Tuyển tập kho tàng tri thức | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 18 Jul 2024 03:22:20 +0000en-UShourly1Tuyển tập kho tàng tri thức: Đạo đức và trí tuệ của người xưa (3)https://chanhkien.org/2020/08/tuyen-tap-kho-tang-tri-thuc-dao-duc-va-tri-tue-cua-nguoi-xua-3.htmlSun, 23 Aug 2020 15:24:28 +0000https://chanhkien.org/?p=26505Tác giả: Lục Thiện   [ChanhKien.org] 1. Đại phu họ Liễu nhã nhặn khen thưởng Đại phu Liễu Tần triều Đường, bị giáng chức làm Thái Thú Hộ Châu (tên gọi cũ của Thượng Hải). Có một tú tài ở Dụ Châu tên là Mâu Ma, là con của Đô Hiệu (tên chức quan) Mâu […]

The post Tuyển tập kho tàng tri thức: Đạo đức và trí tuệ của người xưa (3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lục Thiện

 

[ChanhKien.org]

1. Đại phu họ Liễu nhã nhặn khen thưởng

Đại phu Liễu Tần triều Đường, bị giáng chức làm Thái Thú Hộ Châu (tên gọi cũ của Thượng Hải). Có một tú tài ở Dụ Châu tên là Mâu Ma, là con của Đô Hiệu (tên chức quan) Mâu Cư Hậu, tài văn không cao, Mâu Ma đã đem bài văn của mình đến bái kiến Liễu Tần. Liễu Tần khen tấm tắc. Các đệ tử cho rằng thế là quá mức.

Liễu Tần nói: “Đất Ba Thục, kẻ sỹ rất nhiều, Mâu Ma là con quan, tự mình học mà có thể làm được văn hay, việc này hiếm thấy. Giả như không hướng dẫn và khích lệ Mâu Ma, ý chí của Mâu Ma chắc sẽ bị sa sút. Vì sự ca ngợi của ta dành cho Mâu Ma, mọi người sẽ cho đó là vinh dự. Những người trẻ tuổi vì thế mà yêu thích học tập và viết văn, bớt đi những kẻ ngốc, có nhiều hơn những văn sỹ, chẳng phải là rất tốt sao?”.

Nhờ sự khích lệ của Đại phu Liễu, xã hội dần dần trở nên văn minh lên.

2. Đại thần Liêm Hi Hiến trọng vọng tú tài, phục hưng nho học

Đại thần Liêm Hi Hiến của triều Nguyên, chiêu hiền đãi sỹ, còn sợ rằng bản thân làm không chu toàn. Lúc ông còn làm Thừa tướng, Lưu Chỉnh ở Giang Nam (vốn là đại thần của Triều Tống) đến cầu kiến ông với danh nghĩa quan. Liêm Hi Hiến suốt cả buổi không cho phép Lưu Chỉnh ngồi. Tuy nhiên có một tú tài Triều Tống, áo quần rách rưới, mang theo bài thơ đến trước mặt xin gặp, Liêm Hi Hiến lại rất vội vàng và cung kính mời anh ta ngồi, cùng luận bàn kinh sử, hỏi thăm ân cần như người bạn lâu năm.

Sau khi vị tú tài đi, em trai của Liêm Hi Hiến là Liêm Hi Cống hỏi rằng: “Lưu Chỉnh là quan địa vị cao quý, nhưng anh lại đối đãi với ông ta rất qua loa; tú tài là kẻ sỹ cơ hàn, nhưng anh lại đối đãi với anh ta rất trọng vọng. Là vì duyên cớ gì vậy?”

Liêm Hi Hiến đáp: “Em không hiểu được việc này! Anh là đại thần của đất nước, nói hay không nói, tiến hay lùi, nặng hay nhẹ, đều có liên quan đến thiên hạ! Chức quan của Lưu Chỉnh tuy là tôn quý, nhưng lại là kẻ phản chủ phương Bắc đến quy hàng. Một vị tú tài Triều Tống, anh ta có lỗi gì? Ta lẽ nào lại đối xử với anh ta như những phạm nhân hạ cấp được? Bây giờ, triều đình ta (Triều Nguyên) quật khởi ở sa mạc phương Bắc, nếu ta không coi trọng kẻ sỹ thì Nho học từ đây sẽ suy vong”.

Phùng Mộng Long viết: Không chỉ chấn hưng văn học, mà thiên hạ hiện nay đều nên biết xem trọng lễ nghĩa! Liêm Hi Hiến đúng là người có nhãn quang của công thần khai quốc.

(Phụ Lục: Đại từ điển nhân vật lịch sử Trung Quốc)

Liêm Hi Hiến (1231-1280) là đại thần triều Nguyên, tên chữ Thiện Phủ, người Uất Ngột Nhi. Ông tôn sùng Nho học, giỏi kinh sử, từng lấy “thiện tính, chính nghĩa, nhân đức làm trọng”. Nguyên Thế Tổ khen ngợi xưng ông là “Liêm Mạnh Tử”. Lại giỏi bắn tên, được người đời ca ngợi là “văn võ song toàn”. Làm quan đến chức Trung thư hữu thừa, Bình chương chính sự. Trong Nguyên sử gọi ông là Tại Trung Thư, “Chấn hưng kỷ cương phép tắc, tài danh thực sự, loại bỏ tham nhũng, chọn cái lợi bỏ cái hại, làm việc không tùy tiện”. Năm 1275, quân Nguyên lấy được Giang Lăng, đảm nhận Hành Tỉnh, Kinh Nam (ý là giành được Trung Quốc), chấn hưng nho học, bình dẹp họa loạn. Ông cho rằng quốc gia “dùng người quân tử thì thịnh trị, dùng kẻ tiểu nhân thì loạn”. Như là “gian thần chuyên chính, tiểu nhân theo đuôi, tất sẽ hại nước hại dân”.

3. Phạm Trọng Yêm trọng dụng người hiền đức vì quốc gia, không quên những người bị giáng chức

Phạm Trọng Yêm vì nước trọng dụng người hiền đức, rất chú trọng khí tiết, nhưng lại không bỏ sót tiểu tiết. Như Tôn Uy Mẫn và Đằng Đạt Đạo đều kính trọng Phạm Trọng Yêm. Lúc ông dẫn binh trấn thủ biên giới Tây Bắc, đã lấy rất nhiều hiền sỹ bị triều đình giáng chức chưa được phục chức làm phụ tá. Có người hoài nghi cách làm của ông. Phạm Trọng Yêm nói: “Phàm là người có tài năng mà không có lỗi lầm, triều đình tự nhiên sẽ phải dùng họ. Nếu người thực sự có tài có thể dùng được, không may bị xử tội, không căn cứ theo nhu cầu mà sử dụng lại họ, thì họ sẽ trở thành người vô dụng”.

Cho nên, Phạm Trọng Yêm dùng người khoan hồng độ lượng, có thể tận dụng tài năng của họ.

Phùng Mộng Long viết: Nhân tài khó có được, dùng hiền tài có ích cho quốc gia. Thiên hạ không có người vô dụng, triều đình mới có thể không có việc thừa. Không phải là người nhìn xa hiểu rộng, thì sẽ không nhìn ra được điểm này.

4. Từ Tồn Trai độ lượng phi phàm

Từ Tồn Trai sau khi làm Học sỹ hàn lâm, nhậm chức Chiết trung đốc học, khi đó chưa đến 30 tuổi. Trong bài văn của một vị tú tài có câu “Nhan (uyên) khổ (não) Khổng (Khâu) chi trác (việt)” (tạm dịch: Nhan Uyên khổ não về sự trác việt của Khổng Tử), sau khi Từ Tồn Trai đọc, bình rằng, “bịa đặt (sao như thế được, vô căn cứ)” xếp vào hạng bốn. Nho sinh đó khi sắp phải chịu giáo huấn, ông cầm quyển văn tự thỉnh thị rằng: “Lời dạy của đại tôn sư rất đúng, nhưng ‘khổ Khổng chi trác’ là từ cuốn Pháp ngôn của Dương Tử, vậy không phải là câu từ Nho sinh bịa đặt ra”. Từ Tồn Trai lập tức đứng dậy, nói : “Học đài (chức quan quản lý giáo dục và việc thi cử của Nho sinh các tỉnh) này may mắn có nho sinh thi đỗ cao, không có học vấn cũng không có bản lĩnh, hôm nay không biết giáo huấn, thu được lợi ích không nhỏ”, liền sửa cho thí sinh thành hạng nhất. Trước hành động này của Từ Tồn Trai, dư luận thời đó đều nhất loạt tán thưởng sự độ lượng rộng rãi của ông.

Phùng Mộng Long viết (không chỉ bình, có lúc còn bổ sung thông tin mới): Không chỉ sửa lỗi sai lớn, chỉ nói việc này, đã có thể thấy kiến thức khí độ của tể tướng nổi tiếng.

Nghe nói những năm đầu Vạn Lịch, có một nhân sỹ viết một bài “oán nộ chương”, trong bài văn sử dụng câu “Vi Thuấn dã phụ, vi Thuấn dã mẫu”, bị Học đài đánh xuống hạng 4, phê hai chữ “không đạt”. Nhân sỹ này khiếu nại nói: “Cách viết này là từ Chương Thiện Cung – Lễ ký”. Học đài tức giận nói “Ngươi đã đọc Lễ ký rồi à?” rồi sửa lại cho nhân sỹ này tụt xuống hạng 5. Lòng người độ lượng khác nhau, sai khác đâu chỉ nghìn vạn dặm!

Tống Thái Tổ từng vì chuyện đó mà rất tức giận với Chu Hàn, phạt ông ta hình phạt đánh roi. Chu Hàn nói: “Thần bản thân đã phụ những người tài danh trong thiên hạ, bị đánh là rất đúng”. Thái Tổ bèn tha thứ cho ông. Từ xưa đến nay thánh chủ, danh thần tuyệt đối không nghe theo cảm tính, không làm việc bừa bãi!

Lại nghe nói tiên sinh Từ Tồn Trai, khi nhậm chức Triết trung, có hai, ba người vì tranh giành mà không được đề bạt, làm huyên náo dưới công đường, tiên sinh Từ Tồn Trai vẫn chấm bài như cũ. Không lâu sau đó, lại có hai người đùn đẩy làm ồn ào dưới công đường, tiên sinh Từ Tồn Trai vẫn chấm bài như cũ. Sau việc đó, ông gọi mọi người đến nói: “Ta không muốn để mọi người tranh giành, cũng không thể để mọi người đùn đẩy. Mọi người không đọc ‘Điều lệ’ sao? Ngay cả Học đài cũng phải tuân thủ điều lệ, không thể tự làm theo ý mình, mọi người đều tuân theo điều lệ mà làm thì ổn rồi”. Từ đó, việc tranh đoạt và đùn đẩy không còn xảy ra nữa. Tiên sinh làm việc nắm được căn bản của sự việc, tất cả đều tuân theo quy tắc mà chấp hành, đều làm như thế.

5. Hồ Đình Quế trị tội mẹ chồng, đánh con dâu

Trong những năm Khai Khánh thời Tống Lý Tông, Hồ Đình Quế làm Chủ bộ huyện Duyên Sơn, không cho phép người dân tự nấu rượu, lệnh cấm rất nghiêm ngặt.

Có một cô con dâu kiện cáo mẹ chồng tự ý nấu rượu, Đình Quế hỏi cô này rằng: “Cô có hiếu thuận phụng dưỡng mẹ chồng không?” Cô con dâu đáp: “Có”.

Đình Quế nói: “Đã là cô con dâu hiếu thuận thì cô có thể thay mẹ chồng cô chịu phạt không?” Thế là ông phê bình bà mẹ chồng vì tội tự ý nấu rượu, rồi đánh cô con dâu một trận.

Từ đó, khuôn phép được thịnh hành, toàn huyện lập trật tự. Phong tục hiếu kính cũng được khởi xướng lên.

6. Trương Nhĩ dạy dỗ Trần Dư, nhẫn nhịn việc nhỏ để thành việc lớn

Trương Nhĩ và Trần Dư đều là danh sỹ của Ngụy Quốc. Khi Tần Thủy Hoàng diệt nước Ngụy đã treo trọng thưởng để truy bắt hai người này, hai người thay tên đổi họ, chạy đến nước Trần làm người gác cổng, rồi đến Hồ Khẩu. Vì Trương và Trần mắc lỗi, Huyện sử đã đánh đòn họ. Trần tức giận muốn phản kháng, Trương Nhĩ dẫm lên chân của ông ta, ý bảo ông ta hãy nhẫn nhịn.

Sau khi huyện sử đi xa, Trương Nhĩ kéo Trần Dư đến dưới gốc cây dâu, phê bình rằng: “Ban đầu tôi đã nói với anh thế nào? Giờ vừa chịu chút nhục đã muốn liều mạng với một tiểu quan sao?”

Việt Vương Câu Tiễn ở trong nhà ngục nằm gai nếm mật, Hoài Âm hầu Hàn Tín chịu nhục chui háng, đều là nhẫn nhịn nỗi nhục nhỏ để thành tựu đại nghiệp. Trần Dư nông cạn tự cao, vĩnh viễn không theo kịp Trương Nhĩ, cho nên cuối cùng, một người thì thành công, một người thì thất bại.

7. Địch Thanh không xóa đi dấu hiệu thích trên mặt

Đại tướng Địch Thanh thời Bắc Tống làm binh sỹ mười mấy năm, vì liên tục lập chiến công được thăng lên làm tướng quân. Tống Nhân Tông khuyên ông dùng thuốc đắp, xóa đi chữ thích trên mặt (vì phạm sai lầm, bị thích ký hiệu trên mặt), ông không nghe theo nói: “Thần lưu lại để có thể khích lệ sỹ khí”.

Phùng Mộng Long viết: Qua một việc đó, có thể thấy ông (Địch Thanh) sau này quyết không khuất phục quyền thế.

8. Kẻ thức thời mới là tuấn kiệt

Trong những năm Hy Ninh thời Tống Thần Tông, thực hiện theo pháp luật mới của Vương An Thạch, châu huyện rối loạn. Lúc đó, tiên sinh Khang Tiết đang ẩn cư ở trong rừng, các môn sinh, bạn cũ của ông đang làm quan trong triều, đều muốn từ quan về nhà, đến hỏi ý kiến của ông.

Khang Tiết tiên sinh trả lời rằng: “Đây chính là thời cơ để các vị tận lực báo đáp triều đình. Pháp luật mới tuy là nghiêm khắc, các vị có thể khoan dung một chút, thì người dân liền có thể được một chút lợi ích. Từ quan mà đi thì có ích gì?”

Lý Phần (đệ tử của Chu Hy) thường bàn luận: Người không cần đợi đến lúc làm quan có quyền lực, mới có thể lập công dựng nghiệp, chỉ cần trong phạm vi năng lực có thể làm mà làm một số việc có ích, đã là có sự nghiệp.

Phùng Mộng Long viết: Liên Trì Miệt Hồng đại sư khuyên mọi người làm việc thiện. Có người nói: “Tôi không có khả năng làm việc thiện”. Đại sư chỉ vào cái ghế nói: “Như cái ghế kia, đổ xuống thì chắn vướng đường, ta chuyển nó đi, đây chính là một việc thiện.” Với thiện tâm như thế, ông cảm thấy việc quốc sự quá khó liền từ quan không làm, như đi vào núi ngọc mà về tay không, thật đáng tiếc.

Lúc Tiên Vu Ưu làm phó sứ vận chuyển ở Lợi Châu, những nông dân dưới quyền ông không mượn tiền của nhà nước để mua mạ non. Tể tướng Vương An Thạch phái người đến hỏi Tiên Vu Ưu, trách cứ ông không chấp hành chính sách. Ông nói: “Theo luật lúa non, việc nông dân mượn tiền của đất nước là tự nguyện, nếu bây giờ người dân không tự nguyện, làm sao có thể ép buộc được?” Tô Đông Pha khen ngợi hành động này của Tiên Vu Ưu là “Trên không làm tổn hại pháp luật, giữa không làm tổn hại đến bản thân, dưới không làm tổn hại đến nông dân”. Ba cái không này, kẻ sỹ phải noi theo.

9. Dương Văn Trinh nghĩa khí bảo vệ Từ Kỳ

Bố chính sứ Quảng Đông là Từ Kỳ, khi vào triều diện kiến Hoàng thượng, ông mang theo những chiếc sọt nhỏ bằng mây được làm ở Lĩnh Nam, muốn tặng cho các quan đại thần triều đình. Kẻ thù của ông là nịnh thần trong triều, có được danh sách người được tặng quà, liền dâng tấu lên cho Hoàng thượng. Hoàng thượng xem qua, trên đó không có tên của Dương Sỹ Kỳ (thụy Văn Trinh), bèn triệu một mình Dương Sỹ Kỳ vào cung, tra hỏi rõ nguyên nhân vì sao. Dương Sỹ Kỳ bẩm báo rằng: “Từ Kỳ từ chức Cấp cự trung, nhận lệnh làm Bố chính sứ Quảng Đông, trước khi đi, mọi người đều làm thơ đưa tiễn, cho nên mới có việc biếu tặng này, thần lúc đó đang bị bệnh, không có thơ đưa tiễn, nếu không trong danh sách này cũng sẽ có tên thần. Hôm nay mặc dù có tên trong danh sách, nhưng người ta có tiếp nhận hay không, cũng còn chưa biết. Huống nữa lễ vật rất nhỏ, chỉ là một cái sọt nhỏ bằng mây thô kệch của người dân mà thôi, xem ra ông ta không có ý gì khác”. Nghi ngờ của Hoàng thượng đã được giải tỏa, liền đem danh sách giao cho hoạn quan, lệnh đốt đi, không truy cứu việc này nữa.

Phùng Mộng Long viết: Danh sách này bị đốt cháy, khiến cho những kẻ vu khống bị ngăn chặn, không đạt được mục đích, tránh đi tai họa cho rất nhiều đại thần, hơn nữa còn khiến Hoàng thượng xóa bỏ hoài nghi với các đại thần, việc này không phải chuyện nhỏ. Nhìn qua có vẻ không phải điều gì trí tuệ cho lắm, nhưng thực tế lại là hành động đại trí đại đức.

Thời Tống Chân Tông, có người dâng tấu báo cáo việc trong cung cấm, Hoàng thượng nổi giận, sai người kê biên sung công tài sản của người đó, thu được thư coi bói hung cát mà các sĩ phu nhờ người đó xem, định giao cho Ngự xử nha môn xử lý.

Tể tướng Vương Đán mang bức thư coi bói hung cát của mình ở nhà đến dâng lên Hoàng thượng, thỉnh cầu cùng xử tội chung. Hoàng thượng mới dần dần từ bỏ ý định xử tội. Vương Đán đi đến nha môn, đem đốt toàn bộ những bức thư này. Sự việc qua đi không lâu, Hoàng thượng lại đổi ý, lại sai người đòi những bức thư này. Vương Đán trả lời: “Những bức thư đã bị đốt rồi”, Hoàng thượng cũng không tiếp tục truy cứu nữa. Việc này cũng giống như Dương Sỹ Kỳ, đều là ví dụ về việc xả thân cứu người.

(Theo Trí nang của Phùng Mộng Long thời nhà Minh)

 

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/246129

The post Tuyển tập kho tàng tri thức: Đạo đức và trí tuệ của người xưa (3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tuyển tập kho tàng tri thức: Đạo đức và trí tuệ của người xưa (Phần 2)https://chanhkien.org/2020/07/tuyen-tap-kho-tang-tri-thuc-dao-duc-va-tri-tue-cua-nguoi-xua-phan-2.htmlTue, 28 Jul 2020 23:13:24 +0000https://chanhkien.org/?p=26468Tác giả: Lục Thiện Tiếp theo Phần 1 [ChanhKien.org] 1. Trương Phi dùng hành động dạy dỗ cho Mã Siêu biết lễ độ Tiên chủ Lưu Bị vừa thấy Mã Siêu, liền giao cho ông ta làm Bình Tây Tướng quân, phong làm Đô Đình Hầu. Mã Siêu thấy Tiên chủ đối đãi với mình […]

The post Tuyển tập kho tàng tri thức: Đạo đức và trí tuệ của người xưa (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lục Thiện

Tiếp theo Phần 1

[ChanhKien.org]

1. Trương Phi dùng hành động dạy dỗ cho Mã Siêu biết lễ độ

Tiên chủ Lưu Bị vừa thấy Mã Siêu, liền giao cho ông ta làm Bình Tây Tướng quân, phong làm Đô Đình Hầu. Mã Siêu thấy Tiên chủ đối đãi với mình rất hậu hĩnh, liền quên mất lễ tiết quân thần trên dưới, thường xưng tên với Tiên chủ.

Quan Vũ vô cùng tức giận, thỉnh cầu giết Mã Siêu. Tiên chủ không đồng ý.

Trương Phi nói: “Nếu không giết hắn, thì phải cho hắn biết thế nào là lễ độ”.

Ngày hôm sau, Tiên chủ Lưu Bị mở đại hội đãi các tướng lĩnh. Quan Vũ, Trương Phi, hai người cầm đao đứng hai bên Tiên chủ.

Mã Siêu tiến vào, không nhìn thấy ghế của Quan Vũ, Trương Phi. Lại cẩn thận nhìn quanh, thấy Quan Vũ và Trương Phi đứng ở hai bên Tiên chủ, trông rất nghiêm trang. Mã Siêu cả kinh biến sắc. Trương Phi (và Quan Vũ) đã dùng hành động thiết thực của mình để dạy cho Mã Siêu biết lễ độ.
Từ đó về sau, Mã Siêu rất mực cung kính Tiên chủ Lưu Bị.

Cổ nhân nói: “Thánh hiền có thể lấy mình làm gương, dùng hành động để dạy dỗ người khác”. Không ngờ rằng Trương Phi cũng có thể dùng hành động dạy dỗ cho Mã Siêu biết lễ độ.

Phùng Mộng Long viết: Trương Phi từng thể hiện vẻ nghiêm khắc. Bây giờ lại dùng hành động dạy dỗ cho Mã Siêu biết lễ độ. Đây đều là cử chỉ tinh tế, tỉ mỉ của ông. Người đời sau xem Trương Phi như người thô kệch, thực là oan cho tướng quân Trương Phi!

2. Trọng việc nước mà vứt bỏ oán hận cá nhân

Triệu Vương từ Thắng Trì về nước, cho rằng Lạn Tương Như mang ngọc bích trở lại nước Triệu là có công lao rất lớn, lập tức phong cho ông làm Thượng khanh, xếp trên Liêm Pha. Liêm Pha tự phụ cho rằng có chiến công, nhưng Lạn Tương Như lại dựa vào miệng lưỡi mà được phong chức cao hơn ông ta, trong lòng Liêm Pha rất không phục, nói: “Ta mà gặp Lạn Tương Như thì nhất định phải khiến ông ta nhục nhã”.

Lạn Tương Như nghe được những lời này, liền hết sức tránh giáp mặt với Liêm Pha, mỗi lần lên triều thường cáo bệnh không lên, không muốn tranh hơn thua với Liêm Pha. Một lần Lạn Tương Như ra ngoài, từ xa nhìn thấy Liêm Pha liền đánh xe tránh đi. Thấy vậy những môn khách trong nhà của Lạn Tương Như cùng nhau đến gặp ông, nói rằng muốn từ biệt ông ra đi. Lạn Tương Như tha thiết giữ họ lại, nói: “Các tiên sinh thấy Liêm Pha và Tần Vương ai đáng sợ hơn?” Mọi người nói: “Liêm Pha đương nhiên không đáng sợ như Tần Vương”. Lạn Tương Như nói: “Vậy lấy Tần Vương mà nói, uy phong của ông ta lớn như thế mà ta dám trách cứ ông ta trên triều đình, và còn dám nhiếc mắng quần thần của ông ta. Lạn Tương Như ta tuy bất tài, chẳng lẽ lại sợ Liêm Pha sao? Chỉ là ta nghĩ, nước Tần hùng mạnh sở dĩ không dám tấn công nước Triệu chính là vì có hai người ta và Liêm Pha ở đây! Nếu hai bên đấu với nhau, hai bên đều bị tổn thương, tức là bất lợi cho đất nước. Ta sở dĩ nhiều lần tránh né Liêm Pha, là trọng việc nước mà vứt bỏ oán hận cá nhân, đặt việc quốc gia lên trên mà bỏ chuyện riêng cá nhân ra khỏi đầu”.

Liêm Pha sau khi nghe được những lời đó, đã nhờ môn khách đến nói rõ sự tình, rồi cởi trần mang roi một mình đến trước mặt Lạn Tương Như để nhận lỗi. Hai người sau đó kết giao sinh tử.

Còn một chuyện khác, tướng lĩnh dưới quyền tướng quân Cổ Phục thời Đông Hán đánh chết người ở Toánh Xuyên, bị Thái thú Khấu Tuân bắt xử tử. Cổ Phục cảm thấy nhục nhã, lúc đi qua Toánh Xuyên nói với tùy tùng rằng: “Ta mà gặp Khấu Tuân, nhất định sẽ tự tay giết chết ông ta”. Khấu Tuân biết được dự định của Cổ Phục, liền không gặp mặt ông ta. Cháu ngoại Cốc Sùng Sùng thỉnh cầu cử hộ vệ ở bên cạnh Khấu Tuân phòng trừ bất trắc. Khấu Tuân nói: “Hà tất phải làm như thế, trước đây Lạn Tương Như không sợ Tần Vương mà khuất phục được Liêm Pha, là đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu”.

Thái thú Khấu Tuân biết được Cổ Phục tướng quân đi qua, liền lệnh cho các quan huyện chuẩn bị nhiều rượu, mỗi người hai phần. Khấu Tuân ra nghênh đón, rồi cáo bệnh ra về. Quân lính dưới quyền Cổ Phục truy đuổi lùng bắt Thái thú Khấu Tuân, nhưng vì quân tướng đã uống rượu say mèm nên sự việc vì thế mà trôi qua. Khấu Tuân mang việc này tấu lên triều đình, Hoàng đế triệu kiến Khấu Tuân và Cổ Phục, hạ lệnh cho họ kết bạn với nhau. Sau đó, sự việc qua đi.

Phùng Mộng Long viết: Phần Dương Vương Quách Tử Nghi cùng Lý Quang Bích, bái nhau tại công đường, giống với dụng tâm của Lạn Tương Như. Lai Công Khấu Chuẩn đem một con dê nướng đi tiếp đón Đinh Vị, cũng theo cách làm của Khấu Tuân. Sự việc cụ thể như sau:

An Tư Thuận thời nhà Đường làm Tiết độ sứ Sóc Phương, Quách Tử Nghi và Lý Quang Bích đều là thuộc tướng của nha môn, nhưng hai người không hòa hợp nhau. Tuy rằng ngồi cùng một bàn ăn thường liếc mắt nhìn nhau, không nói với nhau câu nào. Về sau Tử Nghi tiếp nhận vị trí của An Tư Thuận, Quanh Bích định bỏ đi, nhưng vẫn do dự chưa quyết định. Mười ngày sau, Hoàng đế ra lệnh cho Quách Tử Nghi dẫn quân tiến đến Sơn Tây và Hà Bắc. Quang Bích gặp Tử Nghi nói: “Xin ban cho tôi được chết, nhưng đừng liên lụy đến vợ con gia đình tôi”. Tử Nghi vội bước xuống, ôm lấy Quang Bích tại công đường, rơi nước mắt nói: “Hôm nay đất nước loạn lạc, ngôi vua thay đổi, không có ông thì không thể đi chinh chiến về phía đông. Đây đâu phải lúc hai người chúng ta bộc lộ mối thù hận cá nhân?” Rồi nắm tay Quang Bích mà bái lạy, hai người hợp mưu dẹp loạn tặc ở An Lộc.

Đinh Vị thời Nhà Tống, lúc phải đi lưu vong ở Thời Châu, đi qua Lôi Châu, Ty hộ Lôi Châu Khấu Chuẩn đem một con dê nướng nghênh tiếp Đinh Vị. Trước kia, lúc Đinh Vị làm Thừa tướng từng muốn gạt Khấu Chuẩn, nên giáng chức ông ta đến Lôi Châu. Lúc này, Đinh Vị muốn gặp Khấu Chuẩn, nhưng bị cự tuyệt. Khấu Chuẩn biết được gia bộc trong nhà mình muốn tìm Đinh Vị báo thù, liền nhanh chóng đóng cửa, gọi gia bộc đến đánh bạc, không cho đi ra. Đợi đến khi Đinh Vị đi xa mới xong.

3. Tài sản quốc gia không thể muốn lấy thì lấy!

Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận ban đầu phục sự cho Chu Thế Tổ Sài Vinh ở Thiền Châu. Tào Bân là thân tín của Chu Thế Tổ, quản lý trà và rượu. Thái Tổ từng xin ông ta rượu để uống, Tào Bân nói: “Đây là rượu dành cho quan, không thể cho”, liền tự mình mua rượu cho ông uống. Đến khi Thái Tổ lên ngôi Hoàng đế, ông nói với quần thần rằng: “Trong các thân tín của Thế Tông, người không lừa gạt chủ nhân chỉ có Tào Bân mà thôi.” Từ đó coi ông ta là tâm phúc, giao trách nhiệm trọng đại.

Tống Thái Tổ tiến đánh Trừ Châu, Chu Thế Tông lệnh cho Đậu Nghi kiểm kê vàng bạc, lụa là trong kho phủ. Vài ngày sau, Thái Tổ lệnh cho Thân Lại đến lấy lụa trong kho, Đậu Nghi nói: “Lúc tướng quân mới đánh phá châu thành, dù có lấy đi toàn bộ của cải, cũng không ai dám nói gì. Hôm nay kiểm kê sổ sách thì đã là của cải quốc gia, không phải ngài muốn lấy là lấy được”. Về sau Thái Tổ lên ngôi, thường tán thưởng Đậu Nghi kiên trì nguyên tắc, muốn đề bạt ông ta làm tể tướng.

4. Nghiêm Chấn bỏ tiền thu được kẻ sỹ

Thời Đường Túc Tông, Nghiêm Chấn làm Tiết độ sứ Sơn Nam Tây Đạo. Có một người đến trước cửa xin ông 300 xâu tiền sống qua ngày. Nghiêm Chấn triệu quan cấp dưới Công Bật đến hỏi về chuyện này.

Công Bật nói: “Đây là một tên điên, đại nhân hà tất phải để ý đến hắn”.

Nghiêm Chấn tức giận nói: “Ông định phá hủy gia phong của ta sao! Lẽ ra nên khuyên ta nỗ lực làm việc thiện, vì sao lại khuyên ta tiếc rẻ tiền tài? Vả lại người này lai lịch chưa rõ ràng, dám xin ta 300 xâu tiền, chắc chắn không phải là người bình thường!” Liền ra lệnh người dưới cho hắn đủ số tiền đó. Thế nên các hiền sỹ ở Tam Xuyên (tên gọi chung của ba thị trấn: Kiểm Nam Tây Xuyên, Kiểm Nam Đông Xuyên, Sơn Nam Tây Đạo), không ai không kính phục quy thuận ông. Nhưng về sau, không có ai lại đến xin tiền của Nghiêm Chấn nữa. (Nỗi lo lắng của Công Bật hoàn toàn không xảy ra).

Phùng Mộng Long viết: Trong thiên hạ có rất nhiều việc xấu đều là từ “không nỡ mất tiền” mà ra, có rất nhiều việc tốt đều là từ “nỡ mất tiền” mà ra. Từ xưa đến nay, không có người tốt nào mà không nỡ mất tiền. Lỗ Túc nước Ngô thời Tam Quốc, Vu Thuận thời Đường, Phạm Trọng Yêm thời Tống, đều là người rất mạnh tay, vui lòng giúp đỡ những bần sĩ. Đổng Thượng Thư ở Tây Ngô (nay là Ô Trình, Giang Tô), gia đình sung túc mà lại chăm giao tế, hễ gặp bần sỹ thì đều không do dự mà cho tặng tiền của.

Trong những năm Hoằng Trị, chùa Chiêu Khánh bị hư hại muốn tu sửa lại. Án sát sứ đến hỏi thăm ba phú hộ, kêu gọi họ cùng bỏ tiền tu sửa. Ngô Mỗ Nhân người huyện Trường Hưng cũng nằm trong số đó. Ngô Mỗ nói: “Việc này tốn không hết bao nhiêu tiền, tiểu nhân xin một mình đảm trách”. Án sát sứ rất vui. Ngô Mỗ về nhà báo cho phụ thân của ông biết, phụ thân nói: “Đứa con trai này của ta có can đảm như thế, tương lai tất có thể kế thừa gia nghiệp của ta!” Hiểu biết của ông lão này quả thực là trác việt phi phàm!

5. Trí tuệ tương thông của Tiêu Hà và Nhâm Mỗ

Lưu Bang công phá kinh thành Hàm Dương của nhà Tần, chư tướng đều tranh nhau tìm kho tiền trước để chia nhau. Duy chỉ có Tiêu Hà, tuy vào thành Hàm Dương trước, nhưng lại đi lục soát và lấy đi các sách pháp luật của Tể tướng và quan Ngự sử nhà Tần. Lưu Bang sở dĩ có thể biết được những điểm mấu chốt, dân số nhiều ít, những điểm mạnh yếu, và những khó khăn của người dân, đều là nhờ Tiêu Hà thu được bản đồ lãnh thổ, sổ hộ tịch và hồ sơ của nhà Tần.

Nhâm Mỗ người huyện Tuyên Khúc, cụ thân sinh ra ông từng làm quan thương khố châu quận. Sau khi nhà Tần diệt vong, hào kiệt các nơi đều đi tranh cướp vàng bạc châu báu. Nhưng Nhâm Mỗ một mình đi đào hầm tích trữ lương thực. Lúc Hán Sở giao tranh ở Huỳnh Dương, chiến loạn liên miên, dân chúng không thể trồng trọt lương thực. Giá một thạch gạo cao đến vạn quan tiền, thế là rất nhiều vàng bạc châu báu của các hào kiệt không thể ăn được, phải mang vàng bạc châu báu đi đổi lương thực. Vì thế, tất cả vàng bạc châu báu đều thuộc về Nhâm Mỗ.

Phùng Mộng Long viết: Trí tuệ của Tiêu Hà và Nhâm Mô khó phân cao thấp, hoán đổi vị trí hai người đều có thể làm được như nhau.

Lại như Trác Thị ở đất Thục, tổ tiên là người nước Triệu, giàu lên nhờ nghề luyện thép, khi nhà Tần diệt nước Triệu, chuyển Trác Thị tới đất Thục, hai vợ chồng đẩy xe đi bộ. Các nhà khác đem số tiền ít ỏi hối lộ quan lại để xin chuyển đến chỗ gần, liền được sắp xếp ở vùng Gia Manh, Xuyên Bắc.

Chỉ có Trác Thị nói: “Nơi này đất đai cằn cỗi, ta nghe nói dưới núi Mân Sơn, đất đai màu mỡ dễ trồng khoai, dân không lo chết đói, người dân dệt vải buôn bán”. Liền xin chuyển tới nơi xa, đến Lâm Cung, dựa vào núi làm nghề đúc luyện, vận chuyển buôn bán, sau đó ông ngày càng giàu có. Hiểu biết của ông quả là hơn người.

6. Dùng binh lính vận chuyển quân lương

Đổng Bác Tiêu người Từ Châu, năm Chí Chính thứ 16 triều Nguyên (năm 1356) kiến nghị lên triều đình, ở vùng Hải Ninh tàu bè không lưu thông được, quân lương chỉ có để vận chuyển bằng đường bộ. Người dân ven biển thường xuyên bị hải tặc quấy nhiễu, cần được quan tâm nhiều hơn. Tạm thời giao cho quân đội vận chuyển lương thực, biện pháp vận chuyển đường bộ là mỗi người đi 10 bước, 36 người có thể đi được 1 dặm, 360 người có thể đi được 10 dặm, 3600 người có thể đi được trăm dặm. Mỗi người gánh bốn đấu gạo, đựng gạo bằng bao vải, được quan lại lý và quận niêm phong lại. Mỗi người gánh gạo vận chuyển liên tục, mỗi ngày 500 lần, tổng cộng vận chuyển được 28 dặm. Đi nhanh 14 dặm, mỗi ngày chuyển đến 200 đấu, mỗi lần vận chuyển có thể cung cấp cho 2 vạn người. Tính ra mỗi ngày vận chuyển lương thực trăm dặm.

Phùng Mộng Long viết: Lúc đi chinh chiến phía bắc ở Trường Lăng, vì đường xa, hiểm trở, xe nặng, người dân mệt mỏi, lương thực thiếu thốn. Liền chọn nơi bằng phẳng, chia đều chặng đường, bố trí trạm canh giữ. Mỗi người dân phu vận chuyển một thạch gạo. Người này chuyển cho người kia, đến hoàng hôn. Người dân không mệt, mà lương thực lại dồi dào, cũng là cách làm này.

7. Hưng Lợi trừ bỏ tệ nạn

Từ xưa, lương thực cấp cho kinh thành dựa vào nguồn cung ứng bằng đường thủy, chỉ có kho của Thông Châu gần sông là thuận tiện. Từ Thông Châu đến kho của kinh thành, vận chuyển bằng đường bộ hơn 40 dặm, chi phí vận chuyển cao mà lại tổn thất lớn, quân đội các nơi vào kinh thành thao luyện thời gian dài, chi phí không đủ. Lưu Bản Đạo suy nghĩ về hai vấn đề nan giải này, liền tấu xin triều đình phê chuẩn cho kho lương Thông Châu, mỗi tháng vào dịp binh sỹ thao luyện không có việc, yêu cầu các binh sỹ luân chuyển lương thực tới kinh thành, cứ vận chuyển 20 thạch thì phát thưởng 1 lượng. Lương thực vận chuyển đường thủy, toàn bộ đều giao nộp cho Thông Châu. Xây dựng thêm 300 gian kho lương để tiện cho việc thu trữ lương thực. Mỗi năm tích lũy dư ra hơn 50 vạn thạch gạo tốt, mở rộng kho tích trữ lương thực của kinh thành, Hoàng thượng đã ban thưởng trang phục nhị phẩm để biểu dương Lưu Bản Đạo.

Phùng Mộng Long viết: Lưu Bản Đạo, người Giang Âm, Thường Châu, lúc làm Chuyên lại được Bá Ngọc Ký ở Tĩnh Viễn khen ngợi, cho làm phụ tá, lại tấu xin Thánh thượng cho làm Bộ hình chiếu ma, đi viễn chinh đến Vân Nam, thường tiếp thu sách lược của ông. Trong những năm Chính Thống (1436-1449), ông theo Thượng thư Kim Liêm đi thảo phạt Phúc Kiến, bắt được hơn vạn tù binh, được thăng chức Viên ngoại lang Bộ Hộ. Đầu những năm Cảnh Thái (năm 1450), biên giới Tây Bắc bất ổn, dân chúng sống không yên. Lưu Bản Đạo tấu xin phê chuẩn ngân khố cấp tiền mua 2000 con trâu, đổi lấy lương thực phát cho dân. Sự kiện kho lương thực biên phòng Quý Châu bị trộm được tiết lộ đã liên lụy đến rất nhiều người, Lưu Đạo Bản được cử đến xử lý, không đầy một tháng, toàn bộ sự việc được làm rõ tường tận, không oan sai bỏ sót. Thánh thượng khen ngợi ông liêm khiết, tài giỏi, ban thưởng cho ông vải ngũ sắc. Đầu những năm Thiên Thuận (năm 1457), ông được thăng chức Hữu thị lang Bộ Hộ, tổng quản lý việc dự trữ lương thực ở các vùng ven kinh thành, Thông Châu, Hoài An.

Lưu Bản Đạo được thăng chức nhờ vào tài năng của mình, hơn nữa bậc tiền bối đề cử người hiền tài không xét thân thế, Hoàng đế dùng người không mang thiên kiến. Người thời nay nên noi theo (ngôn từ ở đây rất súc tích, có thể nói là lời vàng ngọc. Người thời nay xác thực nên làm theo).

9. Dùng cây củ cải để đắp đê

Tô Thức nhận chức Tri châu ở Hàng Châu, năm đó đại hạn, nạn đói, bệnh dịch hoành hành. Tô Thức tấu xin triều đình miễn trừ 1/3 số thóc gạo người dân Hàng Châu phải nộp cho triều đình, cho nên giá gạo không tăng cao, lại nhận được ban thưởng 100 tăng độ điệp, dùng để đổi gạo, cứu tế cho dân. Mùa xuân năm sau còn giảm giá bán gạo, giúp người dân dần thoát khỏi khó khăn do hạn hán gây ra.

Hàng Châu là vùng sông nước, địa thế trũng, nước suối vừa mặn vừa đắng, dân cư thưa thớt. Lý Bí nhà Đường bắt đầu dẫn nước Tây Hồ xây sáu cái giếng lớn, người dân mới có đủ nước dùng, nhân khẩu của các thôn làng càng ngày đông đúc. Bạch Cư Dị đến nhậm chức quan, lại khơi thông Tây Hồ, dẫn nước vào sông Vân, từ sông Vân chảy vào ruộng, tưới nước cho hơn ngàn thửa ruộng. Tuy nhiên, trong hồ mọc đầy cây củ cải, rễ cây bám dày đặc. Bắt đầu từ thời nhà Đường, mỗi năm đều phải xử lý mới có đủ nước trong hồ để dùng. Sau thời Tống lại bị bỏ hoang, không thường xuyên xử lý, vì thế trong hồ mọc lên rất nhiều bụi cây củ cải, rễ mọc dày đặc, trở thành ruộng củ cải rộng hơn 150.000 trượng (1 trượng khoảng 3m), nước còn lại không nhiều, sông Vân cạn nước, phải dẫn nước từ Giang Hồ, nước hồ vẩn đục đầy bùn, sông chảy qua thành thị ba năm phải nạo vét một lần, đây là một vấn đề lớn của thành thị, mà sáu cái giếng cũng bỏ hoang nhiều năm.

Tô Thức vừa tới nhậm chức liền cho khơi thông hai dòng sông Mao Sơn và Diêm Kiều. Để sông Mao Sơn thông với Giang Hồ, sông Diêm Kiều thông với Hồ Thủy. Tiếp theo là xây các đập nước, dùng để khống chế lượng nước chứa và thoát ra từ Hồ Thủy, để nước Hồ Thủy không chảy qua thành phố nữa. Đồng thời lại cho tu sửa sáu cái giếng để người dân trăm họ được chung hưởng lợi ích.

Lúc đến thăm hồ, Tô Thức quan sát rất lâu, nói: “Bây giờ muốn diệt trừ cây củ cải, thì bỏ nó đi đâu đây? Phía nam và phía bắc hồ cách nhau 30 dặm, một ngày không đi hết một vòng hồ. Nếu chất những rễ cây củ cải trong hồ tạo thành con đê dài, trừ hết tác hại của cây củ cải, thì có thể thông suốt dòng chảy bắc nam, thuận lợi cho mọi người đi lại. Người nước Ngô (ý chỉ Nam Giang Tô, Bắc Chiết Giang) trồng lúa mạch, mùa xuân thì cắt đi, không để lại một tấc nào. Nếu bỏ những ruộng cây củ cải này đi, chiêu mộ người trồng lúa mạch, thu hoạch xong để chuẩn bị cho việc sửa hồ. Trong hồ sẽ không xảy ra tình trạng ngập úng và tắc nghẽn, thế là dùng tiền và lương thực còn dư từ việc cứu đói, được hơn 1 vạn thạch, ông lại tấu xin triều đình và được ban thưởng 100 tăng độ điệp dùng để chiêu mộ dân công xây dựng đê, trên đê lại trồng cây phù dung và dương liễu, nhìn từ xa giống như một bức tranh tráng lệ và thú vị! Để ca tụng ân đức của ông, người Hàng Châu gọi đó là “Đê Tô Công”.

9. Trương Nhu giúp dân chúng tăng sản nghiệp, trăm họ đều vui mừng

Trương Nhu lãnh đạo dân chúng rất có phương pháp. Ban đầu ông làm phụ tá Cốc Châu, kênh dẫn nước bị ứ tắc, ruộng lúa nước để hoang phế đã mấy chục năm, các Thái thú kỳ trước đều không thể khơi thông dòng chảy. Trương Nhu vừa mới nhậm chức, Thái thú liền bàn chuyện này với ông, lo rằng sẽ tiêu tốn rất nhiều công sức của dân chúng. Sau khi đích thân khảo sát hiện trường, Trương Nhu nói với Thái thú rằng, nếu có một số nhân lực thì trong ba ngày có thể làm xong. Thái thú cảm thấy kì lạ, cho rằng ông nói khoa trương. Trương Nhu bèn triệu tập nhân lực, tuyển đủ nhân lực cần thiết, mang dụng cụ đến đo đạc đầy đủ số phần phải thi công, phân chia trách nhiệm người phụ trách từng đoạn, mọi người đều tranh nhau làm. Sau ba ngày là hoàn thành. Thái thú kinh ngạc, cho rằng có Thần lực tương trợ! Vì thế đã báo cáo lên triều đình, thăng chức cho Trương Nhu làm Thái thú Bá Châu.

Người dân Bá Châu đi lang bạt rất nhiều. Ở mỗi làng Trương Nhu cho thiết lập một quyển sổ, trong đó đăng ký từng hộ, viết rõ số nhân khẩu, giới tính, tuổi tác của từng người trong gia đình, phân phối nhà ở, lúa mì, giống cây dâu táo, công cụ nghề dệt và định ra số lợn gà phải chăn nuôi, loan truyền rộng rãi cho mọi nhà đều biết. Trương Nhu lúc có thời gian còn thường hạ cố đi đến các hộ dân để kiểm tra sổ dân, nhân khẩu không đủ liền bị xử phạt. Thế là người dân đều cần cù làm lụng, không dám lười biếng, không đến hai năm, người dân đều có tài sản. Trương Nhu giúp cho dân chúng tăng sản nghiệp, bách tính đều vui mừng, phấn khởi.

10. Trừng trị người xấu, ức chế kẻ gian

Huyện Pha thuộc An Phong, trước kia đã xây dựng hai con kênh nước nối hai phía Nam Bắc, tưới tiêu cho đất canh tác vùng sở tại, mang lại lợi ích lớn cho người dân. Về sau do có hạn hán, mọi người đều muốn gieo trồng gấp cho kịp thời vụ, có một số người mưu lợi riêng, thừa cơ lén dẫn nước vào ruộng mình, nên kênh mương bị phá hoại, mất khả năng tưới tiêu. Mọi người đều thiệt hại nặng nề. Lý Nhược Cốc làm Tri Châu ở Thọ Xuân ra lệnh cho Huyện Pha tu sửa kênh mương bị hỏng bờ, không được kêu gọi dân phu rộng rãi, chỉ huy động người dân vùng ven kênh mương đến tu sửa: Vì họ trộm nước dẫn vào ruộng nên kênh nước mới bị phá hoại, gây ra tai họa lớn, làm như vậy để người dân ở đó nhận thức được rằng: trộm cắp, mưu lợi riêng là hành vi tự hại mình, từ nay về sau không dám phá trộm kênh mương nữa.

Ở vùng Vân Hùng, các nhà phú hào rơm rạ đầy đồng, nhưng lại thường hay sai gia bộc đi đào trộm đê quan. Những năm Hàm Bình (998-1003), Triệu Xương Ngôn làm Thái thú, biết rõ tình hình nhưng chưa từng tìm hiểu thêm về vấn đề này. Một hôm đê bị vỡ, quan địa phương khẩn cấp báo cáo lên. Triệu Xương Ngôn hạ lệnh: Những nhà phú hào bỏ ra nhân lực và vật lực, lập tức dùng củi, rơm của nhà phú hào để gia cố cho đê đập. Từ đó về sau, những nhà phú hào không ai còn dám đi đào trộm đê quan nữa.

(Theo Tri Nang toàn thư của Phùng Mộng Long đời nhà Minh)

Ghi chú:

Thạch: đơn vị đo lường (1 thạch tương đương 120 cân)

Tăng độ điệp: một loại chứng nhận được miễn trừ nghĩa vụ phục dịch cho triều đình.

 

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/246294

The post Tuyển tập kho tàng tri thức: Đạo đức và trí tuệ của người xưa (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tuyển tập kho tàng tri thức: Đạo đức và trí tuệ của người xưa (Phần 1)https://chanhkien.org/2019/09/tuyen-tap-kho-tang-tri-thuc-dao-duc-va-tri-tue-cua-nguoi-xua-phan-1.htmlSun, 01 Sep 2019 05:27:16 +0000http://chanhkien.org/?p=25592Tác giả: Lục Thiện [ChanhKien.org] 1. Chu Bác gặp việc không loạn, làm việc có phương pháp Chu Bác người triều Hán, ông vốn là một quan võ nên không thạo việc của quan văn. Về sau, ông nhậm chức Thứ sử Ký Châu, khi đang đi kiểm tra quan viên bên dưới thì đột […]

The post Tuyển tập kho tàng tri thức: Đạo đức và trí tuệ của người xưa (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lục Thiện

[ChanhKien.org]

1. Chu Bác gặp việc không loạn, làm việc có phương pháp

Chu Bác người triều Hán, ông vốn là một quan võ nên không thạo việc của quan văn. Về sau, ông nhậm chức Thứ sử Ký Châu, khi đang đi kiểm tra quan viên bên dưới thì đột nhiên có quan lại và mấy trăm người dân chặn đường khiếu nại với ông (không được quan phủ cho phép) rằng ở phủ quan có nhiều người gặp nạn. Quan Tùng sự thỉnh cầu: “Xin ngài hãy tạm ở lại huyện này gặp một số người đi khiếu kiện, xử lý sự việc xong rồi hãy đi nhậm chức”. Ông ta muốn nhân dịp này để thăm dò Chu Bác. Chu Bác trong tâm đã biết rõ, nói với tùy tùng nhanh chóng tiếp tục chuẩn bị xe ngựa.

Ông gặp những người khiếu kiện, sai quan Tùng sự nói rõ cho các quan lại và người dân rằng: “Muốn tố cáo quan Thừa úy trong huyện, quan Thứ sử không được giám sát các quan đeo đai vàng (hưởng bổng lộc 200 thạch), các người phải tự đi lên quận để tố cáo. Muốn tố cáo quan đeo đai đen (hưởng bổng lộc 2000 thạch), các người đợi Sứ giả đi tuần sát bên dưới trở về, đến tố cáo với quan Thích sứ. Người dân bị quan lại kết án oan và tố cáo những việc trộm cắp phải đến Tùng sự mỗi nơi để tố cáo. Mọi việc đều đã có quy định, cứ theo quy định mà làm!”

Chu Bác dừng xe xem xét, 400-500 người đều được giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng, họ tự động vui vẻ rời đi. Binh lính kinh ngạc, không nghĩ rằng Chu Bác lại có tài ứng biến giỏi như vậy. Sau đó Chu Bác dần dần tra hỏi, quả nhiên là do một Tùng sự già đã xúi bảy dân chúng tụ tập, Chu Bác liền ra lệnh xử tử viên quan lại âm mưu quỷ kế, mưu đồ làm loạn này.

2. Chu Bác dùng trí tuệ dạy người, cứu người

Lúc Chu Bác nhậm chức Tả phùng hủ, ở huyện Trường Lăng có một cường hào tên là Thượng Phương Cấm, khi còn trẻ từng tư thông với vợ của người khác, dấu tích bị xử phạt vẫn còn ở trên mặt. Quan Công tào (chức quan) vì đã nhận tiền hối lộ của Thượng Phương Cấm, liền xin Chu Bác cho Thượng Phương Cấm giữ chức Thủ úy. Chu Bác sau khi biết chuyện liền lấy lý do khác triệu kiến Thượng Phương Cấm, nhìn khuôn mặt ông ta quả nhiên có vết sẹo, sau khi cho tùy tùng lui ra ngoài, Chu Bác hỏi ông ta: “Đây là vết thương gì?” Thượng Phương Cấm trong lòng biết rằng việc của mình không thể giấu diếm, liền dập đầu nói rõ sự việc. Chu Bác cười nói: “Đại trượng phu nhất thời phạm sai lầm, việc này cũng có xảy ra. Hiện tại, ta muốn rửa nỗi xỉ nhục này cho ông, ông có muốn dốc lòng theo ta không?”

Thượng Phương Cấm vừa vui vừa sợ, trả lời rằng: “Tôi đến chết cũng không quên báo đáp ân đức của đại nhân”. Thế là Chu Bác lệnh cho Thượng Phương Cấm: “Ông không được tiết lộ việc này cho ai, hãy ghi lại và báo cáo cho ta những sự việc xảy ra trong vùng”, sau đó coi ông ta như tai mắt thân tín. Thượng Phương Cấm hàng ngày đều vạch trần một số tên trộm và gian tế, hiệu quả rõ rệt, Chu Bác liền thăng cấp cho anh ta làm huyện lệnh.

Rất lâu sau, Chu Bác triệu kiến vị Công tào kia, vừa bước qua cổng đã chỉ trích ông ta nhận hối lộ của Thượng Phương Cấm, rồi đưa giấy bút cho ông ta, yêu cầu ông ta tự khai ra việc nhận hối lộ của mình: “Một quan tiền cũng không được giấu, chỉ cần lừa dối một câu sẽ bị chém đầu”. Vị Công tào này vô cùng lo sợ, thành khẩn viết lại hết việc nhận hối lộ, không dám giấu giếm chút nào. Chu Bác sau khi hiểu được sự việc, liền ra lệnh cho ông ta phải thay đổi bản thân, rồi tiêu hủy tại chỗ những bằng chứng ông ta vừa viết ra, xong phục chức cho ông ta. Vị Công tào này sau đó làm việc cẩn thận, không dám phạm sai lầm nữa. Chu Bác vì thế cũng thăng chức cho ông ta.

3. Vương Kính Tắc mưu trí bắt trộm

Vương Kính Tắc người Nam Tề, trong thời gian ông nhậm chức Thái thú ở Ngô Hưng, trong quận thường xảy ra rất nhiều vụ trộm cướp. Một ngày nọ, Vương Kính Tắc bắt được một tên trộm, ông cho triệu tập người nhà của hắn ta đến, đánh hắn 10 gậy ngay trước mặt họ, rồi ra lệnh cho hắn ta phải quét dọn đường phố trong thời gian dài. Rất lâu sau đó, ông lại cho phép hắn tiến cử một tên trộm khác để thay hắn quét đường, những tên trộm khác sợ bị hắn nhận ra đều chạy trốn mất, trong quận vì vậy trở nên thanh bình.

Phùng Mộng Long viết: Khiến cả người thân cũng phải nhục nhã, thì người thân cũng không tha thứ cho hành đồng trộm cắp tiếp theo của hắn.

Chỉ có trộm mới biết ai là trộm. Muốn hắn chỉ ra người thay thế hắn quét dọn đường phố thì sẽ hiệu quả hơn nhiều so với việc cho Bổ khoái (chức quan chuyên truy nã, bắt người trong nha môn thời trước) bắt trộm. Quả là tốt hơn rất nhiều!

4. Trương Liêu “lấy tĩnh chế động”

Trương Liêu nhận lệnh của Tào Tháo thống lĩnh quân lính đến đóng quân tại huyện Trường Xã. Lúc xuất phát, trong quân đội có người mưu phản, giữa đêm phóng hỏa làm loạn, khiến toàn quân đều bị rối loạn.

Trương Liêu nói với tướng lĩnh bên cạnh rằng: “Không cần rối loạn, tình hình này khẳng định là không phải toàn bộ doanh trại làm phản, nhất định là có kẻ muốn nhân cơ hội này làm loạn mà thôi!”

Ông ra lệnh cho toàn quân: “Những người không tham gia nổi loạn thì hãy ngồi xuống, không được chạy loạn!” Sau đó, Trương Liêu đích thân thống lĩnh vài chục binh lính thân cận đứng vào giữa hàng ngũ quân đội. Không lâu sau, quả nhiên bắt được kẻ chủ mưu tạo phản, mang hắn ra xử tử.

Phùng Mộng Long viết: Chu Á Phu triều Hán xuất quân thảo phạt bảy nước. Một buổi tối nọ, trong doanh trại xảy ra bạo loạn. Chu Á Phu nằm yên trên giường không dậy, không lâu sau bạo loạn tự nhiên bị dẹp.

Lúc Ngô Hán nhậm chức đại tư mã, từng có đạo tặc nửa đêm tấn công doanh trại của ông, khiến quân doanh bị kinh nhiễu. Ngô Hán vẫn ở yên trên giường không dậy. Binh sỹ trong quân doanh nghe tin Đại Tư Mã không dậy, cũng đều quay về lều của mình. Ngô Hán lúc này mới chọn ra những binh lính tinh nhuệ, nửa đêm ra tay đánh bại đạo tặc.

Đây đều là sách lược “lấy tĩnh chế động”. Tất nhiên, nếu quân đội không có kỷ luật nghiêm minh thì dù muốn quân lính không nhiễu loạn cũng không làm được.

5. Lý Phong chưa từng đánh một người

Vào triều Đường, Lý Phong trong thời gian nhậm chức Huyện lệnh huyện Diên Lăng chưa từng phạt quan lại hoặc người dân phạm tội lấy một gậy, chỉ ra lệnh cho họ đội khăn quấn đầu để họ cảm thấy nhục nhã. Tùy theo phạm tội nặng nhẹ, mà quyết định số ngày đội khăn quấn đầu, sau khi đã mãn hạn chịu phạt mới được bỏ xuống. Phàm là người đã phải đội khăn quấn đầu đều cho rằng đây là một sự sỉ nhục lớn, nên mọi người đều khuyên bảo nhau không dám tái phạm. Nộp thuế cũng hoàn thành trước so với các huyện khác. Cho đến khi từ quan, Lý Phong cũng chưa từng đánh một người nào.

6. Bùi Tấn Công có “trí tuệ”

Bùi Tấn Công triều Đường, khi nhậm chức ở tỉnh Trung Thư, một hôm, một thuộc hạ hoảng hốt đến bẩm báo với ông rằng: “Ấn tín đã bị mất rồi!” Bùi Tấn Công mặt không biến sắc, dặn dò thuộc hạ không được để lộ ra. Lúc đó ông đang tiếp đãi khách, thưởng thức ca múa biểu diễn, người ngoài không biết được việc gì xảy ra. Lúc nửa đêm khi uống rượu đã no say, thuộc hạ lại chạy đến báo cho ông biết rằng đã tìm thấy ấn tín rồi, Bùi Tấn Công cũng không đáp lại, buổi yến tiệc kết thúc vui vẻ.

Có người hỏi ông duyên cớ vì sao? Bùi Công nói: “Thuộc hạ của tôi lấy trộm ấn tín đi viết giao kèo, viết xong sẽ trả lại chỗ cũ. Nếu vội truy cứu thì có thể khiến ấn thư bị vứt xuống sông hoặc bị ném vào lửa, không thể mang trở về được nữa”.

Phùng Mộng Long viết: Đây không phải là giả bộ an nhàn, tự trấn tĩnh mình, mà kỳ thực là “trí tuệ” thông minh tuyệt đỉnh.

7. Tử Sản khiến người và quỷ thần đều hài lòng

Thời Xuân Thu, đại phu Lương Tiêu nước Trịnh vì chuyên quyền mà bị Tứ Đái và Công Tôn Đoạn cùng truy sát giết chết. Lương Tiêu sau đó biến thành Lệ Quỷ, khiến người trong nước đều vô cùng khiếp sợ. Có người nửa đêm nhìn thấy Lương Tiêu mặc áo giáp đi ra, nói rằng “Ngày Nhâm Tý, ta sẽ giết Tứ Đái (người giúp giết Lương Tiêu), ngày Nhâm Dần năm sau, ta sẽ lại giết Công Tôn Đoạn (người ủng hộ Tứ Đái)”. Tứ Đái và Công Tôn Đoạn quả nhiên chết vào ngày ấy, người dân toàn quốc càng khiếp sợ hơn.

Thế là Tử Sản lập Công Tôn Tiết làm quan. (Công Tôn Tiết là con của Tử Khổng, Tử Khổng trước đây bị Trịnh Sở giết), lại lập Lương Chỉ (con của Lương Tiêu) làm đại phu, để an ủi Lương Tiêu và Tử Khổng, Lệ Quỷ từ đó không xuất hiện nữa.

Thái Thúc hỏi Tử Sản: “Vì sao ngài lại làm như thế?”

Tử Sản nói: “Quỷ chịu oan mà chết, phải có nơi để tá túc thì mới không quấy phá. Ta lập đời sau của họ làm quan, khiến họ cảm thấy có nơi để tá túc”.

Phùng Mộng Long viết: Tử Sản không chỉ thông đạt việc của nhân gian, mà còn có thể thông đạt việc quỷ đạo (việc trong âm gian). Quỷ đạo do người gây ra. Người thực sự hết lòng vì dân thì có thể khiến người và quỷ thần đều hài lòng!

8. Lời khuyên giải thông minh

Lương Hiếu Vương phái người đi giết thừa tướng trước đó là Viên Áng. Hán Cảnh Đế lệnh cho Điền Thúc đi điều tra Lương Hiếu Vương, Điền Thúc sau khi làm rõ sự tình, đã hủy hết tài liệu, tay không trở về báo cáo Hán Cảnh Đế. Hán Cảnh Đế nói: “Lương Hiếu Vương có giết Viên Áng không?” Điền Thúc trả lời: “Có”. “Chứng cứ đâu?” Điền Thúc nói: “Thần đã đốt rồi”.

Hán Cảnh Đế tức giận, Điền Thúc thong dong nói: “Hoàng đế ở trên hà tất phải điều tra việc Lương Hiếu Vương làm gì?” “Tại sao?” Điền Thúc nói: “Hiện tại không giết Lương Hiếu Vương thì pháp luật của triều Hán sẽ không thể thực hiện được; nếu giết Lương Hiếu Vương, hoàng thái hậu sẽ ăn không ngon ngủ không yên, lúc đó bệ hạ sẽ phải lo lắng”. Vì thế, Hán Cảnh Đế cho rằng Điền Thúc rất hiền lương, nên bổ nhiệm ông làm thừa tướng nước Lỗ.

Sau khi Điền Thúc nhậm chức thừa tường nước Lỗ, có hơn 100 người dân vu khống Lỗ Vương cướp đoạt tài sản của họ. Điền Thúc bắt 20 người cầm đầu, đánh mỗi người 20 roi, còn những người khác đánh 10 roi. Ông tức giận nói: “Vua không phải là quân chủ của các người sao? Vì sao dám nói ngài không phải là vua của các người”. Lỗ Vương biết chuyện cảm thấy rất hổ thẹn, bèn lấy tiền trong phủ ra đưa cho Thừa tướng để bồi thường cho người dân. Thừa tướng trả lời: “Đại vương hãy tự tìm người để bồi thường đi, nếu không, lại là đại vương làm việc xấu còn Thừa tướng làm việc tốt đấy”.

Lỗ Vương còn thích đi săn, Điền Thúc thường hay đi theo. Lỗ Vương luôn bảo thừa tướng về quán trọ nghỉ ngơi, nhưng Thừa tướng thường hay ngồi chờ cả ngày bên ngoài vườn hoa của Lỗ Vương. Lỗ Vương nhiều lần cho người mời ông vào quán trọ nghỉ ngơi, Điền Thúc đều kiên quyết không chịu đi nghỉ, ông nói: “Đại vương đi dã ngoại bên ngoài, ta sao có thể về quán trọ nghỉ ngơi được?”

Lỗ Vương Từ đó không đi săn bắn nữa.

Phùng Mộng Long viết: Ở Lạc Dương có người thù hận lẫn nhau, những người tài đức đến can thiệp hòa giải hơn 10 lần đều không nghe theo. Có người đi tìm Quách Giai nhờ ông giúp đỡ. Thế là Quách Giai đang nửa đêm đi khuyên can gia đình người này, những người này đều miễn cưỡng nghe theo ý kiến của Quách Giai. Quách Giai nói với họ: “Tôi nghe nói những người tài đức ở Lạc Dương đã đến khuyên giải mà các vị đều không nghe theo. Hôm nay nể mặt tôi, các vị lại nghe theo lời khuyên can của tôi, nhưng tôi sao có thể can thiệp vào việc của thành khác được?” Thế là ông liền rời đi trong đêm, trước khi đi có dặn: “Đợi tôi đi rồi, các vị hãy để hiền sỹ ở Lạc Dương đến can thiệp, hòa giải một chút”. Câu chuyện này giống với chuyện Điền Thúc lấy tiền trong vương phủ trả cho dân.

Vương Tường phụng dưỡng mẹ kế rất hiếu thuận, nhưng mẹ kế lại thiên vị con trai của mình là Vương Lãm mà ngược đãi Vương Tường. Vương Lãm nhiều lần khuyên can mẹ nhưng mẹ đều không nghe, thế nên mỗi khi mẹ ngược đãi Vương Tường, Vương Lãm liền chịu cùng, hoạn nạn cùng chịu. Mẹ kế sau đó cảm động sâu sắc, từ đó yêu thương Vương Tường và Vương Lãm như nhau. Câu chuyện này cũng giống như chuyện Điền Thúc ngồi ở bên ngoài chờ đợi Lỗ Vương.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/245759

The post Tuyển tập kho tàng tri thức: Đạo đức và trí tuệ của người xưa (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>