ở vịnh Nghiễm Châu đều áp dụng thủ đoạn này.

Tới năm 1912 Trung Hoa Dân Quốc thành lập. Vào năm đầu Dân Quốc, tình hình biên cương Trung Quốc vẫn như cũ vô cùng ác liệt. Ở Ngoại Mông Cổ có Sa Hoàng nước Nga đạo diễn hai sự kiện “Độc lập” và “Tự trị”. Năm 1914, Đường Nỗ Ô Lương Hải bị Nga Sa Hoàng xuất binh cưỡng chiếm. Từ năm 1913 đến năm 1914, nước Anh lập kế bày ra Hội nghị Shimla hòng thôn tính Tây Tạng. Đại biểu của chính phủ Trung Quốc cự tuyệt không ký, không thừa nhận cái gọi là “Điều ước Shimla” của Anh Tạng.

Năm 1931, sự kiện “918” nổ ra, vùng Đông Bắc rơi vào tay Nhật Bản. Năm 1937, chiến tranh kháng Nhật bùng nổ toàn diện. Các vùng lãnh thổ ở Đông Bắc, Hoa Bắc, Hoa Đông, Hoa Nam, Tây Nam, v.v… rơi vào tay Nhật Bản. Tới năm 1945, kháng chiến chấm dứt. Sau chiến tranh, Trung Quốc thu hồi lại được những đất đai đã mất ở đại lục, tỉnh Đài Loan vốn đã bị Nhật xâm chiếm trong 50 năm và một số đảo vốn bị Nhật Bản chiếm đóng trong Đại chiến Thế giới lần thứ hai.

Lãnh thổ Trung Quốc hiện nay

Sau khi Trung Cộng xây dựng chính quyền, phạm vi lãnh thổ Trung Quốc như sau: phía Đông tới chỗ giao hội giữa Hắc Long Giang và Ô Tô Lý Giang, phía Tây đến cao nguyên Mạt Mễ Nhĩ, phía Nam tới vùng biển phía Nam của Trung Quốc, phía Bắc đến Mặc Hà (thành phố Mohe). Nhưng ở Đông Bắc và Tây Nam vẫn tồn tại vấn đề tranh chấp lãnh thổ.

Đầu những năm 50, Trung Cộng và Liên Xô ký kết Điều ước đồng minh hỗ trợ hữu hảo Trung Xô và trao đổi văn kiện “Hiệp định bổ sung” về việc xác nhận và bảo chứng địa vị độc lập của nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ. Thông qua điều ước hoặc văn kiện kể trên, khu vực Ngoại Mông Cổ chính thức độc lập, Trung Quốc đánh mất khu vực rộng lớn lên tới 1,54 triệu km² đất đai của Ngoại Mông. Ngoài ra, Trung Cộng còn chỉ định Tân Cương và Đông Bắc là “khu vực thuộc địa và phạm vi thế lực của Nga Xô Viết”. Đối với những khu vực lãnh thổ còn tranh chấp, những kẻ đứng đầu Trung Cộng vì lợi ích riêng của của bản thân đã đem bán đứng vào cuối thế kỷ 20.

Tới năm 1997 và năm 1999, Trung Quốc tiếp quản lại Hồng Kông và Macao. Nhưng ngày 9 và ngày 10 tháng 12 năm 1999 là hai ngày khiến người dân Trung Quốc cảm thấy bị sỉ nhục. Trong hai ngày này, lãnh đạo cao nhất của Trung Cộng lúc bấy giờ là Giang Trạch Dân và tổng thống Nga Boris Yeltsin khi ấy đang ở thăm Trung Quốc, đã ký kết “Nghị định tự thuật về hai đoạn biên giới Đông Tây Trung Nga giữa nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và chính phủ Liên bang Nga” (sau đây gọi tắt là “Nghị định thư”).

Trong Nghị định thư này, Trung Quốc đánh mất hơn 1 triệu km² lãnh thổ, bao gồm khu “Ngoại Hưng” rộng hơn 600.000 km² về khu vực phía Nam bên ngoài dãy Hưng An và phía Bắc của Hắc Long Giang, khu “Ô Đông” rộng 400.000 km² chính là khu vực phía Đông của Ô Tô Lý Giang, khu vực Đường Nỗ Ô Lương Hải rộng 170.000 km² và Khố Hiệt Đảo rộng 76.400 km². Các vùng lãnh thổ kể trên có diện tích bằng ba tỉnh Đông Bắc cộng lại. Hơn nữa khu vực cửa biển ở Đồ Môn Giang cũng giao lại cho Nga, khiến đường đi từ Đông Bắc Trung Quốc ra biển Nhật Bản bị phong kín.

Ngoài ra, Giang Trạch Dân đại biểu cho Trung Cộng còn cùng với Tajikistan, Kyrgyzstan và Kazakhstan ký kết Hiệp định hoạch định biên giới Trung – Tajikistan, Hiệp định hoạch định biên giới Trung – Kazakhstan, v.v… Cơ bản đã buông bỏ tất cả các khu vực lãnh thổ đang có tranh chấp. Ví dụ, Giang và tổng thống Tajikistan đã ký ước, đem khu vực đang có tranh chấp rộng 27.000 km² gần Mạt Mễ Nhĩ bán đứng cho Tajikistan, mà Trung Quốc chỉ được có 1000 km².

Về tranh chấp lãnh thổ ở phía Nam, Trung Cộng cũng thực hiện chính sách khuất phục tương tự. Ví dụ, cuối tháng 11 năm 1996, Giang Trạch Dân viếng thăm Ấn Độ và ký kết “Hiệp định biện pháp kiến lập tín nhiệm khu vực quân sự dọc đường kiểm soát thực tế ở khu vực biên giới Trung – Ấn”, lấy đường kiểm soát thực tế hiện tại giữa hai nước Trung Quốc và Ấn Độ làm cơ bản để phân giới tuyến. Việc này tương đương với việc thừa nhận đường McMahon phi pháp, vứt bỏ đi khu vực chân núi phía Nam phì nhiêu của dãy Himalaya có diện tích 90.000 km².

Từ diễn biến lịch sử phát triển lãnh thổ Trung Quốc, chúng ta có thể nhận được khải thị nào đây?

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/37818

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 2): Phạm vi địa lý của Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 1)https://chanhkien.org/2023/09/khai-quat-ve-van-hoa-trung-quoc-phan-1.htmlFri, 01 Sep 2023 04:28:36 +0000https://chanhkien.org/?p=31211Tác giả: Tâm Duyên [ChanhKien.org] Chương 1: Khởi nguyên của dân tộc Trung Hoa: Thần thoại về sáng thế Đối với vấn đề trời, đất và vạn vật từ đâu mà tới, người phương Tây cho rằng hết thảy đều do Thượng Đế tạo ra. Tại Trung Quốc thì có truyền thuyết về Bàn Cổ […]

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Chương 1: Khởi nguyên của dân tộc Trung Hoa: Thần thoại về sáng thế

Đối với vấn đề trời, đất và vạn vật từ đâu mà tới, người phương Tây cho rằng hết thảy đều do Thượng Đế tạo ra. Tại Trung Quốc thì có truyền thuyết về Bàn Cổ khai thiên lập địa. Căn cứ vào những ghi chép trong cuốn Tam Ngũ Lịch Ký của tác giả Từ Chỉnh người nước Ngô thời Tam Quốc ở Trung Quốc thì vũ trụ là do vị Thần Bàn Cổ sáng tạo ra, ông đã tạo ra trời, đất và vạn vật.

Sau khi trên địa cầu có trời, đất cùng vạn vật, Thiên thượng cử xuống một vị Thần tên Nữ Oa. Bà dùng Pháp lực, bắt đầu phỏng theo hình dạng của mình mà tạo nên người nam và người nữ.

Từ đó người Trung Quốc bắt đầu xuất hiện trên Trái Đất. Nhưng vì mới được Thần tạo ra, nên họ không biết nên ở đâu, không biết nên ăn gì, không biết tránh mưa tránh gió ra làm sao, không biết mắc bệnh phải làm thế nào. Vì thế, Thiên thượng lại cử xuống một số vị Thần. Các vị Thần ấy bắt đầu dạy cho con người một số kỹ năng sinh sống cơ bản, lại truyền cho con người một chút văn hóa ban sơ.

Những vị Thần này có Hữu Sào Thị dạy con người cách xây nhà, Toại Nhân Thị dạy con người cách dùng gỗ đánh lửa, Phục Hy Thị dạy con người đan lưới đánh cá, săn bắt, trồng trọt, nhóm lửa, dẫn dắt con người sống một cuộc sống định cư ổn định, cũng lập nên dòng họ Phục Hy Thị – dòng họ sớm nhất ở Trung Quốc, và Thần Nông Thị dạy con người cách tìm thức ăn và thảo dược có thể trị bệnh.

Cứ như vậy, người Trung Quốc thời viễn cổ dưới sự trợ giúp của Thần nhân mà chất lượng cuộc sống bắt đầu được nâng cao. Họ bắt đầu có nhận thức và năng lực nhất định để ứng phó với tự nhiên, đồng thời cũng có quy phạm hành vi cơ bản của nhân loại.

Chương 2: Con cháu Viêm Hoàng, dân tộc Hoa Hạ, dân tộc Hán và nền văn hóa xán lạn huy hoàng

Người Trung Quốc thường tự hào nói bản thân là “con cháu Viêm Hoàng”, tại sao lại có cách nói như vậy?

Tổ tiên người Trung Quốc ban đầu chủ yếu sinh hoạt ở lưu vực sông Hoàng Hà. Việc này tất nhiên có quan hệ với điều kiện tự nhiên phong phú của sông Hoàng Hà. Sau đó người ta mới bắt đầu dần dần di chuyển xuống phía Nam. Con người thời điểm đó sống cùng nhau thành một quần thể theo hình thức bộ tộc. Lúc ấy các bộ lạc đều tôn Thần Nông Thị làm chủ, tôn xưng ông là Viêm Đế và tiến cống bày tỏ lòng kính trọng với ông. Bộ tộc của Thần Nông Thị chủ yếu sinh sống tại vùng hạ lưu sông Hoàng Hà.

Tương truyền ở lưu vực sông Hoàng Hà, cũng chính tại vùng Đông Nam huyện Trác Lộc của tỉnh Hà Bắc ngày nay, có một bộ lạc dần dần trở nên lớn mạnh, chính là bộ lạc Hùng Thị. Trong bộ lạc này có một người họ Công Tôn tên Hiên Viên. Hiên Viên sau này được mọi người tôn là thủ lĩnh của bộ lạc, xưng là Hoàng Đế.

Sau đó, bộ lạc của Viêm Đế bắt đầu suy yếu, không còn năng lực thống trị các bộ lạc khác. Đặc biệt là ở vùng Hà Bắc, Hà Nam và Sơn Đông ngày nay có tộc Cửu Lê đứng đầu là thủ lĩnh Xi Vưu vô cùng hung bạo, không ai có thể thảo phạt hắn. Xi Vưu cùng Viêm Đế tranh giành vùng hạ du sông Hoàng Hà. Hai bên từng xảy ra một cuộc đại chiến, nhưng Viêm Đế bại trận, vì thế cùng Hoàng Đế kết thành liên minh. Hoàng Đế dẫn dắt người của hai bộ lạc đại chiến với Xi Vưu ở vùng ngoại ô của huyện Trác Lộc. Cuối cùng, Hoàng Đế giành được thắng lợi.

Sau đó, hai bộ lạc của Hoàng Đế và Viêm Đế xảy ra chiến tranh, Hoàng Đế lại giành được thắng lợi. Từ đó về sau, các bộ lạc tại Trung Nguyên đều tôn Hoàng Đế là chủ chung của thiên hạ, tức là Thiên tử, thay thế cho Viêm Đế. Ý nghĩa của Thiên tử chính là con của trời, được trời phú cho Thiên mệnh đi hành Thiên Đạo ở thế gian con người. Hoàng Đế trở thành vị đế vương đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc lấy vũ lực, và hình thức binh chinh thiên hạ để thần phục các chư hầu, thống nhất các bộ tộc Hoa Hạ. Cho nên dân tộc Trung Hoa đều tự xưng là “con cháu của Hoàng Đế”. Lại vì hai bộ lạc của Viêm, Hoàng hợp thành dân tộc Hoa Hạ, nên cũng xưng là “con cháu Viêm Hoàng”.

Hai bộ lạc Viêm, Hoàng dưới sự lãnh đạo của Hoàng Đế dần dần dung hợp thành dân tộc Hoa Hạ. “Hoa” có nghĩa là “màu sắc rực rỡ”, có ý chỉ trang phục của người Trung Nguyên màu sắc sáng sủa rực rỡ, biểu thị cho nền văn hóa phồn vinh. “Hạ” có nghĩa là “Đại”. Tộc Hoa Hạ có nghĩa là “Những người có văn hóa rất phồn vinh sống tại khu vực Trung Nguyên”. Lúc ấy ngoài dân tộc Hoa Hạ còn có các dân tộc khác sinh sống ở chung quanh. Người Trung Quốc hiện nay cũng dùng “Hoa Hạ” để gọi Trung Quốc.

“Con cháu Viêm Hoàng” lúc ban đầu chỉ dùng để chỉ dân tộc Hoa Hạ, cũng chính là dân tộc Hán. Hiện tại lại dùng để chỉ toàn bộ người Trung Quốc, bao gồm cả người Trung Quốc đang sống tại các quốc gia khác. Tiền thân của dân tộc Hán là chỉ dân tộc Hoa Hạ, cách xưng hô dân tộc “Hán” có từ khi Lưu Bang lập ra triều Hán.

Trước triều Hán là nhà Tần của Tần Thủy Hoàng. Sau khi thống nhất Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng đã áp dụng một loạt các biện pháp, ví như: thống nhất tiền tệ và văn tự, thống nhất xác định địa khu cư trú, v.v… Những việc này đã đặt định ra nền tảng cho sự hình thành của dân tộc Hán.

Triều Tần diệt vong. Sau khi Lưu Bang thống nhất Trung Quốc, vì trước đây đã từng tự phong mình là “Hán Vương”, nên ông đem vương triều mà mình thành lập gọi là “Hán triều”, sử gia gọi là triều Tây Hán. Trong thời Tây Hán, Trung Quốc đã có thời gian phồn vinh tương đối lâu dài. Đặc biệt là trong thời của Hán Vũ Đế, nhà Hán đã trở thành một vương triều rất cường đại. Các quốc gia và dân tộc chung quanh đều gọi người dân của triều Hán là “Hán nhân” (người Hán), coi người Trung Quốc là người Hán. Chủ thể của người Hán lúc này vẫn là tộc người Hoa Hạ, nhưng cùng với việc nhà Tây Hán mở rộng bờ cõi, có rất nhiều người của các dân tộc khác cũng bị dung nạp trở thành con dân của triều Hán. Dân tộc Hán bắt đầu hình thành, tuy nhiên cách xưng hô Hán tộc vẫn chưa xuất hiện.

Vào thời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều, vì rất nhiều người thống trị đều là dân tộc thiểu số, nên họ gọi những người sống ở phương Bắc là “Hán nhân”. Tới thời kỳ Tùy Đường, “Hán” chủ yếu được dùng để chỉ đất đai nhà Đường và người nhà Đường. Vào triều Nguyên, việc dung hợp dân tộc diễn ra nhanh hơn. Thời kỳ đầu triều Minh thực hiện chính sách Hán hóa toàn diện. Triều Thanh thì thực hành chính sách dân tộc ba cấp bậc Mãn, Mông, Hán. Sau khi Trung Hoa Dân Quốc thành lập, “người Hán” chính thức xưng là dân tộc Hán. Hiện nay Trung Quốc có 56 dân tộc, trong đó dân tộc Hán chiếm 92% tổng dân số, phân bố ở khắp nơi trong cả nước. 55 dân tộc còn lại, vì chỉ có khoảng hơn 90 triệu người, nên được gọi là các dân tộc thiểu số. Các dân tộc thiểu số có một triệu người gồm có Mông, Hồi, Tạng, v.v… khoảng 18 dân tộc. Họ phân bố ở các nơi trong cả nước, tỉnh Vân Nam là tỉnh có đông dân tộc thiểu số nhất. Trong số 55 dân tộc thiểu số này, ngoại trừ dân tộc Hồi sử dụng tiếng Hán, còn lại đều có ngôn ngữ của riêng mình, nhưng chỉ có số ít có chữ viết riêng.

Cứ như vậy, ở khu vực Hoa Hạ này, trong quá trình dung hợp các dân tộc, con cháu Viêm Hoàng trải qua mỗi triều mỗi đại, trong quá trình kéo màn diễn lên rồi lại hạ màn diễn xuống, mỗi triều đại lại vì hậu nhân mà để lại văn hóa do họ sáng tạo và mang đến. Từ đó tạo thành văn hóa Trung Quốc xán lạn đa dạng sắc màu. Ví như ở phương diện luân lý đạo đức xã hội có tư tưởng Nho gia của Khổng Tử. Ở phương diện chính tín và tu luyện, có Đạo của Lão Tử và văn hóa tu luyện của Phật gia. Ở lĩnh vực văn học, có thơ ca nhạc phủ thời Tiên Tần, Hán phú, Đường thi, Tống từ, Nguyên khúc, tiểu thuyết thời Minh Thanh, v.v… Ở lĩnh vực nghệ thuật, mỗi một triều đại đều có biểu hiện phong phú riêng, vô luận là âm nhạc, hý khúc, cũng như thư pháp, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, hang đá, gốm sứ và các lâm viên nghệ thuật, đều làm cho con người ngày nay tán thưởng mãi không thôi. Mà ở lĩnh vực khoa học kỹ thuật, các vương triều cổ đại không chỉ khiến thế giới kinh ngạc với tứ đại phát minh, mà ở các phương diện khác như y học, thiên văn học, nông nghiệp, thủy lợi, toán học, v.v… cũng đều có thành tựu nổi bật, đủ để khiến cho con người hôm nay cảm thấy hổ thẹn.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/37817

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>