Truyền thuyết dân gian | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnMon, 07 Apr 2025 23:26:28 +0000en-UShourly1Truyền thuyết dân gian: Triệu Tiểu Nhị tiễn đèn Thầnhttps://chanhkien.org/2025/04/truyen-thuyet-dan-gian-trieu-tieu-nhi-tien-den-than.htmlSun, 06 Apr 2025 04:30:00 +0000https://chanhkien.org/?p=37009Tác giả: Thu Phong Đao [ChanhKien.org] Vào thời nhà Tống, có một thợ thủ công ở huyện Quảng An, tỉnh Tứ Xuyên. Vì mọi người đều quen gọi những thợ thủ công thời đó là “Lỗ Ban”, nên chúng ta sẽ gọi ông là Tống Lỗ Ban. Tống Lỗ Ban có một người đệ tử […]

The post Truyền thuyết dân gian: Triệu Tiểu Nhị tiễn đèn Thần first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thu Phong Đao

[ChanhKien.org]

Vào thời nhà Tống, có một thợ thủ công ở huyện Quảng An, tỉnh Tứ Xuyên. Vì mọi người đều quen gọi những thợ thủ công thời đó là “Lỗ Ban”, nên chúng ta sẽ gọi ông là Tống Lỗ Ban.

Tống Lỗ Ban có một người đệ tử tên là Triệu Tiểu Nhị. Triệu Tiểu Nhị dựa vào một chút khôn vặt của mình, thường hay lười biếng và mưu lợi.

Vào thời đó, các thợ thủ công đều tôn kính thần linh, vì vậy họ cũng chú trọng tu dưỡng tâm tính và cũng lưu truyền một bộ thuật pháp, trong đó thịnh hành và thần bí nhất là cuốn “Thượng hạ sách”. Nghe nói, “Thượng sách” dạy người ta làm người tốt, còn “Hạ sách” chuyên để trị người. Những người đã đọc “Thượng hạ sách” thường có bản sự, người bình thường không thể đắc tội.

Khi thợ mộc dựng nhà cho người ta, ngoài việc phải chú ý đến yếu tố phong thủy, họ còn rất cẩn trọng trong việc chọn ngày giờ đặt xà và cách thức đục xà. Nếu chủ nhà nào dám coi thường thợ mộc, họ có thể sử dụng một số tiểu thuật để trị chủ nhà, ví dụ như đục một lỗ trên xà nhà và nhét vào đó một lá bùa hoặc vật gì đó tương tự. Khi đó mọi việc gia chủ làm sẽ không suôn sẻ, có lúc lợn trong nhà chết, có lúc bị động vật phá hoại, có lúc người già ốm đau, con cái cảm lạnh, nói chung đều không tốt, v.v..

Lỗ Ban là một người tốt bụng, nhưng đồ đệ của ông là Triệu Tiểu Nhị lại là một kẻ khôn lỏi. Triệu Tiểu Nhị đã theo học nhiều năm và cũng đã nắm được kỹ thuật. Một ngày nọ, Triệu Tiểu Nhị kiêu ngạo nói với thầy của mình rằng muốn so tài tay nghề với thầy.

Triệu Tiểu Nhị nói: “Thầy ơi, con học nghề đã nhiều năm, cũng đã có thành tựu, thầy trò chúng ta thử so tay nghề một chút, để con biết được trình độ nghề của mình như thế nào nhé?”

Lỗ Ban không hiểu dụng ý của Triệu Tiểu Nhị bèn hỏi thi như thế nào. Triệu Tiểu Nhị nói: “Mỗi người chúng ta sẽ xây một tòa tháp ở hai bên bờ Đông và Tây của sông, thầy thấy sao?”

Lỗ Ban trầm tư một lúc rồi nói: “Được”.

Tiểu Nhị nói: “Con xây một tòa tháp ở bờ Đông sông Cầu, thầy xây một tòa tháp ở bờ Tây, chúng ta phải hoàn thành vào ngày mai trước khi trời sáng, ai hoàn thành sau thì người đó sẽ thua, có được không?”

Lỗ Ban trong lòng không vui, thầm nghĩ: “Thằng nhóc này còn non nớt mà đã kiêu ngạo như vậy, để ta dạy cho nó một bài học”.

Đêm hôm đó, hai thầy trò mỗi người xây một tòa tháp. Lỗ Ban đến Long Thọ Trại (nay là thị trấn Tảo Sơn, quận Quảng An), dùng phép thuật tách núi thành những khối đá vuông, rồi dồn đá như dồn gia súc, dồn đến bờ Tây sông Cầu, đường đi dài hàng chục dặm, chưa kể việc tháp xây trên động đá ven sông.

Còn nói về đồ đệ Triệu Tiểu Nhị, lúc này, hắn dùng phép thuật di chuyển một tảng đá khổng lồ dài hai, ba trượng đến bờ Đông sông Cầu, bắt đầu đục đẽo. Đây là lúc Triệu Tiểu Nhị dùng mánh khóe, hắn không định xây tháp mà là muốn đẽo tảng đá thành hình tháp. Việc này có rất nhiều điểm khác biệt so với xây tháp. Không mất nhiều thời gian, Triệu Tiểu Nhị đã đẽo tảng đá thành hình tháp. Hắn tự cho rằng mình đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, bèn đến bờ Tây sông để xem thầy mình xây tháp.

Lỗ Ban đang tập trung xây tháp. Tháp đá uy nghi hùng vĩ, từng tầng hiện rõ cửa sổ, mái hiên, khí thế phi thường.

Triệu Tiểu Nhị giật mình, tháp nhỏ được đẽo gọt của mình làm sao có thể sánh được với tháp đá tráng lệ của thầy? Mình đã thua, sau này làm sao có thể gặp gỡ mọi người?

Vì vậy, Triệu Tiểu Nhị nghĩ ra một kế. Hắn nhìn trời còn sớm, bèn quyết định ngăn cản thầy mình hoàn thành tháp đá trước khi trời sáng. Triệu Tiểu Nhị bèn trốn ở một nơi không xa thầy mình, bắt đầu giả tiếng gà gáy.

Lỗ Ban nghe tiếng gà gáy, trong lòng giật mình. Lúc này tháp đá đã hoàn thành được 80, 90%, chỉ còn thiếu phần đỉnh tháp. Lỗ Ban giật mình, vội nhét một nắm cỏ vào đỉnh tháp, làm thành một đỉnh tháp bằng cỏ.

Ngày nay, tại thành phố Quảng An hai tòa tháp này vẫn còn tồn tại. Tháp nhỏ được Triệu Tiểu Nhị đẽo gọt dựng bên gác Khuyết ở bờ Đông sông Cầu được gọi là Văn Bút Tinh. Tháp đá của Lỗ Ban dựng ở bờ Tây sông Cầu chính là Bạch Tháp ngày nay, cách thành phố năm dặm, nơi đây được gọi là tháp gãy. Quả thật Bạch Tháp không có đỉnh.

Triệu Tiểu Nhị vì khôn lỏi nên rốt cuộc đã tự chuốc lấy họa. Một ngày nọ, Lỗ Ban gọi đồ đệ đến và nói: “Ta có một chiếc đèn Thần, là vật gia truyền của tổ tiên, là bảo vật trấn gia của nhà ta, có thể gặp nước mà mở đường, con hãy cầm nó qua sông làm chút việc”.

Triệu Tiểu Nhị có được món bảo bối, trong lòng vô cùng vui mừng. Hắn ta đến bờ sông, niệm chú ngữ mà thầy truyền thụ, một lúc sau giữa sông Cầu hiện ra một con đường đi thẳng đến bờ bên kia. Triệu Tiểu Nhị cười lớn: “Ha! Ha! Ta có được chiếc đèn Thần này, ai có thể sánh bằng”. Khi đi đến giữa sông, Triệu Tiểu Nhị nghĩ: “Món bảo bối này tuyệt đối không thể trả lại cho thầy, có nó ta muốn làm quan thì làm quan, muốn tiêu tiền thì có tiền, nửa đời sau không cần lo lắng gì nữa, ha ha!”

Ngay lúc hắn nảy sinh ác niệm, nước ở hai bên bờ sông bỗng cuộn trào, nhấn chìm Triệu Tiểu Nhị xuống nước, không bao giờ ngoi lên được nữa.

Đây là câu chuyện dân gian lưu truyền ở Quảng An. Câu chuyện nhắn nhủ với hậu nhân rằng thiện lương là bản tính của con người, đánh mất lương tri ắt sẽ tự chuốc họa vào thân. Người già ở Quảng An đều thích kể câu chuyện này để giáo dục thế hệ sau rằng làm người nhất định phải trung thực, tốt bụng, không được lười biếng và gian lận, không có lương tri là điều rất đáng sợ.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/42223

The post Truyền thuyết dân gian: Triệu Tiểu Nhị tiễn đèn Thần first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của bánh quẩyhttps://chanhkien.org/2025/04/truyen-thuyet-dan-gian-nguon-goc-cua-banh-quay.htmlSat, 05 Apr 2025 01:35:54 +0000https://chanhkien.org/?p=37003Tác giả: Phúc Chính [ChanhKien.org] Quẩy là một trong những món ăn được yêu thích nhất của người dân Trung Quốc. Ban đầu, quẩy được gọi là “bánh rán Tần Cối”, người ta nói rằng quẩy ban đầu do người dân Lâm An phát minh ra. Tương truyền vào thời Nam Tống, gian thần Tần […]

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của bánh quẩy first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Phúc Chính

[ChanhKien.org]

Quẩy là một trong những món ăn được yêu thích nhất của người dân Trung Quốc. Ban đầu, quẩy được gọi là “bánh rán Tần Cối”, người ta nói rằng quẩy ban đầu do người dân Lâm An phát minh ra.

Tương truyền vào thời Nam Tống, gian thần Tần Cối và vợ là Vương Thị vì tham lam và ghen tị nên đã cấu kết với nước Kim, tại Đông Song lập mưu, hại chết vị tướng trung dũng yêu nước Nhạc Phi ở đình Phong Ba. Tin tức truyền đi, người dân ai ai cũng căm phẫn, từ quán rượu trà dư tửu hậu đến đầu đường cuối phố đều bàn tán sôi nổi về chuyện này.

Vào thời điểm đó, dưới chân cầu Từ An có hai quầy hàng ăn, một quầy bán bánh nướng mè hành, một quầy bán bánh nếp chiên. Hôm đó chợ tan sớm, người bán bánh nướng tên là Vương Nhị đã dập tắt lò lửa, sắp xếp lại những chiếc bánh nướng hành còn sót lại trên bếp, thấy không có khách nên ngồi xuống ghế nghỉ ngơi. Lúc này, người bán bánh nếp tên là Lý Tứ cũng đã dọn dẹp chảo dầu, đang ngồi xổm ở đó hút thuốc.

Hai người chào hỏi, rồi cùng nhau trò chuyện. Chuyện trò qua lại, cuối cùng họ nói đến chuyện Tần Cối hãm hại Nhạc Phi. Cả hai đều vô cùng phẫn nộ, muốn tìm cách thể hiện quan điểm của mình về chuyện này. Suy nghĩ hồi lâu, Vương Nhị nghĩ ra một cách. Anh ta lấy hai cục bột, nhào nặn trên thớt, không lâu sau đã nặn thành hai hình người. Một người vô lại mặt mày cau có, một người nanh nọc miệng méo mó. Anh ta cầm dao cắt bột, chém ngang cổ tên mặt mày cau có, rồi lại chém dọc bụng ả miệng méo mó.

Lý Tư nhìn thấy, cho rằng thế vẫn chưa thỏa đáng, anh ta liền chạy về quán của mình, mang chảo dầu đến chỗ Vương Nhị làm bánh, lấy hai hình người bằng bột vừa bị chặt ghép lại, gắn lưng chúng với nhau rồi ném vào chảo dầu để chiên. Vừa chiên anh ta vừa hô: “Mọi người hãy đến xem bánh Tần Cối! Mọi người hãy đến xem bánh Tần Cối!”

Người qua lại nghe “bánh rán Tần Cối” cảm thấy rất mới lạ liền tụ lại. Mọi người nhìn vào chảo dầu có hai người xấu xí cùng tiếng sôi xèo xèo của chảo dầu, họ hiểu được chuyện gì đang xảy ra và cũng bắt đầu hò reo theo: “Nhìn kìa, bánh rán Tần Cối! Nhìn kìa, bánh rán Tần Cối!”

Đúng lúc đó, Tần Cối đang ngồi trên kiệu tám người khiêng, trên đường từ cung điện quay về phủ, đi qua cầu Từ An. Tần Cối nghe tiếng la hét ồn ào, cảm thấy như đâm thẳng vào tim mình, liền ra lệnh dừng kiệu, lập tức cử binh lính đi bắt người. Binh lính chen lấn vào đám đông, bắt Vương Nhị và Lý Tứ, thậm chí còn bê cả chảo dầu đến trước kiệu. Tần Cối nhìn thấy hai con người xấu xí bị cháy đen trong chảo dầu, tức đến mức râu quai nón dựng đứng lên, bước ra khỏi kiệu quát to: “To gan! Các ngươi muốn tạo phản à?”

Vương Nhị bình tĩnh trả lời: “Chúng tôi chỉ là người làm ăn nhỏ, không có hứng với chuyện tạo phản”.

Tần Cối nói: “Đã vậy sao dám mạo phạm bản quan?”

Vương Nhị nói: “Ái chà, thưa Tể tướng đại nhân, tên của ngài là chữ có bộ mộc bên cạnh, còn đây là chữ có bộ hỏa bên cạnh!”

Lúc này, đám đông vây quanh đều reo lên: “Đúng vậy, đúng vậy, đồng âm khác chữ!” Tần Cối không nói được lời nào. Ông ta nhìn hai con người xấu xí đang nổi lên trong chảo dầu, quát lên: “Đừng nhiều lời! Thứ bị rán đen như than này làm sao ăn được! Rõ ràng là hai tên điêu dân tụ tập gây chuyện, lừa gạt quan phủ!”

Vừa nghe Tần Cối nói vậy, lập tức có hai người trong đám đông đứng ra nói: “Phải rán như thế này, thế này!” Vừa nói họ vừa vớt thanh bột nặn ra khỏi chảo dầu. Còn liên tục nói: “Ngon quá, ngon quá! Càng ăn càng thấy ngon, muốn nuốt một miếng hết luôn!” Lúc này, Tần Cối tức đến mức mặt đỏ bừng bừng như gan heo, đành trợn mắt chui vào kiệu bỏ đi.

Chuyện tên vô lại Tần Cối bị bẽ mặt ngay trước mặt mọi người nhanh chóng lan truyền khắp thành Lâm An. Mọi người đổ xô đến cầu Từ An, ai cũng muốn thử ăn món “bánh rán Tần Cối”. Từ đó Vương Nhị và Lý Tứ cùng hợp tác bán món “bánh rán Tần Cối”.

Sau này, do việc nặn hình người bằng bột mì tốn thời gian khiến khách hàng phải xếp hàng rất lâu, nên Vương Nhị và Lý Tứ đã nghĩ ra một cách đơn giản hơn. Họ nhào một cục bột mì lớn rồi cán mỏng ra, dùng dao cắt thành nhiều sợi nhỏ, lấy hai sợi, một sợi tượng trưng cho tên vô lại Tần Cối, một sợi tượng trưng cho mụ đàn bà chanh chua Vương Thị, dùng cán lăn ấn xuống, xoắn lại với nhau rồi cho vào chảo dầu chiên, vẫn gọi là “bánh rán Tần Cối”.

Ban đầu, người dân ăn “bánh rán Tần Cối” để giải tỏa sự phẫn uất trong lòng, nhưng sau khi ăn thử thì thấy hương vị khá ngon, giá lại rẻ, nên lượng người ăn ngày càng đông. Trong một thời gian ngắn, nhiều quầy hàng trong và ngoài thành Lâm An đều học cách làm, sau đó dần dần truyền ra các địa phương khác. Lâu dần, những thanh bánh dài này được gọi là “bánh quẩy”.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/33075

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của bánh quẩy first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Truyền thuyết về Hoàng Hạc Lâuhttps://chanhkien.org/2025/04/truyen-thuyet-dan-gian-truyen-thuyet-ve-hoang-hac-lau.htmlTue, 01 Apr 2025 00:55:10 +0000https://chanhkien.org/?p=36956Tác giả: Phúc Chính [ChanhKien.org] Gần bờ sông Trường Giang thuộc thành phố Vũ Hán có một ngọn núi tên là Xà Sơn. Trên đỉnh núi sừng sững ấy tọa lạc một tòa lầu nguy nga tráng lệ với mái cao cong vút, lộng lẫy ánh vàng, mang tên lầu Hoàng Hạc. Muốn biết về […]

The post Truyền thuyết dân gian: Truyền thuyết về Hoàng Hạc Lâu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Phúc Chính

[ChanhKien.org]

Gần bờ sông Trường Giang thuộc thành phố Vũ Hán có một ngọn núi tên là Xà Sơn. Trên đỉnh núi sừng sững ấy tọa lạc một tòa lầu nguy nga tráng lệ với mái cao cong vút, lộng lẫy ánh vàng, mang tên lầu Hoàng Hạc. Muốn biết về nguồn gốc của lầu Hoàng Hạc, thì phải bắt nguồn từ chuyện Lã Động Tân cưỡi hạc về trời.

Tương truyền, sau khi du ngoạn núi Nga Mi ở Tứ Xuyên, Lã Động Tân bỗng nảy ra ý định muốn đến Đông Hải tìm kiếm Tiên nhân và thăm bạn hiền. Ông lưng đeo bảo kiếm, xuôi dòng Trường Giang mà đi. Một ngày nọ, ông đến thành Vũ Hán, khung cảnh hùng vĩ nơi đây đã làm ông say mê. Ông háo hức leo lên núi Xà Sơn, đứng trên đỉnh núi phóng tầm nhìn ra xa. Đối diện là một ngọn núi trông giống như một con rùa khổng lồ nằm phục, thò đầu ra để uống nước sông; còn ngọn núi dưới chân ông lại tựa như một con rắn dài ngẩng cao đầu quan sát động tĩnh của con rùa. Lã Động Tân nghĩ: “Nếu trên đỉnh núi Xà Sơn này mà xây dựng một tòa lầu cao, đứng trên đó ngắm nhìn cảnh đẹp xung quanh chẳng phải tuyệt vời hơn sao? Nhưng ngọn núi này lại cao, dốc đứng, ai có thể xây lầu trên đây chứ?” Sau đó, Lã Động Tân mời một vài vị Tiên nhân đến để cùng bàn bạc.

Lã Động Tân vung kiếm vẽ một vòng tròn trên bầu trời, lập tức Hà Tiên Cô cưỡi một đám mây ngũ sắc xuất hiện. Ông liền chia sẻ ý tưởng của mình với Tiên Cô. Hà Tiên Cô nghe xong liền bật cười: “Ngươi muốn ta dùng kim thêu rồng vẽ phượng thì ta còn có thể làm được, nhưng nói đến việc xây lầu, ngươi phải nhờ người khác!” Lã Động Tân tiếp tục mời Thiết Quải Lý đến. Vừa nghe xong, Thiết Quải Lý liền bật cười ha hả: “Nếu ngươi đầu óc không tỉnh táo thì ta có linh đơn diệu dược, nhưng nếu muốn xây lầu, ngươi phải tìm người tài giỏi hơn!” Lã Động Tân lại đến nhờ Trương Quả Lão. Trương Quả Lão lắc đầu nói: “Ta chỉ biết cưỡi lừa ngược đọc sách. Nhưng ngươi đừng lo lắng, ta không giúp được ngươi, nhưng sẽ có người giúp ngươi”. Nói rồi cũng bỏ đi. Lã Động Tân suy nghĩ, ai sẽ giúp mình đây?

Đúng lúc này, bỗng nhiên từ trên không trung truyền đến một tiếng chim hót vang khiến Lã Động Tân vội vàng ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy Lỗ Ban tiên sinh đang cưỡi một con chim ưng bằng gỗ hướng về phía ông cười ha hả. Lã Động Tân vội vàng tiến lên đón chào, thuật lại ý tưởng của mình cho Lỗ Ban nghe. Lỗ Ban tiên sinh bước xuống từ chim ưng gỗ, quan sát độ cao của ngọn núi, rồi đánh giá địa thế xung quanh. Ông tiện tay nhặt vài cành cây trên sườn núi, dựng lên rồi lại tháo xuống, suy nghĩ một lúc rồi nói: “Sáng mai chúng ta cùng bàn bạc lại nhé”.

Sáng sớm hôm sau, khi gà mới cất tiếng gáy đầu tiên, Lã Động Tân đã vội vã leo lên núi Xà Sơn. Trước mắt ông, một tòa lầu cao tầng với mái cong vút, chạm trổ tinh xảo sừng sững uy nghi trên đỉnh núi. Vừa reo to tên Lỗ Ban, ông vừa leo lên tầng cao nhất, nhưng tìm mãi không thấy Lỗ Ban đâu, chỉ tìm thấy một con hạc gỗ do Lỗ Ban để lại. Con chim hạc bằng gỗ này có bộ lông màu vàng, đang nhìn ông bằng đôi mắt to đen láy. Lã Động Tân vô cùng vui mừng, lúc thì sờ lan can trên lầu, lúc thì ngắm nhìn dòng sông dưới chân, lại lấy ra một cây sáo trúc thổi khúc nhạc du dương bên dòng nước cuộn chảy. Vừa thổi sáo, Lã Động Tân vừa ngắm nhìn chim hạc gỗ. Thật kỳ diệu, chim hạc bất ngờ nhảy múa theo điệu nhạc! Ông liền cưỡi lên mình hạc, nó lập tức bay lên cao, bay ra khỏi tòa lầu, bay vòng quanh tòa lầu ba vòng, kêu lên một tiếng rồi bay vào trong mây.

Sau này, người ta đặt tên cho tòa lầu này là Hoàng Hạc Lâu.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/33141

The post Truyền thuyết dân gian: Truyền thuyết về Hoàng Hạc Lâu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Truyền thuyết về đỉnh Kim Kê và núi Phượng Hoànghttps://chanhkien.org/2025/03/truyen-thuyet-dan-gian-truyen-thuyet-ve-dinh-kim-ke-va-nui-phuong-hoang.htmlThu, 27 Mar 2025 03:50:57 +0000https://chanhkien.org/?p=36912Tác giả: Vũ Quang [ChanhKien.org] Lịch sử Trung Nguyên từng trải qua một giai đoạn đen tối gọi là “Ngũ độc ác thế”. Nguyên nhân do hoàng đế bất tài, gian thần nắm quyền, dân chúng lầm than, dẫn đến oan khuất chồng chất, người dân lâm vào cảnh khốn cùng, không có đường sống. […]

The post Truyền thuyết dân gian: Truyền thuyết về đỉnh Kim Kê và núi Phượng Hoàng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Vũ Quang

[ChanhKien.org]

Lịch sử Trung Nguyên từng trải qua một giai đoạn đen tối gọi là “Ngũ độc ác thế”. Nguyên nhân do hoàng đế bất tài, gian thần nắm quyền, dân chúng lầm than, dẫn đến oan khuất chồng chất, người dân lâm vào cảnh khốn cùng, không có đường sống. Thêm vào đó, mất mùa đói kém liên miên, châu chấu xuất hiện dày đặc tàn phá mùa màng, sông suối cạn kiệt, đất đai khô cằn, khắp nơi cát bụi mù mịt.

Khi dân chúng quốc gia này gặp nguy nan, Ngọc Hoàng trên Thiên thượng cũng đang thảo luận về chuyện nhân gian. Ngài dự định sẽ cử hai vị sứ giả thiên quốc xuống mang theo “quả chân lý”, tìm kiếm vị minh quân hiền đức ở nhân gian, truyền cho họ phương pháp trị quốc bình thiên hạ, lập lại đạo đức xã hội.

Người có được quả chân lý có thể khiến cho đạo đức hồi thăng, xoay chuyển càn khôn, trời đất trường tồn, có thể khiến vạn vật sinh sôi nảy nở, sinh cơ bừng bừng, giúp đất nước thái bình, quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.

Hai vị sứ giả giáng trần hóa thành hai thiếu nữ xinh đẹp, ẩn trong dân gian, họ đi khắp vùng đất Trung Nguyên bí mật dò la. Thế nhân cũng biết việc này, về sau có một viên tham quan biết được, bèn cử người bí mật theo dõi. Tên tham quan này là kẻ tiểu nhân đố kỵ và gian xảo, hắn lo sợ “quả chân lý” sẽ rơi vào tay người khác, người đó được muôn dân kính ngưỡng, thì hắn không còn chỗ dung thân. Lòng tham và đố kỵ của hắn trỗi dậy, hắn bất chấp sinh mạng của người dân, muốn chiếm đoạt “quả chân lý” để làm của riêng, giành lấy quyền lực thế gian, lừa gạt và uy hiếp người dân, hưởng thụ vinh hoa phú quý nơi nhân gian.

Nhưng nào biết rằng “quả chân lý” này người không có đại đức thì không có được. Hắn dùng mọi thủ đoạn bỉ ổi uy hiếp truy sát hai cô gái yếu đuối này, phái quân truy đuổi, đốt phá nhà cửa, dùng mọi thủ đoạn để ép hai cô gái giao nộp “quả chân lý”. Nhưng hai nàng trong lúc nguy nan vẫn không hề khuất phục, thể hiện khí phách kiên cường, toát lên vẻ đẹp thanh cao. Hai nàng kiên định với sứ mệnh và niềm tin của sứ giả, quyết tâm đấu tranh đến cùng với kẻ ác, không để “quả chân lý” rơi vào tay kẻ xấu.

Cuối cùng, hắn nghĩ ra một độc kế, dồn hai nàng đến vách núi cheo leo hiểm trở, cắt đứt mọi đường lên xuống, đồng thời chặn nguồn nước và thức ăn. Tuy nhiên, sau nhiều ngày, hắn vẫn không thể có được “quả chân lý”, trong cơn tức giận, hắn ra lệnh đốt cháy ngọn núi, biến cả khu rừng thành biển lửa ngút ngàn.

Hai thiếu nữ thà chết chứ không chịu khuất phục, đã lao mình vào ngọn lửa cháy dữ dội khi ngọn lửa lan đến đỉnh núi.

Trong khoảnh khắc, mọi người nhìn thấy từ trong biển lửa bùng lên một con gà lôi và một con phượng hoàng xinh đẹp, chúng bay lượn trên bầu trời rồi cuối cùng bay đi.

Câu chuyện này được lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Để tưởng nhớ hành động dũng cảm hy sinh thân mình bảo vệ “quả chân lý” của hai thiếu nữ, người dân đã đặt tên ngọn núi đó là núi Phượng Hoàng, và đường lên núi đó gọi là đường Kim Kê.

Lịch sử của nhân loại từ một khía cạnh nào đó là sự lặp lại hoặc tương tự như vậy. Nhìn vào vùng đất Trung Nguyên ngày nay, dưới sự hỗn loạn của ác đảng và tập đoàn Giang, thập độc ác thế, tang thương khắp nơi, hàng trăm triệu người dân đã trở thành nô lệ của ĐCSTQ và tập đoàn Giang, họ bị tra tấn thân thể, uy hiếp tinh thần, cuộc sống cùng cực. Những học viên Pháp Luân Công coi trọng đạo đức làm người tốt, nhưng lại bị tước đoạt quyền sống, hơn 2.000 học viên Pháp Luân Công, những người bảo vệ nguyên lý “Chân, Thiện, Nhẫn”, đã bị cảnh sát Trung Quốc và tập đoàn của Giang sát hại bằng cách “đánh chết bị coi là tự sát”. Hàng trăm triệu học viên Pháp Luân Công, những người kiên định với chân lý của vũ trụ, đã bị đưa vào bệnh viện tâm thần, trại lao động, và nhà tù. Vô số học viên Pháp Luân Công đã bị tước đoạt quyền làm việc và quyền sống một cuộc sống gia đình bình thường. Hành động tàn bạo của ĐCSTQ và nhóm Giang đã khiến trời đất phẫn nộ, đã bị các vị Thần phán tội chết, chúng sắp bước vào cửa vô sinh rồi.

Đối mặt với cuộc đàn áp của ĐCSTQ và Giang Trạch Dân, các học viên Pháp Luân Công dùng các biện pháp ôn hòa dũng cảm nói cho công chúng biết rõ sự thật về cuộc đàn áp và vạch trần bản chất tà ác của ĐCSTQ và nhóm Giang. Sự kiên định và vị tha của các Thánh nhân Trung Hoa vào “Chân, Thiện, Nhẫn” thể hiện sự vô tư vô ngã, tiên tha hậu ngã, đại trí, đại thiện, đại nhẫn, so với những nữ sứ giả trong truyền thuyết hóa thành Kim Kê, Phượng Hoàng để bảo vệ “quả chân lý”, thì sự kiện này còn đặc biệt và tráng lệ hơn.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/32450

The post Truyền thuyết dân gian: Truyền thuyết về đỉnh Kim Kê và núi Phượng Hoàng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Thần Kim Giáp và thành Thiên Tânhttps://chanhkien.org/2025/03/truyen-thuyet-dan-gian-than-kim-giap-va-thanh-thien-tan.htmlSat, 22 Mar 2025 03:14:12 +0000https://chanhkien.org/?p=36868Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Trong dân gian, người ta gọi thành Thiên Tân là “thành Bàn Tính” vì thành phố này có chiều dài từ Đông sang Tây, và chiều ngang từ Bắc sang Nam giống như một chiếc bàn tính khổng lồ. Tương truyền kiến trúc này có liên quan đến Thần Kim […]

The post Truyền thuyết dân gian: Thần Kim Giáp và thành Thiên Tân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Trong dân gian, người ta gọi thành Thiên Tân là “thành Bàn Tính” vì thành phố này có chiều dài từ Đông sang Tây, và chiều ngang từ Bắc sang Nam giống như một chiếc bàn tính khổng lồ. Tương truyền kiến trúc này có liên quan đến Thần Kim Giáp.

Vào thời đầu triều đại nhà Minh, sau khi xây dựng kinh đô ở Bắc Kinh, Lưu Bá Ôn đã phát hiện ra ba mặt của Bắc Kinh được bao bọc bởi núi, chỉ có mặt phía Nam là vùng đồng bằng rộng lớn, không có gì che chắn. Ngoài ra, ông còn nhận thấy Thiên Tân có một vị trí quan trọng vì là nơi giao thoa giữa đường thủy và đường bộ, đóng vai trò then chốt trong việc giao thương giữa Bắc và Nam. Vì vậy, Lưu Bá Ôn quyết định xây dựng một thành trì tại đây, một là để bảo vệ Bắc Kinh, hai là để tăng cường thông thương giữa Bắc và Nam. Tuy nhiên, ông vẫn còn do dự về việc xây dựng thành trì ở đâu, và thiếu ngân sách cũng là một vấn đề lớn.

Vào một đêm không ngủ được, Lưu Bá Ôn ra ngoài đi dạo. Khi đi đến phía Nam của tam xá Hà Khẩu, ông bỗng nhìn thấy một người đứng sừng sững trước mặt mình, mặc áo giáp vàng, đội mũ vàng sáng lấp lánh. Lưu Bá Ôn biết ngay đây chính là vị Thần Kim Giáp trong truyền thuyết. Ông nhìn thấy Thần Kim Giáp tay trái nâng một chiếc trống vàng, tay phải cầm một bàn tính, ngồi ở đó không nói một lời. Khi Lưu Bá Ôn còn đang cảm thấy ngạc nhiên, thì vị Thần Kim Giáp đã biến thành một làn khói nhẹ và biến mất.

Ngày hôm sau, Lưu Bá Ôn cho người đào đất ở chỗ vị Thần mặc áo giáp vàng đã ngồi. Chẳng mấy chốc, họ đào được bốn viên gạch vàng hình vuông, mỗi viên dài hai thước ở bốn góc Đông, Tây, Nam, Bắc. Lưu Bá Ôn rất vui mừng, liền hạ lệnh xây dựng một tháp chuông cao ba tầng trên vị trí vị Thần mặc áo giáp vàng đã từng ngồi. Tòa tháp có bốn cửa, lần lượt được gọi là: Cung Bắc, Định Nam, Trấn Đông, An Tây. Tiếp theo, lấy tháp chuông làm trung tâm, người ta xây dựng một bức tường thành hình chữ nhật xung quanh theo hình dạng bàn tính mà vị Thần mặc áo giáp vàng cầm. Bức tường thành dài 504 trượng từ Đông sang Tây, rộng 324 trượng từ Bắc sang Nam, chu vi là chín dặm và 18 bước, trông giống như một chiếc bàn tính khổng lồ. Sau đó, lấy tháp chuông làm trung tâm, người ta mở bốn con đường, hai đầu của mỗi con đường, lần lượt là lầu chuông và cổng thành.

Đây chính là hình dạng ban đầu của thành phố Thiên Tân sau này.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48455

The post Truyền thuyết dân gian: Thần Kim Giáp và thành Thiên Tân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Ngũ Tiên ban lúa và Dương Thànhhttps://chanhkien.org/2025/03/truyen-thuyet-dan-gian-ngu-tien-ban-lua-va-duong-thanh.htmlFri, 21 Mar 2025 04:05:25 +0000https://chanhkien.org/?p=36861Tác giả: Thái Bình chỉnh lý [ChanhKien.org] Quảng Châu có nhiều biệt danh như Dương Thành (thành dê), Tiên Thành (thành Tiên), Tuệ Thành (thành lúa), tất cả đều bắt nguồn từ cùng một câu chuyện điển cố về Thần Tiên. Theo ghi chép trong tạp chí cũ của Quảng Châu, Chu Huệ Vương phong […]

The post Truyền thuyết dân gian: Ngũ Tiên ban lúa và Dương Thành first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thái Bình chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Quảng Châu có nhiều biệt danh như Dương Thành (thành dê), Tiên Thành (thành Tiên), Tuệ Thành (thành lúa), tất cả đều bắt nguồn từ cùng một câu chuyện điển cố về Thần Tiên.

Theo ghi chép trong tạp chí cũ của Quảng Châu, Chu Huệ Vương phong cho Hùng Tử Uẩn nước Sở cai quản vùng Lĩnh Nam. Nam Hải thần phục nước Sở, lập ra triều Sở, do đó Quảng Châu còn có tên gọi là “Sở Đình”.

Theo truyền thuyết, vào năm thứ tám đời Chu Di Vương (năm 887 TCN), Quảng Châu từng xảy ra một trận hạn hán kéo dài, đồng ruộng hoang tàn, mùa màng thất bát, người dân không đủ cái ăn cái mặc.

Một ngày, bầu trời Nam Hải bỗng vang lên một tiếng nhạc du dương, xuất hiện năm đám mây ngũ sắc, bên trên có năm vị Tiên nhân, mình khoác áo ngũ sắc, cưỡi trên những con dê có màu lông khác nhau, miệng mỗi con dê ngậm một bông lúa chín mọng sáu nhánh, hạ xuống Sở Đình. Người dân chỉ nghĩ là khách từ biển đến, nên đều ùa ra đón tiếp. Các vị Tiên nhân trao cho họ hạt giống, lại truyền thụ kỹ thuật trồng lúa, còn chúc phúc: “Mong nơi này mãi mãi không mất mùa”. Chúc xong, các vị Tiên nhân bay lên trời, năm con dê biến thành những hòn đá ngũ sắc. Từ đó, Quảng Châu trở thành nơi trù phú nhất ở Lĩnh Nam.

Để mãi tưởng nhớ những vị Tiên nhân và đàn dê đã truyền giống lúa tốt, người dân đã xây dựng một ngôi đền thờ năm vị Tiên trên vùng đất nơi đàn dê hoá đá. Trong đền có tượng năm vị Tiên, mỗi vị cầm một loại lúa khác nhau: lúa nếp, lúa tẻ, kê, lúa mạch. Còn có tượng năm con dê với bộ lông rực rỡ, có con đứng, có con ngồi, bên cạnh mỗi con là một hòn đá ngũ sắc có hình thù giống con dê, tương truyền là do năm con dê hóa thành.

Bài thơ “Ngũ Tiên dao” của Quách Tường Chính đời Tống viết rằng:

Phiên vũ ngũ Tiên nhân,

Kỵ dương các nhất sắc.

Thủ trì lục củ tuệ,

Cao tường nhiễu thành bích.

Phiên nhiên khứ thừa vân,

Chư dương hóa vi thạch.

Chí kim lưu không từ,

Dị tượng do khả thức.

Dịch nghĩa:

Năm vị Tiên ở Phiên Ngung,

Mỗi người cưỡi một con dê màu khác nhau.

Tay cầm bông lúa sáu nhánh,

Bay lượn quanh tường thành.

Bỗng nhiên cưỡi mây bay đi,

Đàn dê biến thành đá.

Nay còn lại đền thờ vắng vẻ,

Hình ảnh kỳ lạ vẫn còn nhận ra.

Từ sau đời Tống, đền Ngũ Tiên đã trải qua nhiều lần di dời, đến đời Minh thì được chuyển đến vị trí hiện tại ở đường Phố Tây, Hụi Phúc, Quảng Châu. Cho đến nay, đền vẫn là một danh thắng nổi tiếng của thành phố Dương Thành, thu hút du khách thập phương. Tuy nhiên, thật đáng tiếc là năm hòn đá ngũ sắc do đàn dê hóa thành đã bị thất lạc theo dòng thời gian.

Về sau, người dân lại dựng tượng năm con dê tại núi Việt Tú, Quảng Châu, như muốn nhắc nhở mọi người về nguồn gốc tên gọi “Dương Thành”. Con dê dẫn đầu ở vị trí chính giữa miệng ngậm bông lúa, chính là lý do Quảng Châu được gọi tắt là “Tuệ”. Năm con dê dưới cằm có bộ râu đẹp, ngẩng đầu hướng về bầu trời phương Nam, như đang kể cho mọi người nghe câu chuyện thú vị này.

Tại Nam Quốc Hoa thành được Tiên nhân ban phúc, ngài Lý Hồng Chí, người sáng lập Pháp Luân Công, đã từng giảng Pháp và hồng truyền Pháp Luân Công ở đây. Báo Tuổi Trẻ số ra ngày 10 tháng 11 năm 1998 đã đăng tải bài báo “Già trẻ cùng luyện Pháp Luân Công” báo cáo về hoạt động luyện công tập thể của 5.000 học viên Pháp Luân Công tại các địa điểm như vườn hoa liệt sỹ Quảng Châu và một số nơi khác. Người luyện công đến từ nhiều ngành nghề khác nhau, người lớn tuổi nhất 93 tuổi, trẻ nhất chỉ mới hai tuổi, qua đó có thể thấy mức độ phổ biến của Pháp Luân Công tại Quảng Châu vào thời điểm đó.

Không ngờ, vào năm 1999, ĐCSTQ bắt đầu đàn áp một cách điên cuồng nhóm học viên Pháp Luân Công thiện lương, những người tu luyện tuân theo nguyên lý “Chân-Thiện-Nhẫn”. Các cơ sở như trại lao động Bạch Vân, Quảng Châu, Cục Cảnh sát công an thành phố Quảng Châu, trại giam Đường Hạ, quận Thiên Hà, Quảng Châu, trại lao động nữ Bạch Vân, Quảng Châu, nhà tù Bạch Vân, Quảng Châu, nhà tạm giam Thiên Hà, Quảng Châu, đại học sư phạm Hoa Nam, đại học Tế Nam, v.v đã tham gia vào cuộc đàn áp Pháp Luân Công do Giang Trạch Dân khởi xướng, sát hại tàn bạo các học viên Pháp Luân Công. Cao Hiến Dân, giáo viên sinh học tại đại học Tế Nam ở Quảng Châu là một đệ tử Pháp Luân Đại Pháp, vào ngày 18 tháng 01 năm 2000 ông đã bị công an tra tấn, họ bịt mũi ông bằng một chiếc khăn ướt và đổ nước muối đậm đặc cho đến chết.

Thành phố được Thần ban phúc này vì thế mà hổ thẹn, trời vì thế mà nổi giận. Vào ngày 14 tháng 08 năm 2001, trong cơn giông bão dữ dội, tượng con dê đầu đàn trong tác phẩm điêu khắc biểu tượng của thành phố Quảng Châu – tượng Ngũ Dương tọa lạc tại công viên Việt Tú, Quảng Châu – đã bị sét đánh trúng, khiến một chiếc sừng dê bị gãy.

Thần đang cảnh tỉnh thế nhân không nên làm điều ác trái ý trời.

(Nguồn tư liệu: Truyền thuyết Dương Thành và các tư liệu khác)

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/53253

The post Truyền thuyết dân gian: Ngũ Tiên ban lúa và Dương Thành first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Na Tra và thành Bắc Kinhhttps://chanhkien.org/2025/03/truyen-thuyet-dan-gian-na-tra-va-thanh-bac-kinh.htmlWed, 19 Mar 2025 04:47:14 +0000https://chanhkien.org/?p=36842Tử Tự sưu tầm [ChanhKien.org] Truyền thuyết kể rằng Bắc Kinh còn có tên gọi là “Thành Bát Tý Na Tra” (nghĩa là Thành Na Tra tám tay), vì sao lại có tên gọi này? Nguyên lai là do Chu Đệ, con trai thứ tư của vị vua khai quốc nhà Minh Chu Nguyên Chương, […]

The post Truyền thuyết dân gian: Na Tra và thành Bắc Kinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tử Tự sưu tầm

[ChanhKien.org]

Truyền thuyết kể rằng Bắc Kinh còn có tên gọi là “Thành Bát Tý Na Tra” (nghĩa là Thành Na Tra tám tay), vì sao lại có tên gọi này? Nguyên lai là do Chu Đệ, con trai thứ tư của vị vua khai quốc nhà Minh Chu Nguyên Chương, lên ngôi sau khi trải qua chiến dịch Tĩnh Lan, ông muốn xây dựng kinh thành ở Bắc Kinh nên đã cử Bộ Công đi thực hiện việc này. Nhưng có vị đại thần tâu lên với vua rằng: “Nơi này vốn là chốn khổ hải U Châu, ở đây có một con ác long vô cùng hung hãn. Xin hãy cho các quân sư chế ngự con ác long trước, sau đó mới có thể xây dựng thành trì”. Thế là Chu Đệ hỏi các quân sư: “Ai trong các khanh có thể đi xây dựng kinh đô cho ta?” Đại quân sư Lưu Bá Ôn xung phong nhận: “Thần sẽ đi”. Nhị quân sư Diệu Quảng Hiếu không chịu thua kém cũng muốn đi. Hoàng đế rất vui mừng, ông biết hai vị quân sư đều có khả năng trừ yêu diệt ma, nên cử hai người đi xây dựng thành Bắc Kinh.

Sau khi nhận được thánh chỉ, Lưu Bá Ôn và Diệu Quảng Hiếu đến Bắc Kinh để khảo sát địa hình, suy tính xây dựng thế nào để ngăn chặn con ác long làm loạn. Cả Lưu và Diệu đều muốn tranh công đầu, nên Lưu nói: “Diệu nhị quân sư, giờ chúng ta thế này nhé, ông khảo sát ở phía Tây, tôi khảo sát ở phía Đông, mỗi người nghĩ cách xây thành theo ý của mình, sau mười ngày chúng ta gặp nhau đưa bản đồ mình vẽ, xem ý tưởng của chúng ta có giống nhau không”. Diệu nói: “Được”. Thế là hai người chia nhau ra, hàng ngày họ đều ra ngoài quan sát địa hình. Nhưng kỳ lạ là hàng ngày hai người đều nghe thấy trong tai có tiếng nói của một đứa trẻ: “Vẽ theo lời ta nói, chẳng phải là thành rồi sao!” Họ đến đâu cũng thấy một đứa trẻ mặc áo đỏ xuất hiện trước mặt. Đến ngày thứ năm, hai người lại gặp đứa trẻ, nhưng lần này nó đã thay bộ khác, khoác lên mình chiếc áo choàng viền tua rua, hai bên vai có viền bằng dải lụa đỏ, gió thổi qua trông như có mấy cánh tay. Lúc này, cả hai đều hiểu ra: đây chính là Na Tra tám tay.

Lưu Bá Ôn thầm nghĩ: “Bản đồ mà Na Tra bảo ta vẽ nhất định là bản đồ kinh thành để khuất phục con ác long!” Diệu Quảng Hiếu cũng nghĩ như vậy, nhưng hai người đều không nói ra. Đến ngày thứ mười, hai người gặp nhau, mỗi người tự lấy ra tấm bản đồ mình vẽ, không ngờ lại giống nhau y hệt, đều là “Thành Na Tra tám tay”. Hai người bật cười ha hả, liền mang bản đồ đến bẩm báo với hoàng thượng, họ quyết định xây dựng thành Bắc Kinh theo bản đồ này. Cũng vì vậy mà thành Bắc Kinh có tên gọi khác là “Thành Na Tra tám tay”.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/53253

The post Truyền thuyết dân gian: Na Tra và thành Bắc Kinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Truyền thuyết về núi Vũ Dihttps://chanhkien.org/2025/03/truyen-thuyet-dan-gian-truyen-thuyet-ve-nui-vu-di.htmlFri, 14 Mar 2025 04:25:19 +0000https://chanhkien.org/?p=36792Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Núi Vũ Di tọa lạc tại khu vực Tây Bắc tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, từ lâu đã được mệnh danh là “Kỳ quan đẹp nhất Đông Nam”. Về nguồn gốc tên gọi của ngọn núi này, dân gian lưu truyền một truyền thuyết như sau: Truyền thuyết kể rằng […]

The post Truyền thuyết dân gian: Truyền thuyết về núi Vũ Di first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Núi Vũ Di tọa lạc tại khu vực Tây Bắc tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, từ lâu đã được mệnh danh là “Kỳ quan đẹp nhất Đông Nam”. Về nguồn gốc tên gọi của ngọn núi này, dân gian lưu truyền một truyền thuyết như sau:

Truyền thuyết kể rằng vào thời xa xưa có một vị tiên nhân tên là Bành Tổ cư ngụ trên ngọn núi này để tu hành. Ông đói thì ăn nấm linh chi, khát thì uống nước suối. Cùng tu hành với ông còn có hai người con trai của ông, một người tên là Khanh Vũ, người kia tên là Khanh Di.

Khi Bành Tổ 880 tuổi, ông đã tu thành tiên bay lên trời. Trước khi rời đi, ông dặn dò hai người con trai phải tạo phúc cho người dân. Để giúp người dân trong vùng thoát khỏi thiên tai, Khanh Vũ và Khanh Di đã hướng dẫn họ đi khai phá núi, đào sông, đồng thời trồng nhiều loại hoa cỏ quý trên núi. Nơi đây dần trở thành một nơi có phong cảnh mỹ lệ chốn trần gian. Để tưởng nhớ công lao của Khanh Vũ và Khanh Di, người dân đã lấy một chữ trong tên của mỗi người ghép lại, đặt tên cho ngọn núi này là “Núi Vũ Di”. Con sông họ đào trước đây chính là suối Cửu Khúc sau này.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48621

The post Truyền thuyết dân gian: Truyền thuyết về núi Vũ Di first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Đêm Thất Tịch nghe câu chuyện Chức Nữhttps://chanhkien.org/2025/02/truyen-thuyet-dan-gian-dem-that-tich-nghe-cau-chuyen-chuc-nu.htmlSun, 23 Feb 2025 03:30:27 +0000https://chanhkien.org/?p=36608Tác giả: Vân Tiêu [ChanhKien.org] Tôi không biết nhiều về ngày Thất Tịch, chỉ nhớ hai tháng trước có người muốn lấy ngày này làm ngày lễ tình nhân của Trung Quốc, nhưng sau đó cũng không thấy nói đến nữa. Tôi đã biết câu chuyện Ngưu Lang Chức Nữ từ rất lâu rồi, đặc […]

The post Truyền thuyết dân gian: Đêm Thất Tịch nghe câu chuyện Chức Nữ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Vân Tiêu

[ChanhKien.org]

Tôi không biết nhiều về ngày Thất Tịch, chỉ nhớ hai tháng trước có người muốn lấy ngày này làm ngày lễ tình nhân của Trung Quốc, nhưng sau đó cũng không thấy nói đến nữa.

Tôi đã biết câu chuyện Ngưu Lang Chức Nữ từ rất lâu rồi, đặc biệt cảm thấy tiếc nuối cho kết cục của họ. Truyền thuyết kể rằng, Chức Nữ và Ngưu Lang vốn đã được se duyên làm vợ chồng, nhưng Thiên giới lại sai người bắt Chức Nữ trở về Thiên đình. Ngưu Lang đau khổ vô cùng, bèn khoác lên mình bộ da trâu đuổi theo. Kỳ lạ thay, anh cũng có thể cưỡi mây bay thẳng lên trời. Ngay khi sắp đuổi kịp, Vương Mẫu bỗng rút trâm cài đầu, hất một cái về phía sau, dải ngân hà bỗng xuất hiện trước mắt Ngưu Lang cản đường. Dù vậy, cuối cùng cũng xuất hiện một hy vọng, đó là hàng năm vào ngày mùng 07 tháng 07 âm lịch, họ vẫn có thể gặp nhau trên cầu Ô Thước (cây cầu do con chim ô và chim thước kết cánh tạo ra).

Cho nên dân gian tương truyền, việc Chức Nữ trở về cung Dao Trì (nơi ở của Tây Vương Mẫu) và Ngưu Lang quay lại trần gian ắt hẳn là một việc đau khổ thấu tâm cam. Có lẽ chính vì thấy Chức Nữ ngày ngày sầu bi, không vui vẻ nên Thiên Đế mới đặc biệt cho phép nàng được gặp Ngưu Lang mỗi năm một lần. Vì vậy, người ta cho rằng Thiên Đế tuy vô tình nhưng vẫn yêu thương con cái, tình yêu giữa người và Thần thật mỹ diệu nhưng lại chủ định phải chịu số phận sầu thảm.

Khi tôi còn nhỏ, bà tôi từng nói với tôi rằng, vào ngày Thất Tịch, nếu trốn dưới giàn nho nghe ngóng thì có thể nghe thấy tiếng đôi trẻ thì thầm; nếu nhìn lên trời xanh sẽ có thể thấy cầu Ô Thước rực rỡ như cầu vồng; chí ít, ở nông thôn thường thấy những con chim sẻ, chim sáo thì vào ngày này cũng không thấy đâu, có lẽ vì phải bay đi xây cầu. Tôi đã kiểm chứng từ các góc độ khác nhau, và cuối cùng kết luận rằng điều này là đúng.

Tôi tin rằng câu chuyện thần thoại này không phải là hư cấu. Hơn nữa, cách đây 10 năm vào ngày Thất Tịch, tôi đã mơ thấy được lên Thiên đình. Chức Nữ quả nhiên ở Dao Trì, và Ngưu Lang vốn cũng là một vị Tinh Quân (vị Thần trông coi các vì sao). Bản thân tôi vốn nghĩ rằng Chức Nữ sẽ thổn thức bày tỏ nỗi sầu vì phải xa cách Ngưu Lang. Nào ngờ, nàng không hề buồn rầu, mà ngược lại còn vô cùng biết ơn Thiên Đế đã cho họ cơ hội gặp lại nhau. Ngưu Lang cũng như Chức Nữ, sau trăm năm đã trở về vị trí ban đầu, đều vui mừng khôn xiết.

Tôi hỏi: “Có phải các bạn đã bị Thiên Đế tẩy não, quên mất sân khấu nhân gian rồi chăng?”

Nàng nói: “Khi đến nhân gian, chúng tôi đã bị tẩy não rồi, nên mới chấp trước vào tình cảm giống con người”.

Tôi hỏi: “Các bạn có biết, con người thế gian nói gì về các bạn không?”

Nàng đáp: “Chúng tôi vốn dĩ vì họ mà đến, họ lại hiểu lầm chúng tôi”.

Tôi như ở trong sương mù, chỉ đành nài nỉ nàng kể lại sự thật. Chức Nữ không còn cách nào khác, đành từ từ kể cho tôi nghe:

“Ta là Dao Nữ trên trời, còn chàng là một vị Tinh Quân. Vào một ngày, khi chúng tôi quan sát hồng trần từ những góc độ khác nhau, mới nhận ra rằng thế nhân cùng với sự phát triển của thế giới vật chất, đã dần dần mất đi luân thường đạo lý trong hôn nhân. Ngoài truy cầu lợi ích và dục vọng thể xác ra, con người cơ bản không trân trọng tình cảm quý báu của sinh mệnh trên thế gian này. Nhưng Thiên đình đã sớm đặt ra tiêu chuẩn nghiêm ngặt cho con người. Nếu con người ngày càng bại hoại thì họ sẽ không còn lý do để tiếp tục tồn tại nữa. Lúc đó các vị Thần đều vô cùng tức giận, đều nói nên giáng tai họa diệt vong. Hẳn ngươi đã nghe nói vào thời thượng cổ từng xảy ra một trận đại hồng thủy ập đến khắp nơi trên thế giới. Đó chính là báo ứng cho sự sa đoạ đạo đức của con người thời đó.

Ta và Ngưu Lang không đành lòng, muốn cho con người một cơ hội. Sau khi bàn bạc kỹ lưỡng, Ngưu Lang đã xuống hạ giới đầu thai trước. Các vị Thần đều cảm động trước lòng từ bi của chúng ta, nên muốn hết sức giúp đỡ. Trong đó, Thái Thượng Lão Quân đã nhường lại con trâu xanh mà ông cưỡi, bảo nó đi theo Ngưu Lang để làm hộ pháp, khi nào viên mãn sẽ tự về trời.

Nói về Ngưu Lang ở trần thế, chàng đã chọn đầu thai vào một gia đình vô cùng nghèo khó. Khi cha mẹ qua đời, anh chỉ được anh trai và chị dâu chia cho một con trâu già. Dù đã chịu đựng đủ khổ cực và bị ngược đãi, nhưng với bản tính hiền lành, thành thật và nhẫn nhịn, anh không oán, không hận, không ghi nhớ, không báo thù, chỉ sống nương tựa vào con trâu già. Thực ra, quãng thời gian này của chàng và toàn bộ câu chuyện sau này đều có ý nghĩa sâu xa.

Thứ nhất, Ngưu Lang là tấm gương để cho con người biết thế nào là ‘hiếu’, thế nào là ‘đễ’, và thế nào là những nguyên tắc quan trọng nhất, chính trực nhất để lập thân, xử thế.

Thứ hai, việc Chức Nữ trở thành vợ của Ngưu Lang là muốn cho con người hiểu rằng, thứ mà Thần coi trọng ở con người không phải là tiền tài, quyền lực hay nhà cao cửa rộng, mà là phẩm chất đạo đức. Phẩm chất đạo đức thuần khiết và chân thành có thể trực tiếp cảm động đến Thiên đình.

Thứ ba, cả hai muốn thể hiện cho con người biết thế nào là tình yêu sâu nặng, chung thủy sắt son. Khi một người con gái đã giao phó cả cuộc đời cho người đàn ông thì anh ấy cũng phải có trách nhiệm yêu thương và chung thủy với cô ấy trọn đời. Khi cuộc sống hôn nhân gặp phải những thử thách, họ cũng có thể vượt qua mọi chướng ngại bằng tình cảm chân thành.

Thứ tư, việc Vương Mẫu bắt Chức Nữ trở về trời là muốn cho mọi người biết rằng luật lệ của Thiên đình vô cùng nghiêm ngặt, tiêu chuẩn của Thần cao hơn nhiều so với con người. Người và Thần có sự khác biệt lớn, tình yêu của Thần không phải là điều mà con người có thể tùy tiện suy đoán.

Thứ năm, việc Thiên Đế cho phép Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau vào ngày Thất Tịch là để cho bi kịch này lưu lại dư âm mạnh mẽ cho con người, khiến con người không dễ lãng quên, cho tất cả con người trên thế gian một cơ hội nhìn nhận lại và càng thêm trân trọng tình yêu và hôn nhân của mình.

Tóm lại, việc các vị Thần xuống nhân gian diễn câu chuyện tình nghĩa vợ chồng cao thượng không phải xuất phát từ tình cảm con người, mà là vì lòng từ bi. Đương nhiên, họ phải mượn tình cảm con người làm cầu nối cho bi kịch, mới có thể tạo ra cho con người một không gian mê, đồng thời lưu lại một ấn tượng sâu sắc”.

Tôi hỏi: “Liệu truyền thuyết về Đổng Vĩnh và Thất Tiên Nữ cũng có điểm tương đồng với câu chuyện này không?”

Cô ấy nói: “Đúng vậy. Cũng chính vì tầm quan trọng của đạo vợ chồng mà Thần mới liên tục diễn những câu chuyện tương tự như vậy”.

Tôi hỏi tiếp: “Nhưng ngày nay, ai còn có thể hiểu được những nội hàm thực sự của những câu chuyện này?”

Cô ấy trả lời: “Đó cũng chính là lý do tại sao hiện nay ngày Thất Tịch không được coi trọng như trước. Thực ra, Ngưu Lang và bản thân ta hà tất phải than thở vì mối tình dang dở ấy. Từ trước đến nay điều chúng ta cảm thấy buồn chính là nhân tâm ngày càng trượt dốc”.

Tôi nói: “Tôi hiểu rồi, nếu như Vương Mẫu không bắt nàng về, có lẽ hai người cũng sẽ lạc lối tại nhân gian con người”.

Chức Nữ mỉm cười không nói, có lẽ đã ngầm thừa nhận lời nói của tôi.

Tỉnh giấc chiêm bao, đêm Thất Tịch đã qua. Mỗi người đều có cuộc sống riêng, đều có niềm vui riêng, như thể chưa từng nghe đến câu chuyện về Chức Nữ. Vậy sao lại chỉ cho tôi thấy giấc mơ này? Một ý nghĩ lóe lên, tôi liền quyết định ghi lại giấc mơ này.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/33424

The post Truyền thuyết dân gian: Đêm Thất Tịch nghe câu chuyện Chức Nữ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của câu “Đừng động thổ trên đầu Thái Tuế”https://chanhkien.org/2025/02/truyen-thuyet-dan-gian-nguon-goc-cua-cau-dung-dong-tho-tren-dau-thai-tue.htmlMon, 17 Feb 2025 04:16:34 +0000https://chanhkien.org/?p=36557Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Người ta thường nói “Đừng động thổ trên đầu Thái Tuế”, nghĩa là bạn không thể dùng trứng chọi đá, hay động chạm đến những người hoặc sự việc mà mình không đủ sức đối phó. Vậy rốt cuộc thì “Thái Tuế” là gì? Theo ghi chép lịch sử, Thái […]

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của câu “Đừng động thổ trên đầu Thái Tuế” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Người ta thường nói “Đừng động thổ trên đầu Thái Tuế”, nghĩa là bạn không thể dùng trứng chọi đá, hay động chạm đến những người hoặc sự việc mà mình không đủ sức đối phó. Vậy rốt cuộc thì “Thái Tuế” là gì?

Theo ghi chép lịch sử, Thái Tuế còn được gọi là Thái Tuế Tinh Quân hoặc Tuế Quân, cụ thể là chỉ Sao Mộc trên trời. Trước thời Chiến Quốc, dựa vào quỹ đạo chuyển động của Sao Mộc, người ta chia bầu trời lần lượt từ Bắc sang Tây, Nam, Đông thành mười hai phần. Do Sao Mộc đi hết quỹ đạo một vòng mười hai tháng nên người xưa gọi Sao Mộc là Tuế Tinh hoặc Thái Tuế. Người xưa tin rằng mỗi một hành tinh (ngôi sao) đều có thần linh cai quản, do đó Thái Tuế Tinh Quân được dân gian tôn thờ là vị Thần cai quản năm. Trong cuốn tiểu thuyết thần thoại Phong Thần diễn nghĩa, con trai của Vua Trụ là Ân Giao được tôn là Thần Thái Tuế cai quản năm, phụ trách việc tốt xấu trong năm. Dương Nhậm là Thần Thái Tuế Giáp Tý, chịu trách nhiệm giám sát hành vi của nhân gian. Khi Sao Thái Tuế trên trời di chuyển đến khu vực nào thì ở khu vực tương ứng dưới lòng đất sẽ có một vật hình dạng như miếng thịt, đó chính là hóa thân của Thái Tuế. Nếu động thổ ở khu vực này sẽ làm kinh động đến Thái Tuế, đụng chạm đến thần linh, sẽ gặp tai họa.

Thái Tuế hoá thân trong thế giới con người thế nào? Trong Sơn Hải Kinh, một cuốn sử sách thần thoại thời đầu Trung Quốc, hóa thân của Thái Tuế trong nhân gian là “nhục nguyên” và “thị nhục”. Cuốn sách ghi lại: “Nhục nguyên có mắt nhưng không có dạ dày, trông khá giống Ma Lặc Pha, trông rất kỳ lạ, ăn vào có vị nhạt nhẽo”. Nhà học giả thời nhà Tấn, Quách Phác, trong phần chú thích sách Sơn Hải Kinh đã giải thích về “thị nhục” như sau: “Hình cục thịt, giống gan bò, có hai mắt. Ăn mãi không hết, ăn rồi lại mọc như cũ. Học giả thời Đường, Vu Thế Nam, trong tác phẩm Bắc Đường Thư Sao, đã chép lại ghi chép từ Lâm Hải Dị Vật Chí về “thổ nhục”, nội dung mô tả như sau: “Thổ nhục màu đen tuyền, to như một đứa trẻ sơ sinh, tay dài năm tấc. Có bụng nhưng không có miệng và mắt, có 30 chân, lớn như thân cây trâm, có thể ăn được”. Danh y nổi tiếng thời Minh, Lý Thời Trân, trong Bản Thảo Cương Mục, đã xếp “nhục nguyên” vào loại “thượng phẩm” trong dược điển, và mô tả về “nhục nguyên” như sau: “Nhục nguyên là một loài sinh vật có hình dạng giống như cục thịt, bám vào những tảng đá lớn, có đầu và đuôi. Có loại màu đỏ giống san hô, loại màu trắng như cục mỡ, loại màu đen như cây sơn, loại màu vàng như vàng tía”.

Theo sách Luận Hành của Vương Sung thời nhà Hán, từ thời Tây Hán người ta đã tin rằng khi động thổ xây nhà, di dời, cưới gả, v.v, cần phải tránh những phương vị mà Thái Tuế đi qua. Câu nói “Đừng động thổ trên đầu Thái Tuế” phản ánh sự tôn kính của người xưa đối với thần linh. Trong sách cổ cũng có ghi chép về những trường hợp không tin vào câu nói này mà gặp phải báo ứng, như trong cuốn sách Du Dương Tạp Tỏa thời Đường có ghi chép: “Có một người tên là Vương Phong, đào hố trên đầu Thái Tuế, thấy một khối thịt to bằng con bò đang chầm chậm di chuyển, vội lấp đi, khối thịt càng lấp càng to lên. Vương Phong sợ hãi bỏ đi. Sau một đêm, khối thịt to kín cả nhà. Các anh chị em của Vương Phong chết đột ngột trong vòng vài ngày, chỉ còn lại một cô con gái”.

Việc thờ cúng Thái Tuế ban đầu không được ghi chép trong điển lễ quốc gia, cho đến khoảng thời nhà Nguyên mới trở thành một nghi thức cúng tế quốc gia. Sang thời nhà Minh, người ta còn lập riêng đàn tế. Về sau, Thái Tuế trở thành một trong những vị Thần của Đạo giáo và được dùng trong “Thần sát luận” để dự đoán vận mệnh con người. Ví dụ, thông thường nếu năm sinh của một người tương đồng với năm Thái Tuế thì dân gian gọi là phạm Thái Tuế, còn nếu năm sinh trùng với năm Thái Tuế thì gọi là xung Thái Tuế. Đây chính là nguồn gốc của câu nói “Đừng động thổ trên đầu Thái Tuế”.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48159

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của câu “Đừng động thổ trên đầu Thái Tuế” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Nhị tướng Hanh Cáphttps://chanhkien.org/2025/02/truyen-thuyet-dan-gian-nhi-tuong-hanh-cap.htmlSun, 09 Feb 2025 02:15:07 +0000https://chanhkien.org/?p=36492Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Nhị tướng Hanh Cáp, còn gọi là “Nhị đại Kim Cang”, là hai vị Thần hộ Pháp trong Phật giáo, mọi người thường thấy hình tượng hai vị Thần này trong các sơn môn (cổng chính, còn gọi là cửa tam quan) tại các chùa chiền. Họ có tướng mạo […]

The post Truyền thuyết dân gian: Nhị tướng Hanh Cáp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Nhị tướng Hanh Cáp, còn gọi là “Nhị đại Kim Cang”, là hai vị Thần hộ Pháp trong Phật giáo, mọi người thường thấy hình tượng hai vị Thần này trong các sơn môn (cổng chính, còn gọi là cửa tam quan) tại các chùa chiền. Họ có tướng mạo rất uy nghiêm, đầu đội vương quyền, tay cầm chùy kim cương, Thần Kim Cang bên trái vẻ mặt tức giận mở miệng, Thần Kim Cang bên phải vẻ mặt vui vẻ miệng ngậm.

“Nhị đại Kim Cang” được gọi là nhị tướng Hanh Cáp bắt đầu từ thời nhà Tống. Theo tác phẩm Ngô Thuyền Lục của nhà văn thời Tống Phạm Thành Đại ghi chép lại, ở hai bên sơn môn điện trong các chùa Phật giáo có hai tượng Kim Cang, gọi là “nhị tướng Hanh Cáp”. Vào thời Minh, nhị tướng Hanh Cáp xác thực chỉ hai vị Trịnh Luân và Trần Kỳ.

Trong cuốn tiểu thuyết thần thoại “Phong Thần diễn nghĩa” có viết: Trịnh Luân vốn dĩ là người quản lý ngũ cốc của Thương Trụ Vương, từng bái chân nhân Đắc Ách trên núi Tây Côn Luân làm thầy. Trịnh Luân từ lỗ mũi thở ra hai luồng khí, khi hít vào hai lỗ mũi rung lên như tiếng chuông, còn có thể phóng ra hai luồng ánh sáng trắng hút lấy hồn phách của người khác khiến người đó mất ngay sinh mạng. Trong cuộc chiến Chu Thương, Trịnh Luân thường xuyên sử dụng chiến thuật hít mũi để đánh bại quân Chu. Sau đó, ông bị tướng Chu bắt giữ và trở thành tướng lĩnh của nhà Chu. Trong một trận chiến, Trịnh Luân đã bị tướng nhà Thương giết hại. Còn Trần Kỳ từng là quan giám sát lương thảo cho Vua Trụ nhà Thương. Ông được một dị nhân truyền cho bí thuật luyện một luồng khí vàng trong bụng. Khi há miệng thét, luồng khí vàng sẽ phun ra, khiến người khác nhìn thấy hồn bay phách lạc. Trong các trận chiến với quân Chu, Trần Kỳ thường sử dụng chiến thuật hét ra khí mà giành chiến thắng. Sau đó, ông bị tướng nhà Chu là Na Tra đâm chết. Sau khi nhà Chu tiêu diệt nhà Thương, Khương Tử Nha phong Thần, phong Trịnh Luân và Trần Kỳ làm Thần canh giữ sơn môn ở chùa chiền, bảo hộ Phật Pháp.

Đây chính là lai lịch của nhị tướng Hanh Cáp.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48160

The post Truyền thuyết dân gian: Nhị tướng Hanh Cáp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Ý nghĩa của câu “Thọ tỷ Nam Sơn bất lão tùng”https://chanhkien.org/2025/02/truyen-thuyet-dan-gian-y-nghia-cua-cau-tho-ty-nam-son-bat-lao-tung.htmlSun, 02 Feb 2025 00:45:43 +0000https://chanhkien.org/?p=36342Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Người Trung Quốc khi chúc thọ người cao tuổi thường đặc biệt thích nói câu “Chúc ông bà phúc như Đông Hải trường lưu thủy, thọ tỷ Nam Sơn bất lão tùng” (Phúc cuồn cuộn như nước biển Đông Hải, thọ như cây tùng bất lão trên núi Nam Sơn). […]

The post Truyền thuyết dân gian: Ý nghĩa của câu “Thọ tỷ Nam Sơn bất lão tùng” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Người Trung Quốc khi chúc thọ người cao tuổi thường đặc biệt thích nói câu “Chúc ông bà phúc như Đông Hải trường lưu thủy, thọ tỷ Nam Sơn bất lão tùng” (Phúc cuồn cuộn như nước biển Đông Hải, thọ như cây tùng bất lão trên núi Nam Sơn). Núi Nam Sơn ở đây ám chỉ ngọn núi Nam ở đảo Hải Nam. Nước biển Đông Hải cuồn cuộn chảy không ngừng là điều tất nhiên, nhưng rất nhiều người không biết cây tùng bất lão ở núi Nam Sơn thực chất là loài cây gì và nó sống được bao lâu.

Trên thực tế, cây tùng bất lão trên núi Nam Sơn có tên khoa học là cây huyết rồng. Tại sao nó được gọi là cây “tùng bất lão”? Thì ra gỗ của cây huyết rồng rất mềm và xốp, thân cây rỗng, trên thân cây có nhiều lỗ. Do đó, nó không thể dùng làm cột trụ hoặc làm củi đốt vì gỗ của nó chỉ khói chứ không cháy. Do loại cây này không có lợi ích gì nên nó còn được gọi là “cây bất tài”. Do đó, nó có thể trường sinh bất lão.

Trong dân gian còn lưu truyền một truyền thuyết cho rằng núi Nam Sơn là nơi có động Thiên Phúc của Đạo giáo, nơi cư ngụ của các vị tiên nhân. Mọi người hy vọng có thể trường sinh bất lão như các tiên nhân, cho nên hàng nghìn năm qua con người luôn mong tìm được động Thiên Phúc này, nhưng đó nào phải là thứ mà những kẻ phàm phu tục tử có thể nhìn thấy được? Trên thế gian chỉ có tu luyện mới có thể đạt được sự trường sinh bất lão thực sự.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/47833

The post Truyền thuyết dân gian: Ý nghĩa của câu “Thọ tỷ Nam Sơn bất lão tùng” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Câu đối gỗ đào trừ tàhttps://chanhkien.org/2025/02/truyen-thuyet-dan-gian-cau-doi-go-dao-tru-ta.htmlSat, 01 Feb 2025 00:36:34 +0000https://chanhkien.org/?p=36264Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Vào ngày mùng Một tháng Giêng âm lịch trong dịp tết truyền thống ở Trung Quốc, người ta thường dùng gỗ cây đào làm thành hai câu đối dán hai bên cửa lớn, bên trên vẽ thêm một cây sậy, ở giữa vẽ một con gà trống để trừ tà. […]

The post Truyền thuyết dân gian: Câu đối gỗ đào trừ tà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Vào ngày mùng Một tháng Giêng âm lịch trong dịp tết truyền thống ở Trung Quốc, người ta thường dùng gỗ cây đào làm thành hai câu đối dán hai bên cửa lớn, bên trên vẽ thêm một cây sậy, ở giữa vẽ một con gà trống để trừ tà. Phong tục này có ý nghĩa gì?

Theo sách “Kim Lâu Tử” của vua Lương Hiếu Nguyên Đế Tiêu Ích ghi chép: Tương truyền ở phía Đông Nam Trung Nguyên có một ngọn núi tên là núi Đào Đô, trên núi có một cây đào lớn, có gà trời cư ngụ trên cây.

Hàng ngày khi mặt trời mọc, những tia nắng đầu tiên chiếu sáng cây đào. Lúc này, gà trời bắt đầu cất tiếng gáy. Tiếng gáy của nó vang vọng khắp thiên hạ, khiến cho tất cả các con gà trống khác cũng cất tiếng gáy theo. Dưới gốc cây đào có hai vị quỷ thần canh gác, tay cầm dây sậy, đứng đối diện nhau, cùng nhau bảo vệ cây đào. Khi có tà ma đến gần, hai vị quỷ thần sẽ dùng dây sậy bắt lấy chúng và ăn thịt.

Đây có lẽ là lý do tại sao người ta dùng cành đào và đặt gà trống vào giữa cây sậy để làm bùa trừ tà.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/47776

The post Truyền thuyết dân gian: Câu đối gỗ đào trừ tà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Thần tuần hành đêmhttps://chanhkien.org/2025/01/truyen-thuyet-dan-gian-than-tuan-hanh-dem.htmlWed, 29 Jan 2025 00:14:32 +0000https://chanhkien.org/?p=36126Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Thần tuần hành đêm, trong tín ngưỡng dân gian là vị Thần cai quản màn đêm. Ghi chép sớm nhất về vị Thần tuần hành đêm xuất hiện trong “Sơn Hải Kinh – Hải Ngoại Nam Kinh”, nói rằng có 16 vị Thần vai kề vai phụng mệnh Thiên đế […]

The post Truyền thuyết dân gian: Thần tuần hành đêm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Thần tuần hành đêm, trong tín ngưỡng dân gian là vị Thần cai quản màn đêm. Ghi chép sớm nhất về vị Thần tuần hành đêm xuất hiện trong “Sơn Hải Kinh – Hải Ngoại Nam Kinh”, nói rằng có 16 vị Thần vai kề vai phụng mệnh Thiên đế trông coi vào ban đêm, họ có ngoại hình “gò má nhỏ, vai để trần”. Sách “Hoài Nam Tử – Toái Hình Huấn” thời Hán viết rằng vị Thần trông coi vào ban đêm, người “Tây Nam” gọi họ là “liên bí đại hô dạ hành” nghĩa là tay nắm tay nhau, hô to đi tuần hành vào đêm. Tuy nhiên, ban đầu ở Trung Quốc người ta không gọi là “Thần tuần hành đêm”.

Vào khoảng thời kỳ Nguyên Minh, tên gọi “Thần tuần hành đêm” được du nhập từ các dân tộc thiểu số phía Nam vào khu vực Trung Nguyên. Người ta nói rằng các dân tộc thiểu số phía Nam gọi vị Thần cai quản màn đêm là “Thần tuần hành đêm”. Nhà văn thời Minh Phùng Mộng Long trong tác phẩm “Cổ Kim tiểu thuyết” tập thứ 31 “Náo âm ty Tư Mã Mạo xét xử” đã từng mô tả cảnh tượng Thần tuần hành đêm đi tuần tra vào ban đêm. Thời nhà Minh có rất nhiều truyền thuyết dân gian về Thần tuần hành đêm. Theo mô tả trong dân gian, “Thần tuần hành đêm” là những vị Thần công bằng, tốt bụng, thường bẩm báo những oan khuất của người dân lên Thiên đế, giúp công lý được thực thi và kẻ ác bị trừng phạt. Trong “Phong Thần diễn nghĩa”, Thần tuần hành đêm có tên là Kiều Khôn.

Theo truyền thuyết, vào ban đêm người dân Bắc Kinh nhất định phải đổ hết nước đã dùng đi, vì sợ Thần tuần hành đêm sẽ dùng nước bẩn đó cho ngựa uống, khiến bản thân chịu nghiệp.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48755

The post Truyền thuyết dân gian: Thần tuần hành đêm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc cháo Lạp Báthttps://chanhkien.org/2025/01/truyen-thuyet-dan-gian-nguon-goc-chao-lap-bat.htmlTue, 21 Jan 2025 01:38:45 +0000https://chanhkien.org/?p=35938Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Ngày 8 tháng 12 âm lịch là ngày lễ hội truyền thống của Trung Quốc “Lễ hội Lạp Bát”. Ở vùng Quan Trung, nhà nào cũng phải nấu một nồi cháo Lạp Bát vào ngày này. Không chỉ cho người lớn và trẻ em ăn mà còn cần cho cả […]

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc cháo Lạp Bát first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Ngày 8 tháng 12 âm lịch là ngày lễ hội truyền thống của Trung Quốc “Lễ hội Lạp Bát”. Ở vùng Quan Trung, nhà nào cũng phải nấu một nồi cháo Lạp Bát vào ngày này. Không chỉ cho người lớn và trẻ em ăn mà còn cần cho cả gia súc trong nhà ăn một chút, ngoài ra còn phải bôi lên cửa, tường và những nơi khác.

Cháo Lạp Bát có mối liên hệ mật thiết với Phật giáo. Truyền thuyết kể rằng, trước khi khai ngộ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong khi tu hành đã ngã quỵ vì đói tại đất nước Ma Kiệt Đà (nay là Ấn Độ). Một cô bé chăn cừu đã dùng táo và các loại ngũ cốc nấu thành cháo để cứu sống Ngài. Sau khi hồi phục sức khỏe, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dưới cây Bồ đề đã khai ngộ thành Phật vào ngày mùng 8 tháng Chạp. Để tưởng nhớ ngày Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đắc đạo và công ơn của cô bé chăn cừu, các đệ tử Phật giáo đời sau đã dùng gạo và trái cây nấu thành cháo để cúng Phật vào ngày mùng 8 tháng Chạp. Món cháo này được gọi là “cháo Lạp Bát”. Về sau, cùng với sự phổ biến của Phật giáo, hoạt động tưởng nhớ này đã được lưu truyền trong dân gian và dần trở thành một phong tục. Hàng năm vào ngày này, mỗi gia đình đều ăn cháo Lạp Bát.

Nguyên liệu của món cháo Lạp Bát chủ yếu là gạo nếp, kê, đậu đỏ, lạc, hạnh nhân, hạt đào, chà là đỏ và trái cây khô, có người còn cho thêm bạch quả, hạt dẻ, hạt thông, quả óc chó,… chủ yếu để tạo vị ngọt.

Theo lịch sử ghi chép, vào thời nhà Tống (Trung Quốc), tục ăn cháo Lạp Bát đã trở nên vô cùng thịnh hành. Sách “Đông Kinh Mộng Hoa Lục” quyển 10 của lão Mạnh Nguyên đời Tống viết rằng: “(Vào ngày mùng 8 tháng Chạp) các chùa lớn… tặng cháo thất bảo ngũ vị cho đệ tử, gọi là ‘cháo Lạp Bát'”. Vào ngày này, nhà nhà đều dùng trái cây và các loại nguyên liệu khác để nấu cháo. Sách “Vũ Lâm Cựu Sự” của Chu Mật thời Nam Tống viết rằng: “Dùng quả óc chó, hạt thông, nấm tuyết, nấm hương, hạt dẻ… để nấu cháo, gọi là cháo Lạp Bát”. Ngoài việc nấu cháo Lạp Bát để cúng Phật và cho các chư tăng ăn, các chùa còn tặng cháo cho các nhà hảo tâm và gia đình giàu có. Lục Du đời Nam Tống có bài thơ rằng: “Hôm nay cháo Phật lại được chia, khiến cho cảnh vật làng quê bỗng trở nên mới mẻ”. Theo truyền thuyết, chùa Thiên Ninh nổi tiếng ở Hàng Châu có một “lầu cơm” để cất giữ cơm thừa. Bình thường, các sư trong chùa phơi khô cơm thừa mỗi ngày, tích trữ lương thực trong một năm, đến ngày mùng 8 tháng Chạp nấu thành cháo Lạp Bát để chia cho các tín đồ, gọi là “cháo Phúc Thọ”.

Trong các triều đại sau này, phong tục này vẫn tiếp tục được duy trì. Vào thời nhà Thanh, vua Đạo Quang từng sáng tác bài thơ “cháo Lạp Bát” diễn nghĩa như sau: “Mùa xuân mới sang, tiết Hạ Chí. Lúa gạo nấu cháo, đậu hòa quyện. Dâng cúng Phật lòng thành kính. Cầu mong Phật quang khắp muôn nơi. Hương thơm thoang thoảng bay nhẹ nhàng. Trái cây, rau củ đầy mâm cỗ. Cùng nhau thưởng thức món ngon. Tăng ni hoan hỉ truyền trao. Trẻ em no bụng mừng thái bình. Tiếng trống vang vọng khắp phố phường“. Trước năm 1949 ở Trung Quốc, các chùa còn có tục nấu cháo Lạp Bát cúng Phật và tặng cháo cho các tín đồ.

Tại Trung Quốc, còn lưu truyền câu tục ngữ “cháo Lạp Bát, ăn không hết, ăn cháo Lạp Bát sẽ được mùa bội thu…” Câu nói này phản ánh mong muốn tốt đẹp của người dân khi họ thành kính cúng dâng cháo Lạp Bát cho Thần Phật, cầu mong được Thần Phật bảo hộ.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48000

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc cháo Lạp Bát first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Thần sông Hoàng Hàhttps://chanhkien.org/2025/01/truyen-thuyet-dan-gian-than-song-hoang-ha.htmlFri, 17 Jan 2025 23:35:33 +0000https://chanhkien.org/?p=35902Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Trong dân gian tương truyền rằng Thần sông Hoàng Hà là một vị Thần khổng lồ xuất hiện lần đầu tiên trong tác phẩm “Tây Kinh Phú” của Trương Hành thời Đông Hán: “Bên trái có núi Hào Sơn và Hàm Cốc quan hiểm trở, rừng đào sum suê, nối […]

The post Truyền thuyết dân gian: Thần sông Hoàng Hà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Trong dân gian tương truyền rằng Thần sông Hoàng Hà là một vị Thần khổng lồ xuất hiện lần đầu tiên trong tác phẩm “Tây Kinh Phú” của Trương Hành thời Đông Hán: “Bên trái có núi Hào Sơn và Hàm Cốc quan hiểm trở, rừng đào sum suê, nối liền với hai ngọn Hoa Sơn, dấu chân Cự Linh to lớn, rõ ràng, sông chảy quanh co, dấu vết vẫn còn lưu lại”.

Sách “Sưu Thần Ký” tập thứ nhất thời Tấn ghi chép rằng: “Hai ngọn núi Hoa Sơn vốn dĩ là một ngọn núi. Do sông hồ chảy qua mà thành quanh co. Thần sông Cự Linh dùng tay nâng phần trên, dùng chân đạp phần dưới, chia đôi ngọn núi, tạo thế cho dòng sông chảy thuận lợi”. Ngày nay nhìn dấu tay trên núi Hoa Sơn, hình dạng của ngón tay và lòng bàn tay vẫn còn thấy rõ. Dấu chân ở dưới núi Thủ Dương vẫn còn lưu lại cho đến ngày nay. Qua đó có thể thấy, Cự Linh là một vị Thần có khả năng mở núi tạo hồ.

Đến thời nhà Đường, theo truyền thuyết dân gian, tên của Cự Linh là Tần Hồng Hải. Trong “Pháp Uyển Châu Lâm” tập 52 ghi chép rằng, ở phía Bắc huyện Hộ, tỉnh Thiểm Tây ngày nay có một ngọn núi, ban đầu khi chưa tách ra, nó nối liền với núi Thái Hành, núi Vương Ốc và núi Bạch Lộc, khiến dòng chảy của sông Hoàng Hà bị cản trở. Sau đó, vị Cự Linh Tần Hồng Hải lo lắng lũ lụt, nên đã tách đôi ngọn núi, giúp dòng nước dễ dàng lưu thông.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/48638

The post Truyền thuyết dân gian: Thần sông Hoàng Hà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của Ngao baohttps://chanhkien.org/2025/01/truyen-thuyet-dan-gian-nguon-goc-cua-ngao-bao.htmlMon, 13 Jan 2025 03:58:17 +0000https://chanhkien.org/?p=35857[ChanhKien.org] Ở Mông Cổ có một phong tục là cúng lễ “Ngao bao”. Vậy “Ngao bao” là gì? “Ngao bao” là phiên âm của tiếng Mông Cổ, có nghĩa là “gò đất”. Trong “Thanh hội điển” viết: “Đó là nơi ranh giới của người dân du mục Mông Cổ, không sông không hồ, xếp đá […]

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của Ngao bao first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Ở Mông Cổ có một phong tục là cúng lễ “Ngao bao”. Vậy “Ngao bao” là gì? “Ngao bao” là phiên âm của tiếng Mông Cổ, có nghĩa là “gò đất”. Trong “Thanh hội điển” viết: “Đó là nơi ranh giới của người dân du mục Mông Cổ, không sông không hồ, xếp đá làm mốc, gọi là ngao bao”. Ngao bao thường được xếp bằng đá tảng và đá cuội, cũng có nơi đắp bằng đất, hay dựng bằng cành liễu.

Hầu hết các “Ngao bao” được xây dựng trên đỉnh núi hoặc trên đồi, những gò đất này thường có hình tròn, cao khoảng vài mét, bên trên cắm cành liễu hoặc cành du, ngoài ra trên đỉnh thường cắm ba “cột Mani”, treo cờ bộ tộc, trước mặt Ngao bao đặt một cái đỉnh ba chân sáng bóng và phía trước có một bàn thờ bằng đá.

Về nguồn gốc của “Ngao bao”, có rất nhiều truyền thuyết đẹp được lưu truyền ở Mông Cổ.

Ví dụ, trên thảo nguyên Hi Lạp Mục Nhân ở nội Mông Cổ có câu chuyện về “Ngao bao Hồng Cách Nhĩ”. Tương truyền, người mẹ của một mục dân Mông Cổ mắc trọng bệnh không thể chữa trị. Người mục dân này liền đi bộ đến núi Ngũ Đài Sơn để thắp hương cầu nguyện cho mẹ. Anh đi một bước lạy một bước, trải qua muôn vàn khó khăn cuối cùng cũng đến được Ngũ Đài Sơn. Thắp hương cầu nguyện xong, anh ngã quỵ xuống. Trên núi Ngũ Đài Sơn có một Ngao bao linh thiêng, các vị Thần Phật trong đó cảm động trước lòng thành kính của anh nên đã đặt thức ăn do tín đồ cúng dường đến trước mặt anh.

Khi người mục dân tỉnh dậy, anh tin rằng Phật tổ đã hiển linh, mẹ anh nhất định sẽ được cứu. Anh ngồi dậy, gói ghém đồ cúng, nhanh bước về nhà. Trong đêm tối đen như mực, anh bị lạc đường. Đúng lúc này, một ngọn đèn sáng rực xuất hiện trước mặt để chỉ đường cho anh. Ngọn đèn này là do Thần trong Ngao bao hóa thành. Dưới sự chỉ dẫn của ngọn đèn, người mục dân đã nhanh chóng trở về thảo nguyên Hi Lạp Mục Nhân. Trên đỉnh núi Hồng Cách Nhĩ, ngọn đèn sáng đó bỗng nhiên dừng lại và không di chuyển nữa. Khi người mục dân trở về nhà, anh thấy mẹ mình đã hoàn toàn bình phục.

Ngày hôm sau, người mục dân dìu mẹ lên đỉnh núi Hồng Cách Nhĩ, lấy đá xếp thành một Ngao bao, đặt tên là “Ngao bao Hồng Cách Nhĩ”. Anh hy vọng Thần linh từ Ngao bao trên núi Ngũ Đài Sơn sẽ mãi mãi cư ngụ trên thảo nguyên Hi Lạp Mục Nhân, đó là ngày 18 tháng 5 âm lịch. Từ đó về sau, vào ngày này hàng năm, mục dân và con cháu của anh đều đến cúng tế Ngao bao Hồng Cách Nhĩ.

Các nhà nghiên cứu cho rằng, Ngao bao được chia thành bốn loại chính: một là dùng để đánh dấu ranh giới giữa các kỳ (huyện), tỉnh; hai là loại được dựng lên để trấn yểm tà ma, thờ cúng Thần linh và cầu mong bình an, hạnh phúc cho người dân trong kỳ; ba là loại được sử dụng để chôn cất các vị quan chức cấp xã, kỳ trưởng, anh hùng, danh nhân, tu sĩ Phật giáo và Lạt Ma; cuối cùng là loại được sử dụng làm mốc chỉ đường.

Tuy nhiên, trong tâm trí người dân thảo nguyên, Ngao bao luôn giữ vị trí thiêng liêng, tượng trưng cho sự hiện diện của Thần linh. Mỗi khi đi xa, nếu đi qua nơi có Ngao bao, người ta đều phải xuống ngựa, cúi lạy Ngao bao, cầu nguyện cho một chuyến đi bình an. Họ cũng sẽ đặt thêm một vài viên đá hoặc một ít đất lên Ngao bao, sau đó mới lên ngựa đi tiếp. Những người chăn cừu đi qua đây cũng sẽ luôn đặt thêm một viên đá lên Ngao bao để cầu mong cho người và gia súc đều được khỏe mạnh.

Phong tục cúng tế Ngao bao có lịch sử lâu đời. Theo ghi chép trong “Hán thư – Hung Nô truyện”: “Tháng giêng, các trưởng lão hội tụ cúng tế tại đình. Tháng năm, hội lớn tại Long Thành, cúng tế tổ tiên, trời đất, quỷ thần…”. Phong tục cúng lễ Ngao bao của người Mông Cổ bắt nguồn từ truyền thống cổ xưa này. Vào khoảng thời nhà Thanh, phong tục “cúng tế Ngao bao” mới được cố định vào giữa tháng 5 âm lịch hàng năm, thường kéo dài 3-4 ngày. Mục dân ở gần xa đều đến tham gia, và còn mời nhiều Lạt Ma tụng kinh, vô cùng náo nhiệt như lễ hội. Tương truyền ăn đồ cúng lễ sẽ được may mắn.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48837

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của Ngao bao first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Thần núi Bồng Laihttps://chanhkien.org/2025/01/truyen-thuyet-dan-gian-than-nui-bong-lai.htmlFri, 03 Jan 2025 03:11:29 +0000https://chanhkien.org/?p=35728Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Truyền thuyết kể rằng, từ rất lâu rồi ở biển Bột Hải có ba ngọn núi thần tên là núi Bồng Lai, núi Phương Trượng và núi Doanh Châu. Đây là nơi ở của rất nhiều tiên nhân. Trên núi “cảnh vật đều màu trắng, cung điện bằng vàng bạc, […]

The post Truyền thuyết dân gian: Thần núi Bồng Lai first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Truyền thuyết kể rằng, từ rất lâu rồi ở biển Bột Hải có ba ngọn núi thần tên là núi Bồng Lai, núi Phương Trượng và núi Doanh Châu. Đây là nơi ở của rất nhiều tiên nhân. Trên núi “cảnh vật đều màu trắng, cung điện bằng vàng bạc, châu ngọc mọc thành bụi, hoa quả đều thơm ngon, ăn vào có thể trường sinh bất lão”. Trong đó, núi Bồng Lai nằm ở bờ phía Đông Bắc của biển Đông, chu vi 5.000 dặm, là nơi Thiên Đế cai quản chín tầng trời.

Trong cuốn “Sơn Hải Kinh – Hải Nội Bắc Kinh” thời Chiến Quốc có câu: “Núi Bồng Lai nằm giữa biển”; trong “Liệt Tử – Thang Vấn” cũng ghi chép: “Ở phía Đông biển Bột Hải có năm ngọn núi, một là núi Đại Hưng, hai là núi Viên Kiều, ba là núi Phương Trượng, bốn là núi Doanh Châu, năm là núi Bồng Lai”.

Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, vì ngưỡng mộ danh tiếng đã đến biển Đông hy vọng gặp được Thần tiên trong truyền thuyết. Ông đã nói chuyện với tiên nhân An Kỳ Sinh suốt ba ngày ba đêm, và ban cho tiên nhân hàng triệu vàng bạc châu báu. Sau khi Tần Thủy Hoàng rời đi, An Kỳ Sinh vứt bỏ không màng tới vàng bạc, chỉ để lại một bức thư cho Thái Hoàng: “Sau vài năm nữa, hãy tìm ta ở núi Bồng Lai”. Sau đó, Tần Thủy Hoàng sai Từ Phúc, Lô Sinh cùng hàng trăm người đi tìm núi Bồng Lai, nhưng chưa đến đó đã gặp sóng to gió lớn đành quay về.

“Bồng Lai” là tên một địa danh bắt đầu từ khoảng thời Hán Vũ Đế, trong “Thông Điển” của Đỗ Du triều Đường có ghi chép: “Vũ Đế từ nơi đây nhìn ra biển thấy núi Bồng Lai, nên đã xây thành và đặt tên như vậy”. Năm 133 (TCN), Hán Vũ Đế, người sùng Đạo tiên, tìm kiếm núi thần nhưng không thấy, ông bèn cho xây dựng một thành phố nhỏ tại đó và đặt tên là “Bồng Lai”.

Trong lịch sử, người ta đã nhiều lần nhìn thấy cảnh tượng kỳ ảo “thành phố trên biển” ở Bồng Lai. Dùng khoa học hiện đại giải thích là “do hiện tượng khúc xạ khí quyển” nhưng liệu đó có phải là việc Thần tiên triển hiện cuộc sống của họ cho thế nhân không? Để thế nhân đang trong cõi mê có thêm một chút suy ngẫm?

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/48427

The post Truyền thuyết dân gian: Thần núi Bồng Lai first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Ý nghĩa của phong tục tết nút dây Trung Quốchttps://chanhkien.org/2024/12/truyen-thuyet-dan-gian-y-nghia-cua-phong-tuc-tet-nut-day-trung-quoc.htmlSat, 14 Dec 2024 02:42:19 +0000https://chanhkien.org/?p=35249Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Rất nhiều người đã từng thấy những chiếc nút dây xinh đẹp và đa dạng của Trung Quốc, chúng ẩn chứa những ý nghĩa sâu sắc, nút dây “cát tường” biểu tượng cho cát tường như ý, nút dây “như ý” tượng trưng cho sự tự do tự tại, nút […]

The post Truyền thuyết dân gian: Ý nghĩa của phong tục tết nút dây Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Rất nhiều người đã từng thấy những chiếc nút dây xinh đẹp và đa dạng của Trung Quốc, chúng ẩn chứa những ý nghĩa sâu sắc, nút dây “cát tường” biểu tượng cho cát tường như ý, nút dây “như ý” tượng trưng cho sự tự do tự tại, nút dây “phương thắng” thể hiện sự bình an thuận lợi, nút dây “bàn trường” tượng trưng cho sự trường thọ, nút dây “đoàn cẩm” biểu tượng của sự đoàn viên mỹ mãn, nút dây “tường vân” tượng trưng cho sự may mắn thịnh vượng, nút dây “đồng tâm” thể hiện sự đồng lòng gắn bó, nút dây “quế hoa” tượng trưng cho sự sum vầy viên mãn. Phong tục kết (tết, thắt) nút dây sử dụng nút thắt để biểu đạt ý nghĩa, phong tục này đã được người dân Trung Quốc yêu thích từ hàng nghìn năm nay.

Tương truyền, phong tục kết nút dây ở Trung Quốc có thể bắt nguồn từ thời thượng cổ. Có câu chuyện kể rằng “Nữ Oa nặn ra con người từ đất sét”, Nữ Oa dùng dây thừng nhào nặn bùn đất rồi kéo lên tạo thành con người. Vậy nên con người vào thời kỳ sơ khai đã từng sùng bái dây thừng, thậm chí còn dùng nút thắt để ghi nhớ các sự kiện. Sử sách ghi chép rằng: “Thời thượng cổ thắt nút để cai trị, về sau các bậc Thánh nhân thay thế bằng văn tự”. Chữ “Kết” được giải thích trong “Thuyết văn giải tự” là “đan chéo, buộc lại”. Theo “Tập vận”, chữ “kết” và “cát” trong tiếng Hán cổ là hai từ đồng âm và đồng nghĩa, do đó “kết” cũng có nghĩa là may mắn. Những từ ngữ có chứa chữ “kết” như kết duyên, kết giao, kết hợp, kết quả, kết tóc phu thê,… đều mang ý nghĩa ấm áp, hạnh phúc và gắn bó. Trong Kinh Thi có câu “Thân kết kỳ ly, cửu thập kỳ nghi”. Câu này nói về việc khi con gái xuất giá, người mẹ vừa buộc dây áo cho con vừa dặn dò những lễ nghi cần chú ý. Từ “Kết li” bắt nguồn từ đó và trở thành từ đồng nghĩa với “thành hôn” vào thời cổ đại.

Tục kết nút dây ở Trung Quốc xuất hiện từ thời thượng cổ, đến thời Hán bắt đầu xuất hiện việc kết nút dây trên quần áo. Vì quần áo thời kỳ đầu ở Trung Quốc không có cúc hay khóa kéo như ngày nay nên người ta dùng cách thắt nút để buộc quần áo. Đến thời Đường Tống, phong tục thắt nút dây ở Trung Quốc ngày càng phát triển mạnh mẽ. Trên các họa tiết gương đồng thời Đường khai quật được có hình ảnh chim bay ngậm nút dây, tượng trưng cho ý nghĩa “bách niên giai lão”. Vào thời đó, người ta thích mang theo trang sức bên mình và hầu hết các loại trang sức đều được buộc vào quần áo bằng dây rồi thắt nút lại. Đến thời Minh Thanh, nghệ thuật thắt nút dây Trung Quốc đạt đến đỉnh cao với vô số phương pháp biến tấu, chứa đựng những lời chúc tốt đẹp.

Tục kết nút dây ở Trung Quốc chú trọng vào sự cân đối trên dưới, đối xứng trái phải, chính phụ tương đồng, đầu đuôi kết nối. Với những đặc điểm độc đáo này, các nút dây nghệ thuật Trung Quốc trở thành món quà ý nghĩa để dành tặng cho người thân, bạn bè.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/53253

The post Truyền thuyết dân gian: Ý nghĩa của phong tục tết nút dây Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc ngày mùng hai tháng hai – ngày rồng ngẩng đầuhttps://chanhkien.org/2024/12/truyen-thuyet-dan-gian-nguon-goc-ngay-mung-hai-thang-hai-ngay-rong-ngang-dau.htmlWed, 11 Dec 2024 05:23:29 +0000https://chanhkien.org/?p=35228Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Từ xưa đến nay, người dân Trung Quốc đều lấy sản xuất nông nghiệp làm chính, họ vô cùng coi trọng ảnh hưởng của sự biến đổi tiết khí đối với sản xuất nông nghiệp. Từ ngày 2 tháng 2 âm lịch trở đi là đã bước sang mùa xuân, […]

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc ngày mùng hai tháng hai – ngày rồng ngẩng đầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Từ xưa đến nay, người dân Trung Quốc đều lấy sản xuất nông nghiệp làm chính, họ vô cùng coi trọng ảnh hưởng của sự biến đổi tiết khí đối với sản xuất nông nghiệp. Từ ngày 2 tháng 2 âm lịch trở đi là đã bước sang mùa xuân, lúc này dương khí tăng lên, đất đai hồi sinh, cây cỏ nảy mầm, người nông dân bắt đầu chuẩn bị cho việc cày cấy và gieo trồng. Lượng mưa dồi dào trong thời điểm này đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp. Tháng hai cũng là thời điểm xuất hiện các tiết khí “Vũ thủy”, “Kinh trập” và “Xuân phân”. Người xưa tin vào sự tồn tại của Thần linh, cho rằng mọi vật trong vũ trụ đều có Thần linh cai quản, bao gồm cả việc làm mưa. Họ tin rằng Long Thần là vị Thần cai quản việc tạo mưa ở nhân gian. “Rồng ngẩng đầu” có nghĩa là Long Thần chuẩn bị hành động, thực hiện nhiệm vụ làm mưa xuống nhân gian.

Từ thời xa xưa, người Trung Quốc đã tôn thờ Long Thần. Sách “Tả Truyện” ghi chép: “Long hiện nhi vũ”, nghĩa là sau tiết Kinh trập, Long Thần sẽ xuất hiện, lúc này nên tổ chức tế lễ cầu mưa. Sách “Sơn Hải Kinh”, một cuốn sách địa lý nổi tiếng thời cổ, ghi chép rằng: Rồng sống ở phương Nam, “cố phương Nam đa vũ” (nên phương Nam mưa nhiều). Sách còn miêu tả Chúc Long “bất thực bất tẩm bất tức, phong vũ thị yết” (không ăn không ngủ không nghỉ, phụ trách việc làm mưa gió), nghĩa là có thể thường xuyên hô mưa gọi gió. Sách “Xuân Thu Phồn Lộ” của Đổng Trọng Thư thời Tây Hán đề cập đến hoạt động múa rồng cầu mưa. Trên tranh đá thời Hán cũng có khắc cảnh múa rồng. Tuy nhiên vào thời điểm đó, ngày “mùng hai tháng hai” chưa được xác định là ngày rồng ngẩng đầu.

Từ thời nhà Nguyên, ngày mùng hai tháng hai âm lịch chính thức được xác định là ngày “rồng ngẩng đầu”. Sách “Tích Tân Chí” mô tả phong tục tập quán ở Đại Đô thời nhà Nguyên có ghi: “Ngày mồng hai tháng hai gọi là ngày rồng ngẩng đầu”. Vào ngày này, người dân thường ăn mì sợi gọi là “mì râu rồng”; nướng bánh gọi là bánh “vảy rồng”; nặn há cảo gọi là “răng rồng”. Nhìn chung, các món ăn đều được đặt tên theo các bộ phận cơ thể của rồng. Sang đến thời nhà Minh và nhà Thanh, phong tục này vẫn được tiếp nối. Vào cuối thời nhà Thanh, Phú Sát Đôn Sùng trong tác phẩm “Yến Kinh Tuế Thì Ký” có viết: “Tháng hai, ngày mùng hai… ngày nay người ta gọi là ngày rồng ngẩng đầu. Vào ngày này, ăn bánh vảy rồng, ăn mì râu rồng. Trong nhà cấm kỵ việc may vá vì sợ làm tổn thương mắt rồng”. Ngoài việc ăn các món ăn làm từ mì, còn có phong tục dẫn nước vào nhà. Sách “Uyển Thư Tạp Dân” thời nhà Thanh ghi chép: “Người kinh đô gọi ngày mùng hai tháng hai là ngày rồng ngẩng đầu, người dân quê dùng tro từ ngoài cửa uốn lượn rải vào trong bếp, vòng quanh bể nước, gọi là dẫn rồng về”. Điều này phản ánh rõ mong muốn của người dân về một năm mưa thuận gió hòa. Một số nơi còn tổ chức hoạt động múa lân, cũng nhằm mục đích cầu mưa. Sách “Liêu Trung Huyện Chí” ghi chép về phong tục vào ngày mùng hai tháng hai thời Trung Hoa Dân Quốc: “Ngày mùng hai tháng hai gọi là ngày rồng ngẩng đầu. Sáng sớm dùng gậy gõ vào xà nhà, gọi là gõ đầu rồng, ý muốn rồng từ dưới đất thức dậy, vì lúc này đã gần đến tiết Kinh trập. Các gia đình nông dân đều dùng bột gạo làm bánh và bánh bao cho bữa sáng. Vào ngày này, phụ nữ thường cắt tóc cho trẻ em, mang ý nghĩa rồng ngẩng đầu”. Phong tục cắt tóc vào ngày này cũng diễn ra ở nhiều nơi.

Từ thời Minh Thanh, vào ngày mùng hai tháng hai âm lịch, người ta còn tổ chức thêm các hoạt động “hun trùng” và “rang đậu”… Cuốn “Đế Kinh Cảnh Vật Lược” do Lưu Đồng và Vu Dịch Chính của nhà Minh viết: “Ngày hai tháng hai, rồng ngẩng đầu lên… hun giường, hun lò, gọi là hun trùng, nhằm ngăn trùng rồng không bò ra ngoài”. Đại Hưng Huyện Chí thời Khang Hy nhà Thanh ghi chép: “Ngày mùng hai tháng hai, nhà nhà đều làm bánh chay và bánh mặn, chiên lên ăn, gọi là hun trùng”. Bởi vì thời gian này có nhiều côn trùng sinh sôi nảy nở, hun trùng là để tiêu diệt côn trùng, tránh gây hại cho sức khỏe con người. Còn “rang đậu” trừ côn trùng lại càng có ý nghĩa hơn, cụ thể là ngâm đậu nành trong nước muối một thời gian, sau đó vớt ra cho vào chảo rang đến khi đậu nành nổ lách tách trong chảo, như vậy côn trùng bị kinh động sẽ bò đi.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/53253

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc ngày mùng hai tháng hai – ngày rồng ngẩng đầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc sự biến loạn An Sử và việc Quách Tử Nghi bình phảnhttps://chanhkien.org/2024/12/truyen-thuyet-dan-gian-nguon-goc-su-bien-loan-an-su-va-viec-quach-tu-nghi-binh-phan.htmlSun, 08 Dec 2024 02:45:05 +0000https://chanhkien.org/?p=35211Tác giả: Phúc Chính chỉnh lý [ChanhKien.org] Hoàng đế Đường Minh vô cùng kính trọng Bát Tiên (tám vị tiên). Cảm kích trước sự kính trọng của Hoàng đế Đường Minh, Bát Tiên bèn quyết định đưa Hoàng đế lên du ngoạn cung trăng. Hoàng đế Đường Minh lên cung trăng, vì say mê Hằng […]

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc sự biến loạn An Sử và việc Quách Tử Nghi bình phản first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Phúc Chính chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế

Hoàng đế Đường Minh vô cùng kính trọng Bát Tiên (tám vị tiên). Cảm kích trước sự kính trọng của Hoàng đế Đường Minh, Bát Tiên bèn quyết định đưa Hoàng đế lên du ngoạn cung trăng. Hoàng đế Đường Minh lên cung trăng, vì say mê Hằng Nga cho nên đã viết một bài thơ không phù hợp. Trước đó Hằng Nga đã uống vài chén rượu nên mơ hồ chưa hiểu rõ ý thơ. Sau khi tỉnh rượu đọc lại bài thơ của Hoàng đế nhận ra ý xúc phạm mình, Hằng Nga vô cùng tức giận liền cầm bài thơ tấu lên Ngọc Hoàng Đại Đế. Ngọc Hoàng thấy rằng Hoàng đế Đường Minh với thân phận là vua mà dám xúc phạm đến Thần tiên nên cũng vô cùng phẫn nộ, liền phái Thanh Long (rồng xanh) đầu thai thành An Lộc Sơn tiêu diệt nhà Đường, lập nên triều đại mới.

Lại nói, sứ thần Thái Bạch Kim Tinh đi tuần tra bầu trời, trên đường đi qua Đại Đường thấy cảnh binh lính hỗn loạn, khói đen mịt mù phía dưới, ông lập tức tâu lên Ngọc Đế. Ngọc Đế giải thích nguyên nhân với Thái Bạch Kim Tinh. Thái Bạch Kim Tinh nói: “Xin Ngọc Đế bớt giận, việc Hoàng đế Đường Minh làm thơ xúc phạm Thần tiên là không đúng, nhưng vì chuyện nhỏ này mà bệ hạ phái người tiêu diệt cả triều đại của ông ấy thì chẳng phải chuyện bé xé ra to hay sao? Nhà Đường đã được đặt định sẽ tồn tại 400 năm, hiện mới trị vì chưa đến 200 năm, còn 200 năm nữa”. Ngọc Hoàng Đại Đế cảm thấy có lý nhưng “Thánh chỉ đã ban, Thanh Long đã hạ trần, lệnh không thể thu hồi”. Thái Bạch Kim Tinh liền thưa: “Bệ hạ đã hạ lệnh, không thể thu hồi. Tuy nhiên, thần có một kế sách vẹn toàn, không biết ý bệ hạ thế nào?” Ngọc Hoàng nói: “Khanh cứ nói”. Thái Bạch Kim Tinh tâu: “Bệ hạ cho Hằng Nga giáng trần chuyển sinh thành Dương Quý Phi. Đầu tiên, hãy cho nàng theo vua Đường. Chẳng phải Thanh Long đã giáng trần, hãy cho Thanh Long và Hằng Nga tạm thời làm loạn triều đình nhà Đường, khiến nhà Đường luôn gặp thất bại. Như vậy là trừng phạt tội lỗi của Đường Minh Hoàng vì đã coi thường Thần tiên. Đồng thời, phái Bạch Hổ Tinh giáng trần giúp nhà Đường để nhà Đường không bị diệt vong quá sớm, như vậy không phải vẹn cả đôi đường sao?” Ngọc Đế nghe xong vô cùng vui mừng, đây chính là nguồn gốc của sự kiện loạn An Sử và cuộc bình phản của Quách Tử Nghi.

Sau đó, Ngọc Hoàng giáng chỉ nhưng Bạch Hổ Tinh không nghe. Nguyên do trước đây Bạch Hổ Tinh đã hai lần giáng trần, lần đầu tiên chuyển sinh thành La Thành chỉ sống được 23 tuổi, lần thứ hai chuyển sinh thành Tiết Lễ cũng chỉ sống được 23 tuổi. Lần này Ngọc Hoàng lại phái anh ta xuống trần, nói gì anh ta cũng không chịu tiếp chỉ. Trước mặt Ngọc Hoàng, Thái Bạch Kim Tinh đã đảm bảo cho anh ta sống đến hết đời. Như thế anh ta mới chịu hạ trần, chuyển sinh thành Quách Tử Nghi, sống đến 78 tuổi không bệnh mà chết.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/53253

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc sự biến loạn An Sử và việc Quách Tử Nghi bình phản first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc “Nguyệt hạ lão nhân”https://chanhkien.org/2024/12/truyen-thuyet-dan-gian-nguon-goc-nguyet-ha-lao-nhan.htmlMon, 02 Dec 2024 04:45:04 +0000https://chanhkien.org/?p=35165Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Số phận của một người đã được định sẵn từ khi sinh ra, thậm chí việc kết hôn với ai cũng đã được các vị Thần tiên chuyên trách an bài dựa trên nhân duyên kiếp trước, chỉ là người thời nay không tin mà thôi. Ở Trung Quốc cổ […]

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc “Nguyệt hạ lão nhân” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế

Số phận của một người đã được định sẵn từ khi sinh ra, thậm chí việc kết hôn với ai cũng đã được các vị Thần tiên chuyên trách an bài dựa trên nhân duyên kiếp trước, chỉ là người thời nay không tin mà thôi. Ở Trung Quốc cổ đại, người ta gọi vị Thần phụ trách việc hôn nhân giữa nam và nữ là “Nguyệt hạ lão nhân” hay “Nguyệt hạ lão” hoặc “Nguyệt lão” (ở Việt Nam gọi là ông Tơ bà Nguyệt). Tương truyền rằng ông có một sợi dây màu đỏ buộc vào chân đôi nam nữ, dù có cách xa hàng nghìn dặm thì họ cũng sẽ trở thành vợ chồng. Đây gọi là “nghìn dặm nhân duyên một sợi tơ”.

Trong tác phẩm “Tiếp Huyền Quái Lục – Định Hôn Điếm” của Lý Phục Ngôn thời Đường kể một câu chuyện về Nguyệt lão xe duyên cho con người.

Vào thời Đường có một người tên là Vi Cố, một lần đến thăm thành Tống chàng ở trọ tại quán trọ Nam. Đến quán trọ, chàng thấy ở cửa quán có một ông lão ngồi trên mặt đất, dựa lưng vào hành lý và lật đi lật lại một cuốn sách, hình như đang tìm gì đó. Vi Cố tò mò tiến lại gần hỏi ông lão đang xem cuốn sách gì. Ông lão nói với chàng rằng đó là một cuốn sách ghi chép về việc hôn nhân của nam nữ trên thế gian. Vi Cố lại hỏi ông lão trong hành lý của ông có thứ gì, ông lão nói đó là một sợi dây màu đỏ, dùng để buộc chân của cặp phu thê. Dù hai người là kẻ thù hoặc khoảng cách rất xa, khi dây đã buộc thì họ nhất định sẽ nên duyên.

Vi Cố nghe xong tất nhiên là không tin, nhưng cũng muốn biết về hôn nhân tương lai của mình. Vừa định hỏi thì ông lão liền đứng dậy, mang theo cuốn sách và hành lý đi về phía chợ. Vi Cố liền đi theo sau. Đến chợ họ gặp một người phụ nữ mù dắt theo một bé gái khoảng ba tuổi. Ông lão nói với Vi Cố: “Đứa bé trong tay người mù này sẽ là vợ tương lai của cậu”. Vi Cố rất tức giận liền ra lệnh cho người hầu giết chết đứa bé. Người hầu đâm đứa bé một nhát xong rồi nhanh chóng bỏ chạy. Khi Vi Cố quay lại muốn tìm ông lão để tính sổ thì ông đã biến mất không để lại dấu vết.

14 năm thấm thoát trôi qua, Vi Cố kết hôn với con gái của Thứ sử Tương Châu Vương Thái. Sau khi kết hôn, Vi Cố phát hiện trên trán vợ mình có một vết sẹo. Hỏi ra, chàng mới biết rằng 14 năm trước, khi bảo mẫu bế cô bé đi chợ ở thành Tống, nàng đã bị người ta vô duyên vô cớ đâm một dao. Vi Cố vô cùng kinh ngạc, bèn kể lại chuyện xảy ra 14 năm trước cho Vương Thái và vợ nghe. Lúc này, chàng mới tin rằng lời của ông lão năm xưa không sai, nhân duyên quả thực đã được định sẵn từ trước, ông lão chính là vị Thần tiên cai quản việc hôn nhân. Từ đó, Vi Cố và vợ càng thêm trân trọng mối nhân duyên tiền kiếp này, và họ sống một cuộc sống hạnh phúc.

Sau này, quan huyện thành Tống biết chuyện liền đổi tên quán trọ Nam thành “Định Hôn Điếm”.

Vở kịch “Nguyệt hạ lão định thế gian thành đôi” của Lưu Tổng đầu thời Minh cũng kể về câu chuyện này.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/47825

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc “Nguyệt hạ lão nhân” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc giày bồn hoa của phụ nữ Mãn Châuhttps://chanhkien.org/2024/11/truyen-thuyet-dan-gian-nguon-goc-giay-bon-hoa-cua-phu-nu-man-chau.htmlFri, 29 Nov 2024 00:58:38 +0000https://chanhkien.org/?p=35129Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Người Mãn Châu sống ở vùng Đông Bắc rộng lớn, phụ nữ ở đây không phải bó chân như phụ nữ người Hán sau thời Tống, họ để đôi chân tự nhiên. Thông thường, phụ nữ Mãn Châu thích đi một loại giày gọi là “giày thốn tử” (còn gọi […]

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc giày bồn hoa của phụ nữ Mãn Châu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Người Mãn Châu sống ở vùng Đông Bắc rộng lớn, phụ nữ ở đây không phải bó chân như phụ nữ người Hán sau thời Tống, họ để đôi chân tự nhiên. Thông thường, phụ nữ Mãn Châu thích đi một loại giày gọi là “giày thốn tử” (còn gọi là giày bồn hoa). “Thốn tử” có thể coi là tổ tiên của giày cao gót hiện đại ở Trung Quốc, nhưng khác với giày cao gót ngày nay, phần gót của nó được gắn ở vị trí lòng bàn chân. Tương truyền rằng phương pháp sản xuất loại giày này cũng rất đặc biệt, một chiếc đế gỗ có chiều cao khoảng 8-10cm được gắn ở giữa đế giày, cũng có những chiếc cao hơn một chút, nhưng không cao đến một thước (30cm) nên người ta gọi loại giày này là “thốn tử”.

Do độ dày của đế gỗ nên “thốn tử” rộng ở hai đầu và mỏng ở giữa, thoạt nhìn trông giống như “móng ngựa” nên được gọi là “đế móng ngựa”, có loại trên rộng dưới hẹp, giống hình thang, có loại giống như “chậu hoa” nên còn gọi là “đế bồn hoa”, ngoài ra còn có loại “đế cá rồng”, “đế tứ thiểm”, v.v. được đặt tên theo tính chất, hình dạng của từng loại đế. Loại giày này phản ánh quan niệm thẩm mỹ của phụ nữ Mãn Châu cho rằng “to lớn” là đẹp.

Tại sao phụ nữ Mãn Châu lại đi những chiếc giày cao gót kỳ lạ như vậy? Dân gian tương truyền một truyền thuyết như sau: phụ vương của công chúa Đa La Cam Châu bị thủ lĩnh của một bộ lạc gian ác A Tư Cổ Hi giết hại, và kinh thành A Khắc Đôn của họ cũng bị chiếm đóng. Công chúa Đa La Cam Châu quyết tâm giành lại kinh thành và trả thù cho cha mình. Tuy nhiên, kinh thành A Khắc Đôn ba mặt được bao vây bởi hồ “Hồng Nhãn Cáp”, dòng nước sâu hơn ba thước (khoảng hơn một mét) khiến người và ngựa không thể qua lại. Công chúa Đa La Cam Châu nghĩ đi nghĩ lại, lấy cảm ứng từ đôi chân của hạc, cô hướng dẫn mọi người làm chân hạc nhân tạo bằng gỗ, thuận lợi vượt qua hồ Hồng Nhãn Cáp, chiếm lại kinh thành A Khắc Đôn và báo thù cho cha mình. Từ đó về sau, phụ nữ Mãn Châu còn dùng chân gỗ này để tránh bị rắn độc cắn khi lên núi hái nấm, hái hạt phỉ. Sau này dần dần phát triển thành giày gỗ cao gót, gọi là “thốn tử”.

Tương truyền vì đi những đôi giày này nên chiều cao của phụ nữ Mãn Châu không chỉ tăng thêm khoảng 10-13cm mà khi đi lại cũng khiến họ trở nên duyên dáng và xinh đẹp. Tuy nhiên, đi loại giày này cũng có một số nhược điểm đó là bạn không thể đi nhanh hoặc đi lâu.

Khi người Mãn Châu ngày càng trở nên hùng mạnh, họ không chỉ chinh phục khu vực Đông Bắc mà còn cả toàn bộ Trung Quốc. Sau khi triều đại Mãn Châu thành lập, nhà Thanh tiến vào Trung Nguyên và dần dần hòa nhập với văn hóa Trung Quốc, phạm vi dùng giày “thốn tử” ngày càng thu hẹp, phụ nữ Mãn Châu chủ yếu đi bốt hoặc giày thêu với đế làm bằng vàng, còn giày gỗ rất hiếm gặp. Đến cuối thời nhà Thanh, chỉ có thể nhìn thấy giày đế gỗ ở các phi tần trong cung, phụ nữ bình thường hiếm khi đi chúng. Ở vùng ngoại ô, vùng biên ải, phụ nữ càng ít đi hơn. Ngày nay người ta chỉ có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp của giày “thốn tử” trên sân khấu mà thôi.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/49669

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc giày bồn hoa của phụ nữ Mãn Châu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Câu chuyện về lão đạo trưởnghttps://chanhkien.org/2024/11/truyen-thuyet-dan-gian-cau-chuyen-ve-lao-dao-truong.htmlThu, 21 Nov 2024 05:59:16 +0000https://chanhkien.org/?p=35002Tác giả: Hoàng Hôn [ChanhKien.org] Ngày xửa ngày xưa, ở phía Nam một ngôi làng thuộc tỉnh Sơn Đông có một vịnh lớn, phía Bắc vịnh có một ngọn đồi nhỏ, trên đồi có một đạo quán, nơi đây có một lão đạo trưởng cư ngụ. Vào một đêm tháng sáu nóng nực, Đạo sỹ […]

The post Truyền thuyết dân gian: Câu chuyện về lão đạo trưởng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Hoàng Hôn

[ChanhKien.org]

Ngày xửa ngày xưa, ở phía Nam một ngôi làng thuộc tỉnh Sơn Đông có một vịnh lớn, phía Bắc vịnh có một ngọn đồi nhỏ, trên đồi có một đạo quán, nơi đây có một lão đạo trưởng cư ngụ. Vào một đêm tháng sáu nóng nực, Đạo sỹ đang đứng ở nơi cao nhất trong sân hóng mát, bỗng nhiên trên mặt vịnh xuất hiện một con quỷ hung ác. Con quỷ này mang bộ mặt cóc, thân hình lại giống người, đây chính là con cóc tinh hung ác chuyên ăn thịt người mà người dân trong vùng vẫn đồn đại. Con cóc cất tiếng hát the thé: “Thèm chết đi được, ngày mai có kẻ bốn tai sẽ đến làm mồi cho ta!” Lão đạo trưởng biết rằng ngày mai con cóc hung ác sẽ ăn thịt người. Ông quyết tâm phải cứu người bốn tai này.

Ngày hôm sau, lão đạo trưởng chờ bên cạnh vịnh để cứu người bốn tai. Trưa đến, trời nóng hừng hực như lửa. Lúc này, từ phía Bắc xuất hiện một người, trên đầu đội một chiếc chảo. Chảo là dụng cụ của người dân Sơn Đông chuyên để xào nấu, nó có tay cầm ở hai bên nên người Sơn Đông thường gọi là tai chảo. Đạo sỹ vừa nhìn liền nhận ra ngay đây chính là người bốn tai. Người bốn tai có lẽ vì nóng quá nên đến bên vịnh đặt cái chảo xuống và nhảy xuống tắm. Lão Đạo sỹ vội vàng tới ngăn cản người đàn ông không để anh ta xuống tắm, anh ta tức giận đẩy lão Đạo sỹ xuống đất, còn đá một cái thật mạnh, rồi đội chảo lên đầu bỏ đi.

Con người sống trong mê nên dù được cứu cũng không biết, thậm chí còn lấy oán báo ân. Cho dù thế nào, lão đạo trưởng vẫn cảm thấy được an ủi khi đã cứu được người bốn tai này. Đêm hôm ấy, ông ngủ rất ngon giấc.

Con cóc hung ác không ăn được thịt người nên rất tức giận, nó biết rằng việc này là do lão Đạo sỹ làm, nên nửa đêm đã ném rất nhiều bùn vào cửa nhà Đạo sỹ. Sáng hôm sau ngủ dậy, lão đạo trưởng phải mất rất nhiều công sức mới mở được cửa.

Về sau, lão đạo trưởng đã trừ bỏ con cóc tinh ăn thịt người hung ác này.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/53253

The post Truyền thuyết dân gian: Câu chuyện về lão đạo trưởng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Câu chuyện về hòa thượng Pháp Hảihttps://chanhkien.org/2024/11/truyen-thuyet-dan-gian-cau-chuyen-ve-hoa-thuong-phap-hai.htmlFri, 15 Nov 2024 03:12:47 +0000https://chanhkien.org/?p=34934Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Câu chuyện truyền thuyết dân gian cổ xưa của Trung Quốc “Bạch Xà truyện” kể về tình yêu giữa Bạch Nương Tử do bạch xà tinh hóa thành và chàng trai trẻ Hứa Tiên. Câu chuyện bắt đầu vào tiết thanh minh, Bạch Nương Tử cùng tỳ nữ Tiểu Thanh […]

The post Truyền thuyết dân gian: Câu chuyện về hòa thượng Pháp Hải first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Câu chuyện truyền thuyết dân gian cổ xưa của Trung Quốc “Bạch Xà truyện” kể về tình yêu giữa Bạch Nương Tử do bạch xà tinh hóa thành và chàng trai trẻ Hứa Tiên. Câu chuyện bắt đầu vào tiết thanh minh, Bạch Nương Tử cùng tỳ nữ Tiểu Thanh gặp mưa tại Tây Hồ, Hàng Châu, Hứa Tiên đã cho họ mượn ô, hai người quen nhau hẹn ước kết duyên. Sau đó, hòa thượng Pháp Hải ở chùa Kim Sơn gặp Hứa Tiên, phát hiện trên người chàng có yêu khí, để chứng minh Bạch Nương Tử không phải là người, Pháp Hải đã dặn Hứa Tiên cho Bạch Nương Tử uống rượu Hùng Hoàng vào ngày Tết Đoan Ngọ. Sau khi uống, Bạch Nương Tử hiện nguyên hình rắn làm Hứa Tiên hoảng sợ mà chết. Sau đó, Bạch Nương Tử và Tiểu Thanh đã lấy trộm tiên dược cứu sống Hứa Tiên, hòa thượng Pháp Hải vẫn ngăn cản Hứa Tiên gặp gỡ Bạch Nương Tử, cuối cùng đã giam Bạch Nương Tử dưới tháp Lôi Phong. Trong tác phẩm “Cảnh thế thông ngôn” do Phùng Mộng Long biên soạn vào cuối thời Minh có câu chuyện “Bạch Nương Tử vĩnh viễn bị giam dưới tháp Lôi Phong”.

Có thể nói, Hứa Tiên, Bạch Nương Tử và hòa thượng Pháp Hải trong truyền thuyết trên đều là những nhân vật quen thuộc với mọi người. Các bộ phim truyền hình hiện đại thường lấy cảm hứng từ câu chuyện này, tình yêu giữa Hứa Tiên và Bạch Nương Tử được ca ngợi hết mực, trong khi hòa thượng Pháp Hải với pháp lực vô biên, trừ diệt yêu ma, cứu giúp chúng sinh lại trở thành đối tượng bị mọi người chỉ trích. Trên thực tế, trong các câu chuyện liên quan được ghi chép vào thời Đường và Minh Thanh đều nhấn mạnh việc người và yêu ma không thể chung sống. Hành động của hòa thượng Pháp Hải là đúng. Chỉ đến thời hiện đại, đặc biệt là trong thời kỳ Đảng cộng sản Trung Quốc cầm quyền, người ta mới công khai bênh vực bạch xà tinh, coi rắn trắng rắn xanh hại người là nhân vật chính diện để ca ngợi, còn hòa thượng Pháp Hải lại bị miêu tả thành nhân vật phản diện, cản trở tình yêu và hạnh phúc của người khác.

Từ xưa, người và yêu ma không thể chung sống, đây là Thiên lý. Đi ngược lại với Thiên lý tất nhiên sẽ phải chịu trừng phạt. Con người đang trong mê, không hiểu rõ căn nguyên. Pháp Hải – một vị cao tăng đắc Đạo, vì cứu giúp muôn dân, sau khi khuyên nhủ bạch xà tinh – một yêu tinh tu luyện ngàn năm, không thành, cuối cùng đã trấn giữ nó dưới tháp Lôi Phong. Hứa Tiên cũng thoát khỏi tai ương.

Hôm nay chúng ta có nên chính danh cho hòa thượng Pháp Hải không?

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/53253

The post Truyền thuyết dân gian: Câu chuyện về hòa thượng Pháp Hải first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Cô bé chín tuổi đánh bại cao thủ võ lâmhttps://chanhkien.org/2024/11/truyen-thuyet-dan-gian-co-be-chin-tuoi-danh-bai-cao-thu-vo-lam.htmlTue, 05 Nov 2024 04:28:43 +0000https://chanhkien.org/?p=34876Lương Ngôn chỉnh lý [ChanhKien.org] Trung Quốc có rất nhiều thần đồng, những câu chuyện được ghi chép lại về các thần đồng này chủ yếu về phương diện văn hóa và lòng dũng cảm. Ví dụ như Cam La 12 tuổi làm tể tướng, Khang Hy 14 tuổi lên ngôi vua, và còn nhiều […]

The post Truyền thuyết dân gian: Cô bé chín tuổi đánh bại cao thủ võ lâm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Lương Ngôn chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Trung Quốc có rất nhiều thần đồng, những câu chuyện được ghi chép lại về các thần đồng này chủ yếu về phương diện văn hóa và lòng dũng cảm. Ví dụ như Cam La 12 tuổi làm tể tướng, Khang Hy 14 tuổi lên ngôi vua, và còn nhiều ví dụ khác. Kỳ thực trong dân gian còn có nhiều điều chúng ta không biết đến, hôm nay chúng ta nói về một cao thủ võ thuật chín tuổi.

Có một câu nói rằng “Sơn Đông xuất hưởng mã”, ý nói Sơn Đông là nơi xuất thân của nhiều kẻ cướp. Thực tế không phải như vậy. Sơn Đông có rất nhiều người luyện võ. Câu chuyện này xảy ra cách đây 40 năm tại một vùng thuộc Sơn Đông. Có một gia đình họ Trần, cả cha lẫn mẹ đều là những cao thủ võ thuật. Họ không có con trai, chỉ có một cô con gái chín tuổi tên là Trần Linh. Cha mẹ coi cô như viên ngọc quý, nhưng không hề nuông chiều. Họ đã truyền dạy cho con gái tất cả những chiêu thức võ thuật cao siêu của mình.

Một ngày nọ, cha mẹ ra ngoài có việc, để lại bé Trần Linh ở nhà. Cha mẹ vừa đi được một lúc thì có một người cao to lực lưỡng từ nơi khác đến tìm cha mẹ của Trần Linh để tỉ thí võ công (nghe nói rằng vị này là một cao thủ nổi tiếng trong vùng). Thấy chỉ có Trần Linh ở nhà, anh ta liền nói đùa: “Có phải cha mẹ cháu thấy ta đến nên sợ hãi trốn đi rồi, chỉ để lại cháu trông nhà không?”. Trần Linh thông minh lanh lợi, đáp lời: “Cha mẹ cháu thấy chú không đáng để tỉ thí nên mới bỏ đi”. Lời nói của cô bé khiến anh này đỏ mặt tía tai, anh ta nói: “Thật coi thường người ta quá thể, lát nữa ta nhất định phải dạy dỗ cha mẹ cháu, còn phải hỏi xem họ dạy con thế nào”. Trần Linh không phục, nói: “Muốn tỉ thí cũng không khó, chúng ta tỉ thí là được rồi”.

Nói xong tiểu Trần Linh lấy ra một cây thương dài và nói: “Nếu chú không phục thì thử sức một chút”. Người đàn ông cũng không chịu yếu thế, đáp trả bằng một cây đại đao. Trận đấu kéo dài mười mấy hiệp, đột nhiên tiểu Trần Linh xoay giáo, đâm vào cổ anh ta, anh ta vội vã tránh đòn, tiểu Trần Linh thuận thế dùng thương chọc vào áo anh ta rồi đẩy mạnh. Người đàn ông bị đẩy vào một thùng dầu lớn (vốn dĩ nhà này bán dầu). Anh ta ngượng ngùng bò dậy khỏi thùng dầu.

Lúc này cha mẹ cô bé đã trở về, hàng xóm cũng tấp nập đến xem. Anh này vẫn không chịu khuất phục. Láng giềng khuyên nhủ: “Bị một đứa trẻ chín tuổi đẩy vào thùng dầu cũng chẳng vẻ vang gì, bỏ qua đi thôi”. Cha mẹ của Trần Linh cũng đến xin lỗi, anh ta tự biết mình vô lý, đành chán nản bỏ đi. Từ đó, tiếng tăm của cô bé vang rộng khắp nơi.

Có câu tục ngữ rằng: “Đừng coi thường trẻ nhỏ”, còn có câu “Từ cổ anh hùng xuất thiếu niên” và “Nghé con không sợ cọp”. Những câu này đều có cùng ý nghĩa, rằng trẻ em ít lo toan, suy nghĩ đơn giản, do đó dễ làm nên những kỳ tích.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/258178

The post Truyền thuyết dân gian: Cô bé chín tuổi đánh bại cao thủ võ lâm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Hậu duệ của Lưu Bá Ôn kể lại chuyện xưahttps://chanhkien.org/2024/11/truyen-thuyet-dan-gian-hau-due-cua-luu-ba-on-ke-lai-chuyen-xua.htmlMon, 04 Nov 2024 02:28:30 +0000https://chanhkien.org/?p=34871Tác giả: Vũ Quang [ChanhKien.org] Kể ra cũng thật trùng hợp! Vào cuối tuần trước, tôi vừa viết xong bài viết “Đạo lý cho tiền của Lưu Bá Ôn”, hai ngày sau trên đường trở về từ Chicago, tôi tình cờ gặp được cô Lưu, một hậu duệ trực hệ của Lưu Bá Ôn. Tôi […]

The post Truyền thuyết dân gian: Hậu duệ của Lưu Bá Ôn kể lại chuyện xưa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vũ Quang

[ChanhKien.org]

Kể ra cũng thật trùng hợp! Vào cuối tuần trước, tôi vừa viết xong bài viết “Đạo lý cho tiền của Lưu Bá Ôn”, hai ngày sau trên đường trở về từ Chicago, tôi tình cờ gặp được cô Lưu, một hậu duệ trực hệ của Lưu Bá Ôn. Tôi vừa ngạc nhiên vừa rất vui mừng, thế là chúng tôi bắt đầu nói một số câu chuyện ít ai biết về Lưu Bá Ôn và hậu duệ của ông.

Lưu Bá Ôn là người xã Nam Điền huyện Thanh Điền, tỉnh Chiết Giang. Từ nhỏ, ông học hành chăm chỉ, trí tuệ xuất chúng và đã để lại nhiều câu chuyện nổi tiếng trong vùng. Khi Lưu Bá Ôn làm quốc sư cho Chu Nguyên Chương, trước mỗi trận đánh, Chu Nguyên Chương luôn hỏi ý kiến ông xem liệu có nên đánh hay không. Nếu Lưu Bá Ôn nói rằng có thể đánh, thì trận đó nhất định sẽ thắng; nếu Lưu Bá Ôn nói không nên khởi chiến, thì Chu Nguyên Chương sẽ không dám đánh. Có lần, Chu Nguyên Chương cảm thấy chắc chắn sẽ thắng nên vẫn quyết định đánh, kết quả là thất bại thảm hại, đầu rơi máu chảy. Do đó, Chu Nguyên Chương rất kính trọng Lưu Bá Ôn.

Sau khi triều Minh thành lập, Chu Nguyên Chương tôn trọng gọi Lưu Bá Ôn là quốc sư, luôn tham khảo ý kiến của ông trong mọi việc. Việc Lưu Bá Ôn được trọng dụng khiến những kẻ tiểu nhân đương triều ganh tị, họ bắt đầu ly gián mối quan hệ giữa Chu Nguyên Chương và Lưu Bá Ôn. Khi Lưu Bá Ôn dự đoán được Chu Nguyên Chương sẽ quay lưng lại và hại ông, ông lặng lẽ rời khỏi kinh thành, đi men theo những con đường nhỏ trong núi, phải mất vài tháng mới về đến quê hương Nam Điền. Ông ngày ngủ đêm đi, ăn gió nằm sương, khi về đến quê nhà Nam Điền, mọi người đều không nhận ra ông.

Từ đó cho đến khi qua đời, Lưu Bá Ôn cũng không bao giờ quay lại làm quan nữa. Ông tự chọn cho mình nơi mai táng, dặn dò con cháu không được xây lăng mộ có đỉnh nhọn mà phải tròn trịa như hình bánh bao. Sau khi Lưu Bá Ôn qua đời, gia đình nghe theo lời dặn dò và dựng tượng ông trong nhà thờ của dòng họ ở thôn Nam Điền, con cháu hàng năm cúng bái và cắt cử người quản lý. Mỗi năm có một lễ hội lớn được con cháu thay nhau tổ chức, mời tất cả các thành viên trong dòng họ, từ già đến trẻ hàng mấy trăm người, giết heo mổ cừu, tổ chức rất long trọng.

Có một câu chuyện vô cùng thần bí nhưng lại có thật. Vào đầu thời kỳ Dân quốc, khi đến lượt cha mẹ cô Lưu chủ trì việc cúng bái, họ bắt đầu chuẩn bị mọi thứ từ ba tháng trước. Một hôm, họ quyết định đến khu chợ gần đó mua một con lợn to béo làm đồ cúng. Vào đêm hôm đó, cả hai vợ chồng đều mơ thấy Thái Sư công (Lưu Bá Ôn) báo mộng. Ông dặn họ không nên mua con lợn đó vì nó không phù hợp và chỉ họ đến một ngôi làng khác, nơi đó có một bà góa có nuôi vài con lợn, còn dặn họ hãy chọn con lợn nhỏ nhất.

Sau khi tỉnh dậy, họ cảm thấy rất kỳ lạ, nhưng vẫn quyết định làm theo lời chỉ dẫn của Thái Sư công, ngày hôm sau mới đi mua lợn. Đồng thời, vào đêm đó, góa phụ đã mơ thấy một ông cụ báo rằng ngày hôm sau sẽ có một cặp vợ chồng đến nhà cô mua lợn, cô hãy bán con lợn nhỏ nhất cho họ. Người phụ nữ cũng cảm thấy kỳ lạ. Quả nhiên, vào buổi trưa, một cặp vợ chồng đến hỏi và muốn mua lợn của cô.

Cha mẹ cô Lưu đương nhiên chọn con lợn nhỏ nhất, lúc này người phụ nữ liền kể cho họ nghe giấc mơ đêm hôm trước của cô. Khi họ nói với cô rằng họ cũng có giấc mơ tương tự, cả ba người đều vô cùng cảm động.

Ban đầu, khi mẹ cô Lưu nhìn thấy con lợn nhỏ đó, trong tâm vô cùng lo lắng vì chỉ còn ba tháng nữa là đến lễ cúng, liệu con lợn đó có lớn kịp đủ cho mấy trăm người ăn không? Tuy nhiên dù lo lắng nhưng họ vẫn quyết định mua con lợn đó về. Không ngờ, con lợn sau khi được mua về thì lớn nhanh như thổi, thay đổi từng ngày. Mẹ cô Lưu vô cùng vui mừng liền chia sẻ câu chuyện thần kỳ này với người thân và bạn bè trong thôn. Mọi người đổ xô đến xem con lợn này, một đồn mười, mười đồn trăm, người ở làng bên cũng biết đến. Đến ngày cúng lễ, con lợn đã nặng đến vài trăm cân (một cân Trung Quốc bằng hai cân Việt Nam), không chỉ thỏa mãn khẩu vị của người dân trong làng mà còn đáp ứng đầy đủ sự tò mò của những người từ làng bên đến. Mọi người đều được thưởng thức thịt con heo thần bí này. Mọi người càng thêm tôn kính Thái Sư công và thêm tin tưởng vào sự tồn tại của Thần linh.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/258503

The post Truyền thuyết dân gian: Hậu duệ của Lưu Bá Ôn kể lại chuyện xưa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Câu chuyện về tiên cô Nương Nươnghttps://chanhkien.org/2024/11/truyen-thuyet-dan-gian-cau-chuyen-ve-tien-co-nuong-nuong.htmlFri, 01 Nov 2024 04:39:42 +0000https://chanhkien.org/?p=34830Tác giả: Vũ Quang [ChanhKien.org] Tiên cô Nương Nương rất nổi tiếng ở khu vực núi Tứ Minh, tỉnh Chiết Giang. Cô sinh ra trong một gia đình nghèo, kết hôn sớm, được nhà chồng nuôi từ nhỏ, cô chưa từng đến trường một ngày nào và cũng chưa biết một chữ nào. Cô kiếm […]

The post Truyền thuyết dân gian: Câu chuyện về tiên cô Nương Nương first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vũ Quang

[ChanhKien.org]

Tiên cô Nương Nương rất nổi tiếng ở khu vực núi Tứ Minh, tỉnh Chiết Giang. Cô sinh ra trong một gia đình nghèo, kết hôn sớm, được nhà chồng nuôi từ nhỏ, cô chưa từng đến trường một ngày nào và cũng chưa biết một chữ nào. Cô kiếm sống bằng nghề kiếm củi và chăn cừu trên núi. Bản tính cô rất hiền lành, từ bi, luôn giúp đỡ người khác, hiếu thảo với cha mẹ chồng, chu đáo với chồng và chăm sóc con cái rất tốt. Mặc dù không biết chữ nhưng cô có thể thuộc kinh Phật, thông thạo y học dân gian Trung Quốc, kê đơn và chữa bệnh. Cô đã giúp đỡ rất nhiều bệnh nhân nguy kịch, chữa khỏi nhiều căn bệnh nan y, những người từ các huyện lân cận, thậm chí từ các tỉnh khác và kiều bào ở nước ngoài đều tìm đến cô. Họ vì nghe danh tiếng mà tới, có người đến vì bệnh nặng, có người đến với tâm nghi hoặc, nhưng đều ra về với tâm trạng thoải mái, vui vẻ, thân thể nhẹ nhàng. Cô đã trở thành tiên cô nổi tiếng gần xa, mọi người gọi cô là “Quan Âm sống”.

Nhưng thời kỳ tốt đẹp không kéo dài được lâu, Đại Cách mạng Văn hóa bắt đầu. Tiên cô Nương Nương bị quy chụp là ngưu quỷ xà thần, cô bị hồng vệ binh nhốt vào chuồng bò để đấu tố, diễu hành khắp đường phố, thậm chí còn bị đánh đập, tàn nhẫn nhất là một lần bè lũ tạo phản quyết định thiêu sống cô. Chúng nói: “Chúng tao không tin Thần cũng không tin Phật. Để xem bản sự của mày lớn thế nào, thần thông lớn ra sao. Hôm nay chúng tao dùng lửa thiêu mày, xem mày có thoát được không?” Thế là lũ tạo phản dựng một cái lò trên đài đấu tố, chất củi đốt lửa. Sau đó, bọn chúng kéo tiên cô Nương Nương lên đài, cầm hai tay của cô đặt trên lửa. Tất cả mọi người đứng dưới đài đều nín thở, nhìn cảnh tượng tàn nhẫn này. Chỉ thấy đôi mắt tiên cô hơi khép lại, khuôn mặt đỏ bừng như đang nhập định, không hề cầu xin, thậm chí cũng không kêu một tiếng. Một lúc sau, bầu trời đột nhiên mây đen bao phủ, gió lớn nổi lên, cát đá bụi mù, lò lửa bị thổi bay. Lũ tạo phản chứng kiến ​​cảnh tượng này vô cùng kinh hãi, vội vàng kéo tay cô ra khỏi lò lửa và kiểm tra, chúng kinh ngạc phát hiện không có vết bỏng rát hay phồng rộp nào.

Lũ tạo phản chưa hết hoảng hốt thì thầm với nhau: “Thật không thể tin được, thần kỳ quá!” Chúng vội vàng bảo con trai của tiên cô đưa cô về nhà. Những kẻ làm điều ác liên tục xin lỗi tiên cô: “Chúng tôi thực sự xin lỗi vì những việc đã làm ngày hôm nay. Chúng tôi có mắt mà không thấy Thái Sơn. Xin cô hãy rộng lòng tha thứ cho chúng tôi”. Tiên cô không một lời trách móc, chỉ thương xót cho hành động ngu muội và thiếu hiểu biết của họ.

Sau đó, tiên cô kể với con trai rằng đã có rất nhiều vị Thần đến trên không trung phía trên khán đài, họ còn giải thích với cô rằng: “Chúng tôi đã đến muộn khiến cô phải chịu oan ức rồi”. Trên đường về nhà, tiên cô được các vị Tiên hộ tống suốt chặng đường. Hai bên đường đều có các vị Tiên đứng rất trang trọng và cung kính.

Sự việc này đã gây chấn động trong vùng suốt một thời gian và còn lan rộng ra mấy huyện lân cận, có tác dụng răn đe rất lớn đối với bè lũ tạo phản đang đánh đập, phá hoại, cướp bóc của người dân. Chúng không dám nói rằng vô Phật vô Thần, vô pháp vô thiên nữa.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/258503

The post Truyền thuyết dân gian: Câu chuyện về tiên cô Nương Nương first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Vì một đồng tiền, mất mũ trạng nguyênhttps://chanhkien.org/2024/10/truyen-thuyet-dan-gian-vi-mot-dong-tien-mat-mu-trang-nguyen.htmlSun, 27 Oct 2024 23:05:58 +0000https://chanhkien.org/?p=34810Lương Ngôn chỉnh lý [ChanhKien.org] Thời xưa có một người họ Trình tên là Trình Tướng. Cha của anh đặt tên như vậy vì mong muốn sau này anh có thể đỗ đạt, làm tể tướng để rạng rỡ tổ tông. Trình Tướng rất có tài văn chương, từ nhỏ đã quyết chí thi đỗ […]

The post Truyền thuyết dân gian: Vì một đồng tiền, mất mũ trạng nguyên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Lương Ngôn chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Thời xưa có một người họ Trình tên là Trình Tướng. Cha của anh đặt tên như vậy vì mong muốn sau này anh có thể đỗ đạt, làm tể tướng để rạng rỡ tổ tông. Trình Tướng rất có tài văn chương, từ nhỏ đã quyết chí thi đỗ trạng nguyên. Tuy nhiên, thầy giáo (trường tư thục) của anh lại không nghĩ vậy, ông cho rằng Trình Tướng không có mệnh làm tể tướng, hỏi tại sao thì ông không nói.

Khi đến ngày thi, Trình Tướng thực sự đã viết một bài xuất sắc, được chủ khảo đánh giá cao, xếp bài thi của anh đứng đầu cũng chính là vị trí trạng nguyên. Một ngày, Trình Tướng đang dùng bữa ở quán rượu, thấy dưới đất có một đồng tiền liền dùng chân dẫm lên rồi cúi xuống nhặt. Đúng lúc đó, hành động của anh bị một vị quan đại thần trong quán nhìn thấy.

Ngày hôm sau công bố kết quả thi, Trình Tướng quả thật đỗ trạng nguyên. Khi anh đến điện Kim Loan để tạ ơn, đúng lúc anh bị vị quan đại thần nhìn thấy anh nhặt tiền hôm trước nhận ra. Thế là trước mặt Hoàng thượng, vị đại thần đã kể lại câu chuyện hôm trước. Hoàng đế vô cùng tức giận, cho rằng người này một đồng tiền cũng tham, nếu giao trọng trách cai trị đất nước cho Trình Tướng thì e rằng sẽ lại có thêm một tên quan tham. Vì vậy, Hoàng đế tuyên bố vĩnh viễn không thu nhận Trình Tướng nữa. Trình Tướng vô cùng buồn bã trở về nhà.

Lúc này người ta liền đi hỏi người thầy trường tư thục. Thầy giáo nói với mọi người rằng: “Trình Tướng tuy từ nhỏ đã thông minh nhưng lại rất ích kỷ và tham lam những lợi ích nhỏ nhặt. Người như vậy không thể làm việc đại sự”. Người ta thường nói: “Tam tuế khán tiểu, thất tuế khán lão” (Ba tuổi nhìn được tương lai đứa trẻ khi trưởng thành, bảy tuổi nhìn được tương lai đứa trẻ khi về già). Người thầy giáo nhìn thấy lòng tham của Trình Tướng khi còn nhỏ nên có thể nhìn được tương lai của anh ta. Điều này hết sức hợp lý.

“Tài năng của con người tuy rất quan trọng, nhưng đức hạnh mới là yếu tố quyết định giúp con người thành công, chẳng phải như vậy sao?”

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/258387

The post Truyền thuyết dân gian: Vì một đồng tiền, mất mũ trạng nguyên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Câu chuyện một thùng dầuhttps://chanhkien.org/2024/10/truyen-thuyet-dan-gian-cau-chuyen-mot-thung-dau.htmlFri, 25 Oct 2024 22:43:43 +0000https://chanhkien.org/?p=34795Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại tỉnh Hắc Long Giang, Trung Quốc [ChanhKien.org] Cách đây rất lâu, có một chàng ngốc mồ côi cha mẹ. Khi cậu được 15, 16 tuổi, có một phú ông trong làng thấy cậu ngốc nghếch liền bảo: “Này, cậu đến nhà ta làm việc đi. Nhà ta có […]

The post Truyền thuyết dân gian: Câu chuyện một thùng dầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại tỉnh Hắc Long Giang, Trung Quốc

[ChanhKien.org]

Cách đây rất lâu, có một chàng ngốc mồ côi cha mẹ. Khi cậu được 15, 16 tuổi, có một phú ông trong làng thấy cậu ngốc nghếch liền bảo: “Này, cậu đến nhà ta làm việc đi. Nhà ta có một đàn bò, cậu chỉ cần chăn bò cho ta là được. Ăn ở đều do nhà ta lo”. Chàng ngốc hỏi: “Vậy ông trả cho tôi bao nhiêu tiền công?” Phú ông nói: “Mỗi năm ta sẽ trả cho cậu một con bò”. Chàng ngốc nghĩ thầm: Vậy cũng được, dù trả nhiều hay ít thì mình cũng không có nơi nào để đi, cứ ở nhà ông ta làm việc thôi. Phú ông nói: “Khi nào cậu làm cho ta xong được bao nhiêu năm, ta sẽ trả công một lần cho cậu”. Chàng ngốc đáp: “Được”.

Chàng ngốc chăn bò cho nhà phú ông suốt 30 năm. Khi chàng ngốc tuổi cao rồi, không còn làm được việc nữa, chàng đến gặp phú ông nói: “Tôi già rồi, không làm được việc nữa, ông hãy tính tiền công cho tôi để tôi đi”. Phú ông nhẩm tính: Anh ngốc đã làm cho mình 30 năm, vậy phải trả cho anh ta 30 con bò. Mà tổng cộng ta chỉ có hơn 30 con bò, nếu trả cho anh ta thì đàn bò của ta không phải sẽ hết rồi sao? Như vậy ta bị thiệt rồi. Vì vậy, ông ta nói với chàng ngốc: “Ngươi nghe nhầm rồi. Ta không nói là một năm cho ngươi một con bò, mà là khi nào ngươi làm xong việc cho ta, ta sẽ trả cho ngươi một thùng dầu”. Chàng ngốc nói: “Vậy cũng được, ông trả cho tôi một thùng dầu đi”. Chàng ngốc xách thùng dầu rời khỏi nhà phú ông, trong lòng không biết đi đâu.

Trên núi Nam Sơn có một ngôi miếu, chàng ngốc liền nghĩ chi bằng ta lên miếu, mang thùng dầu lên chùa quyên góp một chút tiền hương hỏa. Chưa đến chùa, vị trụ trì trong chùa đã biết, bèn dặn dò tiểu hòa thượng: “Mau dọn dẹp phòng, trải đất hoàng thổ, tưới nước quét sân, ngày mai chúng ta sẽ đón một vị đại thiện nhân”. Tiểu hòa thượng liền làm theo lời sư trụ trì.

Sáng hôm sau, các tiểu hòa thượng xếp thành hai hàng trước cửa chùa đón tiếp vị khách quý. Họ chờ suốt cả buổi sáng mà không thấy ai. Đến trưa, họ mới nhìn thấy một người xách một thùng dầu đến. Các tiểu hòa thượng thầm nghĩ: Chẳng hiểu trụ trì bị làm sao vậy, người xách thùng dầu này mà lại là đại thiện nhân sao?

Các tiểu hòa thượng nhận thùng dầu và cung kính nghênh đón chàng ngốc. Trụ trì nói với chàng ngốc: “Hôm nay anh đừng đi đâu nữa, hãy ở lại đây. Tối nay ta sẽ cho anh xem một cảnh tượng đặc biệt”. Chàng ngốc nói được, rồi ở lại trong chùa.

Sáng hôm sau, trụ trì hỏi chàng ngốc: “Đêm qua anh mơ thấy gì?” Chàng ngốc trả lời: “Đêm qua tôi mơ thấy một thanh niên thi đỗ trạng nguyên, được vinh quy bái tổ, oai phong lẫm liệt”. Trụ trì nói: “Đó chính là kiếp sau của anh. Anh sẽ chuyển sinh thành người này và làm quan lớn”.

Chàng ngốc rời chùa đến nhà phú ông để lấy hành lý. Phú ông hỏi anh ta: “Ngươi đã làm gì với thùng dầu?” Chàng ngốc trả lời: “Tôi đã cúng dường cho chùa. Trụ trì còn cho tôi xem một cảnh tượng đặc biệt, nói rằng kiếp sau tôi sẽ làm quan to, được vinh quy bái tổ”. Phú ông nghe vậy, nghĩ thầm: Chỉ một thùng dầu mà được vinh quy bái tổ, vậy ngày mai ta cũng đến chùa, ta sẽ quyên một xe dầu, ta còn muốn làm hoàng đế!

Trụ trì không đợi phú ông đến đã dặn dò các tiểu hòa thượng dọn dẹp phòng, còn nói rằng ngày mai sẽ có một tiểu thiện nhân đến. Sáng hôm sau, phú ông chở một xe dầu đến chùa. Các tiểu hòa thượng nhìn thấy không hiểu sao một người xách một thùng dầu được coi là đại thiện nhân, mà người chở một xe dầu lại chỉ là tiểu thiện nhân? (Một thùng dầu là tiền công của 30 năm).

Phú ông quyên xe dầu cho chùa và nói với trụ trì: “Tôi muốn ở lại đây để xem cảnh tượng đặc biệt”. Trụ trì đồng ý.

Sáng hôm sau, trụ trì hỏi phú ông: “Đêm qua ông mơ thấy gì?” Phú ông trả lời: “Tôi mơ thấy một con lợn đen đi đi lại lại trong chuồng, rất bẩn thỉu”. Trụ trì nói: “Đó chính là kiếp sau của ông”.

Phú ông hoảng hốt: “Thế tôi nên làm thế nào?” Ông ta vội vàng van xin trụ trì: “Xin ngài hãy phát tâm từ bi giúp đỡ tôi. Cho dù kiếp sau làm người không được ăn uống đầy đủ, vẫn còn hơn biến thành lợn để bị giết”.

Trụ trì nói: “Vậy ông phải đồng ý với ta một việc, về nhà đập vỡ cái cân của ông đi, đừng dùng quả cân nhỏ bán ra và quả cân lớn mua vào nữa”. Phú ông đồng ý, về nhà đập vỡ cái cân. Rồi phú ông lại đến chùa ở. Sáng hôm sau, trụ trì lại hỏi phú ông: “Đêm qua ông mơ thấy gì nữa?” Phú ông đáp: “Tôi thấy một người què, tay cầm cái bát xin ăn, chống gậy đi ăn xin trên đường phố”. Trụ trì nói: “Đó chính là kiếp sau của ông”. Phú ông van nài: “Thưa trụ trì, ngài có thể giúp tôi lần nữa được không?” Trụ trì nói: “Không thể giúp được nữa rồi”.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/258940

The post Truyền thuyết dân gian: Câu chuyện một thùng dầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tôn Tư Mạc và bài thuốc của Long cunghttps://chanhkien.org/2024/10/ton-tu-mac-va-bai-thuoc-cua-long-cung.htmlMon, 21 Oct 2024 03:44:04 +0000https://chanhkien.org/?p=34754Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Danh y nổi tiếng của nhà Đường – Tôn Tư Mạc, từng ẩn cư tại núi Trung Nam. Ông sống gần nơi ở của hòa thượng Tuyên Luật, hàng ngày họ đều cùng nhau đàm luận về Phật, Đạo. Lúc đó, hạn hán đang nghiêm trọng, có một tăng nhân […]

The post Tôn Tư Mạc và bài thuốc của Long cung first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Danh y nổi tiếng của nhà Đường – Tôn Tư Mạc, từng ẩn cư tại núi Trung Nam. Ông sống gần nơi ở của hòa thượng Tuyên Luật, hàng ngày họ đều cùng nhau đàm luận về Phật, Đạo.

Lúc đó, hạn hán đang nghiêm trọng, có một tăng nhân đến từ Tây Vực tự nguyện lập đàn cầu mưa bên hồ Côn Minh. Sau bảy ngày, nước trong hồ giảm xuống chỉ còn sâu vài thước. Đêm hôm đó, đột nhiên có một ông lão đến cầu cứu hòa thượng Đạo Tuyên, nói rằng: “Đệ tử là rồng ở hồ Côn Minh, hạn hán nghiêm trọng không phải lỗi của con. Tăng nhân ở Tây Vực đã lừa dối hoàng đế, lấy cớ là cầu mưa nhưng thực ra ông ta muốn lấy não của đệ tử dùng để làm thuốc. Tính mạng của đệ tử đang nguy hiểm. Cầu xin sư phụ thi triển thần thông cứu con”.

Hòa thượng Tuyên Luật từ chối đáp rằng: “Ta đã là người xuất gia, ngươi có thể cầu cứu Tôn tiên sinh”.

Thế là ông lão đến nơi ở của Tôn Tư Mạc cầu cứu. Tôn Tư Mạc nói: “Ta biết trong Long cung Côn Minh Long có 30 bài thuốc tiên, nếu ngươi truyền cho ta, ta sẽ cứu ngươi”. Ông lão nói: “Những bài thuốc này là do Thiên đế ban cho, không thể tùy tiện truyền. Nhưng giờ đã rất nguy cấp rồi, tôi không còn gì tiếc nuối cả”. Vậy là bài thuốc Long cung được truyền cho Tôn Tư Mạc. Tôn Tư Mạc triển hiện pháp lực phá giải phép thuật của tăng nhân Tây Vực, nước hồ Côn Minh dâng lên rất nhanh.

Sau này Tôn Tư Mạc viết lại “Thiên Kim phương”, tổng cộng 30 tập, mỗi tập đều có tiên dược của Long cung truyền tặng, còn cụ thể là phương thuốc nào thì không ai biết.

Nguồn tư liệu: (Dậu Dương tạp lục – nhà Đường)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/53253

The post Tôn Tư Mạc và bài thuốc của Long cung first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Đạo lý cho tiền của Lưu Bá Ônhttps://chanhkien.org/2024/10/truyen-thuyet-dan-gian-dao-ly-cho-tien-cua-luu-ba-on.htmlFri, 18 Oct 2024 23:41:32 +0000https://chanhkien.org/?p=34745Tác giả: Vũ Quang [ChanhKien.org] Lưu Bá Ôn, còn gọi Lưu Cơ, người Thanh Điền, Chiết Giang, là bậc quân sư khai quốc thời nhà Minh. Việc Lưu Bá Ôn giúp đỡ Chu Nguyên Chương bình thiên hạ, kiến lập nhà Minh và sau đó là đại dự ngôn “Thiếu Bính Ca”, độc giả đã […]

The post Truyền thuyết dân gian: Đạo lý cho tiền của Lưu Bá Ôn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vũ Quang

[ChanhKien.org]

Lưu Bá Ôn, còn gọi Lưu Cơ, người Thanh Điền, Chiết Giang, là bậc quân sư khai quốc thời nhà Minh. Việc Lưu Bá Ôn giúp đỡ Chu Nguyên Chương bình thiên hạ, kiến lập nhà Minh và sau đó là đại dự ngôn “Thiếu Bính Ca”, độc giả đã rất quen thuộc nên không nhắc đến nữa.

Ở đây tôi muốn giới thiệu với mọi người về một câu chuyện dân gian ít được biết đến: Đạo lý cho tiền của Lưu Bá Ôn.

Vì Lưu Bá Ôn có công lớn và tài năng xuất chúng nên Chu Nguyên Chương thường ban thưởng cho ông bổng lộc, rừng núi và ruộng đất. Từ xa xưa, ở mỗi hình thức xã hội khác nhau con người đều sử dụng những phương pháp khác nhau để tích lũy của cải, nhưng Lưu Bá Ôn lại làm điều ngược lại. Ông không để lại tài sản cho con cháu đời sau như người khác mà dùng nhiều cách khác nhau để san sẻ tài sản mỗi khi nhận được phần thưởng.

Tại một huyện miền núi phía Đông tỉnh Chiết Giang, từ cuối thời nhà Minh người dân trên núi đã truyền tai nhau một câu chuyện nổi tiếng về việc Lưu Bá Ôn dùng ẩn ý trong thơ ca để giúp người hữu duyên lấy được tiền. Bài thơ này được khắc trên vách đá ven suối:

Lên năm dặm,
Xuống năm dặm,
Muốn có vàng bạc trong cầu tre.

Bên cạnh vách đá này có một cây cầu tre bắc qua suối, cách đó năm dặm ở thượng nguồn và hạ lưu đều có một ngôi làng, đối diện cầu dưới chân núi có một ngôi miếu rất nhỏ để người dân quanh đó đến thắp hương và cầu khấn. Nơi đây bao quanh bởi non xanh nước biếc và những con đường quanh co, một nơi rất vắng vẻ và yên bình.

Nhưng từ khi bài thơ của Lưu Bá Ôn lưu truyền trong dân gian, cây cầu tre này đã trở thành nơi tìm kiếm của những kẻ tham lam mộng tưởng. Cây cầu nhỏ bé này đã bị phá đi xây lại nhiều lần, trải qua bao mưa gió, khó khăn khiến vô số người hăng hái đến rồi thất vọng ra về.

Kỳ thực, người có thể gặp vận may đều là người có đại đức, đại trí đại huệ, hơn nữa như chúng ta đã biết, Lưu Bá Ôn là người có thể dự đoán tương lai, ông tuyệt đối sẽ không để tiền của mình rơi vào tay những kẻ tiểu nhân tham lam đó. Do vậy, việc nhiều người hăng hái đến rồi thất vọng ra về là điều dễ hiểu.

Vào một ngày, có một tú tài gia cảnh bần hàn nhưng tràn đầy lòng trung quân báo quốc. Trên đường vào kinh thi tình cờ đi qua nơi này, vì vội vã và đói khát, không có đồ ăn nên chàng ra suối rửa mặt và uống nước để xoa dịu cơn đói. Khi ngẩng đầu lên, chàng bỗng nhìn thấy bài thơ trên vách đá, trong lòng thấy hiếu kỳ, như đã hiểu ra điều gì, chàng quan sát xung quanh, khi nhìn thấy ngôi miếu nhỏ dưới chân núi, chàng chợt nhận ra bí mật của bài thơ.

Chàng lập tức sải bước đi về phía chùa, đến đại điện, sau khi dâng hương lễ Phật, chàng gặp trụ trì trong chùa và nói rằng bí mật bài thơ của Lưu Bá Ôn chính ở trong ngôi chùa này. Điều này khiến ai nấy đều rất sửng sốt, chàng giải thích: “Tre và nến đồng âm, quốc sư đã giấu bí mật trong bài thơ”.

Vị sư trụ trì cho kiểm tra chiếc cầu nến cổ nối giữa hai cây nến trên bàn thờ, cầu nến rất nặng, sau hàng trăm năm bị khói hương che phủ, không ai biết màu sắc ban đầu của nó. Sau khi các nhà sư lau chùi gần hai giờ đồng hồ, chiếc cầu nến đã lộ ra diện mạo, lấp lánh ánh vàng. Sự sắp xếp tỉ mỉ của Lưu Bá Ôn cuối cùng đã giúp bảo vật tìm được chủ nhân.

Sau này, vị tú tài đó thi đỗ, trở thành một vị quan thanh liêm bảo vệ công lý. Vào những năm cuối đời, chàng cũng học cách giúp đỡ hậu nhân của Lưu Bá Ôn. Chàng đã lập nên núi Trạng Nguyên tại quê hương của mình. Ở vùng núi này ai có hoàn cảnh khó khăn nếu thi đỗ trạng nguyên sẽ được thưởng ngọn núi đó.

Hãy nhìn Trung Quốc ngày nay, một mảng u ám bao trùm, tham quan xấu xa chồng chất, không từ thủ đoạn tranh giành tiền tài để lại cho thế hệ con cháu. Nhưng nên biết rằng, giàu có không thể quá ba đời, bởi vì muốn có tiền thì phải có đức để gánh vác tiền, giống như muốn có nước thì phải có bờ vai vững chắc để gánh nước. Điều tốt nhất có thể để lại cho đời sau là đạo đức và trí tuệ, đó mới là nguồn của cải vô tận mà người ta dùng mãi không hết. Kiếm tiền phải biết quy tắc của kiếm tiền, cho tiền cũng phải hiểu đạo lý của cho tiền. Lưu Bá Ôn vừa là một nhà tiên tri vĩ đại, vừa là một cao nhân biết cách dùng tiền.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/53253

The post Truyền thuyết dân gian: Đạo lý cho tiền của Lưu Bá Ôn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Thần cơ diệu toán Lưu Bá Ônhttps://chanhkien.org/2024/10/truyen-thuyet-dan-gian-than-co-dieu-toan-luu-ba-on.htmlTue, 15 Oct 2024 04:20:42 +0000https://chanhkien.org/?p=34723Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Vào thời nhà Minh có một bài dự ngôn nổi tiếng được lưu truyền tên là Thiếu Bính Ca, tác giả là Lưu Cơ, quốc sư thời Minh Thái Tổ, còn gọi là Lưu Bá Ôn. Tương truyền Lưu Cơ rất thông thạo toán học, dân gian nói rằng ông […]

The post Truyền thuyết dân gian: Thần cơ diệu toán Lưu Bá Ôn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Vào thời nhà Minh có một bài dự ngôn nổi tiếng được lưu truyền tên là Thiếu Bính Ca, tác giả là Lưu Cơ, quốc sư thời Minh Thái Tổ, còn gọi là Lưu Bá Ôn. Tương truyền Lưu Cơ rất thông thạo toán học, dân gian nói rằng ông là một vị Thần hạ trần trợ giúp Thái Tổ lập nên sự nghiệp. Trong các câu chuyện dân gian và tác phẩm văn học, ông thường được miêu tả là nhân vật có trí tuệ siêu việt, dự đoán trước tương lai, nhìn thấu quá khứ và hiện tai. Ông còn có khả năng hô mưa gọi gió, thần thông quảng đại “biết những sự việc xảy ra trước và sau 500 năm”, giống như Thần tiên vậy.

Cha của Lưu Cơ tên là Lưu Dược, tương truyền rằng cha mẹ ông rất tốt bụng. Một ngày, có vị tiên Bạch Hạc hóa thành một người ăn xin đầu ghẻ lở đến nhà họ xin ăn, họ không những không xua đuổi mà còn cho đồ ăn và lên núi hái thuốc chữa bệnh cho người ăn xin. Bạch Hạc tiên nhân cảm kích lòng tốt của họ nên đã bảo họ chôn cất di hài của tổ tiên dưới chân núi Ngũ Phong phía sau nhà, sau này con cháu nhất định sẽ có người thành tài. Nhờ sự trợ giúp của tiên nhân, Lưu Dược đã chôn cất di hài của tổ tiên dưới chân núi. Ba năm sau, vợ của Lưu Dược sinh hạ Lưu Cơ.

Lưu Cơ khi mới sinh không cất tiếng khóc, giống như đứa trẻ câm. Khi vợ chồng Lưu Dược đang phiền muộn thì Bạch Hạc tiên nhân lại xuất hiện. Ông nói với Lưu Dược: “Đứa trẻ này có dung mạo thanh tú, trán cao miệng rộng, sau này nhất định sẽ trở thành vương hầu hoặc tướng quân”. Nói xong, ông đưa tay chạm vào cổ họng và vỗ nhẹ vào ngực đứa trẻ. Lưu Cơ liền mở miệng phát ra tiếng khóc. Sau đó Bạch Hạc tiên nhân cưỡi mây bay đi.

Khi còn nhỏ, Lưu Cơ rất thông minh, có khả năng ghi nhớ mọi thứ chỉ sau một lần xem, đọc sách vài lần là có thể thuộc, nên được thầy giáo hết lời khen ngợi.

Lưu Cơ đỗ tiến sĩ lúc 22 tuổi, nhưng ông là người ngay thẳng, trung thực và tận tụy với công việc, ông bị mất chức và phải rút về ở ẩn sau khi vạch trần sự tắc trách của quan giám sát. Trong thời gian ở ẩn, ông tìm gặp các ẩn sĩ, đạo tiên. Tương truyền, ông còn gặp được tiên nhân Hoàng Thạch Công. Cuối cùng ông có được khả năng dự đoán tương lai, nhìn thấu hiện tại và quá khứ.

Về việc Lưu Cơ gặp tiên nhân Hoàng Thạch Công, dân gian lưu truyền một truyền thuyết như sau: một buổi sáng sau khi Lưu Cơ có được cuốn Thiên Thư Vô Tự trong động Bạch Viên, Lưu Cơ cầm một quyển sách đứng dưới vách đá cao hàng chục trượng bên trái thác nước đọc to. Đột nhiên, có một tiếng động lớn và vách đá từ từ tách ra. Lưu Cơ đi vào, tới một gian phòng bằng đá, ông nhìn thấy bức tường sau của gian phòng đá trắng như ngọc, trên tường có chạm khắc hai vị Thần đứng đối diện nhau, bốn tay cùng cầm một chiếc kim bài. Kim bài ghi: “Mão kim đao, trì thạch xao”. Lưu Cơ, một người có tài năng phi thường, tự nhiên hiểu ra. Ông lập tức nhặt một hòn đá lớn và gõ vào bức tường đá. Rất lâu sau, bức tường tự mở, lộ ra một cái tráp bằng đá. Trong tráp đá có chứa bốn tập binh thư.

Lưu Cơ vô cùng mừng rỡ, cầm lấy bốn tập binh thư quay đầu rời đi. Khi ông bước ra khỏi hang, vách đá trở lại như cũ.

Lưu Cơ trở về nơi ở, lấy ra bốn quyển binh thư lật đi lật lại, nhưng không thấy điều bí mật gì trong đó. Đợi khi trăng lên cao, Lưu Cơ mở cuốn Thiên Thư Vô Tự, chỉ thấy trong cuốn thiên thư hiện ra bốn chữ “Nhân ngoại hữu nhân”. Lưu Cơ hiểu rằng ý bảo ông đi tìm cao nhân. Thế là Lưu Cơ bèn đi thăm quan những ngôi chùa cổ ở những vùng núi danh tiếng, cuối cùng vào một ngày ông gặp một đạo trưởng tiên phong đạo cốt trên một đỉnh núi cao ngút ngàn mây. Đạo sỹ đưa cho Lưu Cơ một cuốn sách dày hai tấc (khoảng 20cm) và nói với ông: “Nếu ngày mai ngươi có thể học thuộc cuốn sách này, ta sẽ chỉ bảo cho ngươi”.

Lưu Cơ rất thông minh nên đến nửa đêm đã có thể ghi nhớ cuốn sách dày này. Đạo sỹ vô cùng thán phục nói: “Thật là thiên tài!” Ông tiện tay mở cửa một căn phòng đá, dẫn Lưu Cơ vào trong. Lưu Cơ thấy trong phòng có đủ loại sách, ông vô cùng xúc động. Thế là Đạo sỹ đàm luận với ông về những cuốn sách trong phòng đá cùng với bốn tập thiên thư do Lưu Cơ mang đến. Sau khi được Đạo sỹ tận tâm chỉ dạy, Lưu Cơ cuối cùng cũng hiểu được yếu chỉ của bốn tập binh thư và những cuốn sách trong phòng đá. Trước khi xuống núi, Đạo sỹ nói với Lưu Cơ, ông chính là Hoàng Thạch Công ở Cửu Giang, người đã truyền binh thư cho Trương Lương nhà Hán.

Vào cuối thời nhà Nguyên, anh hùng khắp nơi nổi dậy. Sau khi Chu Nguyên Chương khởi binh, Lưu Cơ hành theo Thiên ý, xuống núi gia nhập đội quân và giúp Chu Nguyên Chương trở thành hoàng đế.

Lưu Cơ có khả năng dự đoán chính xác. Tương truyền khi Chu Nguyên Chương còn là vua nước Ngô, phía Nam sông Dương Tử đã xảy ra một đợt hạn hán. Khi đó Lưu Cơ phụ trách thiên văn, Chu Nguyên Chương hỏi ông tại sao lại có đại hạn hán và làm thế nào để cầu mưa. Lưu Cơ nói: “Trời mãi không mưa bởi vì có người trong ngục bị oan ức”. Chu Nguyên Chương nghe vậy liền phái ông đi điều tra các phạm nhân trong lao ngục. Lưu Cơ kiểm tra quả nhiên có không ít vụ án oan. Sau khi bẩm báo với Chu Nguyên Chương, ông đã giải quyết các vụ án oan và thả người bị bắt nhầm. Quả nhiên, chỉ vài ngày sau mây đen đầy trời, ngay sau đó có một trận mưa lớn.

Còn có một lần, Minh Thái Tổ đang ăn bánh vừng ở trong nội điện. Vừa cắn một miếng, thái giám bỗng dưng báo tin quốc sư Lưu Cơ đến gặp. Thái Tổ lấy bát đậy lên bánh, rồi triệu Lưu Cơ vào nội điện. Sau khi hành lễ, Thái Tổ hỏi: “Khanh rất thông thạo toán lý, có thể đoán trong bát có gì không?” Lưu Cơ đếm ngón tay rồi trả lời: “Nửa giống mặt trời, nửa giống mặt trăng. Đã bị kim long cắn, đây là loại đồ ăn”. Mở bát ra, quả đúng như những gì ông nói.

Năm Hồng Vũ thứ tư (năm 1371), Lưu Cơ cáo lão về quê (Thái Tổ ban ân). Vì Lưu Cơ căm ghét cái xấu nên đã đắc tội với một số kẻ gian trá. Hồ Duy Dung là kẻ phản bội đứng đầu thời nhà Minh, Lưu Cơ và tướng Từ Đạt đều cảnh báo Thái Tổ không nên dùng người này. Do vậy, Hồ Duy Dung đã cử người tung tin đồn rằng Lưu Cơ đã chọn mộ phần có vương khí cho bản thân để con cháu sau này được vinh hoa. Chu Nguyên Chương tuy là một vị vua chăm lo việc nước nhưng tầm nhìn và lòng bao dung lại không rộng lượng như Đường Thái Tông. Minh Thái Tổ đã tước bỏ bổng lộc của Lưu Cơ. Sau khi bị vu oan, Lưu Cơ phải về kinh để nhận tội. Thái Tổ không trách tội quá nặng, sau đó đã cử người hộ tống Lưu Cơ trở về quê. Tương truyền lúc đó Lưu Cơ bị bệnh, Hồ Duy Dung liền cử người bỏ độc vào thuốc của Lưu Cơ. Sau khi trở về quê nhà, Lưu Cơ nói với con trai: “Thời nay triều đình nên tu sửa đạo đức và giảm bớt hình phạt. Đáng tiếc, giờ lại có Hồ Duy Dung nắm quyền, cho nên nói chuyện này cũng vô ích. Sau này, khi Hồ Duy Dung bại vong, Thái Tổ sẽ nghĩ đến ta, con nhất định phải truyền đạt ý nguyện của ta với Hoàng thượng”. Lưu Cơ còn nói: “Nếu dự ngôn của ta không chuẩn, thì là phúc phận cho người trong thiên hạ”. Một tháng sau, Lưu Cơ qua đời ở tuổi 65. Sau đó Hồ Duy Dung lên làm tể tướng và đã làm rất nhiều chuyện xấu. Phải nhiều năm sau, âm mưu làm phản của hắn mới bị vạch trần và hắn bị xử tử. Sự thật một lần nữa khẳng định tính chính xác trong dự ngôn của Lưu Cơ.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/53253

The post Truyền thuyết dân gian: Thần cơ diệu toán Lưu Bá Ôn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Động Tiênhttps://chanhkien.org/2024/10/truyen-thuyet-dan-gian-dong-tien.htmlWed, 09 Oct 2024 02:27:29 +0000https://chanhkien.org/?p=34661Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Trong truyền thuyết dân gian có rất nhiều địa tiên sống trong các hang động ở các danh sơn đại xuyên, có không ít người phàm đã tận mắt nhìn thấy hoặc đích thân trải nghiệm. Trong “Thuật dị ký” viết, ở phía tây nam của huyện Ngô Đô, tỉnh […]

The post Truyền thuyết dân gian: Động Tiên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Trong truyền thuyết dân gian có rất nhiều địa tiên sống trong các hang động ở các danh sơn đại xuyên, có không ít người phàm đã tận mắt nhìn thấy hoặc đích thân trải nghiệm.

Trong “Thuật dị ký” viết, ở phía tây nam của huyện Ngô Đô, tỉnh Giang Tây, dọc theo dòng sông về phía tây, cách trung tâm huyện ba dặm có một nơi gọi là Mộng Khẩu. Nơi đó có một hang động trông giống như một căn phòng bằng đá, tương truyền thường có một con gà thần xuất hiện ở đó. Gà thần có màu như vàng ròng, khi bay ra khỏi hang, nó thích vỗ cánh bay lượn, và cất tiếng gáy dài vang vọng khắp thung lũng. Nếu phát hiện có người quan sát mình, nó sẽ bay về hang. Do vậy, người ta gọi hang động này là “Kim kê thạch”.

Một ngày, một người nông dân đang làm ruộng trên núi, nhìn thấy chú gà thần đang bay ra dạo chơi. Có một người thân hình cao lớn cầm súng cao su chuẩn bị bắn gà thần. Con gà thần phát hiện ra bèn bay vào hang. Viên đạn có đường kính khoảng sáu thước vừa khít miệng hang, vừa vặn che kín miệng hang. Dù vẫn có khe hở, nhưng người ta hoàn toàn không thể chui vào được.

Còn có một lần, một người đi thuyền từ hạ lưu về phố huyện. Trên đường, gặp một người mặc áo vàng, tay đang cầm hai giỏ nấm vàng, xin được đi cùng. Chủ thuyền đồng ý. Sau khi lên thuyền, người mặc áo vàng xin ăn, chủ thuyền bèn cho anh ta ăn. Một lúc sau, thuyền đến gần vách đá nơi có hang động, người mặc áo vàng xin xuống thuyền. Chủ thuyền xin nấm vàng, nhưng người mặc áo vàng không cho, chỉ nhổ một miếng lên cái đĩa đã ăn rồi đi lên vách núi, chui vào hang động. Ban đầu, chủ thuyền rất tức giận, nhưng khi thấy người mặc áo vàng bước vào hang động, anh ấy mới biết mình đã gặp được tiên nhân. Chủ thuyền cầm cái đĩa người mặc áo vàng để lại, thấy trên đĩa nhổ ra toàn là vàng.

“Thần tiên thập di” cũng ghi chép câu chuyện về một người tên là Tung Sơn Tẩu cũng từng gặp được tiên nhân.

Tung Sơn Tẩu là người thời Tấn. Tương truyền, ở sườn núi phía bắc núi Tung Sơn có một hang động lớn rất sâu không đo thấy đáy, hàng năm người dân đều đến đây vui chơi. Có một năm, Tung Sơn Tẩu không cẩn thận bị rơi xuống hang. Bạn bè anh đứng trên miệng hang hy vọng anh ta sẽ không chết khi bị rơi xuống, nên họ đã ném một ít thức ăn xuống. Không ngờ rằng Tung Sơn Tẩu vẫn còn sống khi rơi xuống hang, anh ta ăn một ít thức ăn mà bạn bè ném xuống, sau đó men theo hang tiến lên phía trước. Đi được hơn mười ngày, đột nhiên anh thấy một vùng sáng phía trước, có một căn nhà cỏ. Bước vào nhà, anh thấy có hai tiên nhân đang ngồi chơi cờ, gần bàn cờ có vài cốc nước trắng. Tung Sơn Tẩu kể với tiên nhân rằng anh vừa đói vừa khát, tiên nhân liền đưa nước cho anh uống. Sau khi uống xong, anh cảm thấy cơ thể mình mạnh thêm gấp trăm lần. Tiên nhân hỏi anh có muốn ở lại không, nhưng anh nói không muốn. Tiên nhân bèn bảo anh: “Anh cứ đi vài chục bước về phía tây sẽ gặp một cái giếng lớn, trong giếng có nhiều sinh vật kỳ lạ, nhưng đừng sợ, chỉ cần nhảy xuống giếng thì sẽ ra được ngoài. Nếu anh đói thì có thể ăn những thứ trong giếng”. Anh nhảy xuống giếng theo lời tiên nhân, trong giếng có rất nhiều giao long, nhưng khi nhìn thấy anh, chúng đều nhường đường cho anh đi qua. Anh tiếp tục đi về phía trước. Những thứ trong giếng giống như bùn nhưng có mùi thơm ngon, sau khi ăn vào anh không cảm thấy đói nữa. Anh đi hơn nửa năm mới ra khỏi giếng, nhìn xung quanh, anh ngạc nhiên thấy mình đã đến núi Thanh Thành ở Tứ Xuyên. Rồi, anh nghĩ cách trở lại Lạc Dương. Sau này anh đi tìm lại hang đó nhưng không thể tìm thấy nữa.

Trong “Huyền trung ký” viết, ở núi Thanh Thành, Tứ Xuyên có một hang động, bên trong có ba con đường, con đường theo hướng tây bắc thông đến núi Côn Luân, sơn động ở núi Thanh Thành là động trời thứ năm, hiệu là “Bảo Tiên Cửu Thất Thiên”, là một trong mười động trời của Đạo gia, có lẽ Tung Sơn Tẩu đã đi qua động tiên này.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/53253

The post Truyền thuyết dân gian: Động Tiên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Ba vì sao chiếu sáng đón năm mới đếnhttps://chanhkien.org/2024/10/truyen-thuyet-dan-gian-ba-vi-sao-chieu-sang-don-nam-moi-den.htmlSat, 05 Oct 2024 02:13:46 +0000https://chanhkien.org/?p=34606[ChanhKien.org] Vào dịp năm mới, một trong những lời chúc phổ biến mà người Trung Quốc thường nói là “Phúc tinh cao chiếu”. Lại nói: “Nhân gian có phúc lộc thọ, thiên thượng có tam cát tinh” nghĩa là nhân gian có phúc lộc thọ, trên trời có ba chòm sao may mắn. Còn có […]

The post Truyền thuyết dân gian: Ba vì sao chiếu sáng đón năm mới đến first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Vào dịp năm mới, một trong những lời chúc phổ biến mà người Trung Quốc thường nói là “Phúc tinh cao chiếu”. Lại nói: “Nhân gian có phúc lộc thọ, thiên thượng có tam cát tinh” nghĩa là nhân gian có phúc lộc thọ, trên trời có ba chòm sao may mắn. Còn có câu “Tam tinh cao chiếu, tân niên lai đáo” nghĩa là ba ngôi sao chiếu sáng là năm mới đã đến. Cách nói tam tinh bắt đầu từ Kinh thơ – Đường phong – Trù mâu: “Trù mâu thúc tân, tam tinh tại thiên” (nghĩa là vừa bó củi xong thì thấy ba vì sao xuất hiện trên bầu trời). Vậy ba vì sao này chỉ những vì sao nào?

“Ba ngôi sao” chào đón năm mới là Sâm Tú Nhất, Sâm Tú Nhị và Sâm Tú Tam trong chòm sao Thợ săn (Orion) xếp từ trái sang phải. Ba ngôi sao này xếp thành một đường thẳng, có khoảng cách và độ sáng như nhau, đều là sao cấp 2 và tỏa ra ánh sáng màu xanh lam. Người ta gọi “ba vì sao” này là sao phúc, sao lộc, sao thọ hoặc phúc, lộc, thọ. Ba ngôi sao này chiếu sáng tượng trưng cho sự may mắn, hạnh phúc, khỏe mạnh, trường thọ và sung túc.

Làm thế nào để tìm thấy ba ngôi sao này trên bầu trời đêm? Chòm sao Thợ săn là vua của các chòm sao mùa đông. Nó chủ yếu bao gồm bảy ngôi sao sáng hợp thành. Ngôi sao màu đỏ ở phía trên bên trái là sáng nhất. “Ba ngôi sao” nằm ngay thắt lưng của chòm sao Thợ săn, chúng nổi bật vào ban đêm và rất dễ nhìn thấy.

Vào khoảng 9 giờ tối đêm giao thừa, “ba ngôi sao” sẽ lên vị trí chính Nam trên bầu trời, cũng là vị trí cao nhất đêm đó. Đây là thời điểm chính xác mà “ba vì sao chiếu sáng”. Trên thực tế, ba ngôi sao này xuất hiện hàng đêm, nhưng vào đêm giao thừa, khi mọi người cùng nhau đoàn tụ ăn tối, chúng sẽ lên cao nhất trên bầu trời. Theo thời gian “ba ngôi sao” dần dần di chuyển về phía tây, khi trôi về phía tây, bầu trời đã gần đến giờ tý (từ 11h đêm đến 1h sáng), một năm mới đang lặng lẽ đến.

Đêm giao thừa, phúc lộc thọ đều hiện diện, cùng hòa vào ánh sáng nhân gian, tạo nên không khí vui tươi, rực rỡ! Cầu mong những ngôi sao may mắn tỏa sáng, cầu mong tất cả độc giả được bình an, khỏe mạnh trong năm mới.

Dịch từ:

https://www.zhengjian.org/node/288253

The post Truyền thuyết dân gian: Ba vì sao chiếu sáng đón năm mới đến first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Một lần nằm mơ xuống địa ngụchttps://chanhkien.org/2024/10/truyen-thuyet-dan-gian-mot-lan-nam-mo-xuong-dia-nguc.htmlTue, 01 Oct 2024 03:46:17 +0000https://chanhkien.org/?p=34530Đồng tu kể lại, đệ tử Đại Pháp chỉnh lý [ChanhKien.org] Có rất nhiều người nói mình đã từng xuống địa ngục, đã gặp rất nhiều người và chứng kiến nhiều sự việc. Bạn của tôi cũng đã từng một lần xuống xuống địa ngục, nhưng chỉ nhìn một chút đã bị người ta kéo […]

The post Truyền thuyết dân gian: Một lần nằm mơ xuống địa ngục first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Đồng tu kể lại, đệ tử Đại Pháp chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Có rất nhiều người nói mình đã từng xuống địa ngục, đã gặp rất nhiều người và chứng kiến nhiều sự việc. Bạn của tôi cũng đã từng một lần xuống xuống địa ngục, nhưng chỉ nhìn một chút đã bị người ta kéo trở lại, lý do khiến người ta phải suy nghĩ mãi.

Bạn tôi là một nông dân ngoài 50 tuổi. Lúc rảnh rỗi, việc nông nhàn anh thường ra ngoài làm thuê kiếm sống. Vào một ngày (mùa hạ), khoảng 8 – 9 giờ tối, trong lúc anh đang mơ màng thì có hai người đến nói muốn đưa anh đi. Bạn tôi họ Vương, gọi là Vương tiên sinh, tên thật không tiện nói.

Vương tiên sinh hỏi hai người kia: “Các vị muốn đưa tôi đi đâu?”

Hai người kia nói: “Đi rồi sẽ biết”.

Họ đến một ngôi miếu ở phía nam của làng. Ngôi miếu này thực ra đã rất mục nát và bị bỏ hoang từ lâu, không có ai ở đó (thực ra đây không phải là ngôi miếu dành cho các hòa thượng cư ngụ mà là nơi thờ phụng một vị Thần nào đó, anh Vương cũng không biết). Nhưng khi đi vào trong, anh lại nhìn thấy một cảnh tượng khác, bên trong bài trí rất ngăn nắp, có các quan viên và thư ký mặc trang phục cổ xưa. Một quan viên yêu cầu thư ký tra cứu tên anh Vương, quả thật họ đã tìm thấy ngày tháng năm sinh của anh. Anh Vương thắc mắc hồ sơ của mọi người chẳng phải lưu ở phòng hộ tịch của đồn công an sao? Tại sao ở đây lại có hồ sơ của anh?

Thư ký nói: “Chính là anh ta, hôm nay đúng là ngày chết của anh ta”.

Người trông giống vị quan nói với hai người kia: “Không sai, đưa anh ta đi”.

Hai người đó (chúng ta thường gọi Hắc Bạch Vô Thường) áp giải anh Vương ra khỏi chùa và một lúc sau đã đi rất xa, đến một ngôi nhà lớn. Ngôi nhà này rất đẹp, phía trước có một người đàn ông trông như quan huyện thời xưa đang ngồi, nhìn thấy anh Vương, ông liền nhờ một thư ký bên cạnh xác nhận lại danh tính của anh. Cuối cùng, thấy họ thì thầm một hồi, rồi nói với hai người đã đưa anh đến đây: “Đưa anh ta về đi”. Sau đó còn thì thầm vài câu.

Hai người đưa anh Vương về, trên đường anh hỏi họ: “Đây là đâu?”

Hai người đó nói: “Địa ngục, người anh vừa gặp chính là Diêm Vương”.

Anh Vương hỏi: “Sao các ông lại đưa tôi đến đây, rồi lại đưa tôi đi?”

Hai người đó nói: “Đưa ngươi đến đây vì tuổi thọ của ngươi đã hết, và đưa ngươi về vì ngươi tu luyện Đại Pháp, không còn quy về địa ngục quản nữa, có Sư phụ của ngươi quản rồi”.

Hai người đó trước khi rời đi đã nói với anh ấy: “Hãy tu luyện chăm chỉ, đắc Pháp (Pháp Luân Đại Pháp) không dễ”.

Một lúc sau, anh Vương dậy khỏi giường, bên ngoài trăng rất sáng, anh thấy vô cùng rõ ràng. Anh Vương rất tỉnh táo, biết mình chắc chắn đây không phải giấc mơ, nên anh càng tinh tấn tu luyện hơn.

Sau đó, anh Vương bị kết án bất hợp pháp vì tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, nhưng anh luôn vô cùng kiên định.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/257865

The post Truyền thuyết dân gian: Một lần nằm mơ xuống địa ngục first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Ba đồng xu cứu mạng một huyện ngườihttps://chanhkien.org/2024/09/truyen-thuyet-dan-gian-ba-dong-xu-cuu-mang-mot-huyen-nguoi.htmlSun, 29 Sep 2024 02:39:18 +0000https://chanhkien.org/?p=34518Tác giả: Như Chi chỉnh lý [ChanhKien.org] Một ngày, vị thần tiên Lã Động Tân muốn thử xem rốt cuộc nhân tâm con người tốt hay xấu, nên ông đã hóa thành một ông lão mù đi đến một vùng. Ông biến cát thành đường trắng, biến lá thành bánh nếp rồi ngồi bán ở […]

The post Truyền thuyết dân gian: Ba đồng xu cứu mạng một huyện người first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Một ngày, vị thần tiên Lã Động Tân muốn thử xem rốt cuộc nhân tâm con người tốt hay xấu, nên ông đã hóa thành một ông lão mù đi đến một vùng. Ông biến cát thành đường trắng, biến lá thành bánh nếp rồi ngồi bán ở ven đường. Người qua lại trả tiền theo số lượng bánh mà họ ăn, mỗi chiếc bánh giá một xu.

Vì ông bán bánh rất rẻ nên người đến ăn rất đông. Nhưng, Lã Động Tân phát hiện khi bánh và đường sắp hết thì không có ai trả một đồng nào, vì họ nghĩ ông mù không nhìn thấy nên đều lừa gạt ông.

Lã Động Tân thầm nghĩ: “Những người này thật xấu. Nếu ba cái bánh nếp cuối cùng này mà không có ai bỏ ra một xu thì ta sẽ hủy luôn người dân ở vùng này”.

Lúc này có một người ở nơi khác đến ăn ba chiếc bánh nếp cuối cùng, ăn xong anh ta trả cho Lã Động Tân ba xu tiền. Lã Động Tân nhìn xong thở phào: “Trên đời này vẫn còn có người tốt”. Nói xong liền hóa thành một cơn gió bay đi.

Thần Phật nhìn nhân tâm của con người, chỉ cần con người vẫn còn thiện niệm thì có thể được Thần Phật bảo hộ.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/288253

The post Truyền thuyết dân gian: Ba đồng xu cứu mạng một huyện người first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Hồ Sàohttps://chanhkien.org/2024/09/truyen-thuyet-dan-gian-ho-sao.htmlWed, 25 Sep 2024 03:32:22 +0000https://chanhkien.org/?p=34469Tác giả: Cung Vệ Quốc [ChanhKien.org] Hồ Sào là nơi tổ tiên của dân tộc Trung Hoa, tộc Nghiêu, từng sinh sống. Vị trí hồ nằm ở vùng trung bộ Khâu Lăng, Giang Hoài, tỉnh An Huy, ở phía Bắc sông Dương Tử. Mặt hồ rộng lớn, dài khoảng 78km từ Đông sang Tây, và […]

The post Truyền thuyết dân gian: Hồ Sào first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Cung Vệ Quốc

[ChanhKien.org]

Hồ Sào là nơi tổ tiên của dân tộc Trung Hoa, tộc Nghiêu, từng sinh sống. Vị trí hồ nằm ở vùng trung bộ Khâu Lăng, Giang Hoài, tỉnh An Huy, ở phía Bắc sông Dương Tử. Mặt hồ rộng lớn, dài khoảng 78km từ Đông sang Tây, và rộng khoảng 44km từ Nam qua Bắc, với tổng diện tích là 820km². Thể tích nước trong hồ là 3,6 tỷ m³, đây là hồ nước ngọt lớn thứ năm ở Trung Quốc. Khoảng 2/3 diện tích mặt hồ thuộc quyền quản lý của huyện Chao, phần còn lại thuộc các huyện Phù Đông, Phù Tây và Lục Giang. Hồ trông giống như một hình thoi có hai góc; cũng giống như một tổ chim, do đó được gọi là hồ Sào.

1. Câu chuyện truyền thuyết tươi đẹp

Tương truyền cách đây rất lâu, hồ Sào bấy giờ là vùng Cổ Sào Châu. Châu Cổ Sào ở gần sông, nơi đây cảng, chợ cá sầm uất và nhiều ngư dân sinh sống. Đây là vùng đất của cá và đồng lúa, còn vùng đất Hợp Phì ngày nay, vào thời cổ đại lại là một vùng ao hồ rộng lớn.

Bỗng nhiên một ngày, nước sông dâng cao đột ngột, cá từ biển theo thủy triều bơi vào sông. Có một ngư dân ra sông đánh cá, tình cờ bắt được một con cá khổng lồ. Anh ta hết sức vui mừng, liền vội vã mang ra chợ bán khi cá còn tươi. Một người thích ăn cá đi ngang qua mua cá về. Khi đến bữa ăn, duy chỉ có bà lão không ăn. Đúng lúc đó có một cụ già đi qua thấy vậy lại gần thì thầm vào tai bà lão: “Đây là con trai ta, nếu bà không ăn nó, nhất định sẽ gặp phúc báo. Mấy ngày tới bà hãy đi xem rùa đá ở cổng thành phía Đông, nếu mắt nó đỏ là thành này sắp bị vùi lấp, bà nên nhanh chóng lánh đi”. Nói xong, ông lão biến mất.

Bà lão nghe xong rất tin tưởng nên hàng ngày đến cổng thành phía Đông xem mắt rùa đá có chuyển sang màu đỏ không. Bà cứ đi đi lại lại như vậy, hành tung bí ẩn, một đứa trẻ nhìn thấy, cảm thấy rất kỳ lạ liền tò mò hỏi bà tại sao. Bà lão thấy đó là một đứa trẻ nên không để tâm nhiều, liền thành thật kể lại sự việc. Đứa trẻ nghe xong, cảm thấy rất buồn cười, bèn nảy sinh ý định trêu chọc bà lão. Ngày hôm sau, đứa trẻ đã bôi máu lợn lên đôi mắt của con rùa đá trước khi bà lão đến xem. Khi bà lão đến thấy đôi mắt con rùa đá sắp nhỏ máu xuống, bà vội vã quay trở về nhà gọi mọi người trong nhà cùng chạy ra ngoài thành. Lúc đó, bà gặp một người mặc áo xanh, đội mũ vàng, người này nói: “Ta là con của rồng, hãy đi theo ta” và người này dẫn bà lão lên núi. Tuy nhiên, thời gian đã đến, Sào Châu bị nhấn chìm thành hồ. Bà lão chạy không kịp, đứng lại giữa hồ hóa thành một ngọn núi gọi là “Lão Sơn”. Người con trai của rồng đứng lại giữa hồ, hóa thành một ngọn núi gọi là “Cô Sơn”. Trong lúc hoảng hốt, bà lão đã đánh rơi một chiếc giày, và chiếc giày đó trở thành núi “Hài Sơn”. Từ đó, Sào Châu có ba ngọn núi là Lão Sơn, Cô Sơn và Hài Sơn. Sau khi Sào Châu bị chìm, vùng đất ngập nước Hợp Phì không còn tồn tại mà trở thành đất liền. Do đó, trong dân gian xưa có câu “chìm Sào Châu, nổi Lư Châu” (Lư Châu là tên gọi cũ của vùng Hợp Phì) để chỉ sự thay đổi này.

2. Phát hiện khảo cổ đáng kinh ngạc

Cuối năm 2001, các nhà khảo cổ học đã phát hiện một số lượng lớn mảnh gốm dưới đáy hồ, chủ yếu là gốm đất sét xám và gốm cát xám, ngoài ra còn có gốm đất sét đỏ, gốm nâu, gốm cát đen và một số gốm cứng nung nhiệt độ cao. Đồ gốm chủ yếu có chân tròn, nhìn chung đều khá to, miệng vành và đế có độ cong rất lớn, đồ vật gồm bình, chậu, lọ, vạc và các vật dụng hàng ngày khác. Một số ít đồ gốm có in hoa văn trên đó, chủ yếu là hoa văn hình ca rô vuông, chữ nhật, hình vặn thừng và hình sóng nước. Một số đồ gốm bằng đất sét xám khá tỉ mỉ, lớp vỏ gốm rất mỏng và trên bề mặt có đắp tượng.

Theo ngư dân địa phương giới thiệu, các mảnh gốm phân bố kéo dài suốt 4-5km quanh lòng hồ, nơi tập trung nhiều mảnh gốm có lớp đất dày. Người ta thậm chí có thể chỉ ra vị trí bốn cổng thành của tòa thành này. Hàng năm thường vào mùa đông có thể nhìn thấy hơn chục cái giếng dưới lòng sông. Một trong những cái giếng đó bên cạnh còn có một gốc cây cổ thụ hai người ôm không xuể. Nhiều người đã tìm thấy đồ đồng, tiền cổ, con dấu và đồ gốm nguyên vẹn ở đây. Tại các hộ gia đình trong làng, các nhà khảo cổ cũng đã nhìn thấy những chiếc nồi đất, bình đất còn nguyên vẹn mà người dân nhặt được từ bãi sông. Sau nhiều tháng dày công nghiên cứu, các nhà khảo cổ xác nhận những món đồ này là sản phẩm từ thời hoàng kim của nghề sản xuất và sử dụng đồ gốm. Về cơ bản họ kết luận rằng đây là di chỉ của một thành phố từ thời nhà Tần, nhà Hán đã chìm xuống đáy hồ, trùng hợp một cách tự nhiên với truyền thuyết lịch sử “Chìm Sài Châu, nổi Lư Châu”.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/33151

The post Truyền thuyết dân gian: Hồ Sào first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Gió thổi cối xay, thả rồng cầu mưahttps://chanhkien.org/2024/09/truyen-thuyet-dan-gian-gio-thoi-coi-xay-tha-rong-cau-mua.htmlMon, 23 Sep 2024 06:17:36 +0000https://chanhkien.org/?p=34446Tác giả: Hạ Thiên [ChanhKien.org] Ở quê tôi vẫn luôn lưu truyền một câu chuyện như sau: Đó là vào trước năm 1949, quê chúng tôi có một ngọn núi rất cao, vì núi đó nằm ở phía Nam của làng, nên gọi là núi Nam. Trên núi có nhiều loại thực vật hoang dã, […]

The post Truyền thuyết dân gian: Gió thổi cối xay, thả rồng cầu mưa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Hạ Thiên

[ChanhKien.org]

Ở quê tôi vẫn luôn lưu truyền một câu chuyện như sau:

Đó là vào trước năm 1949, quê chúng tôi có một ngọn núi rất cao, vì núi đó nằm ở phía Nam của làng, nên gọi là núi Nam. Trên núi có nhiều loại thực vật hoang dã, và thường xuyên có rắn độc, sói, v.v. nên rất ít người dám lên núi. Trên núi Nam có một đạo quán là nơi trú ngụ của một Đạo sỹ. Ông thường trồng trọt trong một khoảng đất nhỏ trên núi. Cứ một thời gian nhất định, ông lại mang lương thực xuống núi, đến cối xay của làng để xay gạo (cối xay gạo làm bằng đá và rất nặng, cần khoảng mười người đàn ông khỏe mạnh mới nhấc được). Sau đó, ông lại mang gạo trở lên núi.

Theo một số người thường xuyên lên núi (đa số là người hái thuốc) nói, ông có nhiều phép thần thông, nhưng khi nhìn thấy ông vác gạo đi lại và xay gạo bằng cối đá, thì họ lại nghĩ rằng không đúng như vậy. Sau một thời gian dài, mọi người cho rằng lời nói của những người lên núi là không có cơ sở.

Một lần, vị Đạo sỹ lại xuống núi xát gạo. Có người trêu chọc nói: “Chẳng phải ông rất có bản sự sao? Sao phải tới đây xát gạo, mang cối xay về chỗ ông như vậy chẳng tiện hơn sao?”. Sau khi người đó nói mấy lần, Đạo sỹ hỏi: “Các người có dám bỏ cái cối xay này không?”, người đó đáp: “Tất nhiên, chỉ sợ ông không có bản sự để lấy”. Đạo sỹ lại hỏi: “Có thật sẵn lòng không?”, người đó lại đáp: “Sẵn lòng, sẵn lòng, ông mang đi đi!”. Đạo sỹ mỉm cười và bắt đầu xát gạo. Những người bên cạnh đều cười lớn. Đạo sỹ cũng mỉm cười, tiếp tục xát gạo, xát xong, vác túi sau lưng rồi rời đi. Phía sau vang lên một tràng cười.

Đêm hôm đó thời tiết đang rất đẹp, nhưng đến nửa đêm bỗng nhiên nổi gió, gió thổi rất mạnh. Có người nửa đêm tỉnh dậy, nhìn thấy gió đang thổi thứ gì đó về phía núi Nam, không lâu sau, gió ngừng thổi và bầu trời bình yên trở lại.

Sáng hôm sau, có người phát hiện cối xay trong làng đã biến mất, sau này người dân lên núi cho biết họ nhìn thấy nó ở bên ngoài đạo quán. Từ đó, vị Đạo sỹ không còn đến làng xay gạo nữa.

Sắp đến năm 1949, Đạo sỹ triệu tập một số người thường xuyên lên núi và nói: “Ta phải đi rồi, thế giới này sắp không còn bình yên nữa. Những năm qua, nhiều người dân trong làng đã giúp đỡ ta không ít, để báo đáp, ta sẽ tiết lộ cho các vị một bí mật. Nước suối ở ngoài đền của ta bốn mùa không bao giờ cạn, nước suối ngọt mát, bởi vì trong đó có hai con cá, chúng không phải là cá thường mà là hai con rồng. Sau này, khi gặp hạn hán, hãy tìm một số thanh niên trai tráng chân trần leo lên núi, sau khi thành kính cầu nguyện và thắp hương, hãy cho hai con cá vào chậu, sau đó mang chậu ra ngoài hứng nước suối, chưa đầy nửa tiếng sau trời sẽ mưa, sau khi mưa xong hãy thả cá trở về chỗ cũ”.

Đạo sỹ nói xong liền rời đi. Phương pháp cầu mưa này vẫn được giữ lại và được đặt tên là “đào long than nhân”, đến những năm 1985 vẫn còn có người làm theo và rất linh nghiệm. Dù núi cao và đường lên núi khó đi, nhưng chân của những chàng trai cầu mưa chưa bao giờ bị thương. Sau này, khi cải cách mở cửa và thay đổi tư duy, con người càng ngày càng không tin vào Thần nữa, quan niệm đạo đức suy giảm nên rất khó tìm thấy những chàng trai trẻ tin vào Thần, và sẵn sàng đối mặt với khó khăn khi leo núi. Do vậy, từ đó trở đi thì không có ai thực hiện phương pháp này nữa.

Người trong thôn chúng tôi chỉ vì tin vào những điều mắt thấy mà đã mất đi cối xay, rồi lại vì thành tâm tin tưởng mà rất nhiều năm sau đó mưa thuận gió hòa. Điều này khiến tôi nghĩ rằng, nếu mọi người có thể coi đây là một bài học, tạm gác lại quan điểm của mình và lắng nghe những học viên Pháp Luân Công nói lên sự thật, trong tương lai không xa, khi tất cả sự thật triển hiện thì bạn mới không cảm thấy hối tiếc.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/53253

The post Truyền thuyết dân gian: Gió thổi cối xay, thả rồng cầu mưa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Thần núihttps://chanhkien.org/2024/09/truyen-thuyet-dan-gian-than-nui.htmlFri, 06 Sep 2024 03:33:43 +0000https://chanhkien.org/?p=34076Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Vạn vật trên thế gian đều có Thần linh cai quản, mỗi ngọn núi tất nhiên cũng có Thần núi cai quản, chỉ có những người trong mê mới không nhìn thấy mà thôi. Trong cuốn “Kim Lâu Tử” do Lương Hiếu Nguyên Đế – Tiêu Dịch có đoạn về […]

The post Truyền thuyết dân gian: Thần núi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Vạn vật trên thế gian đều có Thần linh cai quản, mỗi ngọn núi tất nhiên cũng có Thần núi cai quản, chỉ có những người trong mê mới không nhìn thấy mà thôi.

Trong cuốn “Kim Lâu Tử” do Lương Hiếu Nguyên Đế – Tiêu Dịch có đoạn về truyền thuyết Thần núi.

Vua Tề Hoàn Công, một trong ngũ bá thời Xuân Thu, dẫn quân chinh phạt quốc gia Cô Trúc ở phía Bắc. Khi đội quân chưa đến Ty Nhĩ Khê, Tề Hoàn Công bỗng nhìn thấy một người thân cao một thước, tướng mạo cũng không có gì khác thường, vai phải để trần đi trước ngựa của ông. Tề Hoàn Công hỏi những người đi bên cạnh nhưng không ai nhìn thấy người đó. Hoàn Công không khỏi thở dài rằng: “Lần này ta xuất chinh nhất định không thuận lợi, không thì sao lại nhìn thấy người như vậy?” Thừa tướng Quan Trung đáp rằng: “Thần nghe nói có một vị Thần núi tên là Du Nhi, thân cao một thước, nhưng trông giống như người bình thường. Chỉ khi có người có thể làm bá chủ thì Thần núi mới xuất hiện. Du Nhi đi trước ngựa đóng vai trò người dẫn đường, vai phải để trần nghĩa là phía trước có nước chắn đường, chỉ có đi từ bên phải mới có thể qua sông”.

Không lâu sau, quân đội đến Ty Nhĩ Khê, quả nhiên có một dòng sông tên là Tán Thuỷ. Tề Hoàn Công liền lệnh cho quân lính lội từ bên phải qua, tất cả đều vượt qua thuận lợi. Qua được sông, Tề Hoàn Công quỳ xuống trước ngựa Quan Trung nói rằng: “Trọng phụ đúng là thánh nhân“. Quan Trung đáp rằng: “Thánh nhân đều có thể tiên đoán và cảm nhận trước, ta chỉ là khi Thần núi hiển linh mới biết, không phải thánh nhân gì cả, chỉ là thường ngày chịu khó học hỏi thôi”.

Trong “Động thiên phúc địa ký” của Đỗ Quang Đình thời Đường ghi chép rằng: nơi các vị thần tiên Đạo gia cư ngụ có 10 động thiên lớn, 36 động thiên nhỏ và 72 phúc địa trong đó một số động thiên và phúc địa ở các danh sơn đại xuyên, mà những danh sơn đại xuyên này do những thần tiên khác nhau cai quản. Họ được gọi là Thần núi.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/47826

The post Truyền thuyết dân gian: Thần núi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Thần hoahttps://chanhkien.org/2024/09/truyen-thuyet-dan-gian-than-hoa.htmlWed, 04 Sep 2024 03:56:51 +0000https://chanhkien.org/?p=34070Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Vạn vật đều có linh, mỗi loài sinh vật đều có một vị Thần đang cai quản, ví dụ cây có Thần cây, hoa tất nhiên cũng có Thần hoa. Trong dân gian lưu truyền rất nhiều câu chuyện về Thần hoa. Trong “Thần tiên truyện” có ghi chép, ở […]

The post Truyền thuyết dân gian: Thần hoa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Vạn vật đều có linh, mỗi loài sinh vật đều có một vị Thần đang cai quản, ví dụ cây có Thần cây, hoa tất nhiên cũng có Thần hoa. Trong dân gian lưu truyền rất nhiều câu chuyện về Thần hoa.

Trong “Thần tiên truyện” có ghi chép, ở Nhuận Châu (nay là Trấn Giang, tỉnh Giang Tô) có cây hoa đỗ quyên ở chùa Hạc Lâm “cao hơn một trượng, vào cuối xuân hoa nở rực rỡ”. Có lúc có thể thấy ba cô gái mặc trang phục lộng lẫy, cùng nhau đi dạo dưới cây. Người ta truyền rằng họ là Thần hoa, cho nên mọi người vô cùng trân quý cây hoa đỗ quyên ở chùa Hạc Lâm này. Khi đó tiết độ sứ Châu Bảo hỏi đạo nhân Ân Thất Thất: “Hoa ở chùa Hạc Lâm quả là thiên hạ kỳ tuyệt. Nghe nói hoa có thể nở trái mùa, loài hoa này có thể nở trái mùa được không? “ Ân Thất Thất đáp rằng có thể. Vậy nên Châu Bảo hi vọng có thể nhìn thấy hoa nở vào tết Trùng Cửu. (Ngày mùng 9 tháng 9 âm lịch)

Ân Thất Thất đến chùa Hạc Lâm trước tết Trùng Cửu hai hôm. Đêm hôm đó, có một người phụ nữ đến gặp ông và nói: “Tôi nhận lệnh đến làm hoa nở”. Ngày hôm sau, hoa dần dần nở, đến đúng tết Trùng Cửu hoa nở rộ như mùa xuân. Khắp vùng đều kinh ngạc.

Tương truyền, lúc đầu mỗi loài hoa có một vị Thần, sau này dần dần chỉ có một vị Thần cai quản trăm loài hoa. Trong “Nguyệt lệnh quảng nghĩa“ của Phùng Ứng Kinh thời Minh có ghi chép: “Nữ Di là vị Thần cai quản sự sinh trưởng vào mùa xuân và mùa hè, đồng thời cũng là vị Thần của các loài hoa”.

Trong dân gian còn có truyền thuyết rằng đệ tử Hoa Cô của tiên nữ Vệ Phu Nhân là Thần hoa.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48721

The post Truyền thuyết dân gian: Thần hoa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Kiếm phá núihttps://chanhkien.org/2024/08/truyen-thuyet-dan-gian-kiem-pha-nui.htmlFri, 30 Aug 2024 23:35:16 +0000https://chanhkien.org/?p=34025Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Kiếm phá núi là một bảo kiếm trong truyền thuyết, nhưng con người hôm nay chỉ nghe đến tên gọi mà không biết hình dáng của nó. Tương truyền vào thời nhà Đường, có một học sĩ trong khi cày ruộng thì tìm thấy một thanh kiếm. Sau khi mài […]

The post Truyền thuyết dân gian: Kiếm phá núi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Kiếm phá núi là một bảo kiếm trong truyền thuyết, nhưng con người hôm nay chỉ nghe đến tên gọi mà không biết hình dáng của nó.

Tương truyền vào thời nhà Đường, có một học sĩ trong khi cày ruộng thì tìm thấy một thanh kiếm. Sau khi mài sáng thanh kiếm anh liền mang ra chợ bán. Có một người dân tộc Hồ thích thanh kiếm, quyết định mua nó với giá một triệu quan tiền và hẹn ngày hôm sau sẽ đến lấy.

Người học sĩ sau khi về nhà, cùng vợ cầm thanh kiếm nhìn nhau và cười: “Thanh kiếm này có gì tốt mà lại đáng giá những một triệu quan tiền!” Vừa hay trong vườn có một cục đá để giặt quần áo, người học sĩ quyết định thử. Anh dùng kiếm chặt đá, cục đá lập tức vỡ tan.

Ngày hôm sau, người Hồ mang tiền đến lấy thanh kiếm, phát hiện thanh kiếm đã bị dùng rồi, bèn hỏi anh ta: “Ánh quang của thanh kiếm đã hết, tại sao lại như vậy?” Người Hồ quyết định không mua thanh kiếm nữa. Học sĩ hỏi nguyên do, người Hồ nói với anh ta: “Đây là kiếm phá núi, nhưng chỉ có thể dùng một lần. Ánh quang nay đã hết, nhất định là đã bị dùng rồi“. Người học sĩ vô cùng hối hận, kể cho người Hồ nghe chuyện thử kiếm tối qua. Cuối cùng người Hồ đã mua thanh bảo kiếm với giá 10 quan tiền.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48296

The post Truyền thuyết dân gian: Kiếm phá núi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩhttps://chanhkien.org/2024/08/truyen-thuyet-dan-gian-thien-ly-nhan-va-thuan-phong-nhi.htmlThu, 22 Aug 2024 03:48:08 +0000https://chanhkien.org/?p=33885Tác giả: Như Chi [ChanhKien.Org] Trong tiếng Trung hiện đại, “Thiên lý nhãn” thường được dùng để mô tả một người có con mắt tinh tường, nhìn xa nghìn dặm; “Thuận phong nhĩ” (tai nghe theo gió) thường được dùng để mô tả một người có thể nghe thấy âm thanh ở rất xa. Trên […]

The post Truyền thuyết dân gian: Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.Org]

Trong tiếng Trung hiện đại, “Thiên lý nhãn” thường được dùng để mô tả một người có con mắt tinh tường, nhìn xa nghìn dặm; “Thuận phong nhĩ” (tai nghe theo gió) thường được dùng để mô tả một người có thể nghe thấy âm thanh ở rất xa. Trên thực tế theo truyền thuyết dân gian, Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩ là hai vị Thần nhỏ có nhiệm vụ quan sát tình huống ở xa và nghe ngóng tin tức.

“Thiên lý nhãn và Thuận phong nhĩ” lần đầu tiên xuất hiện trong tiểu thuyết “Tây Du Ký” thời nhà Minh. Trong sách viết rằng họ là những vị Thần nhỏ bên cạnh Ngọc Hoàng, chịu trách nhiệm quan sát mọi việc ở xa. Trong “Phong Thần diễn nghĩa” lại mô tả họ là những vị Thần nhỏ trong đền thờ Hoàng Đế. Vào thời nhà Thanh, Đạo giáo coi Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩ là những vị Thần hộ giáo để thờ cúng, tượng của họ được đặt trong các Đạo quán.

Hình tượng Thần Thiên Lý Nhãn thường thấy để chân tay trần, y phục tung bay, tay phải cầm giáo, tay trái đưa lên che mắt giống như người đang nhìn xa; hình tượng Thần Thuận Phong Nhĩ có vẻ mặt hung dữ, chân tay trần, phanh ngực, tay trái cầm một con rắn, tay phải cầm Phương Thiên Họa Kích, đang dỏng tai lắng nghe.

Vậy nên khi nhắc đến Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩ chúng ta cũng cần có thái độ cung kính hơn.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48706

The post Truyền thuyết dân gian: Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Ứng thanh trùng và lôi hoànhttps://chanhkien.org/2024/08/truyen-thuyet-dan-gian-ung-thanh-trung-va-loi-hoan.htmlMon, 19 Aug 2024 05:24:35 +0000https://chanhkien.org/?p=33853Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Trong thế giới bao la này không chuyện gì là không có. Trong xã hội hiện nay, chúng ta thường gọi những người thích phụ họa theo người khác là “ứng thanh trùng” (kẻ ba phải). Trên thực tế, “ứng thanh trùng” là một loài côn trùng kỳ lạ trong […]

The post Truyền thuyết dân gian: Ứng thanh trùng và lôi hoàn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Trong thế giới bao la này không chuyện gì là không có. Trong xã hội hiện nay, chúng ta thường gọi những người thích phụ họa theo người khác là “ứng thanh trùng” (kẻ ba phải). Trên thực tế, “ứng thanh trùng” là một loài côn trùng kỳ lạ trong truyền thuyết dân gian. Nó ẩn nấp trong bụng người và có thể bắt chước giọng nói của con người.

Trong sách “Tùy Đường giai thoại” thời nhà Đường ghi chép rằng: Có một người đàn ông mắc bệnh ứng thanh trùng, mỗi lần anh ta cất tiếng nói, những con côn trùng trong bụng anh ta cũng phát ra âm thanh tương tự.

Trong sách “Tục mặc khách huy tê” thời nhà Tống có ghi lại: Một người đàn ông trung niên họ Dương ở Hoài Tây mắc một căn bệnh lạ. Mỗi khi anh ấy nói, trong bụng liền có thứ gì đó bắt chước giọng nói của anh. Sau vài năm, âm thanh trong bụng anh ngày càng to hơn. Có vị đạo sĩ nói với anh rằng đây là bệnh ứng thanh trùng, nếu không chữa trị kịp thời sẽ gây họa cho vợ anh. Đạo sĩ khuyên anh chuyên tâm đọc “Bản thảo cương mục”. Khi đọc đến một loại dược liệu nào đó mà không còn tiếng vang trong bụng nữa thì lập tức dừng lại và uống loại thuốc đó, như vậy ứng thanh trùng sẽ được loại bỏ. Người họ Dương làm theo cách của đạo sĩ, đọc “Bản thảo cương mục”, khi đọc đến “lôi hoàn” thì trong bụng không có âm thanh nữa. Anh ta liền uống thuốc đó, và căn bệnh lạ của anh từ đó cũng khỏi hẳn.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48838

The post Truyền thuyết dân gian: Ứng thanh trùng và lôi hoàn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của dự ngôn “Thiêu Bính ca”https://chanhkien.org/2024/08/truyen-thuyet-dan-gian-nguon-goc-cua-du-ngon-thieu-binh-ca.htmlMon, 05 Aug 2024 23:49:09 +0000https://chanhkien.org/?p=33692Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Sau khi hoàng đế nhà Minh Chu Nguyên Chương thành lập chính quyền, đương nhiên điều ông quan tâm nhất là liệu có thể vĩnh viễn giữ được giang sơn của mình hay không. Ông biết rằng Lưu Bá Ôn, người phụ tá đã giúp ông giành được thiên hạ, […]

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của dự ngôn “Thiêu Bính ca” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Sau khi hoàng đế nhà Minh Chu Nguyên Chương thành lập chính quyền, đương nhiên điều ông quan tâm nhất là liệu có thể vĩnh viễn giữ được giang sơn của mình hay không. Ông biết rằng Lưu Bá Ôn, người phụ tá đã giúp ông giành được thiên hạ, là người hiểu rõ về thiên văn, số học, ông bèn hỏi Lưu Bá Ôn những sự việc tương lai. Sự thay đổi của các triều đại đã được định sẵn, thiên cơ không thể dễ dàng tiết lộ. Nhưng dù sao Chu Nguyên Chương cũng là Hoàng đế, Lưu Bá Ôn không thể thoái thác nên đã sáng tác ra một bài thơ tưởng như nói rõ mà lại không rõ. Tương truyền rằng Lưu Bá Ôn vào yết kiến đúng lúc vua đang ăn bánh nướng nên bài thơ được gọi là “Thiêu Bính ca”. Câu chuyện như sau:

Một hôm Minh Thái Tổ (tức vua Chu Nguyên Chương) đang ăn bánh nướng ở trong nội cung, ông vừa cắn một miếng bánh thì thái giám đột nhiên báo tin quốc sư Lưu Cơ (tên thật của Lưu Bá Ôn) đến yết kiến. Minh Thái Tổ lấy chiếc bát đậy lên bánh rồi triệu Lưu Cơ vào cung. Đáp lễ xong, Thái Tổ hỏi: “Tiên sinh rất thông thạo thuật số, có thể cho ta biết trong bát có gì không?” Lưu Cơ bấm ngón tay đáp rằng: “Nửa giống mặt trời, nửa giống mặt trăng, từng bị kim long (rồng vàng) cắn một miếng, đây là một loại đồ ăn”. Mở bát ra, quả nhiên đúng như những gì ông đã nói, Thái Tổ rất nể phục, tiếp tục hỏi: “Vậy việc thiên hạ sẽ như thế nào? Thiên hạ của nhà Chu có được trường tồn mãi mãi không?” Lưu Cơ đáp: “Chủ tôi vạn con vạn cháu, hà tất phải hỏi!”

Sự phát triển của lịch sử đã cho chúng ta thấy rằng, giang sơn nhà Minh chỉ truyền đến đời Minh Tư Tông (Chu Do Kiểm) tức Sùng Trinh Đế, sau đó là thiên hạ của triều đại nhà Thanh của người Mãn Thanh. Sùng Trinh trị vì 17 năm (năm 1644), nhưng cuộc khởi nghĩa nông dân do Lý Tự Thành lãnh đạo đã chiếm được Bắc Kinh, Minh Tư Tông treo cổ tự sát, nhà Minh tuyên bố diệt vong. Minh Tư Tông là cháu nội của Hoàng đế Vạn Lịch – Minh Thần Tông (tên thật là Chu Dực Quân), đây chẳng phải là “vạn con vạn cháu” sao! Rõ ràng, câu trả lời của Lưu Cơ đối với câu hỏi của Chu Nguyên Chương là một câu trả lời mang hai hàm ý, bề ngoài là một lời khen ngợi, biểu thị rằng đế quốc nhà Minh sẽ được truyền lại cho nghìn thu vạn đại, trên thực tế, đó là một dự đoán rõ ràng: giang sơn của nhà Minh sẽ được truyền lại cho Hoàng đế Sùng Trinh, cháu trai của Hoàng đế Vạn Lịch. Ở đây chúng ta có thể thấy trí huệ của Lưu Cơ, ông không hề mạo phạm đến Hoàng đế mà còn trả lời chính xác dự đoán của tương lai.

Thái Tổ nói: “Tuy là như vậy, nhưng từ xưa đến nay thịnh suy vốn được định sẵn. Hơn nữa, thiên hạ không phải của một người, chỉ người có đạo đức mới xứng đáng làm chủ thiên hạ, khanh cứ nói đi không sao cả”. Lưu Cơ đáp: “Nếu tiết lộ thiên cơ, tội của thần sẽ rất nặng. Xin bệ hạ miễn tội chết cho thần thì thần mới dám mạo phạm”. Sau khi Thái Tổ đưa cho Lưu Cơ một kim bài miễn chết, Lưu Cơ mới dám đưa ra những dự ngôn cho vài trăm năm sau như “Sự biến Thổ mộc bảo”, “Hoạn quan loạn chính”, “quân Thanh chiếm đóng”, “Hán nhân thế pháp”, “Khang Càn thịnh thế”, cho đến cuối thời nhà Thanh và những việc xa hơn nữa, đây chính là nội dung của bài thơ nổi tiếng Thiêu Bính ca.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48861

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của dự ngôn “Thiêu Bính ca” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Na Trahttps://chanhkien.org/2024/08/truyen-thuyet-dan-gian-na-tra.htmlFri, 02 Aug 2024 23:51:26 +0000https://chanhkien.org/?p=33672Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Na Tra là một vị Thần trong tín ngưỡng dân gian được lưu truyền khắp Trung Quốc. Trong ấn tượng của rất nhiều người, hình tượng Na Tra đa phần xuất hiện trong tiểu thuyết “Tây Du Ký”. Chúng ta có thể thấy hình ảnh một đứa trẻ tinh nghịch […]

The post Truyền thuyết dân gian: Na Tra first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Na Tra là một vị Thần trong tín ngưỡng dân gian được lưu truyền khắp Trung Quốc. Trong ấn tượng của rất nhiều người, hình tượng Na Tra đa phần xuất hiện trong tiểu thuyết “Tây Du Ký”. Chúng ta có thể thấy hình ảnh một đứa trẻ tinh nghịch chân đạp bánh xe lửa, có thể diễn hóa ba đầu sáu tay, trong tay có sáu loại vũ khí, có thể hàng yêu trừ ma, còn có phép thuật. Hình tượng vị thần Na Tra ở đây đã hoàn toàn được Trung Quốc hóa.

Trên thực tế, truyền thuyết ban đầu về Na Tra có nguồn gốc từ Phật giáo ở Ấn Độ. Trong truyện cổ Phật giáo, Na Tra là con trai của vua Bishamon, một vị Thần hộ Pháp. Vua Bishamon thường cầm tháp đứng bên cạnh hầu hạ Phật tổ. Dưới thời trị vì của Hoàng đế Huyền Tông nhà Đường, nhờ được Huyền Tông trọng dụng, vua Bishamon và con trai Na Tra đã trở nên nổi tiếng ở Trung Quốc và dần quen thuộc với mọi người, những câu chuyện truyền thuyết dân gian liên quan đến Na Tra cũng dần dần phát triển.

Trong cuốn “Cao tăng truyền” đời nhà Tống có ghi chép về cao tăng Đạo Tuyên, ban đêm ông đang đi dạo thì đột nhiên bị ngã, có một thiếu niên đến đỡ ông dậy. Đạo Tuyên hỏi cậu thiếu niên là ai, người này trả lời mình là Na Tra con trai của vua Bishamon. Cậu là Thần hộ Pháp đã bảo hộ Đạo Tuyên từ rất lâu rồi. Na Tra còn tặng cho Đạo Tuyên một chiếc răng của Phật, tương truyền đó là chiếc răng của Phật ở chùa Sùng Thánh ngày nay. Trong các truyền thuyết từ thời nhà Tống, Na Tra đã có hình tượng ba đầu sáu tay.

Sau thời nhà Tống, trong văn hóa dân gian Trung Quốc hình tượng vua Bishamon dần dần được Trung Quốc hóa, đến thời nhà Minh, vua Bishamon đột nhiên biến thành Thác tháp Thiên Vương Lý Tịnh, còn Na Tra trở thành tam thái tử của Lý Tịnh, dưới sự thống lĩnh của Ngọc Hoàng. Quá trình diễn biến trong thời kỳ này không rõ ràng lắm. Trong “Tam giáo nguyên lưu sưu Thần đại toàn” viết: “Na Tra vốn là một vị Đại La Tiên của Ngọc Hoàng, thân cao sáu trượng, đầu đội kim luân, ba đầu chín mắt sáu tay, miệng phun mây, chân đạp bàn thạch… Vì dưới nhân gian có nhiều yêu ma nên Ngọc Hoàng hạ lệnh cho Na Tra giáng trần, đầu thai vào nhà của vua Lý Tịnh. Năm ngày sau khi sinh ra, Na Tra đã rong chơi ở Đông Hải trêu chọc Long Vương, khiến Long Vương vô cùng tức giận liền tuyên chiến với Na Tra. Na Tra giết chết thái tử của Long Vương, Long Vương bất đắc dĩ quyết định bẩm báo lên Ngọc Hoàng. Biết việc, Na Tra chặn đánh trước cửa Thiên Môn và vô tình bắn chết con trai của Thạch Ký nương nương. Thạch Ký khởi binh, Na Tra lại một lần nữa nghênh chiến. Cha của Na Tra là Lý Tịnh rất tức giận đã trách mắng cậu vì gây họa khắp nơi. Để không liên lụy đến cha mẹ, Na Tra mổ bụng, moi ruột, lóc thịt trả lại cho cha mẹ, sau khi chết linh hồn của Na Tra bay về với Phật tổ. Vì muốn Na Tra giúp hàng ma, Phật Tổ đã dùng thần thông để hồi sinh Na Tra với sự trợ giúp của Liên Hoa, sau đó truyền thụ cho Na Tra một số kỹ năng. Từ đó trở đi, tất cả yêu quái trên mặt đất đều bị Na Tra khuất phục, sau này Ngọc Hoàng phong Na Tra làm thủ lĩnh của Thiên soái, vĩnh viễn trấn giữ Thiên Môn”. Những mô tả trong “Tây Du Ký” cơ bản cũng dựa trên những ghi chép này.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48980

The post Truyền thuyết dân gian: Na Tra first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Rùa thần và chân biahttps://chanhkien.org/2024/07/truyen-thuyet-dan-gian-rua-than-va-chan-bia.htmlTue, 30 Jul 2024 04:06:50 +0000https://chanhkien.org/?p=33655Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Dân gian Trung Quốc luôn tin rằng rùa là một loài vật tâm linh. Đúng như vậy, trong thần thoại Trung Quốc thời kỳ đầu, rùa được miêu tả là một loài thần thú có khả năng gánh vác. Rùa thần có thể đội núi chở đất, trở thành cây […]

The post Truyền thuyết dân gian: Rùa thần và chân bia first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Dân gian Trung Quốc luôn tin rằng rùa là một loài vật tâm linh. Đúng như vậy, trong thần thoại Trung Quốc thời kỳ đầu, rùa được miêu tả là một loài thần thú có khả năng gánh vác. Rùa thần có thể đội núi chở đất, trở thành cây cột trụ chống đỡ mặt đất hoặc hải đảo.

Trong sách “Liệt Tử – Thang Vấn” có ghi chép về năm ngọn núi tiên nằm ở phía Đông của biển Bột Hải là Đại Dư, Viên Kiều, Phương Hồ, Doanh Châu và Bồng Lai. Bởi vì chân của năm ngọn núi không có gì liên kết, vì thế chúng thường bồng bềnh lên xuống theo con sóng, không thể nào cố định chúng một chỗ. Vị Thần cai quản núi tiên liền báo cáo lên Thiên Đế, Thiên Đế lo lắng núi tiên sẽ trôi về phía Tây khiến các vị Tiên mất đi nơi cư ngụ, nên lệnh cho Thần Ngu Cương dùng 15 con rùa khổng lồ, chia thành ba nhóm, thay phiên nhau vươn đầu gánh vác núi tiên, cứ 60.000 năm lại đổi một lần. Nhờ sự chống đỡ của những con rùa khổng lồ, năm ngọn núi thiêng cao chót vót cuối cùng đứng bất động trước sóng nước.

Trong “Liệt Tiên truyện” cũng có ghi chép về những con rùa khổng lồ cõng núi Bồng Lai.

Ngoài việc có thể gánh vác những ngọn núi tiên, rùa thần còn có thể chở đảo cát, mặt đất. Trong chương năm cuốn “Kim Lâu Tử” của Tiêu Dịch đời Lương có ghi chép lại: “Có một con rùa khổng lồ giữa đảo cát, trên lưng mọc lên cây cối rậm rạp, giống như một hòn đảo nhỏ. Thường có những thương nhân đi ngang qua chặt cây và đốt lửa để nấu ăn. Rùa khổng lồ bị bỏng lưng nên bơi về phía biển, khiến hàng chục thương nhân thiệt mạng”.

Với công năng như vậy, rùa thần đến nhân gian cũng phải gánh vác trách nhiệm lớn. Trước lăng mộ của các Hoàng đế Trung Hoa cổ đại, chúng ta thường thấy những con rùa khổng lồ cõng những tấm bia mộ rất nặng, tượng đài hình rùa này được gọi là “chân bia”. Còn thân bia to lớn chính là tượng trưng cho đỉnh núi cao chót vót. Ngoài ra, ba phần chính của tấm bia mộ gồm chân bia, thân bia và đầu bia tượng trưng cho mặt đất, nhân gian và thiên thượng trong tam giới, là mô hình vũ trụ thu nhỏ.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/50024

The post Truyền thuyết dân gian: Rùa thần và chân bia first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Tại sao quả đào lại xuất hiện trong lễ mừng thọhttps://chanhkien.org/2024/07/truyen-thuyet-dan-gian-tai-sao-qua-dao-lai-xuat-hien-trong-le-mung-tho.htmlMon, 22 Jul 2024 02:55:34 +0000https://chanhkien.org/?p=33592Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Trung Quốc từ xưa đã là một đất nước kính trọng người lớn tuổi, ngày nay ở Trung Quốc rất nhiều nơi vẫn còn tục lệ sau: dịp sinh nhật 60, 70, 80 tuổi của người cao tuổi nhất định phải được tổ chức long trọng, hoặc tổ chức tại […]

The post Truyền thuyết dân gian: Tại sao quả đào lại xuất hiện trong lễ mừng thọ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Trung Quốc từ xưa đã là một đất nước kính trọng người lớn tuổi, ngày nay ở Trung Quốc rất nhiều nơi vẫn còn tục lệ sau: dịp sinh nhật 60, 70, 80 tuổi của người cao tuổi nhất định phải được tổ chức long trọng, hoặc tổ chức tại nhà hoặc ra nhà hàng, người cao tuổi vào ngày sinh nhật được gọi là “Thọ Tinh” (tên một vị Thần Tiên, ngôi sao chủ quản về tuổi thọ của con người). Còn thời xưa, người ta thường tự tổ chức lễ mừng thọ ở nhà: dựng thọ đường, treo bức trướng lớn màu đỏ mừng thọ, trên bàn bày mì trường thọ, quả trường thọ, và dùng bột mì hoặc bột gạo làm thành “quả đào trường thọ”. Phần chóp của “quả đào” được nhuộm màu đỏ giống như đào tiên. Ngoài ra, một số người còn treo trên tường những bức tranh như Thọ Tinh lão nhân, Ma Cô hiến thọ, Đông Phương Sóc trộm đào, Bát Tiên thượng thọ, Bàn Đào hiến thọ,… để tăng thêm không khí vui mừng của lễ mừng thọ. Trong đó “đào trường thọ” trở thành điểm nhấn chủ đạo của các bức tranh. Khi người thân, bạn bè đến mừng thọ, họ cũng sẽ tặng “đào trường thọ”, thậm chí trong lời hát mừng thọ cũng nhắc đến “đào trường thọ”.

Vậy tại sao quả đào lại đóng vai trò quan trọng như vậy trong lễ mừng thọ? Điều này có lẽ liên quan đến tín ngưỡng của người xưa đối với cây đào và truyền thuyết về Tây Vương Mẫu.

“Thần Dịch Kinh” có ghi lại: “Ở phương Đông có một cái cây cao 50 thước, gọi là cây đào, đường kính 3 thước 3 thốn, quả đào rất thơm ngon lại giúp con người sống thọ”. Có thể thấy, cây đào là loài cây thần, quả của nó có thể giúp kéo dài tuổi thọ.

“Thập Di ký” cũng ghi chép rằng: “Từ núi Bàng Đường Sơn đến Phù Tang 50.000 dặm, mặt trời không chiếu được tới. Khí hậu lạnh giá nhưng cây đào lại mọc rất nhiều, hoa màu xanh đen, vạn năm mới kết trái”. “Cây đào trên núi Bàng Đường Sơn này vạn năm mới ra quả, vậy thì người ăn vào nhất định có thể kéo dài tuổi thọ”.

Tập 28 cuốn “Sơ học ký” do Từ Kiên đời Đường trích dẫn “Điển thuật” có viết: “Đào là tinh hoa của ngũ mộc. Vì vậy, nó có thể trấn áp tà ma và trị bách quỷ. Cho nên xưa nay người ta treo bùa đào ngoài cửa để trấn tà, cũng gọi là cây tiên”. Cuốn sách này đã chính thức công nhận cây đào là cây tiên. Đã là “tiên” thì đương nhiên mang hàm nghĩa trường thọ.

Còn về phong tục tặng “đào trường thọ” có thể bắt nguồn từ truyền thuyết Tây Vương Mẫu tặng đào cho Hán Vũ Đế. Truyền thuyết kể rằng Hán Vũ Đế tôn sùng tiên đạo, nên Tây Vương Mẫu đã phái sứ giả đến báo cho ông biết ngày nào giờ nào bà sẽ đến. Vào lúc 7:00 giờ tối ngày 7 tháng 7, Tây Vương Mẫu cưỡi mây đến phía tây cung điện của Hán Vũ Đế. Có ba con chim xanh đứng bên trái và bên phải của Tây Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu tặng cho Hán Vũ Đế năm quả đào lớn và nói với ông rằng: “Đây là loại quả tiên ba ngàn năm mới kết trái một lần”. Tặng đào ở đây có ý nghĩa ban tặng sự trường thọ. Đây cũng chính là lý do tại sao ngày nay trong lễ mừng thọ người cao tuổi người ta thường bày đào trường thọ, tặng đào trường thọ.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/49324

The post Truyền thuyết dân gian: Tại sao quả đào lại xuất hiện trong lễ mừng thọ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Chiếc quạt lông ngỗng của Gia Cát Lượnghttps://chanhkien.org/2024/07/truyen-thuyet-dan-gian-chiec-quat-long-ngong-cua-gia-cat-luong.htmlThu, 18 Jul 2024 03:22:13 +0000https://chanhkien.org/?p=33533Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Gia Cát Lượng là một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, ông không chỉ thông minh, nhanh nhạy, có khả năng phán đoán chính xác, mà còn sở hữu năng lực tiên tri phi thường. Bài thơ dự ngôn “Mã tiền khóa” truyền lại cho hậu thế […]

The post Truyền thuyết dân gian: Chiếc quạt lông ngỗng của Gia Cát Lượng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Gia Cát Lượng là một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, ông không chỉ thông minh, nhanh nhạy, có khả năng phán đoán chính xác, mà còn sở hữu năng lực tiên tri phi thường. Bài thơ dự ngôn “Mã tiền khóa” truyền lại cho hậu thế của ông đã khiến người đời sau không ngừng thán phục.

Theo truyền thuyết dân gian, Gia Cát Lượng là Văn Khúc tinh giáng trần, mục đích để phò tá Lưu Bị thành tựu giang sơn. Trước khi xuống trần gian, Ngọc Hoàng ban cho ông một chiếc quạt lông ngỗng, giúp ông muốn gió có gió, muốn lửa có lửa.

Sau khi hạ trần, Gia Cát Lượng đã nhiều lần sử dụng chiếc quạt lông ngỗng thần kỳ này trong trận chiến. Tay ông vẫy quạt lông ngỗng tạo ra lửa thiêu chết quân Tào ở dốc Bác Vọng, trong trận Xích Bích ông còn dùng quạt lông ngỗng để mượn gió đông.

Tương truyền những trận chiến hiếm hoi mà Gia Cát Lượng thất bại đều là do ông quên mang theo quạt lông ngỗng bên mình.

Sau này, những hình tượng Gia Cát Lượng được tái hiện trên sân khấu luôn gắn với chiếc quạt quý này.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/49057

The post Truyền thuyết dân gian: Chiếc quạt lông ngỗng của Gia Cát Lượng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Tại sao người xưa dùng trâu sắt, gà đá để chế ngự lũhttps://chanhkien.org/2024/07/truyen-thuyet-dan-gian-tai-sao-nguoi-xua-dung-trau-sat-ga-da-de-che-ngu-lu.htmlThu, 11 Jul 2024 04:19:19 +0000https://chanhkien.org/?p=33492[ChanhKien.org] Quanh bờ hồ Hồng Trạch và dọc hai bên bờ sông Đại Vận tỉnh Giang Tô người ta thường thấy những con trâu sắt dùng để ngăn lũ. Những con trâu với tư thế quỳ xuống, đầu ngẩng cao, sừng dựng lên, hai mắt trợn tròn, trông rất uy nghiêm. Tại sao người xưa […]

The post Truyền thuyết dân gian: Tại sao người xưa dùng trâu sắt, gà đá để chế ngự lũ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Quanh bờ hồ Hồng Trạch và dọc hai bên bờ sông Đại Vận tỉnh Giang Tô người ta thường thấy những con trâu sắt dùng để ngăn lũ. Những con trâu với tư thế quỳ xuống, đầu ngẩng cao, sừng dựng lên, hai mắt trợn tròn, trông rất uy nghiêm. Tại sao người xưa lại dùng trâu sắt để trấn áp lũ lụt?

Trước hết, trâu sắt được đúc bằng kim loại nên vốn dĩ thuộc hành “kim”. Theo thuyết ngũ hành cổ xưa “kim khắc mộc”, mà mộc hợp với phương đông, thần thú của phương đông là rồng nên “kim” có thể khắc chế “giao long” khiến nó phải ẩn mình. Giao long thường thích làm mưa làm gió gây ra lũ lụt, nhưng nếu có “kim” thì chúng sẽ ẩn mình lánh đi, nên tránh được hoạ lũ lụt xảy ra.

Mặt khác, trâu thuộc hành thổ. Trong cuốn “Cổ tử – Thai giáo” có viết: “Trâu là loài vật trung tâm”. Người Trung Quốc cổ đại phân chia các phương hướng tương ứng với ngũ hành, có thuyết rằng: “Đông Mộc, Nam Hỏa, Tây Kim, Bắc Thủy, Trung Thổ”. Trâu là loài vật trung tâm, tất nhiên thuộc hành thổ, mà thổ có thể chặn thuỷ.

Ngoài ra, trong thần thoại Trung Quốc cổ đại, con trâu tượng trưng cho mặt đất. Trong “Chu lễ – Địa cung – Đại tư đồ” viết: “Con trâu có thể chở được mặt đất”. Trong thần thoại cổ xưa của một số dân tộc, con trâu là bệ đỡ của mặt đất. Con trâu dùng cặp sừng để nâng đỡ mặt đất, khi nâng bằng một chiếc sừng mỏi rồi, thì lại chuyển sang chiếc sừng kia. Trong lúc chuyển từ chiếc sừng này sang chiếc sừng kia, mặt đất sẽ rung chuyển, chính là xảy ra động đất. Tác phẩm điêu khắc đá cẩm thạch thời kỳ nhà Ân – Thương được khai quật ở An Dương, tỉnh Hà Nam có khắc hình con trâu làm đế, cho thấy rằng con trâu có vai trò “nâng đỡ mặt đất”. Vì trâu là thần thú nên nó đóng vai trò trấn nhiếp thủy quái và chống lại giao long.

Thuyết về trâu sắt có thể chống lũ có lẽ bắt đầu từ thời nhà Đường, vào thời nhà Minh cũng có truyền thuyết Lưu Bá Văn dựng “chín trâu, hai hổ, một gà” để trấn áp lũ lụt. Vào thời nhà Thanh, người dân rất nhiều địa phương đều tin vào thuyết này nên đã đúc trâu sắt ở ven sông để ngăn lũ dâng.

Ở những vùng có lũ lụt nghiêm trọng, ngoài việc đúc trâu sắt để chống lũ, người ta thường kết hợp với những con gà đá với cái mỏ há to cất tiếng gáy. Tương truyền gà trống bằng đá cũng có thể chống lũ lụt. Vì sao? Bởi vì gà trống có thể được ví với mặt trời, nó là loài vật mang đầy dương khí và linh khí. Tiếng gà trống gáy có nghĩa là trời bắt đầu sáng, mặt trời mọc, những thứ âm khí xấu xa sẽ tiêu tan, cho nên trong dân gian gà trống luôn được dùng để trừ quỷ, trừ âm. Lũ lụt là do thủy quái gây ra và có tính âm, thế nên gà trống có thể ngăn chặn lũ lụt xảy ra.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/49348

The post Truyền thuyết dân gian: Tại sao người xưa dùng trâu sắt, gà đá để chế ngự lũ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Truyền thuyết về nữ Thần Dao Cơhttps://chanhkien.org/2024/07/truyen-thuyet-dan-gian-truyen-thuyet-ve-nu-than-dao-co.htmlWed, 03 Jul 2024 03:45:43 +0000https://chanhkien.org/?p=33457[ChanhKien.org] Dao Cơ là con gái út của Tây Vương Mẫu, ngự tại cung Dao Trì trên thiên thượng. Cô từ nhỏ đã theo Tam Nguyên Tiên Quân học đạo, có tiên thuật biến hóa vô hạn. Sau này, cô được phong làm Vân Hoa phu nhân, chuyên trách dạy tiên đồng ngọc nữ. Dao […]

The post Truyền thuyết dân gian: Truyền thuyết về nữ Thần Dao Cơ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Dao Cơ là con gái út của Tây Vương Mẫu, ngự tại cung Dao Trì trên thiên thượng. Cô từ nhỏ đã theo Tam Nguyên Tiên Quân học đạo, có tiên thuật biến hóa vô hạn. Sau này, cô được phong làm Vân Hoa phu nhân, chuyên trách dạy tiên đồng ngọc nữ.

Dao Cơ thích chơi đùa. Một ngày nọ, khi bay đến vùng núi Vu Sơn, cô đã bị thu hút bởi cảnh sắc tuyệt đẹp. Không ngờ, ở đây có 12 con giao long đang làm mưa làm gió, khiến nơi đây mưa gió mịt mù. Dao Cơ quyết tâm giúp nhân gian diệt trừ ác long. Thế là tay cô chỉ vào giao long, thi triển pháp thuật. Chỉ nghe thấy tiếng sấm rền vang, đất rung núi chuyển. Sau khi trời yên gió lặng, 12 con giao long đã biến thành 12 ngọn núi cao.

12 ngọn núi này chắn ngang Vu Hiệp, lấp kín Trường Giang, bốn bề sông nước mênh mông. Vì để kiểm soát lũ lụt, Đại Vũ – người chuyên trách trị thủy chốn nhân gian, đã vội đến đây. Tuy nhiên, thế núi ở đây cao, thế nước chảy xiết, việc trị thủy cực kỳ khó khăn. Đại Vũ ngày đêm lo lắng.

Dao Cơ cảm động trước tinh thần trị thủy của Đại Vũ, bèn phái thị nữ đến truyền cho ông một số pháp thuật. Đồng thời, còn phái sáu cận thần thi triển tiên thuật, khơi thông đường dẫn nước Tam Hiệp, khiến nước lũ thông thẳng biển Đông. Đại Vũ vô cùng cảm ơn sự giúp đỡ của nữ Thần Dao Cơ, liền lên núi Vu Sơn, trực tiếp cảm tạ.

Đại Vũ lên đến đỉnh Vu Sơn, nhìn thấy rồng bay, phượng hoàng nhiều màu, hạc trắng bay quanh Dao Cơ. Dao Cơ nói: “Ngươi có công trị thủy, nhưng vẫn cần phải hiểu đạo lý vạn vật biến hóa của trời đất”. Nói xong, cô lại ban tặng Đại Vũ một cuốn Hoàng Lăng Bảo Quyển dùng để trị thủy, Đại Vũ đắc được thiên thư, bái tạ rồi từ biệt.

Sau khi trị xong họa thủy, Dao Cơ tiếp tục lưu lại núi Vu Sơn sống ngày tháng thần tiên. Cô thích hóa thân thành một đỉnh núi cao thẳng diễm lệ, yên lặng đứng đó rất lâu trên núi Vu Sơn ngắm bình minh và hoàng hôn, chiêm ngưỡng cảnh đẹp. Những người hầu cận của cô cũng hóa thành những ngọn đồi nhỏ, lặng lẽ canh gác bên cạnh nữ Thần.

Cho đến nay, ở khu vực núi Vu Sơn tỉnh Tứ Xuyên ngày nay, còn lưu truyền truyền thuyết về đỉnh Thần Nữ do Dao Cơ hóa thành. Người dân địa phương còn tôn Dao Cơ là “Diệu Dụng Chân Nhân”, tu sửa tòa Ngưng Chân Quán (còn gọi là Đền Nữ Thần) dưới chân đỉnh Phi Phong. Ngọn đồi trên sườn núi, chính là ngọn đồi nơi nữ Thần đã dạy Hạ Vũ học.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/49804

The post Truyền thuyết dân gian: Truyền thuyết về nữ Thần Dao Cơ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Truyền thuyết về Phật Di Lặchttps://chanhkien.org/2024/06/truyen-thuyet-dan-gian-truyen-thuyet-ve-phat-di-lac.htmlThu, 27 Jun 2024 02:18:08 +0000https://chanhkien.org/?p=33421[ChanhKien.org] Nhớ lại hơn 20 năm trước, khi còn bé, có lần tôi đến chơi nhà một người bạn, lần đầu tiên nhìn thấy thờ tượng Phật Di Lặc, cảm thấy vô cùng kỳ lạ. Tôi thấy bức tượng Phật cười rạng rỡ, xung quanh có rất nhiều đứa trẻ đang vui đùa trên người […]

The post Truyền thuyết dân gian: Truyền thuyết về Phật Di Lặc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[ChanhKien.org]

Nhớ lại hơn 20 năm trước, khi còn bé, có lần tôi đến chơi nhà một người bạn, lần đầu tiên nhìn thấy thờ tượng Phật Di Lặc, cảm thấy vô cùng kỳ lạ. Tôi thấy bức tượng Phật cười rạng rỡ, xung quanh có rất nhiều đứa trẻ đang vui đùa trên người ông, bên cạnh ông, trạng thái nào cũng có. Tôi có chút nghi hoặc, liền hỏi người bên cạnh: “Đó là cái gì? “ Người này đáp lại: “Đây là Phật Di Lặc”. Tôi lại hỏi: “Ông và Quan Âm Tống Tử có giống nhau không?” Người này trả lời: “Không giống nhau”. “Sao có nhiều trẻ nhỏ vậy? “Phật Di Lặc chính là hình tượng như vậy, tổ tiên đời đời truyền lại đều là hình tượng ấy, quanh ông có rất nhiều trẻ nhỏ.” Tôi càng thêm tò mò, hỏi tiếp “Đám trẻ nhỏ có ý nghĩa gì?” “Có tổng cộng 18 đứa trẻ Thập (十) Bát (八) Tử (子) là chữ Lý (李), Phật Di Lặc họ Lý”. Cứ như thế tôi nửa hiểu nửa không rời khỏi nhà họ. Nhưng câu chuyện này khiến tôi ấn tượng rất sâu, đến tận hôm nay tôi vẫn còn nhớ, cũng mãi đến tận hôm nay mới giải được cái mê này.

Hóa ra cách đây rất lâu rất lâu, Đức Phật Di Lặc đã dùng hình tượng này để nói với thế nhân rằng : “Phật Di Lặc vào thời mạt kiếp sẽ hạ thế truyền Pháp cứu độ chúng sinh, thân phàm mang họ Lý.” Truyền thuyết này đã được lưu truyền cùng với hình tượng của Đức Phật Di Lặc đến tận ngày nay, ngày nay mọi chuyện đều đã ứng nghiệm, Đức Phật Di Lặc đã hạ thế độ nhân, Ngài chính là Sư phụ Lý Hồng Chí (người sáng lập pháp môn Pháp Luân Đại Pháp hay còn gọi là Pháp Luân Công). Thế nhân nhất định không được bỏ lỡ cơ hội đã chờ đợi hàng ngàn vạn năm này, đừng bỏ lỡ sự từ bi khổ độ của Đức Phật Di Lặc và các đệ tử của Ngài! Truyền thuyết này là sự thật.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/49700

The post Truyền thuyết dân gian: Truyền thuyết về Phật Di Lặc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Thần tài và Thổ địahttps://chanhkien.org/2024/06/truyen-thuyet-dan-gian-than-tai-va-tho-dia.htmlTue, 25 Jun 2024 02:29:16 +0000https://chanhkien.org/?p=33400[ChanhKien.org] Thổ địa thường ngày vì giải quyết những rắc rối của thiện nam tín nữ, nên bận tối mắt tối mũi, không thoát ra được. Một ngày nọ, chợt được rảnh rỗi, liền ra ngoài hít thở không khí, đúng lúc đó ông nhìn thấy trên trời, một Đồng tử Tán tài ngồi dưới […]

The post Truyền thuyết dân gian: Thần tài và Thổ địa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[ChanhKien.org]

Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế.

Thổ địa thường ngày vì giải quyết những rắc rối của thiện nam tín nữ, nên bận tối mắt tối mũi, không thoát ra được. Một ngày nọ, chợt được rảnh rỗi, liền ra ngoài hít thở không khí, đúng lúc đó ông nhìn thấy trên trời, một Đồng tử Tán tài ngồi dưới chân Thần tài đang phân phát kim ngân bạc thỏi cho nhân gian. Ông quan sát kỹ thì thấy kim ngân, bạc thỏi đều rơi vào nhà của các tài chủ, người giàu có, người bình thường hay người nghèo đều không được phân phát đồng nào. Mắt tuy nhìn nhưng tâm không vui, ông nghĩ tất cả đều do lỗi của Thần tài. Thế là ông liền thi triển pháp thuật, bay lên thiên giới đi tìm Thần tài tranh luận: Tại sao Thần tài ghét người nghèo ưa người giàu?

Thổ địa đến trước mặt Thần tài, nói với Thần tài tất cả những gì ông thấy và nghĩ, một bụng bất mãn và không vui. Thần tài nghe xong cười to: “Ha ha, hóa ra là vậy!”, rồi đáp: “Thổ Thần đừng vội, hãy theo tôi”.

Thần tài đưa Thổ địa đến Nam Thiên Môn, bảo Thổ Thần chuyên tâm nhìn xuống nhân gian. Thần tài lấy từ trong ngực ra một thỏi bạc, ném xuống hạ giới. Ông nhìn thấy thỏi bạc từ không trung rơi xuống, rơi đúng giữa đường lớn. Một lúc sau, từ xa có một nhóm người đánh xe chở hàng đi đến, mỗi người đều đẩy một chiếc xe to nặng. Khi họ sắp đến chỗ thỏi bạc, đột nhiên một người trong số họ thét lên: “Mọi người ơi, chúng ta hãy nhắm mắt lại, xem xem ai chạy nhanh hơn!” Những người khác đều hô to đáp ứng: “Được”! Thế là những người đánh xe đều dựng cao xe lên, nhắm chặt hai mắt, rồi lao thẳng về phía trước. Bánh xe của một trong số họ vừa đúng cán qua thỏi bạc, khiến chiếc xe tròng trành, nghiêng ngả, anh ta lại không mở mắt mà chỉ hét lên rằng: “Một hòn đá thật to”!

Thổ địa thấy thế, trong lòng rất sốt ruột: “Ôi, các ngươi sao không mở mắt ra vậy?”

Sau đó, Thần tài lại chôn thỏi bạc dưới một gốc cây đại thụ ven đường. Một lúc sau, chỉ thấy một người đàn ông ăn mặc sang trọng cưỡi một con ngựa cao to phi nước đại đến, phi thẳng đến chỗ cây đại thụ kia, kìm ngựa dừng lại, nhanh chóng xuống ngựa, buộc ngựa vào gốc cây rồi đến chỗ không có người qua lại để đi vệ sinh. Thế nhưng lại thấy con ngựa kia cứ dùng chân bới đất, không bao lâu, nó liền đào được thỏi bạc mà Thần tài chôn dưới đất. Người đàn ông đi vệ sinh xong trở về, lúc chuẩn bị lên ngựa lại thấy một thỏi bạc trên mặt đất, nhặt nó lên, phủi bụi đất trên thỏi bạc, cho vào trong ngực áo rồi lên ngựa và phi nước đại đi.

Thổ địa xem xong, oán hận trong lòng tiêu mất, mang vẻ mặt áy náy, nhìn Thần Tài. Thần Tài thấy thế, cười lớn: “Thổ địa, ngài đã minh bạch rồi chứ, ý trời chính là như thế đó!”

Đúng là: “Trong mệnh có tất sẽ có, trong mệnh không chớ cưỡng cầu”.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/49821

The post Truyền thuyết dân gian: Thần tài và Thổ địa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Quốc gia người khổng lồhttps://chanhkien.org/2024/06/truyen-thuyet-dan-gian-quoc-gia-nguoi-khong-lo.htmlSun, 23 Jun 2024 23:25:29 +0000https://chanhkien.org/?p=33396Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Từ xưa đến nay, con người vẫn thăm dò, tìm hiểu xem quốc gia của người khổng lồ và quốc gia của người tí hon liệu có tồn tại hay không? Trên thực tế, trong lịch sử lâu đời của Trung Quốc, đã từng có thời kỳ người tí hon, […]

The post Truyền thuyết dân gian: Quốc gia người khổng lồ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Từ xưa đến nay, con người vẫn thăm dò, tìm hiểu xem quốc gia của người khổng lồ và quốc gia của người tí hon liệu có tồn tại hay không? Trên thực tế, trong lịch sử lâu đời của Trung Quốc, đã từng có thời kỳ người tí hon, người khổng lồ và con người có kích cỡ như chúng ta hiện nay cùng tồn tại. Trong những di tích cổ người xưa để lại, luôn có không ít những ghi chép về người khổng lồ.

Trong “Sơn Hải Kinh” có vài đoạn ghi chép lại về quốc gia người khổng lồ. “Hải Ngoại Đông Kinh – Sơn Hải Kinh” viết: “Quốc gia người khổng lồ ở phía bắc, người ở đó khá to lớn, ngồi gọt thuyền, “Gọt thuyền” có nghĩa là lái thuyền, cũng có nghĩa là, một người to lớn ngồi ở đó chèo lái thuyền.

“Sơn Hải Kinh – Đại Hoang Đông Kinh” ghi chép lại: “Ngoài biển Đông Hải có núi Ba Cốc, có thành phố của người khổng lồ, tên là Đại Nhân Chi Đường. Có một người khổng lồ ngồi xổm, dang hay tay ra.” Đoạn này ý muốn miêu tả hình tượng một người khổng lồ ngồi chồm hỗm trên đỉnh núi bằng phẳng giống như sảnh đường, hai tay dang rộng. “Sơn Hải Kinh – Đại Hoang Bắc Kinh” viết: Có một đất nước người khổng lồ, đều có họ là xx, họ ăn ngũ cốc.

Trong tác phẩm “Bác Vật Chí – Ngoại Quốc” của Trương Hoa thời nhà Tấn có ghi chép rằng: Tại một nơi cách Cối Kê (nay là Thiệu Hưng) bốn vạn tám nghìn dặm, có một đất nước người khổng lồ, người ta nói rằng con của người khổng lồ phải nuôi dưỡng 36 năm mới trưởng thành. Họ có thể bay trong mưa gió nhưng không đi được, thuộc loài rồng. Điểm này có chút không giống với miêu tả trong “Sơn Hải Kinh”. Ngoài ra trong “Bác Vật Chí – Dị Nhân” có ghi chép: Người nước Long Bá cao 30 trượng (1 trượng bằng 3,3 m), sống một vạn tám nghìn tuổi mới chết, người nước Đại Tần cao 10 trượng, người nước Trung Tần cao 1 trượng, người Lâm Thao cao 35 trượng. Những người kể trên đều thuộc người khổng lồ.

“Quốc Ngữ – Lỗ Ngữ” viết: Phòng Phong là quân chủ của tộc Uông Mang, vào thời Ngu – Hạ – Thương được gọi là tộc Uông Mang, thời Chu gọi là Trường Địch, hiện nay gọi là người khổng lồ. Người tộc Tiêu Nghiêu chỉ cao 3 thước (1 thước bằng 33 cm), là người tí hon, còn người khổng lồ lại có chiều cao gấp 10 lần người tí hon, cao khoảng 30 thước, thật đáng kinh ngạc. Nghe nói sau khi Phòng Phong bị giết, chỉ riêng một đốt xương của ông ta cũng phải dùng cả chiếc xe để chở. Sau Phòng Phong đến Trường Địch làm quân chủ. “Xuân Thu – Văn Công Thập Nhất Niên” viết: Trường Địch có ba anh em, đều rất lợi hại, gạch đá cũng không thể làm tổn thương họ. Có một người rất giỏi bắn cung, bắn trúng vào mắt họ, cơ thể họ sau khi đổ xuống rộng bằng khoảng 9 mẫu đất. “Thần Dị Kinh- Đông Nam Hoang Kinh” cũng có ghi chép về cặp vợ chồng Phác Phụ “cao lớn nghìn dặm”.

Thử tưởng tượng một chút, đứng trước những người khổng lồ cao lớn như vậy, con người hôm nay thật nhỏ bé nhường nào.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/49291

The post Truyền thuyết dân gian: Quốc gia người khổng lồ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Môn Thần Chung Quỳhttps://chanhkien.org/2024/06/truyen-thuyet-dan-gian-mon-than-chung-quy.htmlSat, 22 Jun 2024 03:25:00 +0000https://chanhkien.org/?p=33382[ChanhKien.org] Chung Quỳ là một vị môn Thần trong tín ngưỡng dân gian, nghe nói có thể trừ quỷ đuổi tà. Trong mắt thế nhân hình tượng Chung Quỳ là “đầu báo mắt lồi, mặt sắt tóc xoăn, tướng mạo xấu xí”, nhưng tính tình cương trực, không sợ tà ma. Về Chung Quỳ, trong […]

The post Truyền thuyết dân gian: Môn Thần Chung Quỳ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[ChanhKien.org]

Chung Quỳ là một vị môn Thần trong tín ngưỡng dân gian, nghe nói có thể trừ quỷ đuổi tà. Trong mắt thế nhân hình tượng Chung Quỳ là “đầu báo mắt lồi, mặt sắt tóc xoăn, tướng mạo xấu xí”, nhưng tính tình cương trực, không sợ tà ma.

Về Chung Quỳ, trong dân gian có rất nhiều truyền thuyết về ông. Trong tập ba cuốn “Mộng Khê Bút Đàm” của Thẩm Khoát có ghi chép lại, hoàng cung Bắc Tống từng cất giữ bức chân dung của Chung Quỳ do họa sĩ nổi tiếng nhà Đường, Ngô Đạo Tử vẽ, trên bìa sách có ghi “Đường nhân đề ký” cho biết nguồn gốc của bức tranh này.

Vào năm Khai Nguyên thời nhà Đường, có một lần, Đường Huyền Tông từ Lệ Sơn trở về cung liền đổ bệnh, hơn một tháng cũng không khỏi. Một tối nọ, Đường Huyền Tông bỗng nhiên mơ thấy hai con quỷ, một to một nhỏ, tiểu quỷ trộm cây sáo ngọc của mình và chiếc túi thêu của Dương Quý Phi, dạo vòng khắp nơi rồi mới đi. Đột nhiên, con quỷ lớn mặc lam bào, tóc xù và râu quai nón, khuôn mặt đáng sợ túm lấy con quỷ nhỏ, móc hai con mắt nó ra, sau đó nuốt luôn vào bụng. Huyền Tông kinh ngạc hỏi con quỷ lớn là ai, con quỷ lớn trả lời: “Thần Chung Quỳ thị, quyền cước thô sơ, thề sẽ vì bệ hạ diệt trừ yêu nghiệt khắp thiên hạ”. Nói xong, ông hóa thành một dải sáng hồng rồi bay mất.

Đường Huyền Tông sau khi tỉnh lại, bệnh cũng đã thuyên giảm. Liền cho mời họa sĩ gia Ngô Đạo Tử đến, kể lại những gì ông thấy trong mộng cho hoạ sĩ vẽ lại một bức họa về Chung Quỳ, rồi chiêu cáo thiên hạ. Đồng thời, cùng lúc đó, ban chiếu chỉ cho Ngô Đạo Tử in khắc bức tranh “Chung Quỳ tróc [bắt] quỷ đồ”, ban bố khắp thiên hạ, để thế nhân đều biết đến thần lực của Chung Quỳ.

Từ đó, truyền thuyết về Chung Quỳ bắt ma được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, vào mỗi dịp cuối năm, nhà nhà đều dán bức tranh ấy lên cửa, để đuổi ma trừ tà, dần dần thay thế vị trí của hai vị môn Thần Thần Đồ và Uất Lũy.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/48622

Chú thích của người dịch: Môn Thần hay còn gọi là Thần giữ cửa là các vị Thần thường được đặt ở hai bên cổng vào một ngôi chùa, nhà ở hay tiệm kinh doanh, được cho là để trấn giữ không cho những linh hồn hay ma quỷ xâm nhập vào nhà.

The post Truyền thuyết dân gian: Môn Thần Chung Quỳ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết về “Thiên Sư tuyền”https://chanhkien.org/2024/06/truyen-thuyet-ve-thien-su-tuyen.htmlThu, 20 Jun 2024 04:13:36 +0000https://chanhkien.org/?p=33363Tác giả: Linh Lung [ChanhKien.org] Chúng ta đều biết rằng suối, giếng, sông… và những thứ liên quan đến nước đều có mối liên hệ với rồng. Có rất nhiều những cái giếng, con suối thông thẳng với đại dương. Vùng phụ cận huyện Thiên Thai (Đài Loan) có một nguồn suối, truyền thuyết kể […]

The post Truyền thuyết về “Thiên Sư tuyền” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Linh Lung

[ChanhKien.org]

Chúng ta đều biết rằng suối, giếng, sông… và những thứ liên quan đến nước đều có mối liên hệ với rồng. Có rất nhiều những cái giếng, con suối thông thẳng với đại dương. Vùng phụ cận huyện Thiên Thai (Đài Loan) có một nguồn suối, truyền thuyết kể rằng đó là kiệt tác do Long Vương thi triển phép thuật hoá thành.

Long Vương gặp nạn cầu cứu Diệp Pháp Thiện

Diệp Pháp Thiện [1] đã sống ở phía Đông huyện Thiên Thai được vài năm, vào ngày 1 tháng 5 đột nhiên có một ông lão đến khóc lóc kêu cứu rằng: “Ta là Đông Hải Long Vương, Thiên Đế lệnh cho ta giữ báu vật của bát hải, cứ 1000 năm sẽ đổi người giữ báu vật một lần, nếu như người giữ không làm mất mát gì thì sẽ được thăng tiên phẩm (cấp bậc tiên). Ta đã canh giữ báu vật được 970 năm rồi, bỗng đâu có một gã yêu tăng sống ở Hải Phong thích khoe phép thuật huyền diệu, hắn ngày đêm luyện cấm chú [2], nay đã tích đủ 30 năm. Nếu phép thuật của hắn luyện thành thì nước biển sẽ cuồn cuộn như mây dâng đến lưng trời. Đến ngày 5 tháng 5 biển sẽ cạn kiệt. Và bảo vật thống thiên trấn hải, là vật mà Thượng Đế dùng để khống chế linh hồn nhất định sẽ bị yêu tăng lấy đi, tiểu thần sẽ bị trừng phạt không nhẹ. Giờ ngọ ngày 5 xin ngài hãy ban đan phù [3] cứu tiểu thần với”. Đến ngày hẹn Diệp Pháp Thiện đã phi đan phù ứng cứu Long Vương, nước biển hạ về mức bình thường như cũ, yêu tăng xấu hổ lao mình xuống biển chết. (Trích từ “Tây Hồ nhị tập”, quyển 30, chương “Mã Thần Tiên cưỡi rồng thăng thiên”)

Long Vương cảm ân, thi triển phép thuật tạo suối

Long Vương vội mang minh châu, ngọc bảo đến tạ ân, Diệp Pháp Thiện nói: “Ta thân ở nơi thôn dã, đâu cần châu báu làm gì? Nhưng ở nơi vách đá này phải đi lấy nước thật xa, nếu như có một con suối dẫn đến đây thì đúng thật là ân huệ”. Đêm ấy chỉ nghe thấy tiếng gió thét mưa gào, đến hôm sau quanh chân núi đã hiện ra một con kênh dẫn nước bằng đá, nước suối chảy vào đó, đến mùa đông suối vẫn không cạn. Người ta gọi đó là “Thiên Sư tuyền”. (Trích từ “Tây Hồ nhị tập”, quyển 30, chương “Mã Thần Tiên cưỡi rồng thăng thiên”)

Nguồn gốc của nước suối

Vì sao chỉ có rồng mới có thể tạo ra suối? Có lẽ là vấn đề về nguồn nước. Tạo ra suối không khó, nhưng nước suối thì cần phải lấy từ biển. Mà nước rốt cuộc là do Long Vương cai quản.

Thành phố Tế Nam, thủ phủ của tỉnh Sơn Đông, có đến 72 con suối. Đó là vì có một con giao long bị vua Đại Vũ nhốt vào trong giếng trên phố Thuấn Tỉnh. Con giao long còn thì nước vẫn còn, ngày nay khi chúng ta đến phố Thuấn Tỉnh vẫn có thể nhìn thấy sợi dây xích khổng lồ nối vào trong giếng. Ở bên kia của sợi dây xích chính là con giao long.

Chú thích:

[1]: đạo sĩ nổi tiếng thời Đường.

[2]: cấm chú là một loại pháp thuật cao nhất thường được các đạo sĩ thời xưa sử dụng.

[3]: đan phù là một loại bùa chú đạo sĩ hay sử dụng.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/260822

The post Truyền thuyết về “Thiên Sư tuyền” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Hàm nghĩa của “Hình Thiên”https://chanhkien.org/2024/06/truyen-thuyet-dan-gian-ham-nghia-cua-hinh-thien.htmlSun, 16 Jun 2024 01:21:41 +0000https://chanhkien.org/?p=33340[ChanhKien.org] Hình Thiên (刑天), cũng có thể viết thành “Hình Thiên” (形天), đây là cách nói khác của “chặt đầu”. Trên thực tế, Hình Thiên là một vị Thần vô danh trong thần thoại Trung Quốc cổ đại. Tương truyền ông là một đại thần dưới thời Viêm Đế. Trong “Sơn Hải Kinh – Hải […]

The post Truyền thuyết dân gian: Hàm nghĩa của “Hình Thiên” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Hình Thiên (刑天), cũng có thể viết thành “Hình Thiên” (形天), đây là cách nói khác của “chặt đầu”. Trên thực tế, Hình Thiên là một vị Thần vô danh trong thần thoại Trung Quốc cổ đại. Tương truyền ông là một đại thần dưới thời Viêm Đế. Trong “Sơn Hải Kinh – Hải Ngoại Tây Kinh” có ghi chép, sau khi Hoàng Đế nhờ vào đức hạnh sâu dày của mình giành được thiên hạ từ Viêm Đế, “Hình Thiên” bèn mang rìu đến tìm Hoàng Đế, quyết tâm tranh tài cao thấp với Hoàng Đế.

Hoàng Đế và Hình Thiên đều thi triển bản sự của mình trong cuộc giao chiến, cuối cùng Hoàng Đế đã chặt đầu Hình Thiên, trấn giữ ở chân núi Trường Dương. Hình Thiên không phục, dùng ngực làm mắt, rốn làm miệng, tay cầm khiên và rìu tiếp tục đánh. Bởi vì ông ấy không có đầu, nên mọi người gọi ông là “hình thiên”, ý nghĩa là “hình thể không toàn thây”.

Nhà thơ Đào Uyên Minh thời Đông Tấn đã viết bài thơ “Độc Sơn Hải Kinh” trong đó có câu: “Tinh vệ hàm vi mộc, tương dĩ điền thương hải. Hình thiên vũ kiền thích, mãnh chí cố thường tại” (Dịch nghĩa: Con chim tinh vệ ngậm mảnh gỗ nhỏ, muốn dùng nó để lấp đầy biển cả. Hình Thiên múa cây rìu, ý chí chiến đấu kiên cường vẫn còn đó). Đại ý là ca ngợi tinh thần kiên cường của chim tinh vệ và Hình Thiên. Tương truyền từ đó trở đi, “Hình Thiên” (形天) được viết thành “Hình Thiên” (刑天) (1), trở thành biểu tượng của tướng sĩ dũng cảm.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/49215

Ghi chú của người dịch: Hình Thiên (刑天) còn có nghĩa là thuận theo trời.

The post Truyền thuyết dân gian: Hàm nghĩa của “Hình Thiên” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Bay lên không trunghttps://chanhkien.org/2024/06/truyen-thuyet-dan-gian-bay-len-khong-trung.htmlMon, 10 Jun 2024 23:27:37 +0000https://chanhkien.org/?p=33316[ChanhKien.org] Việc con người có thể bay lên không trung hoàn toàn không phải là phát minh của con người hiện đại, Trung Quốc từ thời xưa có không ít những câu chuyện truyền thuyết tuyệt đẹp về chủ đề này. Trong dân gian, câu chuyện “Hằng Nga bay lên cung trăng” vẫn được lưu […]

The post Truyền thuyết dân gian: Bay lên không trung first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Việc con người có thể bay lên không trung hoàn toàn không phải là phát minh của con người hiện đại, Trung Quốc từ thời xưa có không ít những câu chuyện truyền thuyết tuyệt đẹp về chủ đề này. Trong dân gian, câu chuyện “Hằng Nga bay lên cung trăng” vẫn được lưu truyền rộng khắp, mà dựa trên niên đại thì câu chuyện này có lẽ đã xảy ra vào thời thượng cổ, sau khi Hậu Nghệ bắn hạ chín mặt trời. Hằng Nga có thể được xem là người bay lên trời sớm nhất.

Tương truyền rằng tổ tiên của dân tộc Trung Hoa, Hiên Viên Hoàng Đế, vừa trị quốc, vừa luyện đan cầu đỉnh, tĩnh tâm tu luyện. Tư Mã Thiên trong “Sử Ký” có nói Hoàng Đế được ban bảo đỉnh và sách Thần, trị thế “Thuận thiên đích chi kỉ, u minh chi chiêm, tử sinh chi thuyết, tồn vong chi nan” (Dịch nghĩa: miêu tả Hoàng đế trị quốc thuận theo ý trời, hiểu đạo lý quy luật âm dương, sinh tử, hành đạo khắp thiên hạ, là một người tu Đạo). Sau khi tu thành, ông ở dưới núi Kiều Sơn nung luyện một đỉnh lớn. Khi vừa nung xong, trời bỗng nứt mở ra, một con rồng vàng giáng hạ đến đón ông. Hoàng Đế cùng tùy tùng thân cận hơn 70 người cưỡi lên rồng vàng, bạch nhật phi thăng, lên trời thành Thần Tiên.

Sau này Đại Vũ chinh phục hồng thủy xong, ông cũng từng cưỡi rồng vân du thiên quốc.

Cuốn sách địa lý nổi tiếng thời Trung Quốc cổ đại “Sơn Hải Kinh” có ghi chép, thời cổ đại tại phía tây Trung Quốc có một quốc gia tên là Cơ Quăng (đồng âm với “Cơ cung”). Người ở quốc gia đó không những biết bay, mà còn có thể chế tạo ra xe bay, người ngồi trên chiếc xe bay này có thể theo gió bay lên đến nơi rất xa. Khoảng thế kỷ 17 trước công nguyên, cũng chính là thời Thương Thang triều Thương thống trị, có một trận gió tây thổi đến, người ở Cơ Quăng quốc và xe bay theo gió đã đến thành của nhà Thương. Mười năm sau, một trận gió đông nổi lên, lại đưa người nước Cơ Quăng và xe bay quay trở về.

Thời nhà Chu, tương truyền Chu Mục Vương khi đến thăm Tây Vương Mẫu đã từng ngồi trên chiếc “xe hoàng kim ngọc bích” lướt gió cưỡi mây với tốc độ nghìn dặm mỗi ngày, tiến về núi tiên – núi Côn Lôn.

Trong truyền thuyết, người có thể bay lượn còn có Vương Tử Kiều đã tu thành Tiên, cưỡi hạc trắng; Lộng Ngọc, con gái của Tần Mục Công, đã cùng chồng là Tiêu Sử lần lượt cưỡi rồng và phượng, hóa thành Tiên.

Ngoài những truyền thuyết nói trên, trong một số tác phẩm văn học của Trung Quốc cũng có miêu tả về người bay lượn. Trong tác phẩm “Ly Tao” của nhà văn nổi tiếng Khuất Nguyên, đã miêu tả cảnh tượng mỹ diệu khi ngồi trên chiếc xe do rồng kéo ngao du thiên quốc. Mà trong tác phẩm nổi tiếng lẫy lừng “Tây Du Ký”, Tôn Ngộ Không với một cú nhào lộn có thể đi mười vạn tám nghìn dặm lại là điều ai ai cũng biết.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/49146

The post Truyền thuyết dân gian: Bay lên không trung first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Đại Vũ và sông Hoàihttps://chanhkien.org/2024/03/truyen-thuyet-dan-gian-dai-vu-va-song-hoai.htmlSat, 30 Mar 2024 03:21:38 +0000https://chanhkien.org/?p=32870[ChanhKien.org] Sông Hoài là một trong những con sông lớn nổi tiếng của Trung Quốc, liên quan đến nguồn gốc của nó, trong dân gian vẫn còn lưu truyền một câu chuyện truyền thuyết thần thoại cổ xưa. Năm đó, khi Đại Vũ trị thủy, ba lần đến núi Đồng Bá đều không trị được. […]

The post Truyền thuyết dân gian: Đại Vũ và sông Hoài first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[ChanhKien.org]

Sông Hoài là một trong những con sông lớn nổi tiếng của Trung Quốc, liên quan đến nguồn gốc của nó, trong dân gian vẫn còn lưu truyền một câu chuyện truyền thuyết thần thoại cổ xưa.

Năm đó, khi Đại Vũ trị thủy, ba lần đến núi Đồng Bá đều không trị được. Đại Vũ vô cùng tức giận, đi dò hỏi mới biết hóa ra nơi này có một thủy thần tên là Vô Chi Kỳ đang làm loạn. Vô Chi Kỳ sống trong một đầm nước sâu, nghe nói nó: “Hình dạng giống vượn, mũi tẹt trán cao, thân xanh đầu trắng, mắt vàng răng đỏ máu, cổ dài trăm thước, mạnh hơn chín voi”. Đại Vũ cử Thần Canh Thân đi giao chiến với Vô Chi Kỳ. Canh Thân cầm “Định hải Thần Châm”, tiến lên giao chiến với Vô Chi Kỳ. Sau ba ngày ba đêm chiến đấu ác liệt, cuối cùng đã đánh bại nó.

Vô Chi Kỳ sau khi bị đánh bại, mũi bị đeo một chiếc chuông vàng, cổ bị khóa và bị nhốt trong giếng sâu dưới chân núi Hoài Âm Quy. Từ đó, sông Hoài không những được lưu thông, mà còn có thể chảy thẳng ra biển lớn.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/53253

The post Truyền thuyết dân gian: Đại Vũ và sông Hoài first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Thần Lửahttps://chanhkien.org/2024/03/truyen-thuyet-dan-gian-than-lua.htmlThu, 28 Mar 2024 03:33:23 +0000https://chanhkien.org/?p=32863Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Dân gian cho rằng, lửa ở nhân gian là do một vị Thần điều khiển – Thần Lửa phụ trách. Thần Lửa thời đầu là Chúc Dung. Trong “Sơn Hải Kinh” có ghi chép: “Chúc Dung ở phương Nam, mặt người thân thú, cưỡi hai con rồng“. Quách Phác chú […]

The post Truyền thuyết dân gian: Thần Lửa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Hình ảnh: Ho Xin – God of Fire. (n.d.). Trích từ ​​Invaluable.com

Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Dân gian cho rằng, lửa ở nhân gian là do một vị Thần điều khiển – Thần Lửa phụ trách. Thần Lửa thời đầu là Chúc Dung. Trong “Sơn Hải Kinh” có ghi chép: “Chúc Dung ở phương Nam, mặt người thân thú, cưỡi hai con rồng“. Quách Phác chú thích rằng: “Chính là Thần Lửa”. “Tả truyện” cũng nói: “Lửa chính là Chúc Dung”. Ý nghĩa rằng Thần Lửa là Chúc Dung.

Người thời Tiền Tần vô cùng kính trọng và yên mến Thần Lửa. “Quốc ngữ – Quách Ngữ” ghi chép lại: “Phu Lê là ngọn lửa của thị tộc Cao Tân, toả ánh sáng thuần phác, chói lọi, trời sáng tỏ, đất thịnh vượng, chiếu sáng bốn biển, mệnh là Chúc Dung, công đức to lớn”. Sau thời Hán, mọi người tràn đầy khiếp sợ Thần Lửa, từ sùng bái trở thành trốn tránh lửa. Hình tượng về Thần Lửa đã phát sinh biến đổi, rất nhiều vùng đã không giống như trước nữa.

Quyển thứ tư cuốn “Sưu Thần ký” của Can Bảo đời Tấn có ghi chép lại một câu chuyện như sau. Có một người tên là My Trúc đang đánh xe về nhà, thì có người phụ nữ xin đi nhờ. Cách nhà khoảng 10 dặm, người phụ nữ ấy xuống xe, rồi nói với My Trúc: “Ta được Thiên đế phái xuống, chuẩn bị đốt nhà My Trúc ở biển đông. Cảm ơn đã cho ta đi nhờ, thế nên thông báo trước cho ngươi”. My Trúc nghe xong, vội vàng về nhà, mang tài sản ra ngoài. Đến trưa, trong nhà My Trúc quả nhiên nổi lửa. Trong câu chuyện này Thần Lửa đã biến thành một người phụ nữ.

Tương truyền Tứ Xuyên coi ngày 8 tháng 4 âm lịch là ngày đản sinh của Thần Lửa. Vào ngày này, người dân không chỉ thắp hương bái tế Thần Lửa mà còn biểu diễn các tiết mục để chúc mừng. Tại Hàng Châu, Chiết Giang, lấy ngày 23 tháng 6 là ngày Thần Lửa đản sinh. Vào ngày này người dân thắp hương bái tế Thần Lửa. Mà văn hóa dân gian vùng Quảng Châu lại cho rằng Thần Lửa là Đại đế Hoa Quang, có ba con mắt, là chuyên quản lý các tai họa về lửa ở nhân gian.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/49292

The post Truyền thuyết dân gian: Thần Lửa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>