Văn hoá dân tộc thiểu số | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 24 Apr 2025 07:00:24 +0000en-UShourly1Loạt bài: Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (1)https://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-van-hoa-than-truyen-cua-nguoi-dan-toc-thieu-so-trung-quoc-1.htmlSun, 07 Mar 2021 20:30:22 +0000https://chanhkien.org/?p=27231Tác giả: GZ [ChanhKien.org]   Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (1): Tổ tiên đến từ Thiên thượng (phần 1) Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (1): Tổ tiên đến từ Thiên thượng (phần 2) Văn hoá Thần truyền của người dân tộc […]

The post Loạt bài: Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: GZ

[ChanhKien.org]

 

Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (1): Tổ tiên đến từ Thiên thượng (phần 1)

Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (1): Tổ tiên đến từ Thiên thượng (phần 2)

Văn hoá Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (2): Thần tạo ra ba chủng người

Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (3): Hồi sinh sau thảm họa

Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (4): Khát vọng Trung Nguyên (phần 1)

Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (4): Khát vọng Trung Nguyên (phần 2)

Văn hóa Thần truyền của dân tộc thiểu số Trung Quốc (5): Các triều đại thay phiên nhau diễn vở kịch lớn, đời này nối tiếp đời kia vì Pháp mà đến

Văn hóa Thần truyền của dân tộc thiểu số Trung Quốc (6): Kỹ thuật Trời ban tạo ra đồ vật

The post Loạt bài: Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Văn hóa Thần truyền của dân tộc thiểu số Trung Quốc (6): Kỹ thuật Trời ban tạo ra đồ vậthttps://chanhkien.org/2020/12/van-hoa-than-truyen-cua-dan-toc-thieu-so-trung-quoc-6-ky-thuat-troi-ban-tao-ra-do-vat.htmlTue, 29 Dec 2020 21:44:13 +0000https://chanhkien.org/?p=26930Tác giả: GZ Tiếp theo Phần 5 [ChanhKien.org] Lời tựa: Tôi đã có nhiều năm tham gia công tác giảng dạy và nghiên cứu nghệ thuật, trong quá trình công tác đã nghiên cứu nhiều đề tài về dân tộc thiểu số Trung Quốc. Tôi đã phát hiện thấy rằng các dân tộc thiểu số […]

The post Văn hóa Thần truyền của dân tộc thiểu số Trung Quốc (6): Kỹ thuật Trời ban tạo ra đồ vật first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: GZ

Tiếp theo Phần 5

[ChanhKien.org]

Lời tựa: Tôi đã có nhiều năm tham gia công tác giảng dạy và nghiên cứu nghệ thuật, trong quá trình công tác đã nghiên cứu nhiều đề tài về dân tộc thiểu số Trung Quốc. Tôi đã phát hiện thấy rằng các dân tộc thiểu số có một lịch sử rất cổ xưa, tuy nhiên rất nhiều điều họ bảo tồn được lại vô cùng khó hiểu đối với người hiện đại, người ta chỉ xem đó như một nền văn hóa thần bí để thỏa mãn tính hiếu kỳ của mình. Kể từ khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, thoát khỏi sự đầu độc của chủ nghĩa vô thần và thuyết tiến hóa, tôi liên tục được Đại Pháp khai mở trí huệ, khi nhìn lại những sản phẩm văn hóa nghệ thuật của các dân tộc thiểu số này, tôi phát hiện rằng rất nhiều điều mà người bình thường không thể hiểu được đã được giải đáp trong các bài giảng Pháp của Sư tôn. Văn hóa nghệ thuật của các dân tộc thiểu số cũng chứng minh cho sự tồn tại của Thần, cũng là một phần của văn hóa Thần truyền, nhưng thuyết tiến hóa và chủ nghĩa vô thần đã cản trở con đường quay trở về truyền thống của con người thế gian. Tôi xin chia sẻ những hiểu biết này với các đồng tu, do tầng thứ tu luyện cá nhân có hạn, có chỗ nào không phù hợp, xin từ bi chỉ rõ.

6. Kỹ nghệ trời ban tạo ra vật dụng

Trong bài trước chúng ta đã điểm lại thời kỳ từ xa xưa, con cháu của Viêm Đế và Hoàng Đế đã trải qua quá trình liên tục phân hóa và hội nhập để hình thành nên quốc gia đa dân tộc cùng chung sống hoà hợp ngày nay. Trong quá trình hàng chục nghìn năm thăng trầm của lịch sử, các vị Thần đã liên tục truyền thụ cho con người các kỹ năng và kiến thức: Phục Hy sáng lập Bát Quái, Toại Nhân Thị truyền cách lấy lửa, Hữu Sào Thị bày cách quây cây làm tổ, Thần Nông Thị nếm hàng trăm loại cỏ và dạy cách làm nông nghiệp, Hoàng Đế tạo ra văn tự, Luy Tổ nuôi tằm nhả tơ… Có thể nói “Thần truyền kỹ thuật trời ban, tạo ra vật dụng tạo thành nghề nghiệp”, đã hình thành nên các ngành các nghề làm phong phú xã hội nhân loại và tạo nên cảnh tượng sinh khí bừng bừng.

Tuy nhiên, sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong gần 200 năm qua đã dần thay thế nếp sống truyền thống mà nhân loại đã kế thừa hàng nghìn năm, mối quan hệ hài hòa giữa con người, thiên nhiên và vũ trụ thuận theo sự cạnh tranh kỹ thuật và cướp đoạt tài nguyên đã phát sinh biến đổi về bản chất, phương thức sống của nhân loại ngày nay đã bị khoa học kỹ thuật thay đổi hoàn toàn. Trong xã hội hiện đại tràn ngập thông tin khoa học kỹ thuật, con người đang làm những gì? Bật máy tính, di chuyển chuột, gửi và nhận tin nhắn văn bản trên điện thoại di động, hầu hết thời gian hai tay chúng ta tiếp xúc với các sản phẩm công nghiệp. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật khiến các chức năng của đôi bàn tay chúng ta ngày càng bị kìm hãm, sự cách biệt giữa chúng ta với thiên nhiên và văn hóa truyền thống càng ngày càng xa. Tuy nhiên trong ham muốn vật chất tràn lan ngày nay, dòng máu văn hóa truyền thống ở một số vùng dân tộc thiểu số vẫn được truyền từ đời này sang đời khác. Những dân tộc cổ xưa này đã trải qua hết những ma nạn này đến ma nạn khác trong gần vạn năm vật đổi sao rời, họ đã thoát khỏi trận Đại hồng thủy, từ phía tây dãy núi Côn Luân, tiến vào vùng Trung Nguyên, vượt qua sông Hoàng Hà băng qua sông Trường Giang, từ thời đại Tiên Tần đã tiến đến những dãy núi cao trùng điệp ở phía Tây Nam Trung Quốc để hình thành nên lãnh thổ của các dân tộc thiểu số ngày nay. May mắn thay, từ đó đến nay họ cách xa khỏi sự biến đổi thế sự của vùng Trung Nguyên, một số vùng vẫn còn duy trì được lối sống khá truyền thống. Chúng tôi phát hiện ra rằng một số đồ vật tưởng chừng như bình thường trên người họ đằng sau đó lại có mối liên hệ chặt chẽ với vũ trụ, thiên thể, thần thoại, lấp lánh ánh hào quang của văn hóa Thần truyền (Hình 1).

Hình 1: Làng cổ Ông Đinh ở A Ngọa Sơn, tỉnh Vân Nam

Một trong những biểu hiện của văn hóa truyền thống là con người thông qua kỹ nghệ thủ công để tạo ra công cụ trong cuộc sống, điều này trái ngược với nền văn minh công nghiệp, những kỹ nghệ này không chỉ là biểu hiện của cuộc sống truyền thống mà còn có nội hàm thâm sâu hơn. Trong thời mạt kiếp của vũ trụ, nếu như khi tất cả khoa học kỹ thuật hiện đại bỗng nhiên biến mất, thì nhân loại sẽ tiếp tục tồn tại như thế nào? Có lẽ chúng ta có thể tìm thấy một số khải thị nào đó từ lối sống truyền thống của các dân tộc thiểu số. Trong cách ăn, mặc, ở, đi lại của các dân tộc thiểu số, bài viết này chỉ lấy cách “mặc” của họ làm ví dụ, liệt kê một vài kỹ nghệ thủ công truyền thống để mọi người tham khảo.

Ngày nay rất nhiều dân tộc ở phía Nam vẫn duy trì truyền thống may quần áo kiểu thủ công, trong mắt họ trang phục có giá trị nhất không phải là thời trang hàng hiệu, mà là một bộ trang phục được làm hoàn toàn bằng thủ công phù hợp với điều kiện khí hậu. Vì vậy họ có thể mất đến bốn năm để làm một bộ quần áo, nhưng họ có thể mặc nó cả đời và truyền qua nhiều thế hệ. Quan niệm này khiến người dân tộc thiểu số có thái độ rất trân trọng đối với trang phục truyền thống, trang phục chính là danh thiếp của họ và cũng gửi gắm tinh thần của họ. Chẳng hạn, dân tộc Miêu sở hữu hơn 100 loại trang phục, được mệnh danh là “trang phục đẹp nhất của các dân tộc Trung Quốc”. Đại thi hào Đỗ Phủ đời Đường, khi đi qua khu vực Ngũ Khê (khu vực Hồ Nam, Quý Châu, Trùng Khánh và Hồ Bắc ngày nay), nhìn thấy những người dân tộc thiểu số địa phương mặc quần áo lộng lẫy, đã viết nên câu thơ bất hủ: “Ngũ thải y thường cộng vân thiên” (Nghĩa là: quần áo ngũ sắc quyện với mây trời). Và đây chính là sự đối ứng giữa văn hoá con người với thiên tượng trong vũ trụ, trong “Sử ký – Thiên quan thư” viết: “Thất tinh vi viên quan, Thần Tinh miếu, Man Di tinh dã” (Nghĩa là: sao thất tinh tượng trưng cho các viên quan, miếu thờ của Thần Tinh, cũng là sao ứng với dân tộc Man, Di) Điều này nói về mối quan hệ tương ứng giữa các dân tộc phía Nam và các vì sao trên bầu trời: một trong Tứ Tượng là Nam Cung “Chu Tước”, do bảy ngôi sao gồm “sao Tỉnh, sao Quỷ, sao Liễu, sao Tinh, sao Trương, sao Dực và sao Chẩn” tạo thành, ngôi sao thứ tư còn được gọi là “Thất Tinh”, nó từng thuộc về Chu Tước, là miếu thờ của Thần Tinh, là tương ứng với các dân tộc phía Nam ở trần gian. “Khai nguyên chiêm kinh” cũng viết: “Thất tinh, cũng là Xích Đế, quần áo chúa, vương miện hoàng đế, chăn mền quần áo cũng được thêu thùa”. Thất Tinh là tượng trưng cho Xích Đế, Xích Đế là Thiên Đế của phương Nam, trong Ngũ Hành thuộc về Hỏa Đức, còn gọi là “Viêm Đế”, hiệu là Thần Nông Thị, tổng cộng truyền được 17 đời. Vào thời thượng cổ, hậu duệ cuối cùng của Viêm Đế là Du Võng đã hợp với Hoàng Đế hình thành bộ lạc Hoa Hạ. Chức năng của Thất Tinh trên thiên thượng chính là phụ trách các công việc thủ công mỹ nghệ như thêu quần áo, chăn mền v.v. và cai quản các chủng tộc phương Nam, đó là lý do tại sao nhiều dân tộc ở phương Nam giỏi thêu thùa, in hoa nhuộm màu, dệt vải và các kỹ năng thủ công mỹ nghệ khác. Hình tượng “Chu Tước” thường được nhìn thấy trên trang phục của phụ nữ dân tộc thiểu số, nó tượng trưng cho vị thế của bản thân với “phẩm cách thiên phú” (Hình 2), dân tộc Khương, dân tộc Kinh, dân tộc Miêu và các dân tộc khác đều coi Viêm Đế là tổ tiên của họ.

Hình 2: Mũ bằng bạc có hình “Chu Tước” (chim hồng tước) của dân tộc Miêu do Bảo tàng Nghệ thuật Chicago, Mỹ sưu tầm

1. Kỹ nghệ dệt vải

Ở sâu trong núi Đại Lương tỉnh Tứ Xuyên, phụ nữ dân tộc Di quay các bánh xe để xe sợi len từ lông cừu, công cụ này có thể đã được sử dụng trong hơn 30.000 năm, ở các di chỉ văn minh cổ đại trên khắp thế giới chúng ta có thể thấy được những hình ảnh bánh xe quay này, khi mọi người xe sợi, kỳ thực là tạo thành một đường xoắn ốc, đây chính là bước đầu để tạo ra một bộ trang phục. Trong vũ trụ bao la, khi từ không gian bên ngoài nhìn xuống thiên hà của chúng ta, thì nó cũng là một hình xoắn ốc, hình xoắn ốc là hình dạng do vũ trụ tạo ra (Hình 3). Chúng ta có thể tìm thấy hình xoắn ốc này ở rất nhiều nơi trong thế giới tự nhiên, trên đỉnh đầu và trên các dấu vân tay của con người cũng có những đường xoắn ốc, chu kỳ chuyển động hàng ngày của các hành tinh cũng tạo thành hình xoắn ốc, mà trong văn tự Giáp cốt thì đường xoắn ốc chính là chữ “hồi (回)” trong hồi gia nghĩa là trở về nhà. “Hồi gia” là ký ức trong sâu thẳm nhất nội tâm của mỗi chúng ta (Hình 4). Từ thế giới tự nhiên, đến xã hội loài người cho đến toàn bộ vũ trụ thì mối quan hệ nội tại tất cả sự vật đều tuân theo một trật tự giống nhau, nền văn minh nhân loại cũng đã sinh ra theo trật tự này.

Hình 3: Hình xoắn ốc cổ đại trong vũ trụ và thế giới tự nhiên

Hình 4: Chữ “hồi” trong văn tự Giáp cốt. “Hồi gia” là ký ức trong sâu thẳm nhất nội tâm của mỗi chúng ta

2. Kỹ nghệ thêu thùa

Các cô gái Miêu khi lên 7, 8 tuổi đã bắt đầu học thêu thùa, làm nữ công từ mẹ của họ. Đến khi 14, 15 tuổi, hầu hết mọi cô gái đều đã thành thạo nghề thêu, sau đó họ thêu cả đời cho đến khi tay không cầm nổi kim, mắt không nhìn rõ đường kim mũi chỉ mới thôi. “Thêu cắt chỉ” ở thị trấn Thi Động, châu Đông Nam, tỉnh Quý Châu là nghề thủ công đỉnh cao trong nghề thêu của dân tộc Miêu, khi thêu cần phải tách một sợi tơ bình thường thành 8-16 sợi nhỏ để thêu, thông thường phải mất hơn bốn năm để có một chiếc áo thêu thượng hạng (Hình 5). Tâm lý đã tốt rồi lại muốn tốt hơn nữa này thể hiện sự theo đuổi đỉnh cao nghề thủ công thêu ren của người Miêu. Trước khi xuất giá, các cô gái địa phương phải cùng với người nhà may 3-5 bộ quần áo thêu để làm của hồi môn, đây là vốn liếng quan trọng để chứng tỏ đức tính “đảm đang, chăm chỉ” của người phụ nữ.

Hình 5: “Thêu tách sợi chỉ” là kỹ thuật thêu đỉnh cao của dân tộc Miêu ở thị trấn Thi Động

Kim giống như bút, chỉ như mực, dân tộc Miêu không có chữ viết nên đã dùng ngôn ngữ hoa văn trang trí phong phú thêu dệt lịch sử của họ lên y phục. Các vị Thần tổ tiên, các cổ ca sử thi, truyền thuyết thần thoại và con đường di cư của tổ tiên đều trở thành những hình mẫu tinh xảo thêu trên quần áo của người phụ nữ Miêu. Mỗi dịp lễ hội trọng đại là thời điểm để phụ nữ Miêu thể hiện mình, họ có thế giới tinh thần quá phong phú cần biểu đạt và một bộ trang phục lộng lẫy được đáng giá hơn ngàn vạn lời nói, sự theo đuổi tinh thần siêu việt khỏi vật chất này khiến những sản phẩm thêu cổ xưa của người Miêu không thể phục chế (Hình 6).

Hình 6: Phụ nữ làng Đài Giang dân tộc Miêu trong trang phục rực rỡ mừng tết người Miêu

3. Kỹ nghệ làm trang sức bạc

Tổ tiên của dân tộc Miêu là thị tộc cổ đại đầu tiên nắm vững kỹ thuật tinh luyện kim loại, cho nên người Miêu được thừa hưởng nghề thủ công làm đồ trang sức bằng bạc tinh xảo. Phụ nữ Miêu đặc biệt thích đeo nhiều loại trang sức bằng bạc, họ tin rằng bạc là Thần vật có thể trừ tà, trong nhà càng có nhiều trang sức bằng bạc thì càng giàu có và hạnh phúc. Vì vậy từ khi cô bé Miêu được sinh ra, cha mẹ đã bắt đầu tích bạc để làm trang sức cho cô, bạc được tích cho đến ngày cô xuất giá, cô dâu đeo trang sức bạc nặng mấy chục cân khắp người để cưới, đó là biểu tượng chứng minh cho địa vị của chính mình. Ngoài ra, những món trang sức bạc khác nhau cũng mang những ý nghĩa tượng trưng khác nhau, mũ “sừng trâu lớn” của phụ nữ Miêu ở khu Lôi Sơn, Quý Châu tượng trưng cho hoài niệm về tổ tiên Xi Vưu; “mũ chim hồng tước” của phụ nữ Miêu ở vùng Hoàng Bình tương ứng với chòm sao Chu Tước, một trong Tứ Tượng trên thiên thượng; trang phục bằng bạc ở khu vực Cách Nhất được khảm bằng những miếng bạc với các hình tượng mang lại may mắn như mặt trời, rồng, phượng, voi và hoa sen. Trong mắt đồng bào dân tộc thiểu số, bộ trang phục lộng lẫy được nạm đầy bạc này là bộ trang phục biểu tượng cho Thần đồng tại với tổ tiên, họ cho rằng tổ tiên mình chính là các vị Thần linh đến từ thiên thượng, vì vậy mỗi đường kim, mỗi mũi chỉ từ bàn tay con người đều được hoàn thành dưới sự chăm chú theo dõi của các vị Thần, trong đó ẩn chứa vũ trụ quan phong phú của cả dân tộc cho đến tri thức về trời đất, thiên nhiên và sinh mệnh. (Hình 7)

Hình 7: Phụ nữ và trẻ em dân tộc Miêu mặc áo khoác bạc, đội mũ bạc hình chim hồng tước, tham gia lễ hội khèn truyền thống ở huyện Cốc Lũng Hoàng Bình, tỉnh Quý Châu

4. Kỹ nghệ dệt địu

Trong mắt người dân tộc thiểu số, chiếc địu sau lưng không chỉ là vật dụng để mẹ địu con, mà còn là sợi dây gắn kết giữa người mẹ và sinh mệnh của đứa trẻ, là tấm bùa hộ mệnh bảo vệ sự trưởng thành của đứa trẻ, là hiện thân của các vị Thần linh. Phụ nữ dân tộc thiểu số, bất kể giàu hay nghèo, sang hay hèn thì sự phồn vinh thịnh vượng của thế hệ con cháu đều có hy vọng tốt đẹp vô hạn, vì vậy từ khi còn là những cô gái họ đã dốc lòng chuyên tâm gửi hết tình cảm vào từng đường kim mũi chỉ để may những chiếc địu. Người Miêu khi làm địu thì cực kỳ thận trọng, thông thường họ chọn môi trường yên tĩnh khi nông nhàn, tránh may khâu những lúc bận rộn. Nếu gặp mùa gieo trồng vụ xuân khi ếch kêu thì phải ngừng công việc, nếu không sau này những đứa trẻ sinh ra khi địu sẽ hay khóc. Nhiều dân tộc thiểu số có quy định nghiêm ngặt về việc sử dụng địu, trong sinh hoạt, lễ hội và khi đi thăm người thân bạn bè thì phải sử dụng các loại địu khác nhau. Giống như những chiếc địu bằng gấm của người Bố Y ở huyện Trấn Ninh, tỉnh Quý Châu, bình thường không thể được sử dụng tùy tiện, theo quy định của dân tộc Bố Y, chỉ ở hai đầu của cuộc đời con người là khi còn thơ ấu và lúc chết mới được sử dụng. Khi mở tiệc uống rượu đầy tháng, gia đình sẽ dùng chiếc địu đã chuẩn bị sẵn để địu bé ra ngoài gặp mặt người thân và bạn bè để nhận lời chúc phúc. Kể từ ngày đó trở đi, chiếc địu này chính là Thần bảo hộ của đứa bé, được giữ gìn cẩn thận cho đến cuối đời (Hình 8).

Hình 8: Địu thổ cẩm của người dân tộc Bố Y ở huyện Trấn Ninh, tỉnh Quý Châu

Các hoa văn trên chiếc địu có nội hàm sâu sắc, chúng là sợi dây kết nối với vũ trụ và Thần linh, là hiện thân của tư duy về Thần và vũ trụ quan cổ xưa của các dân tộc thiểu số. Trên chiếc địu của bộ tộc Mao Nam có thêu hình Lạc Thư và Bát Quái cổ xưa, dụng ý là để bảo vệ trẻ em được bình an (Hình 9); chữ Vạn nối tiếp nhau trên chiếc địu của bộ tộc Bố Y tượng trưng cho cuộc sống vĩnh hằng và điềm lành liên tục (Hình 10); con bướm và “hoa văn hỗn độn” biểu thị trạng thái sơ khai của sinh mệnh trên chiếc địu của bộ tộc Thủy là những vị Thần hộ mệnh của người trong bộ tộc (Hình 11); mười mặt trời trên chiếc địu của dân tộc Động là ký ức thần thoại từ thời viễn cổ về việc mười mặt trời cùng xuất hiện (Hình 12); hoa sen nở trên chiếc địu của dân tộc Choang tượng trưng cho phẩm hạnh thánh khiết (Hình 13).

Hình 9: “Phần chính giữa chiếc địu” của dân tộc Mao Nam

Hình 10: Chiếc địu của dân tộc Bố Y

Hình 11. Chiếc địu của dân tộc Thủy

Hình 12. Chiếc địu của dân tộc Động

Hình 13. Chiếc địu của dân tộc Choang

Một số dân tộc đã dùng những kỹ thuật thủ công tinh mỹ để ghi lại phong tục địa phương trên những chiếc địu của họ, ví dụ hình dưới đây là một chiếc địu được người Mao Nam sử dụng trong đại lễ cúng tế ở khu vực Hoàn Giang, Quảng Tây, 108 nhân vật được thêu trên mảnh lụa chỉ có 25 cm2, thể hiện hoạt động cúng tế “Phì Sào” của người Mao Nam, miêu tả toàn bộ quá trình con người cúng tế tổ tiên, trời đất thật độc đáo và tài tình (Hình 14).

Hình 14: “Mảnh chính giữa chiếc địu” của người dân tộc Mao Nam ở vùng Hoàn Giang, Quảng Tây

5. Kỹ nghệ in và nhuộm

Kỹ thuật nhuộm màu của đồng bào dân tộc thiểu số được thực hiện theo cách tự nhiên, thuốc nhuộm được lấy từ thực vật, thể hiện năm màu trắng, xanh, đen, đỏ, vàng tương ứng với Ngũ Hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Bộ tộc Miêu có hơn 100 chi, được phân chia theo màu sắc phân thành Bạch Miêu, Thanh Miêu, Hắc Miêu, Hồng Miêu và Hoa Miêu; Người Di cũng được phân biệt theo màu sắc, được chia thành Hắc Di, Bạch Di và Hồng Di. Màu sắc của tự nhiên được biến đổi thành các quan niệm và chế độ truyền thống, đây là sự tương ứng của “thiên văn và nhân văn”, là vũ trụ quan truyền thống của người xưa. Huyền (màu đen) và thanh (màu xanh lá) là những màu sắc đặc trưng của các dân tộc thiểu số. Huyền là gì? “Thiên địa huyền hoàng, vũ trụ hồng hoang”, huyền dùng để chỉ màu sắc của trạng thái trời đất thuở hồng hoang khi vũ trụ sơ khai, đó là một loại màu đen đặc biệt. Trong “Thuyết văn” giải thích rằng “màu đen mà có sắc đỏ là huyền”, thời xưa, huyền là màu sắc cao cấp thể hiện địa vị cao quý, kỹ thuật nhuộm màu của nó vô cùng phức tạp và rườm rà, đã thất truyền từ lâu ở vùng Trung Nguyên, nhưng người Miêu ở châu Kiềm phía đông nam tỉnh Quý Châu vẫn bảo tồn được kỹ thuật nhuộm cổ xưa này. Một tấm vải huyền hảo hạng trước hết cần một người thợ dệt có tay nghề cao để dệt thủ công một tấm vải lụa với đường vân phẳng hoặc tấm vải xô rất mịn và khít, rồi trải qua hai tháng nhuộm lặp đi lặp lại không ngừng bằng kỹ thuật nhuộm phức tạp mới có thể tạo ra một tấm vải huyền thượng hạng. Tấm vải được tạo ra theo cách này thì sẽ rộng và phẳng, nó có màu đen pha chút đỏ, khẽ lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời, tỏa ra mùi thơm thực vật, trông quý phái và thuần phác cổ xưa. Khi vải huyền được hoàn thành, những người phụ nữ Miêu đầu tiên sử dụng vải này để may quần áo “vạt phải” truyền thống của Trung Quốc, sau đó mất bốn năm để hoàn thành việc thêu các hình vẽ trên vải tơ lụa bằng kỹ thuật “thêu cắt chỉ” tinh xảo, tiếp đó thêu những mảnh vải này lên trên quần áo màu đen, như thế là bộ trang phục đẹp có thể lưu truyền qua nhiều thế hệ cuối cùng đã hoàn thành. (Hình 15)

Hình 15: “Huyền” – màu sắc cổ xưa

Thanh (màu xanh lá) cũng là màu yêu thích của người dân tộc thiểu số, người xưa nói: “Thanh xuất ư lam nhi thắng ư lam” (màu xanh lá vốn sinh ra từ màu lam nhưng vượt trội hơn màu lam), chúng ta có thể thấy sự độc đáo của màu xanh lá. Sử dụng các loại cây thảo dược Trung Quốc như cây Tùng Lam, Liễu Lam, Mã Lam, rễ cây Bản Lam để làm thuốc nhuộm màu lam của màu xanh lá, chúng không chỉ có mùi thơm, mà còn có chức năng ngăn côn trùng và xua đuổi tà ma. Nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số thích vẽ hoa văn và trang trí phong phú bằng dung dịch sáp nóng chảy trên vải, sau đó lại nhuộm màu lam để làm cho nó trang nhã và thuần phác cổ xưa (Hình 16).

Hình 16: Khăn đội đầu nhuộm hoa bằng sáp của dân tộc Miêu , vùng Quý Định, Quý Châu

6. Kỹ nghệ dệt vải

May quần áo cho người trong gia đình là một trong những nhiệm vụ cơ bản của mỗi phụ nữ dân tộc thiểu số, vì vậy họ phải có khung cửi làm của hồi môn. Lịch sử về việc sử dụng khung dệt của con người có thể đã bắt nguồn từ thời tiền sử, ở các di chỉ tiền sử của tỉnh Chiết Giang như Hà Mẫu Độ và Lương Chử đã khai quật được các bộ phận của khung cửi, phụ nữ dân tộc Lê ở Hải Nam cho đến nay vẫn sử dụng loại khung cửi lâu đời nhất này để dệt vải (Hình 17). Ngoài ra, phụ nữ các dân tộc thiểu số còn lưu giữ được kỹ thuật dệt với hàng chục loại khung cửi cổ như khung cửi bàn đạp go, khung cửi vân hoa nổi, khung cửi lồng tre, khung cửi Đinh Kiều, khung cửi thổ cẩm dân tộc Động, những tấm thổ cẩm tinh xảo này đều thể hiện sự rực rỡ của nền văn minh Trung Hoa (Hình 18).

Hình 17. Phụ nữ dân tộc Lê ở Hải Nam cho đến nay vẫn sử dụng loại khung cửi lâu đời nhất này để dệt vải

Hình 18: Gấm lụa tơ tằm hình chim hồng tước có nhiều hoa văn chữ “卍” của dân tộc Mao Nam ở Quảng Tây

Cho đến ngày nay, khi bước vào một ngôi làng ở miền Tây Nam, bạn vẫn có thể bắt gặp cảnh phụ nữ địa phương nhà nhà dệt vải, chúng tôi nhận thấy rằng những hành vi tưởng như rất bình thường hàng ngày ở địa phương này nhưng đằng sau nó thực ra lại chứa đựng trí huệ tuyệt vời của văn hóa truyền thống. Điều này không thể không khiến chúng ta suy nghĩ: rốt cuộc điều gì mới là nền văn minh mà loài người nên có? Người xưa đã nhận biết đầy đủ về điều này:

“Cương nhu giao thác, thiên văn dã. Văn minh dĩ chỉ, nhân văn dã. Quan hồ thiên văn, dĩ sát thời biến. Quan hồ nhân văn, dĩ hóa thành thiên hạ.” (Nghĩa là: Nhu với cương giao trộn với nhau, mà thành thiên văn. Văn minh mà lại có hạn chế, ấy là nhân văn. Quan sát sự vận hành của thiên văn, để xem biến đổi thời thế. Coi trọng nhân văn, để giáo hoá người trong thiên hạ) (“Chu Dịch- Quẻ Bí- Quẻ Thoán”)

Cương nhu đan xen tức là sự luân chuyển của Âm và Dương, quy luật thay đổi này tạo thành hệ thống thời gian và không gian. Nhưng trước những biến hóa của thiên tượng, con người cần phải giữ vững một cách tương đối tư tưởng và đạo đức của mình. Điều đó thể hiện nền văn hóa truyền thống bất biến và vĩnh hằng, như thế tư tưởng nhân văn truyền thống và các quan niệm tư tưởng và đạo đức mới có thể được truyền tiếp lại về sau, nền văn minh nhân loại mới có thể tồn tại dài lâu. “Văn minh dĩ chỉ” là để thông báo cho mọi người biết: Sự phát triển của nền văn minh không phải kiến lập dựa trên cơ sở sự tiến bộ kỹ thuật của con người, theo đuổi vật chất quá mức, khai thác không giới hạn đối với tài nguyên thiên nhiên là nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn của nền văn minh nhân loại. Vì vậy, nền văn minh của nhân loại nên coi trọng tinh thần và xem nhẹ vật chất, đó có lẽ cũng là nguyên nhân tại sao văn hóa của các dân tộc thiểu số được lưu truyền đến ngày nay qua hàng nghìn năm biến đổi thăng trầm.

Đại sư Lý Hồng Chí đã giảng:

“Trên cao tầng thì [nhận] thấy như thế; chư vị cho rằng đang tiến lên, nhưng trên thực tế là thoái lùi. Nhân loại cho rằng khoa học đang phát triển tiến bộ, thực ra cũng chỉ bất quá là đi theo quy luật vũ trụ. Trương Quả Lão trong bát tiên cưỡi lừa ngược; rất ít người biết được tại sao ông lại cưỡi lừa ngược. Ông phát hiện rằng đi về trước lại chính là thụt lùi, nên ông quay trở lại cưỡi như thế.” (Bài giảng thứ ba – Chuyển Pháp Luân)

Văn tự có thể sẽ mai một qua những năm tháng đằng đẵng, nhà cửa có thể sẽ suy chuyển, trang phục của các dân tộc thiểu số ở Tây Nam Trung Quốc giống như một cuốn thiên thư không chữ, họ đã dùng các hình vẽ và phù hiệu ghi lại lịch sử và những câu chuyện thần thoại vốn bị bụi trần phủ kín. Họ luôn hoài niệm về tín ngưỡng cổ xưa, kiên định tín tâm vào sự tồn tại của Thần, duy trì lối sống truyền thống để tiếp nối trí tuệ cổ xưa trong xã hội đương đại.

Lời kết

Dựa trên cơ điểm về “dân tộc”, loạt bài viết này đã điểm lại một cách ngắn gọn quá trình hình thành và phát triển của nền văn minh Trung Hoa. “Vạn tổ quy tông”, nền văn minh Trung Hoa kỳ thực là lịch sử của các dân tộc phân hóa từ con cháu của Viêm Hoàng qua các triều đại khác nhau cùng nhau tiếp diễn, trong suốt quá trình phát triển của dân tộc 5000 năm này, tất cả các văn hóa do Thần bày xếp ra đều là để chuẩn bị cho sự hồng truyền Đại Pháp ngày nay, văn hóa mà các dân tộc thiểu số được thừa hưởng như chúng ta đã thấy cũng là một phần của văn hóa Thần truyền, tư duy tín ngưỡng Thần của nó, vũ trụ quan cổ xưa và nội hàm tâm linh của nó đều có sự liên kết tương thông với Phật, Đạo, Thần. Chỉ là, Trung Cộng trong nhiều thập kỷ qua đã liên tục phá hủy văn hóa truyền thống và bóp méo lịch sử chân thực, để đạt được mục đích độc tài chuyên chế đã cố tình tạo ra mâu thuẫn giữa các tộc người khác với người Hán. Trong các cuộc xung đột được cố tình tạo ra, các đặc tính và nội hàm tâm linh của văn hóa Thần truyền của các dân tộc liên tục bị loại bỏ, loại văn hóa đảng “giả, ác, đấu” này cuối cùng sẽ chia rẽ đất nước dẫn đến sụp đổ. Trong những năm gần đây, Trung Cộng đã đẩy nhanh sự khai thác và cướp đoạt tài nguyên vật chất, dưới sự kích thích của danh lợi, toàn bộ xã hội đầy rẫy những ham muốn vật chất, lối sống truyền thống bị vứt bỏ, do đó môi trường sinh thái cũng bị tàn phá nghiêm trọng, “Văn hóa truyền thống” đã trở thành một cái vỏ rỗng mang tính hình thức ở Trung Quốc, nội hàm tinh thần và hệ thống đạo đức đằng sau nó đã biến mất hoàn toàn. Đồng thời sự phát triển nhanh chóng của du lịch cũng đã gây ra tác động rất lớn đến môi trường sinh thái và nhân văn ở vùng Tây Nam Trung Quốc. Tuy như vậy, ở một số vùng sâu vùng xa chúng ta vẫn có thể tìm thấy dấu vết của văn hóa truyền thống, người dân ở đó vẫn mang tín ngưỡng vào các vị Thần linh tổ tiên của họ, duy trì mối quan hệ cân bằng giữa trời, đất và con người, cuộc sống của họ tuy mộc mạc nhưng vẫn phong phú về tinh thần, điều này tạo nên sự tương phản mạnh mẽ với những người sống ở thành phố. Những người dân tộc thiểu số này gánh vác sứ mệnh mà lịch sử trao cho họ, đó là đời đời truyền tụng những sử thi từ thời cổ đại, kế thừa những nghề thủ công được Thần ban cho, sự tồn tại của họ đã chứng minh cho ý nghĩa của nền văn minh tiền sử, đây là đòn tấn công mạnh mẽ nhất vào thuyết vô thần và thuyết tiến hóa, họ hoàn toàn xứng đáng là “hóa thạch sống của nền văn minh tiền sử”.

(Kết thúc)

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/260282

The post Văn hóa Thần truyền của dân tộc thiểu số Trung Quốc (6): Kỹ thuật Trời ban tạo ra đồ vật first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Văn hóa Thần truyền của dân tộc thiểu số Trung Quốc (5): Các triều đại thay phiên nhau diễn vở kịch lớn, đời này nối tiếp đời kia vì Pháp mà đếnhttps://chanhkien.org/2020/12/van-hoa-than-truyen-cua-dan-toc-thieu-so-trung-quoc-5-cac-trieu-dai-thay-phien-nhau-dien-vo-kich-lon-doi-nay-noi-tiep-doi-kia-vi-phap-ma-den.htmlSat, 19 Dec 2020 02:47:11 +0000https://chanhkien.org/?p=26904Tác giả: GZ Tiếp theo Phần 4.2 [ChanhKien.org] Lời tựa: Tôi đã có nhiều năm tham gia công tác giảng dạy và nghiên cứu nghệ thuật, trong quá trình công tác tôi đã nghiên cứu nhiều đề tài về dân tộc thiểu số Trung Quốc. Tôi phát hiện rằng các dân tộc thiểu số có […]

The post Văn hóa Thần truyền của dân tộc thiểu số Trung Quốc (5): Các triều đại thay phiên nhau diễn vở kịch lớn, đời này nối tiếp đời kia vì Pháp mà đến first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: GZ

Tiếp theo Phần 4.2

[ChanhKien.org]

Lời tựa:

Tôi đã có nhiều năm tham gia công tác giảng dạy và nghiên cứu nghệ thuật, trong quá trình công tác tôi đã nghiên cứu nhiều đề tài về dân tộc thiểu số Trung Quốc. Tôi phát hiện rằng các dân tộc thiểu số có một lịch sử rất cổ xưa, tuy nhiên rất nhiều điều họ bảo tồn được lại vô cùng khó hiểu đối với người hiện đại, người ta chỉ xem đó như một nền văn hóa thần bí để thỏa mãn tính hiếu kỳ của mình. Kể từ khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, thoát khỏi sự đầu độc của chủ nghĩa vô thần và thuyết tiến hóa, tôi liên tục được Đại Pháp khai mở trí huệ, khi nhìn lại những sản phẩm văn hóa nghệ thuật của các dân tộc thiểu số này, tôi phát hiện rằng rất nhiều điều mà người bình thường không thể hiểu được đã được giải đáp trong các bài giảng Pháp của Sư tôn. Văn hóa nghệ thuật của các dân tộc thiểu số cũng chứng minh cho sự tồn tại của Thần, cũng là một phần của văn hóa Thần truyền, nhưng thuyết tiến hóa và chủ nghĩa vô thần đã cản trở con đường quay trở về truyền thống của con người thế gian. Tôi xin chia sẻ những hiểu biết này với các đồng tu, do tầng thứ tu luyện cá nhân có hạn, có chỗ nào không phù hợp, xin từ bi chỉ rõ.

5. Triều đại thay nhau diễn kịch lớn, đời đời nối tiếp đến vì Pháp

Mọi người đều nói rằng văn hóa Trung Quốc là nền văn hóa Thần truyền, khi chúng ta nhìn lại 5000 năm lịch sử, từng màn kịch lớn lần lượt hiện ra trước mắt. Nhìn từ tầng lý này của con người thì lịch sử của Trung Quốc chính là vương giả trị quốc, binh chinh thiên hạ, kẻ thắng làm vua, kẻ thua làm giặc. Nhưng từ hoành quan mà nhìn thì mỗi giai đoạn của lịch sử Trung Quốc đều là tầng tầng bước đệm để khi Đại Pháp hồng truyền chúng sinh có thể nhận ra và lý giải được nội hàm của “Chân, Thiện, Nhẫn”. Chỉ cần quan sát tỉ mỉ, chúng ta sẽ thấy rằng nội hàm của “Chân, Thiện, Nhẫn” vẫn luôn xuyên suốt trong 5000 năm lịch sử. Xét từ góc độ này, văn hóa Thần truyền chính là vào thời mạt kiếp giúp chúng sinh lý giải và đồng hóa với “Chân, Thiện, Nhẫn”, Thần đã lợi dụng các loại nhân tố làm bước đệm trong 5000 năm để khơi gợi, dẫn dắt con người tìm được con đường phản bổn quy chân trong hồng trần cuồn cuộn. Lịch sử, văn hóa và tư tưởng của mỗi triều đại đã góp phần xây dựng nên một môi trường tu luyện như ngày nay. Đại Pháp hồng truyền đã thực sự mở ra con đường con người trở thành Thần, đây là lần đầu tiên kể từ khi khai thiên tịch địa.

Về tu luyện, Đại sư Lý Hồng Chí đã giảng:

“Chúng ta biết đó, đều đang giảng tu luyện, tu luyện. ‘Tu luyện’ là gì? Thực ra không có bao nhiêu người thật sự minh bạch hàm nghĩa chân chính của nó. Tu luyện ấy, chính là ‘thành tựu sinh mệnh’. Không phải cứ trong tôn giáo mới là tu luyện, cũng không chỉ đoàn thể tu luyện [mới] là tu luyện. Nếu vào lúc vũ trụ này không còn được nữa mà khai sáng Tam giới này, nhất là xã hội nhân loại hôm nay, thu nhận tới đây toàn là đại biểu của sinh mệnh cực kỳ to lớn và quần thể sinh mệnh ở cao tầng, thì xã hội này sẽ là xã hội thế nào, đối đãi nó ra sao? Mọi người hãy nghĩ đi, đây không hề là vấn đề đơn giản. Quả thực họ [mà] có thể tới xã hội nhân loại [thì] họ đã tới hoàn cảnh tu luyện rồi đó. Tôi vẫn luôn giảng rằng, toàn thể xã hội này kỳ thực chính là hoàn cảnh tu luyện [được] khai sáng cho đệ tử Đại Pháp chúng ta. Chư vị không trong tôn giáo, [mà] chư vị tu luyện trong xã hội, [thì] các ngành các nghề chẳng phải đều thành trường sở tu luyện của chư vị?! Kỳ thực không chỉ có thế, vậy con người chẳng phải đều trong hoàn cảnh tu luyện sao?! Trong lịch sử có xã hội như thế này không?!

Mỗi từng giai tầng của xã hội, mỗi từng hoàn cảnh của xã hội, mỗi từng biểu hiện với hình thức khác nhau trong xã hội, đều đang khảo nghiệm lòng người. Trong cuộc sống phát sinh mỗi từng sự việc đều nhìn xem sắp đặt của nhân tâm; đều đang ghi chép hết thảy. Tại sao Thần Vận mỗi buổi diễn lại có thể độ nhân? Họ có cơ sở, hoàn cảnh đó sao? Tôi vẫn luôn giảng rằng, Thần Vận ấy, khán giả tới là không đơn giản, không phải tùy tiện tùy tiện tới đâu; họ đã có cơ sở đó rồi, ở xã hội họ đã được lựa chọn rồi, họ có thể đắc được cơ duyên ấy, thì mới có thể tiến vào rạp diễn. Nghĩa là, ở xã hội nhân loại, ở hoàn cảnh rộng lớn này, họ đã đang tu luyện rồi.” (Giảng Pháp tại Washington DC năm 2018)

Thần Vận đã triển hiện được tinh túy văn hóa Thần truyền 5000 năm của Trung Quốc, đã đánh thức hồi ức về Trung Quốc trong sâu thẳm trái tim của mỗi khán giả, mà nhân duyên này chính là đã được kết thành trong 5000 năm thay đổi triều đại. Bắt đầu từ một thị tộc nhỏ trên núi Côn Luân, các con cháu của Viêm Đế và Hoàng Đế dần dần sinh sôi phát triển và lan rộng khắp mảnh đất Thần Châu, hình thành mô hình cộng đồng đa dân tộc như ngày nay. Hoa Hạ và các dân tộc khác giống như biểu hiện tại nhân gian của hai chủng vật chất âm và dương, lịch sử Trung Quốc cơ bản chính là xoay quanh mối quan hệ giữa các dân tộc (Hình 1).

Hình 1: Bản đồ phân bố các dân tộc ở Trung Hoa

Nhìn tổng quát lịch sử Trung Quốc, nếu đứng trên cơ điểm “dân tộc” mà xét, thì kể từ khi hình thành “dân tộc Hán” tới nay đã có ba vương triều thống nhất do dân tộc Hán thành lập gồm: nhà Hán, nhà Tùy và nhà Minh; có hai vương triều hợp nhất do các dân tộc thiểu số thành lập là: nhà Nguyên và nhà Thanh. Còn từ trước nhà Tần đến nhà Hạ, nhà Thương và nhà Chu, chỉ phân thành người Hoa và người Di, chứ không phân thành các dân tộc. Ban đầu, bộ tộc Hoa Hạ và các bộ tộc Man, Di, Nhung và Địch dùng phương hướng để phân chia khu vực, trải qua các cuộc hợp tung liên hoành, thôn tính và chiến tranh, đã hình thành những quốc gia mới, liên bang giữa Di và Địch dần dần phát triển thành các quốc gia hùng mạnh như Tần, Sở, Ngô, Việt (Hình 2). Nước Sở thôn tính người Dung, người Bách Bộ và người Quân ở phía nam về sau trở thành quốc gia hùng mạnh nhất trong số Chiến Quốc thất hùng; nhưng nước Tần sau khi thôn tính 12 nước Tây Nhung, nước Ba và nước Thục, cũng trở thành một thất hùng. Gia tộc Lý Đường sáng lập ra nhà Đường có một nửa dòng máu dân tộc Tiên Bi, bà nội, mẹ ruột và hoàng hậu của Hoàng đế Thái Tông Lý Thế Dân đều là người Tiên Bi. Trong phần lịch sử còn lại, các triều đại như Tam Quốc – Lưỡng Tấn – Nam Bắc triều, Ngũ Hồ thập lục quốc, Ngũ Đại Thập quốc, Lưỡng Tống, Liêu Kim, Tây Hạ v.v., đều là thời kỳ các dân tộc phân quyền tự lập quốc. Đúng như câu nói: Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Lịch sử 5000 năm của Trung Quốc chính là lịch sử của sự tổng hòa đa dân tộc do con cháu của Viêm Đế và Hoàng Đế phát triển mà thành, là sự vận tác diễn biến của các triều đại khác nhau trong sự hợp tan tan hợp, người này lên người kia xuống, tương phụ tương thành cho nhau. Trong Chính Pháp vũ trụ, nhân loại làm thế nào phá bỏ được những quan niệm trong quá khứ, làm thế nào nhìn rõ màn sương mù của lịch sử, làm thế nào trong hoàn cảnh phản lý mà vượt qua ma nạn và tiêu trừ nghiệp lực, từ đó tìm được chân lý mà nhảy thoát ra, đó là cốt lõi của văn hóa Thần truyền – tu luyện. Những triều đại nào càng gần với đặc tính “Chân, Thiện, Nhẫn” của vũ trụ thì càng phồn vinh, thịnh vượng, triều đại nào xa rời khỏi đặc tính “Chân, Thiện, Nhẫn” của vũ trụ thì có biểu hiện suy tàn. Từ góc độ hoành quan mà xét, kẻ địch trong lịch sử không còn là kẻ địch, tai họa cũng không còn là tai họa, trong mỗi quá trình chiến tranh và hòa hợp, Trung Quốc không những không diệt vong mà ngược lại giống như biển lớn thu nạp trăm sông ngày càng lớn mạnh.

Hình 2: Bản đồ hình thế thời Xuân Thu Chiến Quốc

Trong vở diễn 5000 năm này, nội hàm của “Chân, Thiện, Nhẫn” luôn xuyên suốt trong đó, đặt ra tầng tầng bước đệm. Người xưa hiểu như thế nào về “Chân”? Lão Tử nói: “chân nếu thay đổi”, thì “tu thân, đức ấy mới chân”. Trang Tử lại nói: “Chân là từ bản tính tự nhiên, tự nhiên không thể thay đổi, cho nên thánh nhân giáo pháp tự nhiên trân trọng sự chân thành, không chịu ước thúc thế tục”, nói lời chân, làm chân nhân, tu chân dưỡng tính, phản bổn quy chân được coi là quan niệm đạo đức của người xưa, nếu nâng lên thành đạo trị quốc thì biểu hiện đó chính là “dùng pháp trị quốc”. Lấy nước Tần làm ví dụ, tại sao họ có thể thống nhất được thiên hạ trong thời kỳ loạn thế? Nếu nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy rằng nước Tần tương đối phù hợp với đặc tính “Chân” của vũ trụ – biểu hiện cụ thể chính là họ đã dùng gia pháp trị quốc, thực hiện “pháp trị” nhằm đạt được mức độ tập quyền và thống nhất cao độ trong cả nước, giúp trong nội bộ quốc gia hình thành một hệ thống quản lý lấy luật pháp làm nền tảng. Dù trong lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế hay quân sự đều có những hình phạt nghiêm khắc, vì vậy toàn bộ đất nước dưới áp lực mà phát triển nhanh chóng (Hình 3).

Hình 3: “Bia đá Dịch Sơn” khắc chữ tiểu triện sau khi thống nhất văn tự, ghi lại những công tích vĩ đại của Tần Thủy Hoàng, do Lí Tư viết

Tuy nhiên vì nó quá “Chân” mà không có sự cân bằng tương ứng với “Thiện” và “Nhẫn”, nên sẽ bị đặc tính của vũ trụ chế ước, biểu hiện đó chính là sát phạt quyết đoán, không coi trọng “nhân ái, khoan dung”, do đó trong lịch sử 13 năm ngắn ngủi của nước Tần, mặc dù nó có thể nhanh chóng chiếm cứ toàn bộ khu vực Trung Nguyên, thống nhất các đơn vị đo lường, văn tự, tiền tệ và tư tưởng văn hóa, nhưng do chính sách thuế nặng, luật pháp hà khắc, lạm dụng sức dân, vượt quá sức chịu đựng của người dân, nên cuối cùng dẫn đến việc nhà Tần sớm bị tiêu vong (Hình 4).

Hình 4: Ngựa và chiến binh đất nung của Tần Thủy Hoàng: Những người bảo vệ dưới lòng đất lăng mộ Tần Thủy Hoàng

Tương tự như nước Tần còn có Đại Mông Cổ, một đế chế do Thành Cát Tư Hãn thành lập có lãnh thổ lớn nhất thế giới lúc bấy giờ, mà đế chế làm đau đầu người dân vùng Trung Nguyên bấy lâu này, kỳ thực cũng là con cháu Viêm Hoàng giống như người Trung Nguyên. Kể từ Thuần Duy, hậu duệ của vị hoàng đế cuối cùng của nhà Hạ là vua Kiệt, chạy về phía bắc tạo lập nên dân tộc Hung Nô, dân tộc dũng mãnh hung hãn này chính là họa ngoại xâm lớn nhất của vùng Trung Nguyên, sau nhiều thế kỷ thăng trầm, hợp nhất đã phát triển thành bộ tộc Mông Cổ. Siêu đế quốc hợp nhất từ nhiều dân tộc này cũng tôn trọng “pháp trị” giống như nước Tần, Thành Cát Tư Hãn đã ban hành hiến pháp “Bộ luật Thành Cát Tư Hãn” sớm nhất trên thế giới, tách biệt quyền hành chính và quyền tư pháp, thiết lập một hệ thống chế độ quân chủ với màu sắc bộ lạc dân chủ, điều này khiến cho đế quốc Mông Cổ có một sự thống nhất tập quyền cao độ, tính nguyên tắc và thể chế hóa này cũng là một biểu hiện của “chân”, nhưng do giết chóc quá nhiều, nên đến đâu cũng thấy sinh linh lầm than, đặc biệt là vào thời nhà Nguyên đã đối xử không khoan dung với người Hán, không đủ “Thiện” và “Nhẫn”, mất lòng dân và cuối cùng bị nhà Minh thay thế (Hình 5).

Hình 5: Khu vực màu xanh lam là lãnh thổ của Đế chế Mông Cổ năm 1248

Đối với “thiện”, từ xưa Trung Quốc đã nói về “tích đức thành thiện”, làm việc thiện thì kết thiện duyên. Lão Tử đã nâng “thiện” lên một cảnh giới cao hơn: “Lòng tốt như nước, nước giữ được vạn vật mà không tranh giành”, “Thiện” mà Lão Tử giảng giống như nước, có thể làm lợi cho vạn vật mà không va chạm với vạn vật. “Chân” phát sinh ra “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” giữa mọi người. Nhà Đường chính là vương triều kết hợp được “thiện như nước” và “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”, có đủ cả “Chân, Thiện, Nhẫn”. Mọi người đều biết rằng nhà Đường là đỉnh cao của sự phát triển xã hội ở Trung Quốc cổ đại, chính sách dân tộc bao dung và tiến bộ chính là nguyên nhân quan trọng thúc đẩy nhà Đường phát triển nhanh chóng. Gia tộc Lý Đường có một nửa huyết thống của người Hồ nên rất khoan dung với mọi dân tộc, hầu như không có rào cản sắc tộc nào trong toàn xã hội. Thái độ cơ bản của Đường Thái Tông Lý Thế Dân đối với các dân tộc là “thuần phục thì bảo hộ họ, phản đối thì thảo phạt”, nếu các dân tộc xung quanh không đối đầu với nhà Đường, thì thực hiện chính sách “ràng buộc” đối với họ; ngược lại, những kẻ cố tình xâm phạm nội địa hoặc đe dọa nghiêm trọng đến nhà Đường thì sẽ được giải quyết bằng vũ lực. Nhà Đường còn áp dụng nhiều chính sách dân tộc như phái sứ thần đi chiêu hàng, thực thi song hành vừa ban ân vừa ra uy, kết thân gần gũi v.v. để vỗ về và ổn định các dân tộc xung quanh. Một trong những chính sách đạt hiệu quả nhất là kết thân gần gũi. Nhà Đường lập quốc năm 289, nhưng đã 29 lần kết thân với chín chính quyền dân tộc bao gồm Thổ Phồn, Thổ Cốc Hồn, Đột Quyết, Khiết Đan, Hề, Hồi Hột, Vu Điền, Ninh Viễn và Nam Chiếu. Những “mối họa ngoại xâm của Trung nguyên ” trước đây nay đều đã trở thành “thân gia” của nhà Đường, điều này không chỉ ổn định mối quan hệ với các dân tộc, mà còn truyền bá tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật cho đến những kỹ thuật sản xuất Thần truyền của Trung Nguyên đến các khu vực này. Tấm lòng nhân ái, khoan dung, độ lượng của Đường Thái Tông đã cảm hóa được các dân tộc xung quanh, khiến cho vạn bang triều kiến, văn hóa Đại Đường truyền rộng khắp bốn biển, Đường Thái Tông được tôn xưng là “Thiên Khả Hãn”, vì nhà Đường có đủ cả “Chân, Thiện, Nhẫn” nên đã giúp nhà Đường đẩy nền văn minh Trung Hoa lên đỉnh cao chói lọi, viết nên trang sử rực rỡ, huy hoàng nhất (Hình 6).

Hình 6: Tượng công chúa Văn Thành và Tùng Tán Cán Bố

“Nhẫn” được coi là một loại trí tuệ vĩ đại trong văn hóa 5000 năm của Trung Quốc. Khổng Tử nói: “Việc nhỏ không nhẫn thì nhiễu loạn mưu lớn”. Trong 5000 năm lịch sử, Thần đã tạo dựng câu chuyện về “Nhẫn” từ nhiều góc độ khác nhau để mọi người có thể lý giải được nội hàm của nó. Cả Hàn Tín và Nhạc Phi đều là những anh hùng có tâm đại nhẫn, đồng thời cũng có cả “chân” và “thiện”, vì vậy họ có thể vì chân lý mà buông bỏ sinh mệnh của mình, trở thành những anh hùng để lại tiếng thơm muôn đời. Nếu chỉ cúi đầu nhẫn nhục chấp nhận một cách mù quáng thì sẽ yếu đuối và bị ức hiếp, ví như nhà Tống có biểu hiện vô cùng nhu nhược, phải mất đến 149 năm chống lại sự quấy nhiễu của nhà Liêu và nhà Kim, cuối cùng mất nước diệt vong sau nhiều lần phải bồi thường lớn. Chúng tôi thấy rằng chỉ khi có đầy đủ cả ba yếu tố “Chân, Thiện, Nhẫn” mới có thể mang lại hòa bình và ổn định lâu dài. Chẳng hạn nhà Thanh chính vì có thể đạt được đủ ba yếu tố “Chân, Thiện, Nhẫn” nên vương triều do dân tộc thiểu số thành lập này mới có thể cùng tồn tại thịnh vượng trong gần ba thế kỷ với 400 triệu người Hán. Thứ mà họ dựa vào không chỉ là pháp trị, mà còn là sự bao dung với tư tưởng và văn hóa của các dân tộc khác, vì thế đổi lại là sự đại hòa hợp văn hóa Mãn – Hán và sự ổn định của Trung Quốc trong gần ba thế kỷ. Cả nhà Đường và nhà Thanh đều là những thời kỳ thịnh vượng trong lịch sử Trung Quốc, nhưng điểm khác biệt là nhà Thanh hoàn toàn là một chính quyền do dân tộc thiểu số thiết lập, vì đã trải qua sự thống trị hà khắc của thời kỳ Nguyên Mông trước đó, người dân Trung Nguyên cực kỳ ghét người ngoại tộc, vì vậy có thể hình dung được mức độ khó khăn trong việc quản lý của chính quyền nhà Thanh. Trước tình thế như vậy, quân Thanh sau khi tiến vào đã rút ra được bài học đau thương của triều đại Nguyên Mông trước đó, nên đã tích cực điều chỉnh chính sách đối với người Hán, đặc biệt là sau khi Hoàng đế Khang Hy lên nắm quyền đã thực hiện chính sách nhân từ, thực hiện một loạt chính sách “an dân” và “ban ân huệ cho dân”, nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là các biện pháp cải cách như “không bao giờ tăng thuế” và “hia ruộng theo đinh”, bãi bỏ chính sách “thuế theo đầu người” đã được thực hiện ở Trung Quốc trong hơn 2000 năm, điều này giúp giảm bớt đáng kể gánh nặng cho người dân, giúp dân số của triều đại nhà Thanh tăng trưởng nhanh chóng. Để giảm bớt mâu thuẫn Mãn – Hán, Hoàng đế Khang Hy đã bãi bỏ “phong trào vây đất” của quý tộc Bát Kỳ, thực hiện “chế độ ruộng đất” trả lại vùng đất thời nhà Minh cho những người dân vốn đã canh tác ở đó, động thái này không những được lòng người dân mà còn làm tăng diện tích đất trồng trọt, nhanh chóng khôi phục sản xuất nông nghiệp (Hình 7).

Hình 7: Bức tranh màu in bài văn về cày ruộng và dệt vải của Hoàng đế Khang Hy

Một động thái tuyệt vời khác được Hoàng đế Khang Hy thực hiện là xây dựng miếu Khổng Tử, Ông đích thân ban tặng tấm biển “Vạn Thế Sư Biểu” (Hình 8). Với tư cách là Thiên Tử, ông đã ba lần hành đại lễ với ba bái và chín lần dập đầu trước tượng Khổng Tử, thậm chí còn tự mình đến cúng bái trước lăng mộ của Khổng Tử, những hành động này là nhằm tuyên bố với thế nhân rằng: người Mãn cũng tiếp thu văn hóa của Trung Nguyên, lấy tư tưởng của Nho gia làm đạo trị quốc. Động thái này ngay lập tức giành được sự tôn trọng của các nhân sĩ đại phu, Khang Hy được ca ngợi là “Thiên cổ nhất Đế”, điều thu được là lòng trung thành và sự tận tâm của các bề tôi người Hán như Kỷ Hiểu Lam, Lưu Dung, Lý Hồng Chương, Tăng Quốc Phiên, Lâm Tắc Từ, Trương Chi Động, Tả Tông Đường, Hồ Tuyết Nham, họ đã cúc cung tận tụy cho sự phồn vinh của nhà Thanh và lập được nhiều công lao to lớn, đây chẳng phải là trí tuệ của tâm đại Nhẫn sao?

Hình 8: Hoàng đế Khang Hy đích thân ngự bút cho Bức Hoành Phi ở miếu Khổng Tử

Sau khi Ung Chính lên ngôi, ông chủ trương “nhân tục lợi đạo” (hướng dẫn theo phong tục); Càn Long cũng cho rằng cần phải “tòng tục tòng nghi” (thích nghi theo phong tục) và “nhân tục tập vi trị” (cai trị theo phong tục). Vì vậy triều đình nhà Thanh đã thực hiện một loạt chính sách dân tộc có hiệu quả ở vùng biên cương, ví dụ, tôn trọng các đặc điểm của Phật giáo Tạng truyền được đa số người dân vùng Tây Tạng và Mông Cổ tín ngưỡng, đề xướng tín ngưỡng Phật giáo Tạng truyền, động thái này giành được sự đồng tình và ủng hộ của các dân tộc ở hai vùng này. Ở khu vực Tây Nam chủ yếu thực hiện chủ trương “cải thổ quy lưu” (cải cách trả chế độ Thổ Ti cho địa phương), thực hiện “bách khắc chế” (chế độ Tù trưởng) ở vùng Tân Cương, thực hiện “minh kỳ chế” ở vùng Mông Cổ v.v, đó chính là các chính sách dân tộc được áp dụng dựa vào đặc điểm dân tộc và hiện trạng xã hội của địa phương. Nhà Thanh đã dùng khoan dung để đổi lấy hòa hợp dân tộc, bởi vì phù hợp với các đặc tính “Chân, Thiện, Nhẫn” của vũ trụ, nên điều đạt được chính là thái bình, phồn vinh và thịnh vượng lâu dài (Hình 9).

Hình 9: Tượng Đại Phật Di Lặc – Phật tương lai được thờ tại cung Ung Hòa

Đại sư Lý Hồng Chí đã viết trong Chuyển Pháp Luân:

“Chân, Thiện, Nhẫn là tiêu chuẩn duy nhất để nhận định người tốt xấu”.

Khi chúng ta sử dụng tiêu chuẩn này để đo lường mọi thứ xung quanh, thì có thể thật sự phân biệt được thiện và ác, tốt và xấu, thật và giả. Con người là như thế, các quốc gia cũng như thế. Thần trong năm nghìn năm lịch sử đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để giải thích nội hàm của “Chân, Thiện, Nhẫn”.

“Quay về truyền thống là con đường rộng mở lên trời” (“Tái tạo”, Hồng Ngâm V, Lý Hồng Chí)

Trong màn cuối cùng của vở kịch lớn lịch sử này, khi Đại Pháp của vũ trụ hồng truyền tại thế gian, thì văn hóa tương phản “giả, ác, đấu” của Trung Cộng cũng xuất hiện một cách phô thiên cái địa. Dưới sự thúc đẩy của thứ văn hóa này, lịch sử hòa hợp các dân tộc Trung Hoa đã bị thay đổi thành lịch sử đấu tranh các dân tộc, ánh sáng rực rỡ của nền văn hóa Thần truyền đã bị các lý thuyết giả dối vô thần và thuyết tiến hóa che phủ, các giá trị quan phổ quát truyền thống đã bị thay thế bởi các giá trị quan vị tư vị kỷ và những lời nói rỗng tuếch. Bóng ma của “chủ nghĩa cộng sản” đến từ phương Tây đã cắt đứt cội nguồn của nền văn minh Trung Hoa, Marx và Engels đã trở thành “tổ tiên” của người Trung Quốc, dưới sự dẫn động của loại tư tưởng tẩy não này, thiên lý không còn, nhân luân bị mất, cốt nhục tương tàn, mọi người đều coi nhau như kẻ thù, con người trong cuộc đấu tranh chống lại trời, đất và con người dần mất đi thiện niệm, làm cho đất nước có nguy cơ chia cắt: Giang Trạch Dân đã xé bỏ “Điều ước Nerchinsk” do Hoàng đế Khang Hy ký, giao hơn 1 triệu km vuông lãnh thổ Trung Quốc cho Nga; Các vấn đề bạo lực độc tài diễn ra tại Tân Cương và Tây Tạng đã làm cho xu hướng chia tách ngày càng nghiêm trọng; Hồng Kông vốn là viên ngọc sáng chói của phương đông, ngày nay đang sụp đổ dưới chế độ độc tài tàn bạo … Điều đáng sợ hơn nữa là văn hóa “giả, ác, đấu” đã lan rộng ra toàn cầu bởi sự thúc đẩy về lợi ích, mâu thuẫn dân tộc, xung đột chủng tộc, tranh chấp quốc tế càng ngày càng diễn ra nghiêm trọng, những tư tưởng và văn hóa biến dị đang tác động đến những quan niệm truyền thống của mọi người ….. Trong thời loạn thế này, cánh cửa vận mệnh đã được mở ra, lựa chọn “Chân, Thiện, Nhẫn” hay lựa chọn “giả, ác, đấu”, vận mệnh của mỗi cá nhân đều nằm trong chính tay mình.

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/259811

The post Văn hóa Thần truyền của dân tộc thiểu số Trung Quốc (5): Các triều đại thay phiên nhau diễn vở kịch lớn, đời này nối tiếp đời kia vì Pháp mà đến first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (4): Khát vọng Trung Nguyên (phần 2)https://chanhkien.org/2020/12/van-hoa-than-truyen-cua-nguoi-dan-toc-thieu-so-trung-quoc-4-khat-vong-trung-nguyenhoa-hop-dan-toc-thoi-thuong-co-phan-2.htmlTue, 01 Dec 2020 15:39:25 +0000https://chanhkien.org/?p=26835Tác giả: GZ Tiếp theo Phần 4.1 [ChanhKien.org] Lời tựa: Tôi đã có nhiều năm tham gia công tác giảng dạy và nghiên cứu nghệ thuật, trong quá trình công tác đã nghiên cứu nhiều đề tài về dân tộc thiểu số Trung Quốc. Tôi phát hiện rằng các dân tộc thiểu số có một […]

The post Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (4): Khát vọng Trung Nguyên (phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: GZ

Tiếp theo Phần 4.1

[ChanhKien.org]

Lời tựa:

Tôi đã có nhiều năm tham gia công tác giảng dạy và nghiên cứu nghệ thuật, trong quá trình công tác đã nghiên cứu nhiều đề tài về dân tộc thiểu số Trung Quốc. Tôi phát hiện rằng các dân tộc thiểu số có một lịch sử rất cổ xưa, tuy nhiên rất nhiều điều họ bảo tồn được lại vô cùng khó hiểu đối với người hiện đại, người ta chỉ xem đó như một nền văn hóa thần bí để thỏa mãn tính hiếu kỳ của mình. Kể từ khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, thoát khỏi sự đầu độc của chủ nghĩa vô thần và thuyết tiến hóa, tôi liên tục được Đại Pháp khai mở trí huệ, khi nhìn lại những sản phẩm văn hóa nghệ thuật của các dân tộc thiểu số này, tôi phát hiện rằng rất nhiều điều mà người bình thường không thể hiểu được đã được giải đáp trong các bài giảng Pháp của Đại sư Lý Hồng Chí. Văn hóa nghệ thuật của các dân tộc thiểu số cũng chứng minh cho sự tồn tại của Thần, cũng là một phần của văn hóa Thần truyền, nhưng thuyết tiến hóa và chủ nghĩa vô thần đã cản trở con đường quay trở về truyền thống của con người thế gian. Tôi xin chia sẻ những hiểu biết này với mọi người, do tầng thứ tu luyện cá nhân có hạn, có chỗ nào không phù hợp, xin từ bi chỉ rõ.

4. Khát vọng Trung Nguyên – Các dân tộc thời thượng cổ sống hoà hợp (phần 2)

Trong bài viết trước, chúng tôi đã đề cập đến việc sau khi Hoàng Đế và Viêm Đế hợp lực đánh bại Xi Vưu đã thực hiện cai trị đất nước bằng nhân đức “tu dưỡng đạo đức, chỉnh đốn quân đội, nghiên cứu sự thay đổi của bốn mùa theo ngũ hành, gieo trồng ngũ cốc, chăm lo cho muôn dân, đo đạc đất đai bốn phương” (Sử ký – Ngũ Đế Bản kỷ) đã nhận được sự ủng hộ của các liên minh bộ lạc. Trận Phản Tuyền và trận Trác Lộc đã thay đổi cục diện thời đại liên minh bộ lạc, Hoàng Đế trở thành vị tông chủ mới, đặt nền móng cho sự khai sáng và phát triển thịnh vượng của nền văn minh Hoa Hạ.

Sau Hoàng Đế lại xuất hiện một vị quân vương sáng suốt khác là vua Nghiêu, trong thời gian ông trị vì đã xảy ra ba sự kiện lớn làm thay đổi hoàn toàn vận mệnh của Trung Quốc. Sự kiện lớn đầu tiên là nghe theo kiến nghị của vua Thuấn bắt lưu đày “bốn tội đồ” gồm Cộng Công, Hoan Đâu, Cổn và Tam Miêu, đến các vùng biên giới để khai mở đất đai. Sách Thượng thư – Thuấn Điển ghi: “Tam Miêu đã nhiều lần nổi loạn ở vùng sông Hoài và Kinh Châu. Thế là, vua Thuấn quay lại nói với Hoàng Đế xin lưu đày Cộng Công đến U Lăng, sau trở thành Bắc Địch; đày Hoan Đâu về vùng núi, sau trở thành Nam Man; chuyển Tam Miêu đến Tam Nguy, sau trở thành Tây Nhung; cử Cổn đến Vũ Sơn, sau thành Đông Di: Thuấn trị tội bốn kẻ hung ác mà khiến thiên hạ cảm phục”. Đây là một sự phân hóa dân tộc quan trọng nữa sau khi Hoàng Đế lưu đày tù binh thuộc Cửu Lê tộc, “Bắc Địch, Nam Man, Đông Di, Tây Nhung” chính là khởi nguồn của các dân tộc thiểu số ở Trung Quốc hiện nay, lãnh thổ Trung Quốc bắt đầu xuất hiện nhiều dân tộc chung sống hòa hợp. (Hình 1)

Hình 1: Trung Quốc thời cổ đại nhiều dân tộc chung sống hòa hợp

Sự kiện lớn thứ hai là trong thời kỳ vua Nghiêu trị vì, một trận đại hồng thủy chưa từng có đã xảy ra. Trận Đại hồng thủy này đã tiêu hủy gần như toàn bộ các nền văn minh và con người trên trái đất, mọi thứ được làm lại từ đầu, thiết lập một trật tự mới. Trong bài trước chúng tôi đã đề cập rằng Thần chỉ giữ lại rất ít người làm nhân chủng cho nền văn minh mới, toàn bộ vùng đất Thần Châu bị lũ lụt bao phủ, thời đại liên minh vạn quốc trước đây đã chìm trong biển nước mênh mông, trở thành lịch sử, nhưng những người sống gần núi Côn Luân đã được giữ lại chuẩn bị cho sự phát triển của nền văn minh Hoa Hạ sau này. Từ điểm này, chúng ta có lý do để tin rằng nơi mà tộc người của vua Nghiêu cư trú thời đó chính là trên dãy núi Côn Luân, vì thế họ đã may mắn sống sót sau trận hồng thủy.

Trong thời gian xảy ra Đại hồng thủy, khi nhường ngôi cho vua Thuấn, vua Nghiêu đã nói một câu rất quan trọng: “Tư! Nhĩ Thuấn! Thiên chi lịch số tại nhĩ cung. Doãn chấp kỳ trung. Tứ hải khốn cùng, thiên lộc vĩnh chung” (trích từ Luận Ngữ – Nghiêu viết). Nghĩa là “Quy luật biến hóa của trời nằm trong tay khanh, khanh phải tự mình nắm lấy, khanh phải giữ vững chữ ‘trung ’! Nếu không, lộc trời ban cho chúng ta sẽ mãi mãi kết thúc trong bốn biển cuồn cuộn này”. Chữ “trung” trong chữ trung tâm, nghĩa là trung tâm của thiên hạ, điều này cũng nói lên ý nghĩa sâu xa của cái tên “Trung Quốc” ngày nay. Vậy “trung tâm” của thiên hạ mới này nằm ở đâu? Vào ngày hạ chí, nơi mà bóng nắng lúc chính ngọ đo được dài một xích rưỡi (khoảng 0,5m) thì đó là trung tâm của thiên hạ. Trong phần trước, chúng tôi đã nói đến việc trong thời gian trận Đại hồng thủy, hiện tượng tuế sai xẩy ra trong thiên tượng vũ trụ đã làm thay đổi “trung tâm” của thiên hạ, khi các vì sao trên bầu trời thay đổi vị trí, vị trí “trung tâm” đã dần dần chuyển từ khu vực núi Côn Luân đến khu vực núi Tung Sơn thuộc tỉnh Hà Nam hiện nay, nơi đó chính là trung tâm của thiên hạ mới, đến nay ở đó vẫn còn lưu giữ đài trắc ảnh (đài đo bóng mặt trời) của Chu Công năm ấy (Hình 2), còn quốc gia nằm ở vị trí trung tâm của thiên hạ chính là Trung Quốc. Kể từ đó về sau, sự thay đổi của các triều đại đều xoay quanh “Khát vọng Trung Nguyên”, đây chính là quan điểm chính trị “cư trung nhi trị” (ở trung tâm là cai trị thiên hạ) của người Trung Quốc cổ đại, vì thế ai chiếm được vị trí “trung tâm” thì người đó chính là thiên tử của quốc gia trung tâm.

Hình 2: Đài trắc ảnh của Chu Công ở Tung Sơn, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc

Chúng ta thấy rằng hình dạng chữ “中” (trung) trong văn tự giáp cốt có nguồn gốc từ các công cụ cổ xưa được sử dụng để đo bóng của mặt trời (Hình 3 và 4). Loại quan hệ tương ứng giữa thiên văn và nhân văn này chính là cơ sở hình thành nên nền văn minh Trung Quốc, suy nghĩ của người xưa thật tinh thâm, sâu sắc.

Hình 3: Sự biến đổi và phát triển của chữ “中”

Hình 4: “Đồng hồ” dùng để đo bóng mặt trời trong đài thiên văn cổ ở Bắc Kinh

Đại sư Lý Hồng Chí đã từng nói về trận Đại hồng thủy này trong các bài giảng Pháp, giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về quá trình diễn biến của văn hóa nhân loại trong 5000 năm qua:

“Mọi người biết rằng vào thời kỳ đầu của nền văn minh nhân loại lần này, bốn-năm nghìn năm trước, trên trái đất chúng ta đã từng xuất hiện một trận đại hồng thủy, toàn bộ nền văn minh của người da trắng Châu Âu đã bị phá hủy hoàn toàn. Đương nhiên những di tích còn di lưu lại rất ít, ngay như từ một số di tích văn vật cũng có thể nhìn thấy một vài thứ thời tiền sử trước kia, ví như nói từ một số văn vật khai quật được di lưu lại từ nền văn hóa Hy Lạp cổ có thể tìm thấy một vài dấu vết của nền văn minh tiền sử. Tại phương Đông, những thứ còn lưu lại sau trận đại hồng thủy tương đối nhiều hơn một chút. Mọi người đều biết câu chuyện Đại Vũ trị thủy, lúc đó nước rất lớn, sau khi nước rút, Đại Vũ đã hướng dẫn con người thoát nước từ trong đất bị ngập lụt ra, trong lịch sử có ghi chép như vậy. Nền văn minh cổ xưa thời đó của nhân loại, nền văn minh của thời kỳ trước đã bị đại hồng thủy hủy mất, nhưng tổ tiên người Trung Quốc có rất nhiều người sống sót sau trận đại hồng thủy, những thứ văn minh lưu lại cũng khá nhiều, còn người phương Tây sống sót lại khá ít, cho nên văn hóa phương Tây hiện nay là một nền văn hóa hoàn toàn mới, một nền văn hóa hoàn toàn mới không có bất cứ chút lịch sử cổ xưa nào, như vậy cũng khiến cho nền văn minh cổ xưa của Trung Quốc có lịch sử rất sâu xa, hơn nữa cũng không giống với con đường phát triển của khoa học ngày nay.

Vậy thì trong những nền văn minh cổ xưa này, sẽ có rất nhiều thứ mà con người hiện nay vẫn còn không hiểu, đồng thời lại thoát ly khỏi nền văn hóa hiện đại, cho nên rất nhiều người bao gồm cả người phương Tây cũng biết rằng, tại vùng đất Trung Quốc này, có rất nhiều rất nhiều những điều thần bí, những thứ mà con người hiện đại không hiểu, bản thân người Trung Quốc cũng biết. Tại vùng đất Trung Quốc này, có rất nhiều nền văn hóa cổ xưa vẫn chưa được người hiện đại biết đến. Có người đã nghe thấy, đã nhìn thấy, nhưng cũng không thể giải thích nổi, cũng không có ai đem những thứ cổ xưa này ra giảng cho người ta. Bởi vì những thứ mà tổ tiên người Trung Quốc lúc đó để lại khá nhiều, cho nên nền văn hóa thượng cổ đã [được] di lưu lại một bộ phận.

Dải đất trung tâm của chủng tộc Trung Quốc thời thượng cổ trong quá khứ không phải là lưu vực sông Hoàng Hà hiện nay, mà là thuộc dải đất Tân Cương. Thời kỳ phồn thịnh nhất của dân tộc này khi đó cũng ở tại dải đất này. Bởi vì núi Côn Luân nằm cạnh vùng này, địa thế xung quanh khá cao, trận đại thủy năm đó cao tới hơn 2.000m, đã nhấn chìm toàn bộ trái đất, có rất nhiều người khi đại thủy bùng phát đã chạy lên núi Côn Luân, sống sót được, di lưu lại một số văn hóa thời thượng cổ. Ví như ở Trung Quốc hiện nay có một số người vẫn không hiểu được, nào là Hà Đồ, Lạc Thư, Thái Cực, Tiên Thiên Bát Quái v.v., còn có một vài môn khí công cổ xưa mà ngày nay người ta đã biết. (Giảng Pháp tại Lễ thành lập Phật học hội Singapore [1996] – Giảng Pháp tại các nơi I)

Sự kiện lớn thứ ba là việc Đại Vũ trị thủy. Vũ là họ, tên là Văn Mệnh, trong sử sách gọi là Đại Vũ, Đế Vũ, Thần Vũ, là thủ lĩnh của dòng họ Hạ Hậu và là vị vua sáng lập nhà Hạ. Đồng thời Đại Vũ là chắt của Hoàng Đế, cháu nội của Chuyên Húc Đế, con trai của Cổn, huyết thống trực hệ thực sự của Hoàng Đế. Cha của Vũ là Cổn cùng những người khác trong bộ tộc bị đày đến vùng đất phía đông và trở thành người Đông Di, về sau vì trị thủy không thành mà bị xử tội chết. Đại Vũ nối tiếp gánh tội phần trách nhiệm trị thủy, trong 13 năm trị thủy, ông đi qua cửa nhà ba lần mà không vào, cuối cùng đã trị thủy thành công. Ghi chép về xuất thân của Đại Vũ trong sử sách đã khẳng định rằng ông thuộc dòng họ Hạ Hậu. Sử ký – Lục quốc niên biểu của Tư Mã Thiên viết: “Vũ hưng thịnh ở Tây Khương.” Tập giải của Hoàng Bồ Mật viết: “Mạnh Tử nói: Vũ sinh ra ở Thạch Nữu, cũng là người Tây Di”. Thục vương bản kỷ viết: “Vũ vốn là người quận Vấn Sơn huyện Đông Nhu, sinh ra ở Thạch Nữu”. Rất nhiều tích sử đều ghi rằng Đại Vũ là “người Tây Khương”, Thạch Nữu chính là khu vực Vấn Xuyên thuộc tây bắc Tứ Xuyên ngày nay, nơi đó từ trước đến nay vẫn là nơi sinh sống của người dân tộc Khương (Hình 5), trong vở kịch “Hoa đăng hí” hiện đang lưu truyền ở khu tự trị Ngawa của người dân tộc Tạng và người dân tộc Khương và huyện tự trị dân tộc Khương Bắc Xuyên có tiết mục “Đại Vũ trị thủy”, trong đó có một đoạn ca từ như sau:

Trời có trước, đất có sau, sau đó có con người, có nam có nữ. Đến hát trước, ở bên dưới, là người Hán đội mũ. Phía trên chúng tôi, là người Tạng đi ủng. Sống ở giữa là người Khương. Vào ngày vui mừng này, Ca hát về dân tộc chúng tôi, ca hát về tổ tiên chúng tôi. Núi có cây, cây có gốc, chúng tôi đến hát về nguồn gốc dân tộc Khương. “Gia Cách Tây” giỏi nhất, Ông là người đã khai thông chín con sông, Phải mất tám năm tròn. Lần đầu tiên đi ngang qua cửa nhà, Nghe thấy tiếng đứa trẻ khóc, nhưng trong lòng ông chỉ nghĩ: Những dã thú chưa bị tiêu diệt vẫn còn đó. Lần thứ hai đi ngang qua cửa nhà, Nghe tiếng đứa trẻ cười, chợt thấy toàn thân đầy dũng khí. Lần thứ ba đi ngang qua cửa nhà, thấy đứa trẻ đã cao lớn hơn. Nghị lực tăng bội phần khí thế hiên ngang, chín con sông nhất định được khai thông. Khó khăn lớn không làm gục ngã …

Hình 5: Các cô gái dân tộc Khương vừa hát vừa nhảy múa ở khu tự trị Ngawa của người dân tộc Tạng và người dân tộc Khương, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc

“Gia Cách Tây” trong lời bài hát này là tên tiếng dân tộc Khương của Đại Vũ, bài hát ca ngợi điển cố Đại Vũ trị thủy đã ba lần đi qua cổng nhà mình mà không vào, người dân địa phương đời đời coi Đại Vũ là tổ tiên và anh hùng của họ.

Khi Đại Vũ trị thủy có ba pháp khí trợ giúp: Khai Sơn Phủ, Tị Thủy Kiếm và Hà Đồ Lạc Thư. Đại Vũ đã nhiều lần quan sát thiên tượng, dựa trên sự diễn hóa của Hà Đồ Lạc Thư mà tính toán mối quan hệ tương ứng của thiên địa. Ông đã đi khắp các con sông lớn từ bắc đến nam để khảo sát kỹ địa hình, dùng Khai Sơn Phủ để xẻ đôi núi Long Môn và Y Quyết, đục thủng núi Tích Thạch Sơn, Thanh Đồng Hiệp và chín dãy núi khác, dùng Tị Thủy Kiếm khai thông chín con sông lớn làm cho chúng thuận lợi chảy thông ra biển, xây dựng đê và sửa chữa chín hồ lớn, hao tốn 13 năm cuối cùng mới khống chế được lũ lụt, vẽ địa hình mới thành bản đồ và đặt tên mới là “Vũ Tích Đồ” (Hình 6).

Hình 6: Bản khắc đá “Vũ Tích Đồ” thời nhà Tống, bản đồ chín châu được đo đạc, vẽ và truyền lại từ thời Đại Vũ trị thủy

Là vị hoàng đế của triều đại đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, suốt cuộc đời mình, Đại Vũ đã làm nhiều việc lớn đặt nền móng cho nền văn minh Trung Hoa. Ông căn cứ vào vị trí và hình ảnh của các ngôi sao – cũng chính là 28 vì tinh tú (Nhị Thập Bát tinh tú) trên bầu trời và Tứ Tượng trên mặt đất (Hình 7) mà phân chia ra 9 châu mới. Ông cũng lập ra chế độ thuế khóa và chế độ ngũ phục (tang phục), mỗi châu thành lập 12 sư, cứ năm nước chư hầu chỉ định một thủ lĩnh, giao cho họ làm hết chức trách của mình, tạo dựng sự nghiệp, cuối cùng đã mở rộng biên giới đến 5000 dặm. Đại Vũ là người siêng năng, nhân hậu, phẩm chất đạo đức cao quý, trong Sử ký – Hạ Bản Kỷ đã mô tả Đại Vũ như sau: “Đại Vũ là người nhanh nhẹn mà chuyên cần, giữ tiêu chuẩn đạo đức cao, tấm lòng nhân ái khiến người ta luôn muốn ở gần, lời nói đáng tin cậy, giọng nói đúng âm luật, cử chỉ hành động chuẩn mực, xử lý việc công minh, nghiêm túc mẫn cán, là tấm gương cho bách quan noi theo”. Dưới sự trị vì của ông, uy danh của dân tộc Hoa Hạ trong việc giáo hóa con người đã truyền rộng đến năm sông bốn biển. Các chư hầu trong thiên hạ đều công nhận sự hiền minh của Đại Vũ, vì vậy tất cả đều tôn sùng và thực hiện theo mọi phép tắc lễ nghi và âm luật do đích thân Đại Vũ thiết lập ra, tôn phụng ông là chủ tể của thần linh sông núi, điều này đã đặt nền móng cho việc thiết lập và thực hiện hệ thống lễ nhạc của các triều đại sau này. Như chúng ta đã biết, tôn trọng lễ nhạc là một đặc trưng nổi bật của dân tộc Hoa Hạ so với các dân tộc khác, “lễ” (lễ nghi) đã trở thành một hệ thống chế độ duy trì trật tự, thứ bậc, giai tầng của xã hội, nó đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của nền văn minh Trung Hoa.

Hình 7: Bản đồ phân chia vị trí các chòm sao của Trung Quốc cổ đại

Vì Đại Vũ có công trị thủy và có đức hạnh cao thượng nên vua Thuấn trước khi băng hà đã truyền ngôi cho Đại Vũ, Đại Vũ đã triệu tập 33 vị chư hầu ở Đồ Sơn, thành lập triều đại đầu tiên của Trung Quốc là triều đại nhà Hạ, định đô ở Dương Thành (nay là phía đông Đăng Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc). Hồng Phạm Cửu Trù (chín khuôn mẫu lớn) mà Đại Vũ quy định ra sau đó đã trở thành quy tắc quản lý đất nước, lấy vàng do các chư hầu cung tiến đúc thành Cửu Đỉnh, tượng trưng cho chín châu, đại diện cho chủ nhân của thiên hạ từ nay về sau, cửu đỉnh chí tôn tức là Thiên tử, có quyền lực thống trị thiên hạ.

Mọi người đều biết rằng nền văn minh Trung Hoa có nguồn gốc từ tộc Hoa Hạ, chữ “华” (Hoa) có nguồn gốc từ Hoa Tư thị. Hoa Tư thị sinh ra Nữ Oa và Phục Hy, Nữ Oa và Phục Hy lại sinh ra Thiểu Điển, Thiểu Điển lại sinh ra Hoàng Đế, cho đến Đại Vũ, đến lúc này “Hoa Hạ tộc” được hình thành, lấy “lễ nhạc giáo hóa” trở thành đạo viên dung thiên hạ, để rồi từ đó cùng với những hậu duệ của các dân tộc ở trên mảnh đất Thần Châu mà dày công diễn một vở kịch lớn đặc sắc của nền văn minh Trung Hoa (Hình 8).

Hình 8: Bản đồ khắc trên đá thời Tống: Bản đồ Hoa Di

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/259587

The post Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (4): Khát vọng Trung Nguyên (phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (4): Khát vọng Trung Nguyên (phần 1)https://chanhkien.org/2020/11/van-hoa-than-truyen-cua-nguoi-dan-toc-thieu-so-trung-quoc-4-khat-vong-trung-nguyenhoa-hop-dan-toc-thoi-thuong-co-phan-1.htmlMon, 16 Nov 2020 21:17:46 +0000https://chanhkien.org/?p=26779Tác giả: GZ Tiếp theo Phần 3 [ChanhKien.org] Lời tựa: Tôi đã có nhiều năm tham gia công tác giảng dạy và nghiên cứu nghệ thuật, trong quá trình công tác đã nghiên cứu nhiều đề tài về dân tộc thiểu số Trung Quốc. Tôi đã phát hiện thấy rằng các dân tộc thiểu số […]

The post Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (4): Khát vọng Trung Nguyên (phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: GZ

Tiếp theo Phần 3

[ChanhKien.org]

Lời tựa:

Tôi đã có nhiều năm tham gia công tác giảng dạy và nghiên cứu nghệ thuật, trong quá trình công tác đã nghiên cứu nhiều đề tài về dân tộc thiểu số Trung Quốc. Tôi đã phát hiện thấy rằng các dân tộc thiểu số có một lịch sử rất cổ xưa, tuy nhiên rất nhiều điều họ bảo tồn được lại vô cùng khó hiểu đối với người hiện đại, người ta chỉ xem đó như một nền văn hóa thần bí để thỏa mãn tính hiếu kỳ của mình. Kể từ khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, thoát khỏi sự đầu độc của chủ nghĩa vô thần và thuyết tiến hóa, tôi liên tục được Đại Pháp khai mở trí huệ, khi nhìn lại những sản phẩm văn hóa nghệ thuật của các dân tộc thiểu số này, tôi phát hiện rằng rất nhiều điều mà người bình thường không thể hiểu được đã được giải đáp trong các bài giảng Pháp của Sư tôn. Văn hóa nghệ thuật của các dân tộc thiểu số cũng chứng minh cho sự tồn tại của Thần, cũng là một phần của văn hóa Thần truyền, nhưng thuyết tiến hóa và chủ nghĩa vô thần đã cản trở con đường quay trở về truyền thống của con người thế gian. Tôi xin chia sẻ những hiểu biết này với các đồng tu, do tầng thứ tu luyện cá nhân có hạn, có chỗ nào không phù hợp, xin từ bi chỉ rõ.

4. Khát vọng Trung Nguyên – Các dân tộc thời thượng cổ sống hoà hợp (phần 1)

Trung Quốc chính là một vũ đài lớn, người này diễn xong thì người kế tiếp lên vũ đài. Cho dù kịch bản được sắp xếp như thế nào, các nhân vật lịch sử đóng vai nào, kỳ thực đều được an bài một cách hệ thống để phối hợp với thời khắc Chính Pháp cuối cùng.

Trong phần trước, chúng ta đã đề cập đến trong sử thi sáng thế của các dân tộc thiểu số có ghi chép rằng các vị Thần đã tạo ra một trận Đại hồng thủy để tiêu hủy tất cả những sinh mệnh không đạt tiêu chuẩn lúc bấy giờ, chỉ lưu lại một số rất ít người có chính niệm trong tâm và ban cho họ đặc ân để họ bắt đầu sinh sôi nảy nở làm chủng người của thời kỳ tiếp theo, lúc này sân khấu chính của người Trung Quốc bắt đầu dần dần chuyển sang vùng Trung Nguyên rộng lớn, vậy họ từ đâu đến?

Về nguồn gốc của người Trung Quốc, Đại sư Lý Hồng Chí đã giảng:

“Tại đại hồng thủy lần trước, khi văn minh nhân loại lần trước bị hủy diệt là đại hồng thủy. Trên Trái Đất, núi so với mực nước biển cao từ 2.000 mét trở xuống đều bị ngập hết, chỉ có người ở trên 2.000 mét còn sống. Chuyện thuyền Noah là thật. Đại hồng thủy lần ấy văn hóa phương Tây bị hủy diệt hoàn toàn. Văn hóa phương Đông cũng lọt vào hủy diệt, nhưng người miền núi ở núi Himalaya và núi Côn Luân, tựa nông dân ấy đã may mắn tránh thoát; người Trung Quốc sống ở núi Côn Luân đã sống sót. Vì lúc đó, văn hóa phương Đông rất phát triển, nên đã kế thừa được Hà Đồ, Lạc Thư, Kinh Dịch, Thái Cực, Bát Quái v.v. Người ta nói ấy là ai đó hậu nhân tạo ra, [kỳ thực] đó đều là họ sửa đổi chúng và đưa ra một lần mới, hoàn toàn không do họ tạo ra, [chúng] đều thuộc văn hóa tiền sử. Thế là Trung Quốc tuy lưu được những thứ này, chúng trong phát triển của lịch sử, mà không chỉ có ngần ấy, những gì được lưu lại thời cổ đại còn nhiều nữa, khi lưu truyền [chúng] càng ngày càng ít. Vậy nó chính là một dân tộc có nội hàm rất sâu, với lịch sử rất uyên nguyên, chính là Trung Quốc.” (Giảng Pháp tại thành phố New York – Giảng Pháp Tại Pháp Hội Mỹ Quốc [1997])

Những chủng tộc cổ xưa sống sót qua Đại hồng thủy này hiện nay đang sống ở vùng núi phía Tây Nam Trung Quốc, họ đã trở thành những “hóa thạch sống” minh chứng cho lịch sử. Một số dân tộc vẫn còn lưu giữ những truyền thuyết về nguồn gốc của tổ tiên họ, ví dụ trong một bài hát sáng thế cổ của dân tộc Di có tên là “Bài hát trống đồng” lưu hành ở huyện Na Pha tỉnh Quảng Tây và huyện Phú Ninh tỉnh Vân Nam có lời hát rằng:

“Tổ tiên của người Di, Cư trú tại Côn Luân. Núi Côn Luân sừng sững, Cỏ xanh mọc mơn mởn. Tổ tiên nuôi trâu ngựa Du mục qua tháng ngày. Núi Côn Luân già cỗi, Gia súc khắp mọi nơi ……..”

Dân tộc Di chữ Di (彝) thời cổ là (夷), trong phong trào cải cách ruộng đất của Trung Cộng năm 1956 bị đổi thành chữ Di (彝), họ là một nhánh của người Tây Khương thời kỳ thượng cổ, tổ tiên của họ đến từ dãy núi Côn Luân. (Hình 1)

Hình 1: Phụ nữ dân tộc Di ở huyện Phú Ninh, Vân Nam mặc trang phục dân tộc, tổ tiên của họ đến từ núi Côn Luân

Trước trận Đại hồng thủy, những thị tộc cổ xưa sống trên dãy núi Côn Luân ở phía Tây Trung Quốc này có nền văn minh cao, môi trường địa lý lúc ấy khác với bây giờ, khí hậu ấm và ẩm, đất đai màu mỡ thích hợp cho việc trồng trọt, ngoài ra đây cũng là đầu mối quan trọng kết nối với các vùng Đông Á, Trung Á và Tây Nam Á. Núi Côn Luân từ xưa đến nay được gọi là Vạn sơn chi tổ (thủy tổ của vạn ngọn núi), là nơi ở của các vị Thần linh và các vị thánh nhân, trong Sơn Hải kinh ghi: “Đế Nghiêu đài, Đế Cốc đài, Đế Đan Chu đài, Đế Thuấn đài, Đế Cách Nhị đài, đài tứ phương đều nằm ở phía bắc núi Côn Luân”. Các vị hoàng đế thời thượng cổ đã xây dựng các “đài đế vương” ở đây để thờ cúng tổ tiên và quan sát thiên văn, đây là vùng đất thánh người thường bất khả xâm phạm. Trước Đại hồng thủy, trong số các thị tộc cổ đại này có các thị tộc lớn như Hữu Hùng thị, Thần Nông thị, Hữu Kiểu thị, lại còn phân hóa thành các bộ lạc khác nhau, trong đó tổ tiên của Thần Nông thị nhờ giáo hóa con người nắm vững kiến thức y học, nông nghiệp và thương mại nên đã trở thành bá chủ của liên minh các bộ tộc. Cùng với sự phát triển của nông nghiệp, những người ở phía Tây liên tục giao thương với vùng Trung Nguyên, họ mang ngọc thạch, trâu, bò, cừu, ngựa v.v. trao đổi với vùng Trung Nguyên để đổi lấy ngũ cốc và hạt giống; trong lịch sử, những người đến từ phía Tây này có một tên gọi thống nhất là “người Tây Khương” (còn gọi là người Khương cổ, Hình 2).

Hình 2: Ảnh một cặp vợ chồng già người Khương do nhiếp ảnh gia Trang Học Bổn chụp vào những năm 30 của thế kỷ 20.

Vậy những tổ tiên được gọi là “người Tây Khương” này bắt đầu di cư đến vùng Trung Nguyên từ khi nào?

Trước trận Đại hồng thủy, thiên tượng trong vũ trụ đang âm thầm phát sinh một biến hóa quan trọng: trong khoảng thời gian từ năm 3000 đến năm 2800 trước Công nguyên, các giáo sĩ của các khu vực có nền văn minh lớn trên thế giới đều kinh ngạc khi phát hiện rằng sao Bắc Cực “Thiên đế” vốn được coi là ở vị trí trung tâm của vũ trụ đã biến mất. Mãi đến khoảng năm 2800 trước Công nguyên, sao Bắc Cực mới lại xuất hiện – nó chính là sao alpha của chòm sao Thiên Long, nó thay thế cho sao Chức Nữ trước đây trở thành “Đế Tinh” mới (hiện nay lại trở thành sao alpha thuộc chòm sao Tiểu Hùng, Hình 3). Đây là một biến đổi thiên tượng quan trọng trước trận Đại hồng thủy, hơn 2000 năm sau người ta mới phát hiện ra hiện tượng thiên văn này là một “tuế sai” (hiện tượng cực địa cầu chuyển động xung quanh cực hoàng đạo theo một đường tròn) xảy ra sau mỗi 25.771,5 năm, nó được hoàn thành trong một khung thời gian rất lâu dài, mặc dù vậy người xưa quan sát các hiện tượng thiên văn vẫn nắm bắt được những biến động huyền diệu và tinh vi của các vì sao trên bầu trời, sự dịch chuyển vị trí liên tục của các chòm sao khiến cho tất cả các hoạt động tâm linh trên mặt đất đối ứng với thiên tượng bị sai lệch, vào thời kỳ cuối của rất nhiều thời đại, sự dịch chuyển trục địa cực này đều dẫn tới Đại hồng thủy.

Hình 3: Từ 14.000 năm trước đến nay tổng cộng đã xảy ra ba lần sao Bắc Cực biến động

Vào thời kỳ thiên thể đang xảy ra tuế sai này, Trái đất cũng theo đó diễn ra những thay đổi. Pharaoh Khufu đã cho xây dựng một đường hầm dài 100 mét dưới Đại kim tự tháp, đối ứng với sao alpha thuộc chòm sao Thiên Long, ông ra lệnh cho các quan tư tế ở trong đường hầm ngày đêm quan sát chòm sao Bắc Cực mới sinh này; Ở lưu vực sông Lưỡng Hà, siêu thành phố tên Uluk do người Sumer đã xây dựng đang dần mất đi sự phù hộ của Thần, các thành bang xung quanh đầy mầm mống bạo loạn; các đại chủ tế của người Maya cổ đại ở châu Mỹ đã căn cứ trên hiện tượng tuế sai để tính toán rằng sau hơn 5.000 năm sau tức là năm 2012 thì nhân loại sẽ kết thúc, cùng với đó một kỷ nguyên mới sẽ đến.

Vào thời điểm đó, khi thiên hạ của Viêm Đế Thần Nông thị truyền đến đời Du Võng, đạo đức đã suy bại, trong các thị tộc chư hầu kẻ mạnh ức hiếp kẻ yếu, đánh nhau liên miên, dân chúng khốn khổ, thiên tai nhân họa liên tục xảy ra … quy luật của vũ trụ là thành trụ hoại diệt, biểu hiện tại không gian vật chất chính là toàn bộ nền văn minh nhân loại đã đến hồi kết thúc.

Những biến hóa của thiên tượng dẫn đến việc trung tâm của nền văn minh Trung Quốc bắt đầu dần chuyển từ núi Côn Luân xuống vùng Trung Nguyên, biểu hiện tại nhân gian chính là cuộc đại di cư của các chủng tộc. Điều này thể hiện ở sự xuất hiện của ba nhân vật có ảnh hưởng lớn đến nền văn minh Hoa Hạ, đó là: Viêm Đế Du Võng vị vua cuối cùng của Thần Nông thị, Hiên Viên Hoàng đế của nước Hữu Hùng và Xi Vưu của Cửu Lê tộc, ba người này đều thuộc tộc người Thần Nông thị và cũng là người kết thúc thời đại Thần Nông thị.

Mọi người đều rất quen thuộc với ba nhân vật lịch sử nổi tiếng này, nhưng dưới góc nhìn của một người tu luyện thì mỗi tình tiết của vở kịch đều được an bài kỹ lưỡng, mỗi người cũng đều để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình mà được phân những vai diễn khác nhau. Có đen thì có trắng, có chính thì có phụ, âm dương vận động, tương sinh tương khắc. Lúc đó, cùng với sự biến hóa của thiên tượng họ phải hoàn thành một sứ mệnh quan trọng, đó chính là “khát vọng đến vùng Trung Nguyên”.

Người đầu tiên chiếm lĩnh vùng Trung Nguyên là “Chiến Thần” Xi Vưu. Đầu tiên ông thoát khỏi sự quản lý của Viêm Đế rồi dẫn đầu đoàn quân Cửu Lê hùng mạnh, thiện chiến, dũng mãnh chiếm lĩnh phần lớn các vùng đất thuộc lưu vực sông Hoàng Hà, thành lập 81 bộ lạc và trở thành bá chủ mới của Trung Nguyên. Tiếp đó do uy tín và danh vọng của Hiên Viên không ngừng tăng lên, nên các chư hầu liên tục quy thuận ông, cuối cùng đã diễn ra một trận đánh ác liệt tại vùng hoang vu Phản Tuyền giữa Viêm Đế Du Võng và Hiên Viên, đây chính là trận Phản Tuyền nổi tiếng trong lịch sử. Sau khi hai bên trải qua ba trận đại chiến, Hiên Viên đại thắng, Viêm Đế đầu hàng, đã chủ động nhường ngôi vị cho Hiên Viên, Hiên Viên thuộc về thổ đức cho nên từ đó được gọi là “Hoàng đế”. Tiếp theo Hoàng Đế và Viêm Đế bắt tay nhau làm một việc lớn là chinh phục Xi Vưu. Được sự ủng hộ của các chư hầu, hai vua Viêm Hoàng đã phát động trận chiến thế kỷ được ghi vào sử sách (Hình 4).

Hình 4: Hoàng Đế và Viêm Đế liên minh

Vở kịch lớn của nền văn minh Trung Hoa chính là lấy cuộc chiến này làm màn mở màn, rất nhiều sử sách đã ghi lại những tình tiết của cuộc chiến này: Hoàng Đế và Xi Vưu đánh chín trận bất phân thắng bại, Xi Vưu tạo ra sương mù dày đặc suốt ba ngày ba đêm, Phong Hậu theo sự khải thị của chòm sao Bắc Đẩu đã phát minh ra xe chỉ nam, nhờ đó mới giúp Hoàng Đế thoát khỏi sương mù. Sau đó Hoàng Đế lại được Cửu Thiên Huyền Nữ giúp đỡ đã tạo ra trống Quỳ Ngưu 80 mặt, quỳ là Thần thú ở biển Đông, “giống như con bò, thân màu xanh nhưng không có sừng”, “Khi xuống nước ắt sẽ nổi gió mưa, ánh sáng của nó như mặt trăng mặt trời, âm thanh của nó như tiếng sấm”. Hoàng Đế dùng da của nó bọc trống và dùng xương của lôi thú làm dùi trống, “tiếng vang năm trăm dặm, uy phong khắp thiên hạ”. Cuộc chiến giữa Hoàng Đế và Xi Vưu kéo dài khá lâu, trận quyết chiến cuối cùng diễn ra ở vùng hoang dã Quỳ Châu, sách Sơn Hải Kinh – Đại Hoang Bắc Kinh ghi lại rằng: Hoàng đế gọi Ứng Long có cánh phun nước nhấn chìm quân đội Xi Vưu, Xi Vưu cũng mời Thần gió và Thần mưa trợ giúp, bỗng chốc mưa gió nổi lên, quân của Hoàng Đế lại một lần nữa gặp khó khăn, trong cơn nguy cấp, Hoàng Đế đành phải nhờ Thiên Nữ Hạn Bạt đến ngăn mưa gió, đột nhiên trời quang mây tạnh, quân của Xi Vưu vô cùng kinh ngạc, Hoàng Đế nhân cơ hội đó chỉ huy đại quân đột kích, giành thắng lợi cuối cùng. Đây là trận Trác Lộc nổi tiếng trong lịch sử (Hình 5).

Hình 5: Trận Trác Lộc

Thắng lợi của Hoàng Đế không hề dễ dàng, sau chiến thắng lại gặp thêm nhiều khó khăn mới, đầu tiên là nữ Thần hạn hán chặn mưa gió xong thì thần lực suy giảm nên không thể quay về trời ngay; tiếp đến là Ứng Long sau khi tham chiến cũng không kịp trở về Thiên đình để thực hiện nhiệm vụ làm mưa làm gió, khiến mặt đất liên tiếp mấy năm đại hạn. Các nghiên cứu khảo cổ về môi trường vào thời kỳ cận đại đã phát hiện: trong khoảng thời gian từ 5000 đến 4000 năm trước đây từng một lần xảy ra sự biến động bất ngờ của khí hậu tự nhiên, nhiệt độ không khí không ngừng tăng lên, mưa liên tục và các sông băng liên tục tan chảy đột nhiên dừng lại. Cách đây khoảng 5000 năm từ bán đảo Liêu Đông đến vùng châu thổ sông Trường Giang còn lưu lại những vết tích về sự hạ xuống của mực nước biển, bắt đầu từ 4.700 năm trước lại xuất hiện những biến động nhỏ. Trong trận chiến Trác Lộc, những cơn giông bão dữ dội do thần lực triệu hoán đến và trận hạn hán sau đó vừa vặn trùng hợp với tình hình khí hậu từ ổn định đến biến động, có thể thấy những câu chuyện thần thoại này không hoàn toàn vô căn cứ, chúng cô đọng những ký ức cổ xưa.

Sử sách ghi chép rằng: Sau khi Hoàng Đế đại thắng “đã tụ hợp quỷ thần trên núi Thái Sơn, cưỡi chiến xa có sáu con giao long dẫn, chim tất phương màu xanh (thường gọi là quạ lửa), Xi Vưu dẫn đầu, Thần gió đi trước, Thần mưa theo sau, hổ sói phía trước, quỷ thần phía sau, rắn nhảy theo điệu thanh giác (thanh giác là một bản nhạc cổ mãnh liệt, bi tráng)”, ý nói Hoàng Đế đã chiến thắng, những kẻ thù trước kia là Xi Vưu, Thần gió, Thần mưa và các vị thần linh phương Đông đều đã đầu hàng. Thắng lợi của trận Trác Lộc đã đặt nền móng vững chắc cho nền văn minh Hoa Hạ ở vùng Trung Nguyên, có tác dụng thúc đẩy hơn nữa sự hòa hợp giữa các bộ lạc.

Hoàng Đế “Nãi tu đức chấn binh, trì ngũ khí, nghệ ngũ chủng, phủ vạn dân, độ tứ phương” (Sử ký – Ngũ Đế Bản kỷ) (tạm dịch: tu dưỡng đạo đức, chỉnh đốn quân đội, nghiên cứu sự thay đổi của bốn mùa theo Ngũ Hành để gieo trồng ngũ cốc, chăm lo cho muôn dân, đo đạc đất đai bốn phương), được sự đồng tình ủng hộ các dân tộc trong thiên hạ. Sau chiến tranh, tư tưởng lấy đức trị quốc của ông còn thể hiện ở lòng nhân từ đối với các tù nhân của tộc Cửu Lê. Theo ghi chép trong Thập Di ký: Sau khi Hoàng Đế giết Xi Vưu, ông đã đưa những người bản tính thiện lương của bộ tộc Cửu Lê đến ba nơi là nước Trâu (nay là dải hồ Vi Sơn ở Tế Ninh, Sơn Đông), nước Đồ (nay là Tây An, Thiểm Tây) và nước Lê (nay là huyện Trường Trị, tỉnh Sơn Tây) và đã cấp thái ấp cho họ ở ba vùng này. Đây chính là tổ tiên của các họ Trâu, Đồ, Xi, Lê trong Hán tộc ngày nay, sau đó họ dần dần hợp nhất thành một phần của bộ tộc Hoa Hạ. Cùng với đó, Hoàng Đế lưu đày những người tàn bạo độc ác đến phương bắc lạnh giá, những tàn quân còn lại của Xi Vưu thì lưu tán tứ phương và quay trở về sinh sống tại vùng trung du sông Trường Giang là Hồ Bắc, Giang Tây và Hồ Nam thành lập liên minh bộ lạc Tam Miêu, (trong Quốc Ngữ – Sở Ngữ viết: “Tam Miêu là đời sau của Cửu Lê”). Tam Miêu sau đó dần dần phát triển thành dân tộc Miêu ngày nay, mũ “sừng trâu lớn” của phụ nữ Miêu là vật tưởng nhớ tổ tiên Xi Vưu (Hình 6).

Hình 6: Trang phục của người dân tộc Miêu ở vùng Lôi Sơn, Đông Nam Châu, tỉnh Quý Châu, Trung Quốc, chiếc mũ đội đầu có sừng trâu lớn là vật tưởng nhớ tổ tiên Xi Vưu

Vỏn vẹn mấy dòng ghi trong sử sách này có ý nghĩa rất lớn trong tiến trình lịch sử. Thần Nông thị từ đó chia thành hai nhánh: Một là dân tộc Hoa Hạ thừa hưởng dòng máu của Hoàng Đế trở thành nhân vật chính trong vở kịch lớn của nền văn minh 5.000 năm; hai là hậu duệ của Cửu Lê tộc thừa hưởng dòng máu của Xi Vưu cư trú ở các vùng biên giới, về sau dần dần phát triển thành các dân tộc thiểu số khác nhau, cùng Hán tộc tiếp tục mở mang lãnh thổ Trung Quốc và cùng diễn vở kịch lớn của nền văn minh Hoa Hạ 5000 năm. Lúc này khái niệm dân tộc nguyên sơ dần được hình thành, bắt đầu chuyển từ “thị tộc” sang “dân tộc”, mà hết thảy điều này đều là kết quả của lý tương sinh tương khắc và sự vận hành của âm dương.

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/259451

The post Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (4): Khát vọng Trung Nguyên (phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Văn hoá Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (2): Thần tạo ra ba chủng ngườihttps://chanhkien.org/2020/10/tu-quan-diem-cua-nguoi-dan-toc-thieu-so-trung-quoc-ve-van-hoa-than-truyen-2-than-tao-ra-ba-chung-nguoi.htmlSat, 24 Oct 2020 15:54:54 +0000https://chanhkien.org/?p=26737Tác giả: GZ Tiếp theo Phần 1 [ChanhKien.org] Lời tựa: Tác giả đã tham gia công tác giảng dạy và nghiên cứu nghệ thuật trong nhiều năm, trong công tác liên quan đến rất nhiều đề tài về dân tộc thiểu số Trung Quốc, qua nghiên cứu, phát hiện thấy rằng các dân tộc thiểu […]

The post Văn hoá Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (2): Thần tạo ra ba chủng người first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: GZ

Tiếp theo Phần 1

[ChanhKien.org]

Lời tựa:

Tác giả đã tham gia công tác giảng dạy và nghiên cứu nghệ thuật trong nhiều năm, trong công tác liên quan đến rất nhiều đề tài về dân tộc thiểu số Trung Quốc, qua nghiên cứu, phát hiện thấy rằng các dân tộc thiểu số có một lịch sử rất cổ xưa, nhưng rất nhiều điều họ giữ lại rất khó hiểu đối với người hiện đại, chỉ được xem như một nền văn hóa thần bí có những điều kỳ lạ giật gân. Kể từ khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, tác giả đã thoát khỏi độc hại của chủ nghĩa vô thần và thuyết tiến hóa, liên tục được Đại Pháp khai mở trí huệ. Khi xem lại văn hóa và nghệ thuật của các dân tộc thiểu số này, phát hiện thấy nhiều điều mà người bình thường không thể hiểu được thì lại được giải đáp trong các bài giảng Pháp của Sư Tôn. Văn hóa và nghệ thuật của các dân tộc thiểu số cũng xác nhận sự tồn tại của Thần, cũng là một phần của văn hóa Thần truyền, nhưng thuyết tiến hóa và chủ nghĩa vô thần đã cản trở thế nhân quay trở về con đường truyền thống. Nhân đây xin chia sẻ những hiểu biết này với các đồng tu, tầng thứ tu luyện cá nhân có hạn, nếu có chỗ nào không phù hợp, xin hãy từ bi chỉ rõ.

2. Thần tạo ra ba chủng người

Về sự sản sinh ra loài người, các bài hát sử thi của các dân tộc trên thế giới đều nhắc đến câu chuyện Thần dùng “bùn đất tạo ra con người”. Tuy nhiên, trong sử thi Mai Cát của dân tộc Di (một sử thi lâu đời lưu truyền ở khu tự trị dân tộc Di tại Sở Hùng, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc) còn ghi lại rằng trong quá trình sáng tạo ra loài người, Thần đã từng tạo ra ba chủng người khác nhau, sử thi này mô tả như sau:

“Sau khi vạn vật trong trời đất được tạo ra, Thần Cách Tư đến để tạo ra con người, từ trên trời rải xuống ba nắm tuyết, rơi xuống mặt đất biến thành ba loại người:

Nắm tuyết đầu tiên rơi xuống tạo thành người một chân, chỉ cao 1 xích 2 thốn (khoảng 0,4m); Loại người này không thể tự đi một mình, hai người khoác vai nhau thì đi nhanh như bay; cơm mà họ ăn là bùn đất, thức ăn là cát, khi mặt trăng chiếu thì sống được, nhưng khi mặt trời chiếu thì không sống được, loại người này không thể sống được dưới ánh mặt trời, họ sẽ bị chết vì nắng.

Nắm tuyết thứ hai gieo xuống tạo thành loại người cao 1 trượng 3 xích (khoảng 4,3m) … loại người này quấn lá cây, ăn trái cây rừng và sống trong hang động. Thời tiết không phân ra bốn mùa, trên trời có chín mặt trời và chín mặt trăng, con người cứ làm việc đến khi buồn ngủ, hễ ngủ là mấy trăm năm, rêu phủ đầy thân, loại người này cũng bị chết cháy vì nắng.

Thần Cách Tư tay trái cầm một cái đục và tay phải cầm một cái búa, đến đục mặt trời và mặt trăng, chỉ để lại một cái trên bầu trời, sau đó chia ra bốn mùa để cho cỏ cây mọc lên.

Nắm tuyết thứ ba gieo xuống tạo thành người có hai mắt lồi lên trên. Thần Cách Tư rắc nắm hạt kiều mạch lên núi Mễ Lạp, rắc nắm hạt kê lên núi Thạch Sơn Lĩnh, rắc nắm hạt lúa mỳ lên núi Thọ Diên, lúa mỳ trổ bông, kê cũng trổ bông, kiều mạch cũng trổ bông. Không có lửa, lão Long trên trời nghĩ ra một cách, tạo ra cái liềm nhỏ có ba lưỡi, đánh hai đầu vào nhau để phát lửa, từ đó con người có lửa, mọi thứ đều có, cuộc sống ngày càng tốt hơn”.

Trong bộ sử thi này đã ghi lại rằng Thần đã từng tạo ra ba loại người khác nhau: “Từ trên trời gieo xuống ba nắm tuyết, biến thành ba loại người”, như đã đề cập trong bài viết trước, trong ngôn ngữ Di, “雪 – tuyết” và “繁殖 – phồn thực” đều phát âm là “wo”, cho nên chữ “tuyết” này là một cách chơi chữ, trong tiếng Di nó có nghĩa là “nguồn gốc của sự sinh sôi” hoặc “nguồn gốc của sinh mệnh”. Hai chủng người đầu tiên: tiểu nhân và đại nhân đều bị đào thải vì họ không thể thích nghi với môi trường (Hình 1), trong quá trình tạo ra loại người thứ ba, Thần cũng đã điều chỉnh để họ có thể thích ứng với môi trường sống của họ, vì vậy họ đã tồn tại được về sau (trong phần tiếp theo của sử thi đề cập rằng những người này cũng bị Thần trừng phạt vì đạo đức bại hoại, xem tiếp phần sau).

Hình 1. Vương quốc tiểu nhân và vương quốc đại nhân trong Khôn dư vạn quốc toàn đồ (ảnh lấy từ Internet)

Ở Vân Nam trong dân gian lưu truyền câu chuyện về một người tiều phu chu du quanh “nước Bổng Đầu” (trích từ Truyện dân gian Vân Nam), cũng kể rằng từ rất xa xưa đã từng xuất hiện đại nhân, trung nhân và tiểu nhân:

“Thuở xa xưa, không gian vũ trụ được chia thành ba tầng, tầng thượng được gọi là trên trời, tầng trung gọi là trên mặt đất, tầng hạ được gọi là dưới lòng đất. Người của các tầng cũng không giống nhau. Người ở trên trời thân hình to như cái bồ thóc, dáng cao như cái sào tre, nên gọi là “người sào tre”; người trên mặt đất thân hình to như cái cối giã gạo, dáng cao như cái đòn gánh được gọi là “người đòn gánh”; loại người dưới lòng đất, thân hình nhỏ như cái gậy cầm tay, dáng thấp như cái đầu gậy nên được gọi là “người bổng đầu” (đầu gậy).

Một ngày nọ, trên mặt đất có người tiều phu đi đốn củi, người này tuột tay làm rơi cái rìu của mình vào hang, anh ta liền xuống hang để tìm. Nào ngờ càng xuống càng sâu càng tối đen như mực, giơ tay không nhìn thấy năm ngón. Lúc người tiều phu đang lo lắng thì anh ta bỗng phát hiện ở đằng xa có một đốm sáng, liền lập tức lần theo hướng đó. Đang đi anh ta bất ngờ bị trượt chân và rơi xuống thế giới “dưới lòng đất”.

Người tiều phu ngã xuống đất bất tỉnh nhân sự. Lúc tỉnh lại, anh ta mới phát hiện ra rằng ở đây cũng có non có nước, cỏ cây hoa lá, có cả côn trùng, chim muông, thú vật, điều duy nhất khác với thế giới “trên mặt đất” là con người ở đó… Người tiều phu đã lạc vào “nước Bổng Đầu”, gây chấn động tới vương quốc đó. Nhà vua cưỡi một con gà trống lớn đến gặp anh ta, chào hỏi anh ta rất thân thiết. Mặc dù không hiểu tiếng nói, nhưng nhìn biểu cảm thì thấy nhà vua tôn trọng anh ta như tiên giáng trần”.

Những bộ sử thi và những câu chuyện dân gian đặc sắc này hoàn toàn không phải là vô căn cứ, chúng vẫn luôn được tổ tiên người Di ca hát, truyền tụng nhau hết đời này qua đời khác, nhưng con người hiện đại bị tẩy não bởi thuyết vô thần nên đã xem nó như những câu chuyện cổ tích. Chỉ đến khi Sư tôn đề cập đến thời đại của “đại nhân, trung nhân và tiểu nhân” mà nhân loại đã từng trải qua trong bài giảng Pháp năm 2002, tôi mới chợt ngộ ra rằng hóa ra những điều được ghi lại trong sử thi về sự sáng lập thế giới của người Di chính là lịch sử chân thực đã diễn ra! Sư phụ giảng rằng:

Nhìn chung thì trong 100 triệu năm ấy trên Trái Đất phân thành hai thời kỳ lớn; mỗi thời kỳ 50 triệu năm. 50 triệu năm đầu là thời kỳ đại nhân, tiểu nhân, và trung nhân đồng thời tồn tại. Đại nhân trung bình cao năm mét; trung nhân chính là nhân loại chúng ta hiện nay, bình quân cao không đến hai mét; tiểu nhân thì chỉ cao mấy tấc thôi. Vào lúc Thần tạo ra con người ấy, vì sao đồng thời tạo ra ba chủng người như vậy? Bởi vì cần thí nghiệm trong ba chủng người ấy chủng người nào thích hợp cho sinh tồn trên địa cầu đến bước cuối cùng, thích hợp cho việc đắc Pháp. Trong 50 triệu năm ấy, một mặt vừa liên tục tạo năng lực con người nhận thức thế giới, một mặt xác định xem lưu lại chủng người nào. Cuối cùng phát hiện rằng, đại nhân không thích hợp, bởi vì thân thể của họ lớn, nên xét về cự ly thì địa cầu tương đối nhỏ, thời gian cũng tương đối ngắn lại, bởi vì nguồn vật chất mà đại nhân tiêu hao là không hoà hợp tỷ lệ với Trái Đất. Sau này phát hiện rằng tiểu nhân cũng không hoà hợp, trên toàn bộ Trái Đất đều là rừng rậm, khai thác đối với họ rất khó khăn; thời ấy không có chỗ đất [bằng], nếu họ cần sáng tạo ra văn minh như hiện nay thì đối với họ là rất khó khăn; đồng thời cũng xét thấy thời gian trên Trái Đất đối với họ là quá dài, cự ly là quá xa; tiểu nhân mà muốn vượt đại dương thì quá khó khăn; do vậy [họ] không thích hợp. Như thế đại nhân và tiểu nhân bị đào thải. Không phải đào thải lập tức, mà là sau [thời kỳ] 50 triệu năm [mới] bắt đầu dần dần theo lịch sử mà đào thải. Cuối cùng chúng ta không còn nhìn thấy đại nhân trong hai thế kỷ, phải đến hơn hai thế kỷ trước đây thì mới không còn nhìn thấy đại nhân nữa; còn tiểu nhân thì khoảng bảy, tám mươi năm trước, vẫn có người nhìn thấy; đến cận đại mới bị tuyệt tích; cũng không phải là không có, có [người] đã rời đến không gian khác, có [người] đã rời xuống lòng đất. Họ biết rằng [họ] thuộc về con người bị đào thải, do vậy không tiếp xúc với con người hiện đại. (Giảng Pháp trong chuyến đi quanh Bắc Mỹ [2002])

Kỳ thực, những bằng chứng cho thấy sự tồn tại của tiểu nhân và đại nhân đã được giới khoa học phát hiện. Vào tháng 10 năm 2004, các chuyên gia về người cổ đại đã phát hiện tám bộ di cốt của loài người tại một hang động trong rừng rậm trên đảo Flores, Indonesia, thân hình họ chỉ cao 3,5 inch (khoảng 1,06m), đầu chỉ to bằng quả bưởi và bộ não nhỏ hơn hai phần ba so với não người hiện đại. Qua trắc định cho thấy những người Flores này sống vào thời gian cách đây khoảng hơn 18.000 năm. Các nhà khảo cổ tại Đại học Berlin cũng khai quật được một di cốt người tiểu nhân cao 12 cm trong một hang động ở miền trung Mexico, qua trắc định các chuyên gia xác định đây là di cốt của một người trưởng thành có lịch sử cách đây 5.000 năm(Hình 2). Việc phát hiện ra những người lùn nhỏ bé này hoàn toàn đảo lộn giả thuyết về sự tiến hóa của loài người.

Hình 2: Tháng 11 năm 2004, tại Đại học Gadjah Mada, nhà nhân chủng khảo cổ học Indonesia, giáo sư T. Jacob đã công bố khám phá của ông về những người lùn nhỏ bé được tìm thấy trên đảo Flores ở Indonesia năm 2003. Sọ người lùn ở bên trái, sọ người bình thường ở bên phải. (Ảnh lấy từ mạng Internet)

Tháng 8 năm 2016, một nhóm nhiếp ảnh gia đã phát hiện ra một dấu chân người khổng lồ ở làng Bình Nham, tỉnh Quý Châu, Trung Quốc. Dấu chân dài 57 cm, rộng 20 cm và sâu 3 cm. Chiều dài trung bình bàn chân của một người đàn ông bình thường là 18 cm, chiều dài trung bình bàn chân của một người phụ nữ là 16,5 cm, có nghĩa là chủ nhân của dấu chân này cũng có chiều cao gấp hơn ba lần người bình thường. Qua hóa nghiệm cho thấy những dấu chân trên đá này có thể có từ thời tiền sử. (hình 3)


Hình 3: Dấu chân người khổng lồ ở làng Bình Nham, tỉnh Quý Châu, Trung Quốc (ảnh từ Internet)

Ngoài tiểu nhân và đại nhân, Sư phụ trong một số bài giảng Pháp cũng đã giảng về các chủng người khác, không ngừng mở rộng tư duy và kiến thức cho chúng ta. Nhìn lại lịch sử loài người, kỳ thực, rất nhiều câu truyện thần thoại và truyền thuyết đều là những ghi chép lịch sử chân thật, trong lịch sử nhân loại, đã nhiều lần xuất hiện thời kỳ nửa-Thần nửa-nhân, cũng như nhiều dạng chủng loại sinh mệnh khác nhau, điều này giúp cho nhân loại không ngừng nâng cao nhận thức về sinh mệnh. Chỉ là thuyết vô thần và thuyết tiến hóa đã hoàn toàn làm đảo loạn tư duy chính thường của con người, khiến con người bị trói buộc vào thế giới vật chất mà mất phương hướng. Văn hóa của các dân tộc thiểu số cũng đã ghi chép về rất nhiều loại người khác nhau.

Trong sử thi Tra MẫuA Hắc Tây Ni Ma của dân tộc Di cũng ghi lại rằng Thần đã tạo ra một số chủng người khác, cụ thể là người một mắt, người mắt thẳng (hoặc người mắt dọc) và người mắt ngang. Người một mắt cao 1 xích 2 thốn (khoảng 0,4m), còn người mắt dọc cao 1 trượng 3 xích (khoảng 4,3m), vì họ không thể thích nghi với môi trường nên đã bị đào thải. Loại người thứ ba là “người mắt ngang” đã trải qua thời kỳ “Lục tổ thập nhị thế” rất lâu dài, đến thế hệ thứ 12, Thần biến thành người phàm trần đi xuống nhân gian để khảo nghiệm lòng người, phát hiện ra sự bại hoại đạo đức của con người thời kỳ này, Thần quyết định giáng đại hồng thủy để thanh tẩy vạn vật, chỉ để lại hai anh em tốt bụng, dẫn dắt họ thoát khỏi đại hồng thủy và sinh sôi nảy nở cho đời sau.

Các ghi chép về người một mắt không chỉ được ghi lại trong sử thi của người Di, mà còn xuất hiện ít nhất năm lần trong các cuốn sử sách nổi tiếng trong và ngoài nước. Trong cuốn Sơn Hải Kinh – Hải ngoại Bắc Kinh viết: “Nước một mắt ở phía Đông, người nơi đó trên mặt có một con mắt” (Hình 4); trong Hoài Nam Tử cũng ghi lại rằng quốc gia một mắt là một trong 36 quốc gia ở hải ngoại, “người dân ở đó gọi là dân một mắt, một con mắt ở chính giữa khuôn mặt”;

Hình 4: Sơn Hải Kinh – Hải ngoại Bắc Kinh ghi chép: “Nước một mắt ở phía Đông, người nơi đó trên mặt có một con mắt”

Vào thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, nhà thơ Hy Lạp cổ đại Aristias đã từng đi qua Biển Đen đến dãy núi Altai và đã nhìn thấy người một mắt, khi đó nước một mắt đang đánh nhau với một quốc gia cũng rất phát triển khác là Griffin[1], tương truyền người Griffin là người bảo vệ vàng. Những điều ông nghe và nhìn thấy trong chuyến du lịch này được viết thành cuốn sách Người một mắt; Herodotus, cha đẻ của lịch sử học ở thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, đã đưa ra một số mô tả về miền Bắc Trung Á trong cuốn sách Lịch sử, ông ghi lại ba nhóm dân tộc gồm: người A Nhĩ Cát Bạc đầu hói, người Y Trại Đốn và người A Li Mã Tư một mắt, họ phân bố ở vùng đồi núi Kazakhstan, lưu vực sông Yili và lưu vực sông Sở và chân dãy núi Altai; Thời Vạn Lịch của nhà Minh, tấm bản đồ Khôn Dư Vạn Quốc Toàn Đồ [2] do nhà truyền giáo người Ý Matteo Ricci vẽ cũng ghi rõ vị trí của “nước một mắt” (Hình 5)

Hình 5. Khôn Dư Vạn Quốc Toàn Đồ do nhà truyền giáo người Ý Matteo Ricci vẽ cũng ghi rõ vị trí của “vương quốc một mắt”

Theo những ghi chép này, Vương Minh Triết, một nhân viên nghiên cứu vừa tốt nghiệp khoa khảo cổ học tại Đại học Bắc Kinh năm 1965, đã đến dãy núi Altai ở Tân Cương để thực hiện điều tra nghiên cứu (Hình 6). Người dân địa phương đã đưa anh đến một nơi gọi là “Thung lũng vương quốc một mắt”, họ nói với anh rằng cách đây 4-5000 năm trước nơi đây chính là vương quốc một mắt. Tại đây, anh tìm thấy rất nhiều đá hươu [3] với hình vẽ được chạm khắc và trận địa gần một trăm gò đá khổng lồ, người dân địa phương cho biết đây là mộ của người một mắt. Mặc dù chúng ta không biết được dưới đó được chôn cất những gì, nhưng người dân địa phương thì tuyệt đối tin tưởng truyền thuyết về vương quốc một mắt (Hình 7).

Hình 6: Nhà nghiên cứu Vương Minh Triết, vừa tốt nghiệp khoa khảo cổ học tại Đại học Bắc Kinh năm 1965, đã đến “Thung lũng vương quốc một mắt” ở dãy núi Altai của Tân Cương để thực hiện điều tra nghiên cứu

Hình 7: Gò đá lớn trong “Thung lũng vương quốc một mắt” ở đồng cỏ Tam Hải Tử, Tân Cương

Vậy người mắt dọc trông như thế nào? Mãi cho đến khi tôi nhìn thấy một bức tượng bằng đồng xanh thuộc di chỉ Tam Tinh Đôi [4] tôi mới nhận ra: Đây chẳng phải là người mắt dọc (Hình 8) hay sao?

Hình 8: Tượng đồng đầu người mắt dọc tại di chỉ Tam Tinh Đôi

Tôi tin rằng mọi người chắc chắn cũng giống như tôi, nếu không nhìn thấy bức tượng đồng này thì không thể tưởng tượng được “người mắt dọc” trông như thế nào. Vì vậy, nếu hơn 4.000 năm trước người cổ đại không thực sự tận mắt nhìn thấy người mắt dọc, thì dựa vào đâu họ có thể tưởng tượng để tạo ra một bức tượng bằng đồng như vậy? Từ “蜀 – Thục” trong văn tự giáp cốt vừa vặn giống một con mắt khổng lồ (Hình 9). Dường như nền văn minh của nước Thục có mối liên hệ mật thiết với “con mắt – 眼睛”. Có thuyết cho rằng tổ tiên của nước Thục cổ là người Tây Khương, nếu đúng như vậy thì người Thục cổ và người Di hậu duệ của người Tây Khương có cùng nguồn gốc. Bức tượng người mắt dọc bằng đồng ở di chỉ Tam Tinh Đôi có lẽ được thờ cúng bởi tổ tiên của “người mắt dọc” được ghi lại trong sử thi của người Di.

Hình 9: Chữ “Thục” trong văn tự giáp cốt chính là một con mắt lớn

Rất nhiều phát hiện khảo cổ đã trở thành cú sốc đối với con người hiện đại bị trói buộc bởi “thuyết tiến hóa”. Những bài hát sử thi cổ đã được tổ tiên chúng ta hát trong hàng triệu năm qua vẫn vang vọng trong không gian lịch sử. Ngày nay khi tiếng nói của chân lý xuất hiện trở lại, chúng ta không khỏi suy ngẫm: “Tiêu chuẩn của chân lý rốt cuộc là gì?” Liệu thuyết tiến hóa chỉ mới tồn tại hơn 200 năm qua có thể giải thích rõ hết thảy hiện tượng này không? Hiển nhiên đứng trên cơ điểm của “chủ nghĩa vô thần” thì chúng ta không cách nào giải thích được đầy đủ về lịch sử.

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/259125

Chú thích của người dịch:

[1] Griffin: Griffin còn gọi là Điểu Sư, một loại quái thú trong thần thoại cổ Hy Lạp đầu chim mình sư tử.

[2] Khôn Dư Vạn Quốc Toàn Đồ: Bản đồ Địa lý đầy đủ có tất cả mọi vương quốc trên thế giới là bản đồ thế giới chữ Hán kiểu phương Tây sớm nhất được biết tới, được vẽ tại Trung Quốc năm 1602 bởi nhà truyền giáo dòng Tên Matteo Ricci, quan Trương Văn Đảo, và dịch giả Lý Chi Tảo, theo yêu cầu của hoàng đế Minh Thần Tông  (theoWikipedia tiếng Việt)

[3] Đá hươu: Đá hươu là những hòn đá cổ xưa được chạm khắc với các biểu tượng về con nai bay.

[4] Tam Tinh Đôi: Di chỉ Tam Tinh Đôi là một di chỉ khảo cổ học nằm trong địa phận thành phố Quảng Hán, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Nó thuộc thời đại đồ đồng của nước Thục cổ đại.

The post Văn hoá Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (2): Thần tạo ra ba chủng người first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (3): Hồi sinh sau thảm họahttps://chanhkien.org/2020/10/van-hoa-than-truyen-cua-nguoi-dan-toc-thieu-so-trung-quoc-3-hoi-sinh-sau-tham-hoa.htmlMon, 19 Oct 2020 15:13:48 +0000https://chanhkien.org/?p=26729Tác giả: GZ Tiếp theo Phần 2 [ChanhKien.org] Lời tựa: Tôi đã có nhiều năm tham gia công tác giảng dạy và nghiên cứu nghệ thuật, trong quá trình công tác đã nghiên cứu nhiều đề tài về dân tộc thiểu số Trung Quốc. Tôi đã phát hiện thấy rằng các dân tộc thiểu số […]

The post Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (3): Hồi sinh sau thảm họa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: GZ

Tiếp theo Phần 2

[ChanhKien.org]

Lời tựa:

Tôi đã có nhiều năm tham gia công tác giảng dạy và nghiên cứu nghệ thuật, trong quá trình công tác đã nghiên cứu nhiều đề tài về dân tộc thiểu số Trung Quốc. Tôi đã phát hiện thấy rằng các dân tộc thiểu số có một lịch sử rất cổ xưa, tuy nhiên rất nhiều điều họ bảo tồn được lại vô cùng khó hiểu đối với người hiện đại, người ta chỉ xem đó như một nền văn hóa thần bí để thỏa mãn tính hiếu kỳ của mình. Kể từ khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, thoát khỏi sự đầu độc của chủ nghĩa vô thần và thuyết tiến hóa, tôi liên tục được Đại Pháp khai mở trí huệ, khi nhìn lại những sản phẩm văn hóa nghệ thuật của các dân tộc thiểu số này, tôi phát hiện rằng rất nhiều điều mà người bình thường không thể hiểu được đã được giải đáp trong các bài giảng Pháp của Sư tôn. Văn hóa nghệ thuật của các dân tộc thiểu số cũng chứng minh cho sự tồn tại của Thần, cũng là một phần của văn hóa Thần truyền, nhưng thuyết tiến hóa và chủ nghĩa vô thần đã cản trở con đường quay trở về truyền thống của con người thế gian. Tôi xin chia sẻ những hiểu biết này với các đồng tu, do tầng thứ tu luyện cá nhân có hạn, có chỗ nào không phù hợp, xin từ bi chỉ rõ.

3. Hồi sinh sau thảm họa – ký ức về trận Đại hồng thủy và nền văn minh tiền sử

Đại hồng thủy là một ký ức chung của rất nhiều dân tộc và quốc gia trên thế giới, trong tất cả các nền văn minh cổ đại trên thế giới đều có những câu chuyện liên quan đến trận Đại hồng thủy. Các bài hát cổ và sử thi của các dân tộc thiểu số Trung Quốc cũng ghi lại giai đoạn lịch sử xảy ra trận Đại hồng thủy thời tiền sử này.

Trong bài viết trước, chúng tôi đã đề cập đến việc Thần sau khi đào thải tiểu nhân và đại nhân xong đã tạo ra con người mang hình dáng như chúng ta ngày nay, cấp cho họ một môi trường sống phù hợp, nhưng nhân loại thời kỳ đầu vẫn không đáp ứng các tiêu chuẩn theo yêu cầu của Thần, do đó lại được sàng lọc một lần nữa, trong sử thi “Mai Cát” của người Di tiếp tục kể rằng:

“Người thế hệ này tâm bất hảo, lười biếng, từ sáng đến tối chỉ ăn và ngủ, họ lãng phí lương thực, Thần Cách Tư không chấp nhận, quyết định thay thế loài người này, Thần đã phái Vũ Mẫu Lặc Oa hạ phàm để thay thế thế hệ người thứ ba này. Vũ Mẫu Lặc Oa biến thành một con gấu lớn, chặn nước chảy tràn ra núi sông. Người mắt dọc học làm rượu vang, có năm con trai, một con gái. Năm anh em cày ruộng, cày ba ngày đều bị con gấu lấp lại, thế là mấy anh em bàn cách trói con gấu. Bốn anh em không muốn cứu con gấu, tất cả đều hô giết, chỉ có đứa em trai út đã cứu con gấu. Vũ Mẫu Lặc Oa nói với bốn anh em rằng nếu nước tràn ra sông núi thì sẽ thay đổi chủng người, bảo bốn anh em lần lượt đóng hòm vàng, hòm bạc, hòm đồng và hòm sắt, còn đưa cho em trai út ba hạt bầu giống, bảo anh ta trồng bầu hồ lô và trốn trong quả bầu với em gái. Bốn anh em đóng tủ xong thì giết con gấu, đầu gấu trôi ra biển đông, chặn lỗ thoát nước, nước liền dâng lên. Nước ngập trong 77 ngày đêm, Thần xuống trần trị thủy, bóng người không còn nữa, Thần Cách Tư tìm con người khắp mọi nơi, sau đó gặp được con ong bầu, cây thông, tùng la hán, ong mật, cây liễu, con rùa, Thần dựa theo tâm tính tốt xấu của chúng mà ban tặng những món quà khác nhau. Thần tìm đến bờ biển lớn, tìm được bầu hồ lô và bảo hai anh em thành thân để truyền nhân chủng. Hai anh em từ chối. Thần liền bảo họ lên đỉnh núi lăn đá xuống, lăn sàng và nia lại một chỗ, anh em vẫn không chịu thành thân. Thần lại so sánh với chim, cây, vịt, ngỗng, cuối cùng hai anh em nói:

Hai anh em chúng con cùng do bố mẹ sinh ra, thành thân rất xấu hổ, nếu muốn truyền sinh loài người phải có cách khác, vào ngày cầm tinh con chó, người anh đến đầu sông tắm rửa, cô em gái đến cuối sông vốc nước uống, uống nước để có thai, mỗi tháng uống một lần, uống được chín tháng thì em gái có thai, sinh ra một quả bầu lạ. Anh trai không ở nhà, em gái rất sợ hãi, vứt quả bầu xuống sông.

Thần biết được, dọc theo sông tìm đến bờ biển, tìm thấy quả bầu, chọc quả bầu ra, lần lượt sinh ra người Hán, người Thái, người Di, người Lật Túc, người Miêu, người Tạng, người Bạch, người Hồi. Bóng người đã trở nên nhiều”.

Đoạn sử thi này tiếp tục miêu tả loài người vào thời kỳ đầu vì đạo đức thấp kém nên Thần quyết định tạo ra một trận Đại hồng thủy để tiêu hủy tất cả các sinh mệnh và những người sống trên mặt đất không phù hợp tiêu chuẩn. Trong thảm họa, chỉ lưu lại hai anh em trai gái “tốt bụng” để làm nhân chủng, Thần cũng lấy tiêu chuẩn “lòng dạ tốt xấu” để chọn ra các loài vật đạt tiêu chuẩn “tặng cho họ những món quà khác nhau”. Hai anh em may mắn nhờ trốn vào quả bầu hồ lô mà sống sót sau trận Đại hồng thủy, từ đó sinh ra các dân tộc về sau. Cho nên “quả bầu hồ lô” trở thành biểu tượng cho sự tốt lành và sinh sôi của sinh mệnh và được lưu truyền rộng rãi trong văn hóa Trung Hoa (Hình 1).

Hình 1: Tranh thêu của người Miêu ở vùng Lôi Sơn, ông nam Quý Châu, “Quả bầu” có liên quan mật thiết với sinh mệnh.

Đại Sư Lý Hồng Chí trong khi giảng Pháp đã nói:

Từ xưa tới nay, vũ trụ này, hết thảy những cái này, đừng nói chỉ nhân loại, mà toàn thể vũ trụ đều đang chiểu theo quy luật đã được an bài từ trước khi việc xảy ra mà diễn ra. Nhân loại thì càng như thế. Năm nghìn năm nhân loại là một kiếp số, văn minh năm nghìn năm là một kịch bản. Tôi bảo mọi người này, quả thực là một kịch bản. Mỗi lần khoảng 5000 năm thì lịch sử nhân loại sẽ kết thúc, nhân loại sẽ huỷ diệt, nguyên nhân huỷ rớt là thành-trụ-hoại-diệt là quy luật của vũ trụ. Đã tới bước đó, thì cái gì cũng không còn tốt nữa, đạo đức nhân loại không được nữa rồi, vật chất cũng hỏng rồi, bèn huỷ rớt đi; phẩm chất đạo đức không đạt nữa thì nhất định bị huỷ rớt, được lưu lại đều là phần còn tốt, để làm như là nhân chủng [nòi giống], rồi lại phát triển lại mới; kịch bản này được thu hồi lại, chỉnh sửa lại mới, trong diễn nghĩa 5000 năm ấy, phần nào không thoả ý thì được chỉnh sửa, chỉnh sửa, chỉnh sửa. Cho nên rất nhiều chư Thần, các bậc thánh giả và người tu Đạo trên thế giới chẳng phải đều giảng những lời thế này? Nói rằng nhân loại là lặp lại, lịch sử nhân loại là lặp lại. Lời đó rất thường được giảng trong giới tu luyện, thường được nghe thấy, chính là chuyện như vậy. (Giảng Pháp tại Pháp hội New York 2016)

Lớp người này thực sự đã trải qua quá trình không ngừng kiểm nghiệm và sàng lọc của Thần, mà được hữu ý giữ lại. Hai anh em sống sót sau trận Hồng thủy không chỉ thừa kế tinh hoa của thời kỳ văn minh nhân loại trước đây, mà còn sinh ra nhân chủng mới của nhân loại tiến nhập vào quá trình văn minh mới. Đây chính là câu chuyện “Con thuyền Noah” phiên bản Trung Quốc, những câu chuyện tương tự còn xuất hiện trong các sử thi như “Miêu Tộc Cổ Ca” của dân tộc Miêu, “Sáng Thế Kỷ” của dân tộc Nạp Tây, “Mật Lạc Đà” và “Bàn Cổ Thư” của dân tộc Dao, “Bàn Cổ Tán Ca” của dân tộc Choang, “Hỗn Độn Vương và Bàn Quả Vương ” của dân tộc Bố Y, “Hồng Thủy Triều Thiên” của dân tộc Ngật Lão, “Thiên Địa Khởi Nguyên” của dân tộc Bạch, “Cách Tát Nhĩ Vương” của dân tộc Tạng, v.v.

Tất nhiên, như Đại sư Lý Hồng Chí đã đề cập trong bài giảng ở trên, sau mỗi 5000 năm các kịch bản liên tục được sửa đổi, những phần không hài lòng đều tiêu biến theo sự hủy diệt của nền văn minh trước đó, những phần hài lòng sẽ được giữ lại để làm bước khởi đầu cho nền văn minh tiếp theo.

Trong công tác nghiên cứu trước đây, tôi phát hiện ở những vùng dân tộc thiểu số Tây Nam xa xôi, trên trang phục truyền thống của người dân có rất nhiều đồ hình cổ xưa như phù hiệu chữ “Vạn”, “Thái Cực”, “Hà Đồ Lạc Thư”. Tuy nhiên do giới học thuật chính thống ở Trung Quốc có quan điểm bài xích với các học thuyết huyền hoặc và học thuyết về Thần, họ cho rằng đó là những thứ mê tín và duy tâm, họ quy tất cả những điều nhận thức được vào cái gọi là phạm trù “khoa học thực chứng”, dẫn đến lịch sử Trung Quốc bị bóp méo bởi loại quan niệm cực đoan và phiến diện này, người ta chỉ tin vào những sự vật tận mắt nhìn thấy được, do đó lịch sử Trung Quốc đã bị đứt đoạn và giới hạn vào thời kỳ lịch khoảng 3300 năm trước đây khi đã xuất hiện chữ viết có thể tra cứu được, còn thời kỳ lịch sử trước đó được coi là “truyền thuyết thần thoại”, điều này khiến cho người Trung Quốc không thể tìm thấy gốc rễ lịch sử chân thực của mình.

Nói về phù hiệu chữ “卍”, các chủng tộc người được lưu lại từ thời văn minh tiền sử trước thời tiên Tần đã di cư đến khu vực phía Tây Nam, trên các văn tự cổ, các cuốn kinh sách cổ và trên trang phục của họ đều còn giữ lại rất nhiều phù hiệu chữ “卍”. Đến nay, ở Trung Quốc đại lục nơi chủ nghĩa vô thần lộng hành, chúng ta chỉ có thể nhìn thấy mẫu hình phù hiệu chữ “卍” ở các di tích văn vật cổ, vì vậy, rất nhiều người hiện đại biết được hàm nghĩa của phù hiệu chữ “卍”, nhưng các dân tộc thiểu số từ lâu đã coi phù hiệu chữ “卍” là phù hiệu thần thánh, coi nó tượng trưng cho cát tường như ý và được sử dụng thường xuyên (Hình 2 và 3).

Hình 2: Tranh thêu của dân tộc Bố Y: phù hiệu chữ “卍” bốn mặt tám phương

Hình 3: Phù hiệu chữ “卍” trên vải hoa nhuộm bằng sáp của dân tộc Miêu ở Quý Châu

Người dân tộc Di còn bảo tồn một bức vẽ Thái Cực vô cùng cổ xưa, đó là hình dạng nguyên sơ thủa ban đầu của Thái Cực mà chúng ta biết hiện nay, điều quan trọng hơn là Hà Đồ Lạc Thư mà mọi người hiện nay đều quen thuộc có liên quan mật thiết với người dân tộc Di. Trên thực tế, sau khi Chu Văn Vương dựa theo Hà Đồ Lạc Thư để suy diễn ra 64 quẻ thì Hà Đồ Lạc Thư lại một lần nữa biến mất, cho đến thời nhà Tống mọi người vẫn chưa biết nó là thứ gì, chỉ nghe nói từ xưa truyền lại một câu cổ ngữ “Hà xuất Đồ Lạc xuất Thư”, ngay cả Khổng Tử thời Xuân Thu cũng thốt lên một câu than thở: “Phụng điểu bất chí, Hà bất xuất Đồ, Ngô dĩ hĩ phu!” ý tứ là chim phượng không đến, Hà Đồ Lạc Thư đều tiêu mất rồi, cả đời này của ta cũng uổng rồi? Có thể thấy rằng Hà Đồ Lạc Thư đã biến mất từ ​​lâu. Cho đến thời Nam Tống, Chu Hy phái đệ tử Thái Quý Thông đi lấy bức vẽ Thái Cực cổ có tên là “Thiên địa tự nhiên Hà Đồ” của người Di ở núi Đại Lương, Tứ Xuyên (Hình 4), cùng với Hà Đồ Lạc Thư tất cả có 3 bức vẽ (hình 5, 6). Sau này Chu Hy dựa theo Hà Đồ Lạc Thư này mới viết ra được cuốn sách “Chu Dịch bản nghĩa”, nhờ đó ông kế tục Khổng Tử trở thành nhà giáo dục và lý học vĩ đại có ảnh hưởng sâu sắc đến giới giáo dục Trung Quốc. Từ tư liệu trong những cuốn sách cổ của người Di, chúng ta có thể thấy rằng thời đó tổ tiên của người Di đã có những hiểu biết và nhận thức rất cao về thiên văn, vũ trụ học. Những hình vẽ cổ xưa này từ thời viễn cổ cho đến hiện nay vẫn luôn được thêu trên trang phục của các dân tộc thiểu số ở phía Tây Nam (Hình 7), bởi vì họ biết rằng những phù hiệu này có ý nghĩa thần thánh, có thể bảo hộ cho họ bình an, cát tường, cho nên chỉ vào những dịp quan trọng nhất như lễ hội, tế lễ, đám cưới, đám tang, … họ mới mặc những trang phục này.

Hình 4: Bức vẽ Thái Cực cổ trong cuốn kinh cổ “Na Sử” của dân tộc Di

Hình 5: “Thiên số” trong cuốn kinh cổ “Na Sử” của người Di, tức là Hà Đồ

Hình 6: “Địa Số” trong cuốn kinh cổ “Na Sử” của người Di, tức là Lạc Thư

Hình 7: Hình vẽ Thái Cực cổ trên đai lưng của dân tộc Miêu

Còn có một số hình vẽ cổ xưa khác, chẳng hạn như phù hiệu Lạc Thư cổ, hình ngôi sao tám cánh, v.v., chúng tượng trưng cho sự vận hành của thiên thể vũ trụ trong thời kỳ văn minh nhân loại lần trước. Trong thời kỳ văn minh nhân loại lần này, vì có sự biến hóa trong quan hệ đối ứng giữa quỹ đạo vận hành của thiên thể và con người, nên một số phù hiệu, đồ hình đã tự nhiên biến mất trong dòng sông dài lịch sử của nhân loại, ở đây tôi không giới thiệu thêm nữa.

Tôi phát hiện trong văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Tây Nam có rất nhiều dấu vết của những hình vẽ cổ xưa này, tại sao họ muốn bảo lưu những hình vẽ cổ xưa này? Mãi cho đến khi đọc bài giảng của Đại sư Lý Hồng Chí về vấn đề này của, tôi mới bỗng nhiên tỉnh ngộ. Đại sư Lý Hồng Chí giảng:

Tôi có thể bảo chư vị, vì sao dân tộc thiểu số Tây Nam Trung Quốc nhiều thế, hơn nữa dường như cách biệt hẳn với văn hoá năm nghìn năm Trung Quốc cận đại, kỳ thực những người đó là nhân chủng được lưu lại từ trước thời văn hoá năm nghìn năm. Một lần khi tôi lái xe tới Vân Nam, suốt dọc đường những vị Thần đó nói với tôi rằng dân tộc thiểu số kia đều là hoá thạch sống, rất cổ xưa. (Giảng Pháp tại Pháp hội New York kỷ niệm 25 năm Đại Pháp hồng truyền [2017])

Thực ra không chỉ khí công là được lưu lại từ niên đại xa xưa; [mà] Thái Cực, Hà Đồ, Lạc Thư, Chu Dịch, Bát Quái, v.v. đều là [những thứ] di lưu từ tiền sử. (Bài giảng thứ nhất, Chuyển Pháp Luân)

Khi tôi đọc hai đoạn giảng Pháp này, tôi chợt lĩnh ngộ được ý nghĩa sâu xa của việc lưu lại những chủng người cổ xưa và nền văn hóa cổ xưa mà họ mang theo đến ngày nay để trở thành “hóa thạch sống”, mọi sự việc đều không ngẫu nhiên, hết thảy điều này đều là những bước đệm mà Thần tạo ra để chuẩn bị cho sự hồng truyền Đại Pháp ngày hôm nay! Những chủng tộc cổ xưa này đã trải qua nhiều lần “Đại đào thải” nghiêm trọng mà được bảo lưu đến ngày nay.

Sau trận Đại hồng thủy, những người này mang theo ký ức về nền văn minh tiền sử trước đó và “món quà” mà các vị Thần ban cho họ mà đi xuống núi Côn Lôn, sau đó sinh sôi nảy nở, di chuyển về hướng đông, sau khi họ trở thành các thị tộc khác nhau thì tranh giành Trung Nguyên, rồi lại qua nhiều lần thay đổi triều đại mà phát triển thành các nhóm dân tộc khác nhau, phân bố ở vùng đất của Trung Quốc. Nhiều dân tộc thiểu số phía Tây Nam đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của họ, vào thời tiên Tần, đã đi đến các vùng đất phía Tây Nam như Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên v.v. trở thành “hóa thạch sống” của nền văn minh tiền sử và được bảo lưu đến ngày nay.

Sư phụ Lý Hồng Chí đã nói trong bài giảng Pháp của mình:

Tiền sử phát sinh hằng bao nhiêu lần kiếp nạn của nhân loại, lưu lại một số rất nhỏ các sinh mệnh, chỉ những người mang tràn đầy chính tín đối với Thần mới có thể được lưu lại, nhưng trong phục hưng của bất kỳ lần nhân loại nào cũng đều chưa từng phát sinh tu luyện giống như đệ tử Đại Pháp. Chưa từng có, do đó không có tham chiếu.. (Giảng Pháp tại Pháp hội New York 2015)

Khi Đại hồng thủy tràn ngập, chính là lúc đạo đức của nền văn minh nhân loại thời kỳ trước trở nên bại hoại nhất, những tổ tiên may mắn sống sót này là nhờ trong tâm còn giữ được chính niệm chính tín đối với Phật, Đạo, Thần mà giữ gìn được đạo đức tốt đẹp, từ đó họ có thể được Thần Phật giữ lại. Ngoài việc gánh vác trách nhiệm sinh sôi nảy nở con cháu sau, trong quá trình khai sáng thời kỳ văn minh tiếp theo, họ còn có trách nhiệm truyền bá hạt giống tín tâm vững chắc vào Phật, Đạo, Thần, đợi đến khi các loại tôn giáo dần dần hình thành và nở rộ trên vùng đất Trung Hoa rộng lớn, mà hết thảy điều này đều là tầng tầng bước đệm trải đường cho Đại Pháp hồng truyền trong thời mạt Pháp cuối cùng.

Đại hồng thủy là ranh giới giữa hai nền văn minh nhân loại, cũng là sự khởi đầu của nền văn minh chúng ta lần này. Từ đó đến nay, 5000 năm nữa lại sắp trôi qua, loài người đã đến thời mạt kiếp của thời mạt Pháp, đã đi đến gần bước cuối cùng của hủy diệt, mọi thứ qua đi đều sẽ tan thành mây khói. Vào lúc nhân loại bại hoại nhất, Sáng Thế Chủ sẽ mang Đại Pháp của vũ trụ đến hồng truyền tại nhân gian, vì con người thế gian hôm nay mà mở một cánh cửa thông lên trời. Thế nhân đã trăm cay ngàn đắng chờ đợi đến bước cuối cùng, xin đừng bỏ lỡ cơ duyên vạn cổ này!

Trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ tiếp tục đi theo bánh xe lịch sử, tìm hiểu về con đường phát triển của các dân tộc thiểu số, tìm kiếm ánh sáng của văn hóa Thần truyền trong nền văn hóa các dân tộc thiểu số.

(Còn tiếp)

 

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/259247

The post Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (3): Hồi sinh sau thảm họa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (1): Tổ tiên đến từ Thiên thượng (phần 2)https://chanhkien.org/2020/08/van-hoa-than-truyen-cua-nguoi-dan-toc-thieu-so-trung-quoc-1-to-tien-den-tu-thien-thuong-phan-2.htmlFri, 28 Aug 2020 03:40:40 +0000https://chanhkien.org/?p=26509Tác giả: GZ   [ChanhKien.org] Tiếp theo Phần 1 Lời tựa: Tôi đã có nhiều năm tham gia công tác giảng dạy và nghiên cứu nghệ thuật, trong quá trình công tác đã nghiên cứu nhiều đề tài về dân tộc thiểu số Trung Quốc. Tôi đã phát hiện thấy rằng các dân tộc thiểu […]

The post Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (1): Tổ tiên đến từ Thiên thượng (phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: GZ

 

[ChanhKien.org]

Tiếp theo Phần 1

Lời tựa:

Tôi đã có nhiều năm tham gia công tác giảng dạy và nghiên cứu nghệ thuật, trong quá trình công tác đã nghiên cứu nhiều đề tài về dân tộc thiểu số Trung Quốc. Tôi đã phát hiện thấy rằng các dân tộc thiểu số có một lịch sử rất cổ xưa, tuy nhiên rất nhiều điều họ bảo tồn được lại vô cùng khó hiểu đối với người hiện đại, người ta chỉ xem đó như một nền văn hóa thần bí để thỏa mãn tính hiếu kỳ của mình. Kể từ khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, thoát khỏi sự đầu độc của chủ nghĩa vô thần và thuyết tiến hóa, tôi liên tục được Đại Pháp khai mở trí huệ, khi nhìn lại những sản phẩm văn hóa nghệ thuật của các dân tộc thiểu số này, tôi phát hiện rằng rất nhiều điều mà người bình thường không thể hiểu được đã được giải đáp trong các bài giảng Pháp của Sư tôn. Văn hóa nghệ thuật của các dân tộc thiểu số cũng chứng minh cho sự tồn tại của Thần, cũng là một phần của văn hóa Thần truyền, nhưng thuyết tiến hóa và chủ nghĩa vô thần đã cản trở con đường quay trở về truyền thống của con người thế gian. Tôi xin chia sẻ những hiểu biết này với các đồng tu, do tầng thứ tu luyện cá nhân có hạn, có chỗ nào không phù hợp, xin từ bi chỉ rõ.

1. Tổ tiên đến từ Thiên thượng (Phần 2)

Dân tộc Di còn có một tài liệu lịch sử cổ khiến mọi người kinh ngạc và rất có giá trị tham khảo là cuốn “Nguồn gốc dân tộc Di”, đây là cuốn gia phả của dân tộc Di. Cuốn sách được Đại Bimoism (còn gọi là Tất Ma) Cử Lâu Bố Đà của người dân tộc Di triều đại nhà Đường thu thập chỉnh lý, biên tập từ các cuốn sách lịch sử của các bộ tộc và gia đình dân tộc Di, nó ghi lại sáu giai đoạn lịch sử từ khi vũ trụ được tạo ra đến khi phân thành các chi nhánh tổ tiên của người Di, tổng cộng có 27 quyển, có thể nói là một pho sách rất hoành tráng. Trong đó truyền tải lại một vũ trụ quan rất quan trọng, nếu bộ sử sách về nguồn gốc sáng tạo vũ trụ này chính là gia phả của họ, thế thì tổ tiên của họ chính là Thần đến từ vũ trụ.

Trước tiên, hãy cùng xem xét chương mở đầu và cảm nhận phương pháp kể chuyện của bộ gia phả này:

Chúng phối hợp với nhau

Tản Thiệp Thiệp đời thứ nhất

Thiệp Hằng Hằng đời thứ hai

Hằng Ẩn Ẩn đời thứ ba

Ẩn Nhã Khải đời thứ tư

Khải Nhã Lược đời thứ năm

Lược Ân Ân đời thứ sáu

Ân Ân đậu đời thứ bảy

Đậu Khắc Khắc đời thứ tám

Khắc Vũ Vũ đời thứ chín

Vũ Thư Sách đời thứ mười

Thanh khí sinh ra vào đời thứ mười

Đến Hằng Tư Sách

Tư Sách là Càn Phụ

Đã kể lại như thế

Sự sản sinh ra thanh khí và trọc khí:

Thời cổ khi Trời chưa hình thành

Khi Đất chưa sinh ra

Khi Ngải chưa sinh ra

Khi Bộ chưa xuất hiện

Đầu tên có thanh khí và trọc khí

Xuất hiện thanh khí

Lắng xuống là trọc khí

Thanh khí màu xanh đen

Trọc khí màu đỏ đồng

Màu đen là thanh khí

Màu đỏ đồng là trọc khí

Khí xanh chuyển thành Ngải

Ngai Khả Khả đời thứ nhất

Khả Khả Đầu đời thứ hai

Đầu Mạc Mạc đời thứ ba

Mạc Mạc Giác đời thứ tư

Giác Nhã Phấn đời thứ năm

Phấn Nhã Nạp đời thứ sáu

Nạp Nhã Ngạc đời thứ bảy

Ngạc Nhã Liệt đời thứ tám

Liệt Nhã Đầu đời thứ chín

Đầu A Vũ đời thứ mười

Trọc khí sinh ra vào đời thứ mười

Đến Đầu A Vũ

A Vũ là Khôn Mẫu

Ngải sinh ra Ngải Tư Sách

Bộ sinh ra Bộ Vị Lâu

Sau khi chúng kết hợp

Sinh ra nguồn gốc của Ngải

Sinh ra nguồn gốc của Bộ

Ngải Tắc Tắc đời thứ nhất

Tắc Hồng Hồng đời thứ hai

Hồng Hồng Hùng đời thứ ba

Hùng Nhã Lập đời thứ tư

Lập Ông Ông đời thứ năm

Ông Ni Tung đời thứ sáu

Tung Dư Dư đời thứ bảy

Dư Dư Đầu đời thứ tám

Đầu Ngải Bộ đời thứ chín

Bộ Xả Vũ đời thứ mười

Xả Vũ Vũ đời thứ mười một

Hằng Vũ Vũ đời thứ mười hai

Mọi người có thể thấy, gia phả này dùng phương thức trần thuật mộc mạc để kể lại, về những sinh mệnh thể tối nguyên sơ “thanh khí” và “trọc khí” thì họ chỉ tường thuật rất đơn giản hành vi và lịch sử của họ, ghi lại tên gọi của từng thế hệ, cũng không bình luận hay giải thích gì thêm. Cách kể chuyện này xuyên suốt toàn bộ bản gia phả, đó chính là thái độ rất lý trí và nghiêm túc của một nhà biên sử. Chúng ta hãy xem nội dung, sinh mệnh tối nguyên sơ ban đầu là dạng khí, được gọi là “thanh khí” và “trọc khí”, khi chúng phối hợp cùng nhau, mỗi loại khí lại tự sáng tạo ra mười đời sinh mệnh, mỗi đời sinh mệnh đều được ghi lại tên gọi, theo cách đời sau nối tên đời trước, tức là tên của cha là họ của con. Đến đời thứ mười của thanh khí là “Hằng Tư Sách” thì “Càn Phụ” (cha trời) cũng được hình thành; Đến đời thứ mười của trọc khí là “Đầu A Vũ” thì “Khôn Mẫu” (mẹ đất) được hình thành. Lúc này, sinh mệnh bắt đầu biến đổi thành hai loại vật chất là “Ngải” (哎) và “Bộ” (哺), tức là “Âm và Dương”. Từ thời điểm này, vũ trụ bắt đầu sinh sôi tạo ra nhiều sinh mệnh (Hình 1).

Hình 1: Đai lưng của Dân tộc Choang ở tỉnh Vân Nam, “Âm và Dương” tạo ra sinh mệnh ở các tầng thứ

Khi “Ngải” (哎) và “Bộ” (哺) sinh sôi mười đời, vũ trụ ở tầng này bắt đầu phồn vinh: “Đời thứ mười “Đỗ Trâu Tai Hoằng” sống ở nơi tốt đẹp, mặc y phục tươi sáng như hoa, có căn cơ tốt, ngồi trên đài hoa rực rỡ, nói chuyện hợp lý hợp tình, dùng ngôn từ đẹp đẽ, sinh ra vô số “hình ảnh”, hạc trắng cai quản vùng đồng bằng, chim cu gáy cai quản vùng rừng hoang dã. Hạc trắng dùng sợi tơ vàng và sợi tơ bạc dệt ra mười tấm lụa xanh, dệt ra mười tầng vũ trụ, lúc này, vũ trụ đã được mở rộng gấp mười lần”. Ở đây nhấn mạnh một câu: “Tri thức và hiểu biết của chúng ta đều bắt nguồn từ khi vũ trụ này phát triển”. Đây là câu trần thuật vô cùng lý trí, cũng là thái độ làm việc của nhà viết sử, khiến cho cảnh giới của “Thần” được mô tả một cách ôn hòa, chân thực (Hình 2)

Hình 2: Hoa văn trên đai lưng của dân tộc Bố Y: Thần sáng tạo ra vạn vật

Nhận thức của tổ tiên người Di về âm dương và quá trình sản sinh ra sinh mệnh cũng phù hợp một cách đáng kinh ngạc với bài giảng của Sư Tôn. Sư phụ đã giảng trong Tinh Tấn Yếu Chỉ:

Ở rất cao và rất vi quan nơi vũ trụ tồn tại hai chủng vật chất khác nhau, đó cũng là đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn tối cao của vũ trụ, thể hiện ra thành hình thức tồn tại của hai chủng vật chất ở một tầng thứ không gian nhất định của vũ trụ. Xuyên suốt từ đó trở xuống, từ vi quan đến hồng quan cho đến một không gian nhất định. Càng xuống dưới thì hai loại vật chất tính chất này, thuận theo trạng thái biểu hiện của Pháp tại các tầng thứ khác nhau, mà biểu hiện càng khác nhau, khác biệt càng lớn. Từ đó mà sinh ra điều mà Đạo gia gọi là Lý ‘âm dương và thái cực’. Xuống tiếp nữa, hai chủng vật chất tính chất khác nhau này càng ngày càng phát sinh đối lập, như vậy hình thành Lý ‘tương sinh tương khắc’. (“Phật tính và ma tính” –Tinh Tấn Yếu Chỉ)

Từ đời thứ 10 đến đời thứ 90 của “Ngải Bộ” (Âm Dương), các đời con cháu tiếp tục mở rộng phạm vi vũ trụ lên tới “chín mươi cung” , “chín mươi tầng trời xanh”, vũ trụ lúc này: “Mọi cảnh vật hoàn toàn mới, thiên nữ dệt gấm lụa, trai tráng rèn đúc đồng, bậc Thánh nhân biết thiên văn, người huệ tâm luận trăng sáng, kẻ tri ​​thức bày kế sách, đều bắt nguồn từ “Ngải Bộ”. Sau khi mọi thứ được hình thành, bề mặt vũ trụ được bao phủ bởi lớp sương mù màu xanh lá cây, sương mù màu xanh ở bên trên, sương mù màu đỏ bên dưới, vũ trụ lúc này rất cao, rất nhiều tiên nhân sống ở tầng giữa của vũ trụ. Biển biếc cuộn sóng, mặt trời rực sáng trên không trung … ”

Hai đoạn mô tả về cảnh giới ban đầu của vũ trụ này là những mô tả đẹp nhất và thần thánh nhất trong toàn bộ sử thi, nó giống như thế giới Thiên quốc trong vũ trụ từng được kính viễn vọng Harley chụp lại (Hình 3), vũ trụ tràn đầy các sinh mệnh, một thế giới Thiên quốc vô cùng thịnh vượng và mỹ lệ, so với nơi thế tục thì thử hỏi còn điều gì mà không thể buông bỏ được?

Hình 3: “Thế giới Thiên quốc” được chụp bởi NASA bằng kính viễn vọng Harley vào ngày 26 tháng 12 năm 1993

Sau khi Âm và Dương được sinh ra, lại trải qua một lần diễn hóa nữa, vũ trụ không ngừng hoàn thiện, không chỉ có thánh nhân và hiền triết, mà còn có cả tri ​​thức trên trời và hiểu biết dưới đất, lại thêm tiếng chuông, gấm vóc, tri ​​thức, thi ca … vũ trụ càng ngày càng phồn thịnh, đồng thời hình thành Thái Cực, Tam Sơn, Tam Thú, Tam Mộc, Tam Điểu, Lục Hợp … (Hình 4)

Hình 4: Khăn choàng thêu của dân tộc Động, với hình chữ Vạn ở bốn phương tám hướng của vũ trụ

Sử thi đến đây mới chỉ là quyển đầu tiên về lịch sử “Âm Dương” của vũ trụ, cũng là tầng thứ đẹp nhất được mô tả trong toàn bộ sử thi. Quyển thứ hai bắt đầu nói về thế hệ “Ngải Bộ”, cũng chính là nói về 90 đời con cháu được tạo ra bởi “Âm Dương”, cùng với 90 tầng của vũ trụ mà họ lần lượt khai mở.

Mỗi tầng ở đây đều do một đời sinh mệnh khai mở, mỗi tầng đều rất tốt đẹp. Khi đến đời thứ 90 cũng là đến tầng thứ 90, họ “sống trong chín tầng trời của vũ trụ, 900 khoảng càn khôn, rút lại thành 900 phần, miêu tả Ngải Bộ cửu tinh, vẽ thiên tinh trên Đào Dịch,” lúc này bầu trời sao trong hệ Ngân hà mà chúng ta nhìn thấy bắt đầu hình thành, “khi ruộng vườn còn chưa được khai phá thì hình ảnh đã được vẽ ra. Khi đất còn chưa mở mang thì hình ảnh đã được vẽ ra”. Đây là hai câu rất quan trọng, tại sao nói rằng mọi thứ trên thế gian chỉ là huyễn tượng, bởi vì đó đều là những hình ảnh do sinh mệnh cao cấp trong vũ trụ vẽ ra. (Hình 5)

Hình 5: Quỹ đạo vận hành của chín đại hành tinh được quan sát và ghi lại trong cuốn sách cổ Na Sử của người Di

Sau đó, “bốn người tài giỏi được sinh ra, lúc đầu sinh ra mười hai cầm tinh con vật, đều được hình thành từ ‘Ngải Bộ’,” Tứ Tượng, mười Thiên Can và mười hai Địa Chi cũng xuất hiện, họ mang đến: “Một quyền lực mạnh mẽ, quyền lực mang lại vinh hiển, phúc lộc, mang lại nhiều vô kể”. Họ “vừa nghĩ vừa kể, mắt nhìn tay viết, mọi thứ họ nghĩ đều hoàn mỹ, theo Bát Quái mà phân chia, Bát Quái biến hóa ra rất nhiều”, Bát Quái đã được họ sáng tạo ra, đĩa Bát Quái to lớn ảnh hưởng đến vận mệnh của con người bắt đầu chuyển động. Lúc này những cơ chế cơ bản của vũ trụ đều đã hình thành: Âm Dương, Tứ Tượng, Thiên Can, Địa Chi, Bát Quái, Nhị Thập Bát Tú (hình 6)… bộ sử thi đến đây mới chỉ là quyển thứ ba. Thế hệ sau đó lại sáng tạo một tầng trời, mỗi một thế hệ lại là tầng tầng sinh mệnh và thế giới, tầng tầng trời đời đời đều sinh sôi ra sinh mệnh và sáng tạo ra thế giới… mãi khi đến tầng thứ chín thì bắt đầu xuất hiện Thiên, Địa, Nhân…

Hình 6: “Bức tranh tam giới” trên áo choàng của Đạo giáo người dân tộc Dao

Tính chân thực của bộ gia phả này còn ở chỗ thời kỳ lịch sử càng gần với của loài người thì thông tin mà nó ghi lại càng chính xác, thông tin về các nhân vật, niên đại và địa điểm phát sinh đều tương ứng với hiện thực. Điều này khiến mọi người càng không thể nghi ngờ về tính chân thực của bộ gia phả này. Từ thời đại Ni Năng con người đã bắt đầu mở rộng lãnh thổ trên trái đất, phạm vi lãnh thổ mà mỗi thế hệ cai quản đều đã được ghi lại chi tiết, đều có thể đối chiếu với bản đồ hiện nay. Ngoài ra còn có các ghi chép chi tiết về nguồn gốc và các thời kỳ của chín đại hành tinh, chín đại hành tinh đều có tên riêng của mình, mỗi ngôi sao đều mặc các trang phục và mang các pháp khí khác nhau (Hình 7). Người cha tạo ra sinh mệnh của họ gọi là Ni Tổ Tán, người mẹ gọi là Năng Tổ Tán. Ngoài ra còn có vô số các chòm sao do các anh hùng, các chúng Thần và các thể sinh mệnh tạo thành, số lượng các chòm sao này rất lớn, nhưng tên của chúng đều được ghi lại. Ngoài ra còn có một phần ghi lại gia phả của nhị thập bát tú (28 chòm sao), có thể thấy sự khác biệt so với ghi chép của dân tộc Hán (Hình 8).

Hình 7: Hình 28 chòm sao của Trương Tăng Dao thời kỳ nhà Lương (Nam triều)

Hình 8: Bảng đối chiếu 28 chòm sao tiếng Di và tiếng Hán

Bộ sử thi sáng thế khổng lồ này đã dùng ngôn ngữ cổ xưa để ghi lại một cách mộc mạc, đơn giản lịch sử vô cùng phức tạp và xa xưa, mục đích của nó không nhắm đến biểu đạt bất cứ điều gì, cũng không phải để giảng giải bất cứ đạo lý nào, mà nó chỉ ghi lại lịch sử: từ Thần đến người, từ không đến có, từ trời đến đất. Mỗi tầng thứ đều là sinh mệnh, mỗi tầng thứ đều hình thành một thế giới, sinh mệnh sinh sôi nảy nở không ngừng, vũ trụ vĩ đại biết bao! Nhưng càng quay về ngọn nguồn thì thế giới càng trở nên tốt đẹp.

Về vũ trụ và sinh mệnh, Sư phụ đã giảng trong Chuyển Pháp Luân:

Thích Ca Mâu Ni còn giảng về học thuyết ‘tam thiên đại thiên thế giới’. Ông nói rằng trong vũ trụ này của chúng ta, trong hệ Ngân Hà này của chúng ta, có ba nghìn tinh cầu có tồn tại sắc thân như thân thể nhân loại chúng ta. Ông còn giảng rằng trong một hạt cát cũng có tam thiên đại thiên thế giới như thế này. Một hạt cát lại giống như một vũ trụ; trong đó lại có con người có trí tuệ như chúng ta, có tinh cầu giống như thế, cũng có núi sông nước chảy. Nghe thật quá huyền hoặc! Nếu đúng như lời ấy, mọi người thử nghĩ xem, ở bên trong đó cũng có những hạt cát phải không? Bên trong hạt cát kia lại có tam thiên đại thiên thế giới phải không? Như vậy trong tam thiên đại thiên thế giới ấy lại có những hạt cát phải không, bên trong hạt cát kia cũng còn có tam thiên đại thiên thế giới phải không? Vậy nên, đến tầng Như Lai mà nhìn cũng không đến tận cùng của nó được.

Tế bào [làm bằng] phân tử của con người cũng như thế. Người ta hỏi vũ trụ to đến đâu; tôi nói với mọi người rằng, vũ trụ này có biên giới; nhưng tại tầng như tầng Như Lai mà xét, thì thấy nó là vô biên vô tế, to lớn vô hạn. Mà nội bộ thân thể con người, từ phân tử cho đến vi lạp tại vi quan trở xuống lại to lớn như vũ trụ này; nghe vậy mà thấy quá huyền hoặc. [Khi] tạo thành một cá nhân, một sinh mệnh, [thì] tại [mức] cực vi quan đã tạo nên thành phần sinh mệnh đặc định của nó, bản chất của nó.” (“Bài giảng thứ hai” – Chuyển Pháp Luân)

Từ sự ra đời của vũ trụ đến sự sáng tạo ra trời và đất, rồi đến sự sinh sôi nảy nở của loài người, không biết bằng cách nào mà bộ lịch sử này đã được truyền tụng và ghi chép lại cho đời sau, những nhà chép sử hẳn đã mang chính niệm và sứ mệnh cao cả thế nào mới có thể vượt qua không gian vô tận và thời gian đằng đẵng, để hoàn thành nhiệm vụ lớn lao và xuyên suốt này: ghi chép lại lịch sử. Bộ lịch sử có tên là ”Nguồn gốc của người Di” này không chỉ là lịch sử của một dân tộc, mà còn là lịch sử của một vũ trụ, còn là lịch sử của một sinh mệnh vĩ đại!

Tôi tin rằng tất cả những người đã từng một lần đọc bộ lịch sử này đều sẽ có cảm xúc giống như tôi, không nén nổi xúc động trước sự rộng lớn và vĩ đại của vũ trụ này. Từ sự sinh ra của vũ trụ đến khi loài người sinh sôi nảy nở trên trái đất, thế hệ này qua thế hệ khác, tầng này đến tầng khác, không ngừng thay đổi, không ngừng sinh sôi nảy nở. Vũ trụ đã thai nghén ra biết bao nhiêu chúng sinh cũng như vô vàn thế giới tươi đẹp! Nếu một vũ trụ chính là một sinh mệnh, nếu con người chính là đối ứng với vũ trụ rộng lớn và những chúng sinh cự đại này, vậy thì mỗi người mà các đệ tử Đại Pháp chúng ta thông qua giảng chân tướng mà cứu được ấy, đó chính là đang cứu vớt một sinh mệnh vũ trụ!

“Văn hóa Thần truyền” của các dân tộc thiểu số còn có những nét đặc sắc, huy hoàng nào nữa? Xin xem tiếp phần sau.

(Còn tiếp)

 

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/258919

The post Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (1): Tổ tiên đến từ Thiên thượng (phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (1): Tổ tiên đến từ Thiên thượng (phần 1)https://chanhkien.org/2020/08/van-hoa-than-truyen-cua-nguoi-dan-toc-thieu-so-trung-quoc-1-to-tien-den-tu-thien-thuong-phan-1.htmlSun, 23 Aug 2020 15:18:20 +0000https://chanhkien.org/?p=26494Tác giả: GZ   [ChanhKien.org] Lời tựa: Tôi đã có nhiều năm tham gia công tác giảng dạy và nghiên cứu nghệ thuật, trong quá trình công tác đã nghiên cứu nhiều đề tài về dân tộc thiểu số Trung Quốc. Tôi đã phát hiện thấy rằng các dân tộc thiểu số có một lịch […]

The post Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (1): Tổ tiên đến từ Thiên thượng (phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: GZ

 

[ChanhKien.org]

Lời tựa:

Tôi đã có nhiều năm tham gia công tác giảng dạy và nghiên cứu nghệ thuật, trong quá trình công tác đã nghiên cứu nhiều đề tài về dân tộc thiểu số Trung Quốc. Tôi đã phát hiện thấy rằng các dân tộc thiểu số có một lịch sử rất cổ xưa, tuy nhiên rất nhiều điều họ bảo tồn được lại vô cùng khó hiểu đối với người hiện đại, người ta chỉ xem đó như một nền văn hóa thần bí để thỏa mãn tính hiếu kỳ của mình. Kể từ khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, thoát khỏi sự đầu độc của chủ nghĩa vô thần và thuyết tiến hóa, tôi liên tục được Đại Pháp khai mở trí huệ, khi nhìn lại những sản phẩm văn hóa nghệ thuật của các dân tộc thiểu số này, tôi phát hiện rằng rất nhiều điều mà người bình thường không thể hiểu được đã được giải đáp trong các bài giảng Pháp của Sư tôn. Văn hóa nghệ thuật của các dân tộc thiểu số cũng chứng minh cho sự tồn tại của Thần, cũng là một phần của văn hóa Thần truyền, nhưng thuyết tiến hóa và chủ nghĩa vô thần đã cản trở con đường quay trở về truyền thống của con người thế gian. Tôi xin chia sẻ những hiểu biết này với các đồng tu, do tầng thứ tu luyện cá nhân có hạn, có chỗ nào không phù hợp, xin từ bi chỉ rõ.

1. Tổ tiên đến từ Thiên thượng (Phần 1)

Cách đây 2,4 triệu năm, cuộc vận động địa chất lần thứ tư của kỷ Canh Tân ở Trung Quốc đã khiến cho dãy núi Himalaya trồi lên, thêm vào đó sự thay đổi khí hậu lần thứ tư của kỷ Băng Hà đã biến vùng Tây Nam Trung Quốc thành một khu vực địa lý tương đối độc lập. Hơn mười ngọn núi cao hơn mặt nước biển như Nộ Sơn, Cao Lê Cống Sơn, Ngọc Long Tuyết Sơn… phân bố dọc theo dãy Himalaya, hình thành nên một dãy núi lớn nằm ngang, đó là một bức bình phong tự nhiên mang lại cho khu vực phía Tây Nam một khí hậu tự nhiên độc lập, được gọi là “đảo trên trời”. Bắt đầu từ thời kỳ Tiên Tần, tổ tiên của hơn 20 dân tộc thiểu số như Di, Miêu, Tạng, Choang, Bố Y, Thủy, v.v. đã di cư từ vùng đất Trung Hoa đến đây, nhờ vị trí địa lý và khí hậu độc lập đã giúp họ tránh xa được hầu hết các cuộc chiến tranh vùng Trung Nguyên, khiến cho hệ thống văn hóa của các dân tộc thiểu số này được bảo tồn khá nguyên vẹn.

Năm 1965, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra hai chiếc răng của người cổ đại ở huyện Nguyên Mưu, tỉnh Vân Nam, theo nghiên cứu, nó có lịch sử 1,7 triệu năm. Đây là hóa thạch của con người có niên đại lâu nhất được tìm thấy ở Trung Quốc từ trước đến nay, các nhà khoa học của chúng ta hiện nay cho rằng người Nguyên Mưu là giống người quá độ từ “người vượn tiến hóa thành người hiện đại”. Tuy nhiên trên mặt hóa thạch từ Kỷ Tam điệp ở huyện Phúc Nguyên, tỉnh Vân Nam (Hình 1) lại phát hiện bốn dấu chân người, theo nghiên cứu, những tảng đá này có lịch sử 235 triệu năm. Theo thuyết tiến hóa của Darwin, 3 triệu năm trước mới xuất hiện con người thời kỳ đầu tiên, vậy 235 triệu năm trước làm sao có con người được? Rõ ràng, thuyết tiến hóa không thể giải thích được điều này.

Hình 1: Bốn dấu chân người được phát hiện trên hóa thạch từ Kỷ Tam Điệp ở huyện Phúc Nguyên, tỉnh Vân Nam (hình ảnh từ mạng Internet)

Dưới đáy hồ Phủ Tiên, tỉnh Vân Nam, các nhà khảo cổ cũng đã phát hiện ra một quần thể di chỉ kiến trúc văn minh tiền sử có diện tích 2,4 km2 có niên đại cách đây ít nhất 20.000 đến 30.000 năm, nó lớn gấp ba lần thành phố cổ Pompeii (Hình 2-5). Dưới đáy hồ nước đã phát hiện 42 bộ phận bức tượng bằng đá do con người điêu khắc hình mặt trời, mặt trăng, hình người, các con số chẵn lẻ, hình tam giác âm dương v.v., còn có một tòa kiến trúc hình kim tự tháp. Điều này cho thấy từ 20.000-30.000 năm trước, thành phố cổ này đã có trình độ văn minh cao. Theo thuyết tiến hóa của Darwin, sự xuất hiện nền văn minh của nhân loại không vượt quá 1 vạn năm. Vậy thì ai đã xây dựng nên những kiến trúc này?

Hình 2: Phác họa phục hồi di chỉ thành phố cổ dưới đáy hồ Phủ Tiên, tỉnh Vân Nam (hình ảnh từ mạng Internet)

Hình 3, 4 , 5: Những kết cấu kiến ​​trúc và điêu khắc của thành phố cổ được tìm thấy dưới đáy hồ Phủ Tiên, Vân Nam (hình ảnh từ mạng Internet)

Các dân tộc thiểu số tin rằng tổ tiên của họ đến từ Thiên thượng

Nhiều dân tộc cổ đại ở Tây Nam đã bảo tồn được một số lượng lớn các sử thi, kinh sách và các bài hát cổ từ thời sáng thế, họ dựa theo những lời răn dạy cổ xưa này mà noi theo phong tục tập quán và nghi thức, lễ tiết truyền thống. Những bộ sử thi sáng thế này đã ghi chép lại một cách chi tiết nguồn gốc tổ tiên của họ.

Sử thi “Lặc Nga Đặc Y” của dân tộc Di, (chú thích: lưu truyền ở khu vực dân tộc Di thuộc Lương Sơn, Tứ Xuyên), viết như sau:

Vào thuở xa xưa ấy,

Trên trời rơi xuống lê căn,

Mà đến thế giới này,

Biến thành lửa để đốt,

Chín ngày cháy đến tối,

Chín đêm cháy đến sáng,

Ban ngày khói cuồn cuộn,

Ban đêm sáng choang choang,

Trên trời một ngọn lửa lớn,

Dưới đất một ngọn lửa lớn,

Vì quê nhà mà cháy,

Vì sự sinh sôi mà cháy

Dần dần biến đổi,

Biến thành Âm Dương,

Thật là kỳ lạ,

Gió mát thổi đến,

Có thể thành quê nhà không,

Không thể thành quê nhà,

Mây vàng mây hồng đến,

Dưới bảy đất năm nước,

Loài vật hình thành không?

Loài vật không hình thành,

Đoạn này nằm trong phần mở đầu “Tuyết nguyên thập nhị chi” trong “Lặc Nga Đặc Y”. Trong ngôn ngữ dân tộc Di, từ “雪- tuyết” và “繁殖 – sinh sôi nảy nở” đều phát âm là “ô”, vì vậy “Tuyết” là một cách chơi chữ, trong tiếng dân tộc Di có nghĩa là “khởi nguồn sinh sản” hoặc “khởi nguồn sinh mệnh”. Chữ “黎 – lê” dịch sang tiếng dân tộc Di là “靈 – linh”, ám chỉ nguyên thần của con người. Trong đoạn thơ viết “lê” (tức nguyên thần) rơi đến một tầng thứ trong “thế giới này”, đến đây để làm gì? Vì có sứ mệnh mà đến— “vì quê nhà mà thiêu đốt”. Sau đó, “lê” phát triển thành “âm và dương” rồi sau đó tiếp tục phát triển thành “bảy vùng đất và năm vùng biển”, bảy đất và năm nước trong ngôn ngữ Di được gọi là “Thập mộc ân cơ”, dịch ra thành “bảy vùng đất và năm vùng biển”, thực ra là để chỉ bảy lục địa và năm đại dương, tức là trái đất. Người Di tin rằng khi họ sống, con người sinh sống trên bảy vùng đất và năm vùng biển, sau khi chết “lê” (tức nguyên thần) rời khỏi bảy vùng đất và năm vùng biển, ngôn ngữ dân tộc Di gọi là “Thập mộc ân cáp”. Ta có thể thấy những ghi chép trong sử thi của tổ tiên người Di không chỉ là cái nhìn về toàn bộ địa lý của trái đất, mà họ còn ghi chép rõ về sứ mệnh của những sinh mệnh cao tầng từ tầng tầng không gian hạ xuống trái đất – “vì quê nhà mà thiêu đốt”, và còn phải chịu đựng sự thiêu đốt chẳng quản ngày đêm vì để thực hiện sứ mệnh này. Các sinh mệnh trên trái đất ngày nay chẳng phải vì để có thể cứu chúng sinh ở trên thiên quốc quê nhà mà đã chịu đựng các loại tầng tầng ma nạn để hạ xuống trái đất đó sao?

Hình 6: Đai lưng dân tộc Choang ở vùng Văn Sơn, tỉnh Vân Nam, “Âm Dương” diễn hóa sinh mệnh

Về Âm và Dương, trong cuốn sách cổ “Sự khởi đầu của vạn vật” của người Di cũng có ghi chép lại như sau: Trước khi hình thành trời, đất và loài người, không có gì cả, khắp mọi nơi đều một mảng tối như bưng, sau đó sinh ra hai loại khí là khí thanh (khí trong) và khí trọc (khí đục), liên tục được kết hợp và phân tách, sinh ra hai loại nguyên tố vật chất gọi là “哎普 – Ngải Phổ”, rồi từ “Ngải Phổ” mà hình thành trời đất và vạn vật (Hình 7). Khí trong của “Ngải Phổ” tạo thành Mễ Cổ Lỗ màu trắng và khí đục của “Ngải Phổ” tạo thành Mí A Ná màu đen. Mễ Cổ Lỗ còn gọi là Thiên Phụ, sinh ra trời, sinh ra mặt trời và sinh ra con đại bàng, đại diện cho dương; Mí A Ná còn được gọi là Địa Mẫu, sinh ra đất, sinh ra mặt trăng và sinh ra con hổ, đại diện cho âm. Phù hiệu hình Mễ Cổ Lỗ màu trắng và Mí A Ná màu đen quấn quýt vào nhau được gọi là “Du Tất Tư”, chúng không ngừng phân tách, hợp lại biến hóa ra vạn vật. Do đó, Mễ Cổ Lỗ và Mí A Ná được vẽ như hai con sâu đen trắng quấn vào nhau, đó là Âm và Dương (Hình 8).

Hình 7: Trong quyển kinh thư cổ của dân tộc Di “Sự khởi đầu của vạn vật”, khí trong của “Ngải Phổ” tạo thành Mễ Cổ Lỗ trắng và khí đục của “Ngải Phổ” tạo thành Mí A Ná màu đen. Đây là hình mẫu nguyên sơ nhất của “Thái Cực”.

Hình 8: Hoa văn trên đai lưng của người Choang ở tỉnh Vân Nam: “Âm và Dương” tạo ra sinh mệnh.

Nhận thức của tổ tiên người Di về Âm Dương và quá trình sản sinh ra sinh mệnh cũng phù hợp một cách đáng kinh ngạc với bài giảng của Sư tôn:

Tôi cho mọi người biết rằng con người không hề tiến hoá từ vượn, mà là sinh ra trong vũ trụ. Mọi người biết rằng Trung Quốc có học thuyết thái cực của Đạo gia. Học thuyết thái cực này giảng hai khí âm dương. Khi chưa sinh ra hai khí âm dương thì là trạng thái hỗn độn, gọi là vô cực. Sau đó nó sẽ sinh ra thái cực, có hai khí âm dương, sau đó thái cực sinh ra vạn sự vạn vật. Đây là lý luận của Đạo gia. Tôi thấy rất khoa học. Thực tế tôi phát hiện một tình huống, đương nhiên đây không chỉ là tôi phát hiện, vật chất khổng lồ trong vũ trụ trong vận động sẽ sinh ra sinh mệnh. Chúng ta không nhìn thấy vật chất này, nhưng nó không nhất định là không tồn tại. (Giảng Pháp tại Pháp hội Sydney [1996])

Tiếp theo sử thi viết rằng:

Từ đó trở về sau,

Mưa mù bay trên trời,

Mưa mù bay ba năm,

Ba tầng sương trắng xóa,

Trên bảy đất năm nước,

Mây đỏ giáng xuống ba trận,

Chín ngày chuyển thành tối,

Chín đêm chuyển thành sáng,

Vì quê nhà mà tan chảy,

Vì mọi vật mà tan chảy.

Sau khi chín loại mây trắng mây đen gặp nhau,

Băng kết thành xương,

Tuyết hợp thành thịt,

Gió thổi thành khí,

Mưa xuống thành máu,

Sao biến thành mắt,

Tạo nên vạn vật sinh sôi,

Sinh sôi mười hai loại

Mười hai giống loài

Sáu loại có máu,

Sáu loại không có máu,

Đến đây, sử thi đã giải thích rõ rằng “Âm Dương” đã trải qua các hình thức tôi luyện khác nhau rồi cuối cùng đã hình thành mười hai vật chủng – “Có sáu loại có máu, có sáu loại không có máu”. Đó là những thứ gì? Theo lý thuyết vật lý lượng tử tiên tiến nhất hiện nay, các hạt electron và hạt quark được coi là những hạt cơ bản nhất cấu thành nên vật chất trong vũ trụ. Trong mô hình chuẩn của vật lý hạt đã liệt kê 12 hạt cơ bản tạo nên mọi vật trong vũ trụ, gồm 6 loại hạt quark và 6 loại hạt lepton, chúng chính là những hạt cơ bản nhất tạo thành vũ trụ.

Về sự sản sinh ra các loài, trong “Bài ca cây phong” của “Sử thi dân tộc Miêu” lưu hành ở khu vực Đông Nam tỉnh Quý Châu cũng có miêu tả tương tự như sau: Cây phong sinh ra một con bướm tên là Muội Bảng Muội Lưu (có nghĩa là “bướm mẹ”), nó là sinh mệnh tối nguyên sơ, mang thai ở trong nước và sinh ra 12 quả trứng, sau 16 năm ấp trứng, mười hai quả trứng nở ra 12 loại sinh vật như người, rồng, thần sấm, côn trùng, chim và thú v.v. thế là trên thế giới đã có những sinh mệnh tối nguyên sơ, thế giới đã tràn đầy sự sống.

Ảnh: Mẫu tay áo của phụ nữ Miêu ở khu vực Đài Giang, Đông Nam tỉnh Quý Châu: Bướm mẹ

Con người hiện đại bị khoa học che mờ hai mắt, nhưng từ góc độ khoa học mà họ tin tưởng chắc chắn mà xét, thuyết tiến hóa cũng ngày càng trở nên khó đứng vững, đặc biệt trong những năm gần đây, nghiên cứu về cơ học lượng tử đã liên tục phá vỡ sự hiểu biết của giới khoa học về thế giới. Theo lý thuyết lượng tử vướng víu, vũ trụ là một thể sinh mệnh khổng lồ và có khả năng nhận thức. Nếu vậy, chẳng phải vũ trụ là một vị Thần sao?

Các đệ tử Đại Pháp chúng ta đều biết rằng, sinh mệnh của chúng ta đến từ đại khung thiên thể xa xôi, vì để cứu thế giới Thiên quốc và vô số chúng sinh của chúng ta mà tầng tầng giáng hạ xuống trái đất, nhưng ở trong hồng trần cuồn cuộn và đặc biệt là dưới nền giáo dục của văn hóa tà đảng hiện nay, mọi người đều bị chủ nghĩa vô thần và thuyết tiến hóa làm mê mờ, cho rằng con người là do vượn tiến hóa mà thành, đó là sự báng bổ và xúc phạm đến sinh mệnh của chúng ta. Nhưng điều khiến con người kinh ngạc là các sử thi cổ xưa của các dân tộc thiểu số đã ghi lại được lịch sử sáng thế của Thần, điều này đã chứng minh sự tồn tại của Thần. Hơn nữa tất cả đều là sự an bài của Thần để giúp cho sự hồng truyền Đại Pháp tại thế gian vào giai đoạn cuối cùng này.

(Còn tiếp)

 

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/258916

The post Văn hóa Thần truyền của người dân tộc thiểu số Trung Quốc (1): Tổ tiên đến từ Thiên thượng (phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>