Trùng sinh | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnSat, 21 Dec 2024 02:57:15 +0000en-UShourly1Tiểu thuyết: Trùng sinh (9)https://chanhkien.org/2024/08/tieu-thuyet-trung-sinh-9.htmlMon, 05 Aug 2024 23:49:02 +0000https://chanhkien.org/?p=33693Tác giả: Tân Minh [ChanhKien.org] Hồi thứ mười bảy: “Pháp Luân Đại Pháp hảo” và “tam thoái” Đại đa số học viên sau khi từ lớp học tập của Trung Cộng trở về, thông qua học Pháp lâu dài thì đều dần dần minh bạch trở lại, tinh tấn lên, họ lại lần nữa không […]

The post Tiểu thuyết: Trùng sinh (9) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Tân Minh

[ChanhKien.org]

Hồi thứ mười bảy: “Pháp Luân Đại Pháp hảo” và “tam thoái”

Đại đa số học viên sau khi từ lớp học tập của Trung Cộng trở về, thông qua học Pháp lâu dài thì đều dần dần minh bạch trở lại, tinh tấn lên, họ lại lần nữa không ngừng giảng chân tướng cho người dân. Những trang web, báo chí cùng các hoạt động kêu gọi ủng hộ mà các đệ tử hải ngoại làm cũng đều khởi được tác dụng rất lớn.

Sau khi “Cửu bình” được công bố, ở Trung Quốc đại lục đã dậy lên làn sóng giải phóng về tâm linh, thoái xuất khỏi đảng cộng sản và các tổ chức liên đới của nó.

Sau đây xin nêu lên một vài ví dụ về việc người dân được thụ ích.

Một lần Liễu Thành Âm nhìn thấy tài liệu giảng chân tướng, trong đó có nói đến việc một người thường thành tâm niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo”, “Chân, Thiện, Nhẫn hảo” thì có thể trị bệnh ở một mức độ nhất định, cũng như việc người dân làm “tam thoái” có thể mang lại phúc phận. Anh cảm thấy ngạc nhiên, ngày trước bản thân anh và các đồng tu đều là thông qua tu luyện mới khỏi bệnh, chỉ niệm như vậy cũng có thể khỏi bệnh được sao? Làm “Tam thoái” thực sự có thể mang đến phúc phận sao? Mặc dù cậu biết những gì đồng tu viết chắc chắn là sự thực, nhưng cậu vẫn chưa được tận mắt chứng kiến.

Gần nhà máy có một thôn trang, ở đó có một ông lão, cha ông là địa chủ, là thành phần xuất thân không tốt. Những người có xuất thân gia đình như ông thường đều lén lút giấu đi không ít sách cổ, ông cũng được coi là có kiến thức uyên bác. Các sách Kinh Dịch, sách phong thủy ông đều đã từng đọc, nhưng thường ngày ông chỉ quanh quẩn với đồng ruộng. Lúc đó ông gần 80 tuổi rồi, thân thể vẫn cường tráng, chỉ có điều chân bị phù thũng, đi lại bất tiện. Mặc dù con trai ông cũng là bác sĩ, nhưng do loại bệnh này có triệu chứng phức tạp nên không dễ mà chữa trị được.

Liễu Thành Âm thấy vậy, liền giới thiệu cho ông niệm đọc “Pháp Luân Đại Pháp hảo”, “Chân, Thiện, Nhẫn hảo”. Ông lão từ lâu đã bị Trung Cộng bức hại, nên hiểu khá rõ bộ mặt thật của Trung Cộng; hơn nữa Liễu Thành Âm lại là bạn của con trai ông nên sau khi nghe cậu giảng chân tướng, ông liền đồng ý thử niệm.

Liễu Thành Âm cũng không tin tưởng quá lớn vào việc này. Nhưng một thời gian sau, anh tình cờ gặp lại ông lão, ông vui vẻ nói: “Cậu xem, tôi thật sự đỡ rồi!“ Liễu Thành Âm cẩn thận quan sát mu bàn chân của ông, đúng là đã đỡ hơn nhiều.

Việc này khiến anh tin tưởng. Không ngờ rằng uy lực lại lớn đến vậy!

Chị dâu họ của Liễu Thành Âm, tuổi khoảng hơn 40, nhưng sức khỏe không được tốt, chị nghe lời khuyên của họ hàng tín ngưỡng theo tôn giáo **, nhưng không những không giúp được gì, mà sau đó chị ấy lại thêm mắc bệnh tâm thần.

Khi Liễu Thành Âm thấy sắc mặt chị vàng như sáp, chỉ còn chút thần trí, uể oải yếu ớt, xem chừng không sống được bao lâu nữa. Anh họ cậu không còn hy vọng cứu được chị, tiền của cũng tiêu tốn không ít mà hiệu quả chẳng bao nhiêu.

Buổi trưa hôm đó, sau khi cơm được dọn lên, tay chị run rẩy cầm đôi đũa, mất rất nhiều thời gian mà không ăn được chút cơm nào. Anh họ nói: “Cứ thế này, cơm cũng khó ăn nổi, cũng khó mà chữa khỏi bệnh”. Liễu Thành Âm giảng cho anh họ một chút chân tướng, bảo chị niệm “Chân, Thiện, Nhẫn hảo” thử xem. Anh họ ngay lập tức đồng ý, nhưng thần trí của người bệnh không tỉnh táo, hoàn toàn không nhớ nổi mấy từ này, cũng không biết ý nghĩa là gì. Liễu Thành Âm liền bảo chị ấy chỉ niệm một chữ “Chân”, tiện thể giải thích ý nghĩa bề mặt của chữ ấy.

Dưới sự nỗ lực cố gắng của cậu và anh họ, người bệnh cuối cùng cũng nhớ được chữ “Chân”, đồng thời niệm đi niệm lại nhiều lần, điều khiến người ta cảm thấy thần kỳ là không ngờ trưa hôm đó chị ấy có thể ăn được nửa bát cơm, trước kia hoàn toàn không ăn được như vậy.

Liễu Thành Âm dặn dò anh họ rằng nhất định phải bảo chị ấy niệm hết câu “Pháp Luân Đại Pháp hảo”, “Chân, Thiện, Nhẫn hảo”, như thế mới có hiệu quả.

Từ đó về sau, dù không xảy ra chuyện gì thì chị ấy vẫn thì thầm nhẩm niệm. Một tháng sau, thần trí của chị ấy đã thanh tỉnh hơn nhiều, thêm vài tháng thì khoẻ mạnh hẳn. Anh chị họ của cậu đều cảm thấy rất thần kỳ.

Một năm sau, khi Liễu Thành Âm đến nhà anh họ thấy sức khoẻ của chị dâu lại kém đi, phản ứng cũng chậm chạp. Cậu lập tức hỏi đã xảy ra chuyện gì. Thì ra một người họ hàng tín ngưỡng theo tôn giáo ** thấy sức khoẻ của chị ấy chuyển biến tốt, liền lôi kéo chị ấy đi tham gia buổi hội họp của tôn giáo ấy, vừa về nhà thì liền phát bệnh. Liễu Thành Âm nghe cái là hiểu ngay, liền bảo anh họ từ sau cố gắng đừng để chị dâu tham gia vào tôn giáo ** kia nữa, tiếp tục niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo”, “Chân, Thiện, Nhẫn hảo”, anh họ bị bệnh tình của vợ giày vò hết lần này đến lần khác đến mức tiều tụy hốc hác, nên đã thật tâm đồng ý.

Vài tháng sau, sức khoẻ của chị lại hồi phục, không còn mắc bệnh tâm thần nữa.

Lại một năm sau, Liễu Thành Âm có việc đến nhà họ, vừa vào nhà đã kinh ngạc sửng sốt, anh họ thì đang bận làm cơm, còn chị dâu thì nằm dưới đất, áo quần luộm thuộm, không ngừng om sòm và khóc lóc nỉ non, nói rằng bên ngoài có “người” đang đập tường, muốn xông vào nhà giết mình. Xem ra bệnh cũ của chị ấy lại tái phát rồi.

Liễu Thành Âm hỏi thăm thì vẫn là nguyên nhân cũ, vẫn là người họ hàng kia lôi kéo chị ấy đi tin theo tôn giáo **, nên giờ thành ra bộ dạng thế này. Liễu Thành Âm trong lòng rất khó chịu, thế là dặn dò anh họ nhiều lần rằng bảo chị ấy tiếp tục niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo” và “Chân, Thiện, Nhẫn hảo”. Nói thật lòng, lần này trong lòng Liễu Thành Âm cũng mơ hồ không chắc chắn liệu chị ấy còn có thể hồi phục không.

Nhưng mấy tháng sau, chị dâu lại hồi phục trở lại bình thường, đồng thời về sau không bao giờ tham gia vào tôn giáo ** nữa, cho tới giờ cũng chưa từng mắc lại căn bệnh này.

Chuyện này khiến Liễu Thành Âm cảm thán: Sư phụ thật quá từ bi …

Em họ A Vân của Liễu Thành Âm và chồng là A Phúc đi làm công ở miền Nam, sống trong ký túc xá của nhà máy cùng những công nhân khác. Có một công nhân nữ khác tên là Tiểu Phương trong lúc gội đầu không cẩn thận đã hắt nước vào người A Vân, A Vân vô cùng tức giận và tranh luận với cô ấy. Nào ngờ Tiểu Phương cũng không phải người hiền lành gì, hai người liền xảy ra xô xát.

Chồng cô A Phúc thấy tình hình vậy vội vàng tách hai người ra. Trong ký túc xá, A Phúc nổi giận, kích động liền cho A Vân một bạt tai. A Vân trong lòng cảm thấy ủy khuất vô cùng, chạy lên tầng hai nhảy xuống. Mặc dù ngã không chết, nhưng xương hai chân đều gãy nát.

Hiển nhiên là nếu chữa trị ở thành phố thì khó có thể chi trả nổi chi phí chữa trị nên họ đành trở về quê nhà. Nhưng đến mấy bệnh viện ở quê, gồm cả một bệnh viện tư nhân có tiếng tăm thì các bác sĩ đều nói là rất có khả năng sẽ để lại di chứng, sau này đi lại sẽ khó khăn.

A Phúc thấy tình cảnh này không nhịn được bật khóc: “Ôi mẹ ơi, tôi vẫn còn trẻ mà bây giờ đã phải lo cho vợ què, những ngày tháng sau này tôi sống sao đây?!” Anh hoàn toàn tuyệt vọng.

Anh đưa ra một quyết định động trời: không chữa bệnh cho vợ nữa, không cho uống thuốc, kéo xe cải tiến hai bánh đưa cô về nhà mẹ đẻ, cũng chính là nhà chú của Liễu Thành Âm, ý muốn bỏ mặc, không quan tâm nữa.

Chú của Liễu Thành Âm tức giận, vợ bị bệnh đã không chạy chữa, còn đưa về nhà mẹ đẻ, như thế là đang bắt nạt nhà vợ rồi! Phải tìm người giải quyết, không giải quyết được thì tìm người dạy dỗ anh ta. Cả nhà đang giận dữ, suy nghĩ xem làm thế nào.

Đúng lúc này, Liễu Thành Âm và vợ đến thăm. Thấy tình hình vậy, anh liền bắt đầu khuyên giải, nhân tiện giảng chân tướng về cuộc bức hại của chính quyền đương nhiệm đối với Pháp Luân Công, hiệu quả thần kỳ của Pháp Luân Công và sự hồng truyền trên khắp thế giới v.v., và sau cùng là làm tam thoái. Trong lúc giảng chân tướng, Liễu Thành Âm đột nhiên kinh ngạc phát hiện, chân của em gái đã bớt sưng, hồi sáng đến thăm vẫn còn sưng rất nghiêm trọng. Cậu nói xong, mọi người qua xem đều thấy bất ngờ, đây quả là hiệu quả ngay tức thì!

Vài ngày sau Liễu Thành Âm nhận được tin rằng ngay hôm ấy người em họ đã đạp xe về nhà, dọa cho người chồng A Phúc một phen khiếp sợ, sao có thể như vậy được?

Về sau, mặc dù cũng có người khuyên cô tín ngưỡng theo tôn giáo **, A Vân vẫn một lòng một dạ niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo”, “Chân, Thiện, Nhẫn hảo”.

Vài tháng sau, chân của cô đã khỏi hẳn. Người thân họ hàng đều nói đúng là thần tích!

Một người bạn của Liễu Thành Âm là A Minh, trước kia yêu thích Kinh Dịch, có lần còn vẽ bùa cho người khác. Một lần họ vô tình gặp nhau, anh ấy nói rằng có một người mắc bệnh tâm thần rất nặng, vợ của bệnh nhân nhờ anh vẽ cho lá bùa. Anh ấy vẽ rồi nhưng không có hiệu quả, muốn nhờ Liễu Thành Âm giúp đỡ.

Liễu Thành Âm nghe xong liền nói: “A Minh à, cậu cũng biết rằng tôi không thể tham dự vào chuyện này, học viên Pháp Luân Công không thể trị bệnh cho người khác, cũng sẽ không trừ tà cho người khác, việc này tôi cũng lực bất tòng tâm”.

A Minh nói: “Tôi không bảo cậu trị bệnh cho người ta, cậu đi xem một chút không được sao? Dù sao đó cũng là bạn tôi”. Nói đến đây, Liễu Thành Âm đồng ý đến xem.

Họ băng qua một con suối nhỏ, đến nhà người bạn, điều kiện kinh tế cũng không khá, giờ anh chồng lại mắc bệnh, quả đúng là họa vô đơn chí. Chị vợ có vẻ chất phác, thiện lương, nhưng bệnh của anh chồng nặng quá nên thành ra tâm tình không được tốt, lớn tiếng quát tháo khách.

Thấy tình cảnh này, Liễu Thành Âm chẳng có chút niềm tin nào, bệnh nhân không nghe được chân tướng, cũng không niệm nổi “Pháp Luân Đại Pháp hảo” … Làm sao đây? Anh đột nhiên nghĩ ra một việc, bảo người nhà niệm để những người thân khác được thụ ích. Thử chút xem hiệu quả ra sao.

Thế là Liễu Thành Âm bèn giảng chân tướng cho chị vợ, bảo chị niệm, cầu xin thầy Lý, hiệu quả có lẽ sẽ tốt hơn chút.

Một năm sau khi rời khỏi nhà họ, cậu gặp lại A Minh. A Minh nói cho cậu một tin tốt: Chủ nhà ấy mấy tháng sau đã khỏi bệnh, còn đến thăm anh ấy, tặng anh ấy một bình rượu nữa!

Liễu Thành Âm vô cùng xúc động, nếu người Trung Quốc đều liễu giải chân tướng thì tốt biết bao!

Lý Đại Nguyên là một cán bộ cấp thấp ở huyện, từng là quân nhân, nhân phẩm rất tốt. Nhưng tiếc rằng cuộc sống không thật như ý, mấy năm trước vợ anh mắc bệnh, suýt nữa thì mất mạng. Người già trong nhà từ lâu đã mong có cháu trai nối dõi tông đường, nhưng tiếc là dưới sự thống trị mất hết nhân tính của Trung Cộng, hai vợ chồng công chức không được phép sinh con lần thứ hai. Cộng thêm công việc không như ý, cả ngày anh ủ rũ chán nản, luôn miệng nói sống chả có ý nghĩa gì.

Một hôm, anh nghe người khác giảng chân tướng rồi nhân tiện làm tam thoái luôn.

Hai năm sau, anh có được cậu con trai như ý, công việc cũng được điều chuyển sang bộ phận mong muốn, tinh thần phấn chấn hẳn lên.

Những ví dụ như thế này có rất nhiều, tôi cũng không kể thêm nữa.

Cơ duyên

Sơn hà phá toái kỷ đa ai
Cứu thế phương chu đại vũ lai
Cam lộ tư tâm tuỳ xứ giáng
Si ngai tàn bệnh tiếu nhan khai

Tạm dịch

Cơ duyên

Giang sơn vỡ nát bao bi thương
Con thuyền cứu thế đến từ đại khung vũ trụ
Giọt cam lộ thấm nhuần trong tâm sa xuống khắp chốn
Si ngốc bệnh tật vẫn vui cười

Hồi thứ mười tám: Mùa xuân trở lại

Kể từ sau khi các đệ tử Pháp Luân Công bị đàn áp, Liễu Thành Âm chưa hề có được hạnh phúc thực sự. Nhưng gần đây có một hôm cậu đột nhiên phát hiện, bầu trời dường như dần trở nên sáng hơn, thế gian cũng không còn tối tăm như thế nữa.

Vợ của học viên lâu năm Dương Tân Lương trước đây từng mang thai ngoài tử cung, suýt nữa mất đi tính mạng, đáng tiếc là sau cuộc đàn áp, Dương Tân Lương dần trở nên lười nhác buông thả, nhưng vợ lại tĩnh tâm xuống, bắt đầu thành tâm học Pháp. Không lâu sau cô có thai, sinh hạ được một bé trai kháu khỉnh, khiến cả gia đình rất xúc động.

Còn có một học viên khác tên là A Liên, cô kết hôn đã lâu mà vẫn chưa có con, sau khi nghe được tin này thì bán tín bán nghi, cô cũng rất mong muốn có được một mụn con.

Về sau, vì công việc cũng nhàn, nên trong lúc rảnh rỗi cô bắt đầu thành tâm đọc cuốn Chuyển Pháp Luân. Một hôm, cô đột nhiên kinh ngạc phát hiện bụng mình bỗng dưng có cảm giác Pháp Luân xoay chuyển, trong lúc luyện công trường năng lượng hết sức mạnh mẽ. Cô vô cùng phấn khích, hoá ra những điều Thầy nói đều là thật!

Chồng của cô nói, không chừng sau này vợ sẽ có thai, cô vẫn không dám tin.

Một tháng sau, cô nhận ra mình quả thật là có thai.

Gần một năm sau, cô thuận lợi sinh hạ một bé trai khiến cả nhà vui mừng phấn khởi, bố mẹ chồng vốn bị say xe nhưng vẫn ngồi trên xe bế cháu trai và đó cũng lần đầu tiên trong đời họ không bị say xe. Kể từ đó, A Liên càng thêm kiên định tu luyện Đại Pháp.

Ông Vương ở thị trấn Thanh Phong hiện giờ gần 80 tuổi, nhớ năm xưa ông từng là một bí thư chi bộ có tiếng tăm, tính cách chính trực, rất được tôn trọng. Về sau tuổi ông đã cao nên cũng không làm bí thư nữa, nhưng lại mắc tật thích uống rượu, có lúc cứ uống say vào là cởi cả quần ra mà không biết, còn mắng chửi người ta. Thế nên tự nhiên sức khỏe ngày một giảm sút.

Về sau nghe người khác giới thiệu, hai vợ chồng ông đều bắt đầu tu luyện, thân thể hai người như được tái sinh, tựa như thanh niên vậy. Ông cũng không uống rượu, không mắng chửi người ta nữa. Người dân trong thôn đều nói Đại Pháp thật hữu hiệu!

Kể từ khi trào lưu tam thoái diễn ra, Trung Cộng lo sợ sẽ bị giải thể nên quyết định viện trợ cho các cựu đảng viên và bí thư chi bộ, phát tiền cho họ. Chẳng qua cũng chỉ là vài trăm nhân dân tệ, nhưng đối với những người cao tuổi điều kiện kinh tế gia đình không tốt và thu nhập eo hẹp như họ mà nói thì vẫn đầy sức cám dỗ.

Họ sớm đã làm tam thoái mà bây giờ lại đi lãnh tiền của đảng cộng sản thì có ý nghĩa gì? Họ quyết định không đi lấy mấy đồng tiền bẩn ấy nữa.

Tuy cuộc sống luôn vất vả gian khổ, nhưng họ lại có thể từ chối cám dỗ, khiến Liễu Thành Âm rất khâm phục.

Hà Xuân Sơn, là một người thông minh có tiếng, đa tài đa nghệ, đầu óc linh hoạt nhanh nhạy, điều kiện kinh tế khá, chỉ tiếc là sức khoẻ của vợ anh không tốt. Tình hình sức khỏe của vợ anh cũng đã như thế nhiều năm rồi, từ trước khi kết hôn cô đã không được khoẻ mạnh, hơn 20 năm nay, cô không làm được công việc nặng nhọc, cả ngày chỉ bầu bạn với thuốc thang.

Vợ của Hà Xuân Sơn là chị A Hương, cũng đã tốt nghiệp cấp ba, cũng được coi là trí thức, Liễu Thành Âm là bạn học của em trai cô.

Một hôm, Liễu Thành Âm đang mua sắm trong huyện thì nghe thấy phía sau có người gọi mình. Quay đầu lại mới biết, hoá ra là A Hương, cô thành khẩn nói: “Tiểu Liễu, cậu cho tôi xem sách của Sư phụ Lý với”. Liễu Thành Âm nghe xong, đây quả là chuyện tốt! Thế nên không cần suy nghĩ gì đã đồng ý ngay, nhưng lại hoàn toàn chẳng để tâm.

Đợi đến khi gặp A Hương lần thứ hai, lúc cô thúc giục thì cậu mới nhớ ra là mình đã trì hoãn, liền mau chóng tìm một cuốn Chuyển Pháp Luân tặng cho cô.

Hà Xuân Sơn là một người thận trọng, thấy vợ luyện Pháp Luân Công, liền cẩn thận quan sát sự thay đổi của cô, muốn xác định xem công pháp này có thực sự hữu hiệu hay không. Sau 15 ngày kể từ ngày cô tu luyện, anh kinh ngạc phát hiện: tật mắc tạp âm trong cổ họng nhiều năm của cô đã biến mất!

Một hôm, khi A Hương đang đọc Chuyển Pháp Luân, đột nhiên cảm thấy một bên ngực có một luồng nhiệt nóng, nó truyền sang ngực bên kia, sau đó chuyển động qua lại, ước chừng khoảng năm phút, căn bệnh tăng sản tuyến vú bao năm của cô đã hoàn toàn biến mất!

Từ đó về sau, người bệnh bao năm không lao động như cô đã tạm biệt hẳn bệnh tật, bắt đầu làm các công việc đồng áng.

Hai vợ chồng vô cùng phấn chấn với sự thay đổi to lớn này, Hà Xuân Sơn quyết định bản thân cũng phải tu luyện.

Hà Xuân Sơn vừa tu luyện đã nhanh chóng đạt được trạng thái vô bệnh.

Một lần, Liễu Thành Âm kể chuyện này với em trai của A Hương, người em trai vẫn chưa biết, vẫn tưởng rằng căn bệnh mấy chục năm của chị gái chưa khỏi, vẫn nghĩ chị mình vẫn là người bệnh không có khả năng lao động!

Trong hoàn cảnh Trung Cộng đàn áp như thế mà có thể bước vào tu luyện Đại Pháp, thật sự vô cùng đáng quý. Chỉ tiếc rằng, nếu như không có cuộc đàn áp thì đã có biết bao nhiêu người được thụ ích!

Những ví dụ như thế này tôi không liệt kê thêm nữa.

Ông Triệu cũng là học viên đắc Pháp lâu năm, có thời gian rảnh luôn đi giảng chân tướng cho bà con, cũng được dân chúng chào đón nồng nhiệt.

Hôm đó, ông cùng một học viên khác đi giảng chân tướng, bị người dân không minh bạch chân tướng báo cáo. Mấy viên cảnh sát ở đồn công an địa phương bao vây họ, muốn bắt họ đi nhưng họ không đi. Cảnh sát muốn cưỡng chế bắt đi, hai người họ dùng lời lẽ đanh thép nói với cảnh sát và những người dân xung quanh rằng: “Chúng tôi chẳng qua chỉ là tu luyện Pháp Luân Công, anh xem sức khoẻ của chúng tôi rất tốt, không trộm không cướp, các anh muốn làm gì?!”

Mấy viên cảnh sát bị chính khí của họ làm cho kinh sợ, có lẽ cũng đã hiểu phần nào chân tướng, lớn giọng nói: “Chúng tôi không cần biết các ông tuổi tác cao, nói gì đi chăng nữa thì ông vẫn phải đi theo chúng tôi, các ông đi đi, lần sau còn đến thì chúng tôi không khách khí nữa đâu!”

Tình huống kiểu này trước kia rất hiếm có, cũng phải là trong hoàn cảnh rất nhiều người dân đã hiểu rõ chân tướng mới xuất hiện. Tà ác sợ gặp ánh sáng, chúng luôn sợ sự thật bị phơi bày trước toàn dân thiên hạ …

Nhờ các học viên trong và ngoài nước không ngừng bằng các loại phương thức giảng chân tướng cho thế nhân, mà rất nhiều người trong số họ đã hiểu rõ chân tướng; ngay cả những người dân Trung Quốc đại lục, rất nhiều người đã minh bạch trở lại.

Mây đen bắt đầu tan dần, tà ác cũng sẽ bị tiêu diệt.

Hoa mai ngạo nghễ trước tuyết đang khai nở, mùa xuân sắp tới rồi …

Phổ độ

Vạn cổ cơ duyên mạc thác sai
Thiên môn đãng đãng thử thời khai
Từ bi Đại Pháp trần trung lạc
Tử phủ lâu đài đãi Chủ hồi

Tạm dịch

Phổ độ

Cơ duyên vạn cổ chớ chọn nhầm
Lúc này cổng trời đang rộng mở
Đại Pháp từ bi hạ xuống cõi trần
Nơi lầu tử phủ đợi Chủ về

(Hết toàn văn)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/113479

The post Tiểu thuyết: Trùng sinh (9) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tiểu thuyết: Trùng sinh (8)https://chanhkien.org/2024/07/tieu-thuyet-trung-sinh-8.htmlFri, 26 Jul 2024 03:41:20 +0000https://chanhkien.org/?p=33625Tác giả: Tân Minh [ChanhKien.org] Hồi thứ mười lăm: Bão cát Tất cả các lớp học tập tại huyện Thanh Hà lẽ ra nên sớm kết thúc rồi, đây cũng là suy nghĩ của các lãnh đạo địa phương, bởi hành hạ những người dân lương thiện thì có ích gì? Nếu như không phải […]

The post Tiểu thuyết: Trùng sinh (8) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Tân Minh

[ChanhKien.org]

Hồi thứ mười lăm: Bão cát

Tất cả các lớp học tập tại huyện Thanh Hà lẽ ra nên sớm kết thúc rồi, đây cũng là suy nghĩ của các lãnh đạo địa phương, bởi hành hạ những người dân lương thiện thì có ích gì? Nếu như không phải tên cầm đầu họ Giang lạm dụng uy quyền, thì ai lại muốn đi đàn áp người tốt chứ?

Vậy tại sao không kết thúc? Vì phải đợi lãnh đạo cấp trên nghiệm thu.

Đoàn lãnh đạo cấp trên cuối cùng cũng đến. Dẫn đầu là lãnh đạo phòng 610, phòng 610 là đơn vị có quyền lực tuyệt đối, nói đưa đi lao động cải tạo là đưa đi lao động cải tạo, nói đưa vào tù là đưa vào tù, lập tức chấp hành, pháp luật gì chứ? Đây mới là pháp luật! Năng suất gì chứ? Đây mới là năng suất!

Họ không quan tâm đến mối quan hệ cá nhân của các lãnh đạo địa phương. Những thành viên khác trong đoàn chủ yếu là những “học viên có tiếng” và đều “đã bị chuyển hoá” của tỉnh.

Việc đầu tiên họ làm là ra đòn phủ đầu, đưa những học viên “kiên định” vào trại tạm giam. Để gia tăng áp lực hơn nữa, còn có các học viên “bị chuyển hoá” đến khuyên nhủ.

Những học viên còn lại do đã bị tra tấn nhiều lần nên không chịu nổi nữa, một bộ phận chọn thỏa hiệp, một bộ phận thì trở thành người mắc “hội chứng Stockholm”, mất đi ý chí tự do.

Buổi sáng hôm đó, huyện Thanh Hà nổi lên một trận bão cát chưa từng có, tối tăm mịt mù khắp cả đất trời.

Sau khi lớp học giải tán, tâm trạng của các học viên mỗi người mỗi khác. Những học viên thỏa hiệp bị nỗi thống khổ và sự ô nhục đè nặng trong tâm trí; còn những học viên đã mất đi ý chí tự do và những kẻ đàn áp thì lại vui vẻ, hạnh phúc.

Khi bước ra khỏi lớp học, họ phát hiện ra rằng người dân bên ngoài đã âm thầm thay đổi rồi.

Ngoài một số ít người có tinh thần trượng nghĩa và có liễu giải nhất định đối với chân tướng cảm thấy đồng tình và quan tâm đến họ, thì những người dân còn lại đều nhìn họ bằng con mắt khác với trước kia, có người khinh thường, có người chế giễu, có người vội vàng né tránh. Bởi vì dưới sự tuyên truyền kiểu “Cách mạng văn hoá”, rất nhiều người dân từ lâu đã tin tưởng vào ác đảng; cũng có nhiều người không tin, nhưng cũng không dám tiếp xúc. Bởi đây chính là “năm phần tử xấu” mới, đâu ai muốn chuốc vạ vào thân!

Một Liễu Thành Âm vô danh bỗng chốc trở thành “người nổi tiếng”, mọi người đều sợ tiếp xúc. Đây chính là âm mưu và độc kế của Trung Cộng: cô lập bạn với người dân, kích động, lợi dụng mặt ác trong nhân tính, lôi kéo dân chúng cùng tham gia bức hại người lương thiện. Trong thời gian dài chịu nhận sự giáo dục của “vô thần luận”, “giai cấp luận”, “tiến hóa luận”, giới hạn niềm tin vào Thần linh của dân chúng đã xuống mức rất thấp, lý giải của người dân về tín ngưỡng căn bản chỉ là “thuốc phiện”, thêm vào đó là sự lạm quyền của Trung Cộng, nên nhiều người dân có thái độ như này cũng là điều dễ hiểu.

Những học viên có công việc chính thức lại càng gian nan hơn, lãnh đạo đương nhiên sẽ “nhìn bằng con mắt khác”, các đồng nghiệp cũng cảnh giác đề phòng, hơn mười năm nay vẫn không hề thay đổi. Trung Cộng còn tồn tại ngày nào thì họ còn sợ hãi ngày ấy; chính quyền bạo ngược cần sự khủng bố để duy trì, đây cũng là nguyên nhân chủ yếu mà Trung Cộng đàn áp người lương thiện.

Thật ra, thỏa hiệp cũng không đổi lấy được bình yên lâu dài, mấy năm sau đó, chính phủ lại tổ chức lớp học tập vài lần để bức hại, đợi đến khi qua “ngày nhạy cảm” mới thả học viên về nhà.

Những học viên thỏa hiệp ấy vốn dĩ không phải thật sự từ bỏ tu luyện, nhưng nó cũng khiến họ đau khổ vô cùng, cảm thấy xấu hổ trước Sư phụ và Đại Pháp, tự bôi nhọ con đường tu luyện của mình. Thông qua không ngừng học Pháp, xem các tư liệu như Minh Huệ Net, Chánh Kiến Net, họ đã dần dần minh bạch trở lại, tuyên bố nghiêm chính thanh minh, bày tỏ hủy bỏ hết thảy những ngôn luận bất lợi với Sư phụ và Đại Pháp mà mình đã từng nói, từng làm, tu luyện lại từ đầu.

Những học viên “bị chuyển hóa”, mặc dù vẫn sùng tín Sư phụ và Đại Pháp từ trong nội tâm sâu thẳm, nhưng vì đã mất đi ý chí tự do, bị ý chí của Trung Cộng khống chế nên khá là bài xích việc đọc sách; cho dù được người thân, bạn bè khuyên đọc sách, nhưng do chịu ảnh hưởng của loại “lý luận” xuyên tạc nên họ vẫn rất khó hiểu ra. Vì hoàn cảnh khủng bố gây ra chứng bệnh này vẫn chưa tiêu biến mất nên số người minh bạch trở lại khá ít.

Nhìn từ một góc độ khác, nếu ngay từ đầu họ có thể thật sự chăm chỉ đọc sách của Thầy Lý, chân chính thực tu, thì đã không bị mê muội trong ma nạn này.

Chồng của học viên Lý Phụng bị bắt trong trại cưỡng bức lao động một năm, khi ra ngoài thì cũng mắc hội chứng Stockholm, sau anh cũng “từ bỏ” tu luyện và đi làm công ở miền Nam. Một năm sau, anh mắc ung thư phổi, đây là hậu quả của việc bị tra tấn cả về thể xác lẫn tinh thần ở trại cưỡng bức lao động. Các học viên lần lượt đến khuyên nhủ anh tiếp tục tu luyện, nhưng vì áp lực của Trung Cộng vẫn còn đó, sự ảnh hưởng của “những lời dối trá” ở trại cưỡng bức lao động vẫn còn đó, nên anh trước sau vẫn không thể tu luyện lại từ đầu, rồi không may qua đời, để lại cho vợ con nỗi thống khổ khôn nguôi…

Sau khi “bị chuyển hóa”, Dương Phong Thanh vì chịu áp lực kinh tế nên cũng đi làm công ở miền Nam, nhiều năm sau thì mắc bệnh ung thư, tiêu hết sạch tiền tích góp được và phải đi vay mượn khắp nơi. Cha của anh cũng là một người tu luyện, vô cùng tinh tấn, luôn muốn anh minh bạch trở lại nên thường xuyên bảo anh đọc sách của Thầy Lý, hy vọng anh có thể tiếp tục tu luyện, ít nhất trước mắt cũng giữ được mạng sống. Như chúng ta đã nói ở trên: thứ nhất, anh ấy thật ra đã mất đi ý chí tự do, nếu không thoát ra khỏi “nhà tù” của Trung Cộng thì bệnh rất khó hồi phục. Thứ hai, nếu như lúc này anh có thể thành tâm học Pháp, khẳng định là có thể hồi phục lại được; có điều anh cũng bị can nhiễu, những người bị hại giống như Dương Phong Thanh không ngừng lặp lại với anh những “lý luận” lệch lạc của Trung Cộng.

Nếu không quan sát kỹ những người bị hại này, thì người ta sẽ không phát hiện ra họ khác biệt với người dân bình thường như thế nào. Họ chỉ là mất đi năng lực tư duy độc lập, tất cả những gì chỉ cần là Trung Cộng nói và làm thì họ đều cho là đúng đắn, và còn tích cực biện hộ cho chúng.

Học viên Pháp Luân Công không phải là ví dụ đầu tiên cho những người bị hại của Trung Cộng. Mỗi một cuộc “vận động” bức hại dân chúng của Trung Cộng đều để lại những “nạn nhân” mắc hội chứng Stockholm này. Mặc dù nguyên nhân dẫn đến hoàn cảnh của mỗi người là khác nhau, nhưng Trung Cộng đều đã thay thế ý chí tự do của họ.

Chính vì loại khủng bố này vẫn luôn tồn tại, nên rất nhiều “nạn nhân” tới tận khi qua đời cũng chưa minh bạch trở lại, ví dụ như nhà văn Đinh Linh nổi tiếng của Trung Cộng.

Những học viên Pháp Luân Công này có triệu chứng Stockholm rất nghiêm trọng, nhưng lại hào phóng về mặt kinh tế, tặng cho Dương Phong Thanh chi phí chữa trị (thật ra họ đều là những người lương thiện trong người thường). Dương Phong Thanh vô cùng cảm kích, nên điều đó tự nhiên cũng ảnh hưởng đến sự lựa chọn tự do của bản thân anh.

Trong tình hình trên, mặc dù cha của Dương Phong Thanh luôn hy vọng anh có thể tiếp tục tu luyện, nhưng tới tận khi qua đời ý chí cá nhân của anh vẫn không minh bạch trở lại, cuối cùng để lại người nhà khóc đến cạn khô nước mắt…

Khi Liễu Thành Âm gặp Dương Phong Thanh, anh ấy đã không còn có thể cứu chữa được nữa rồi, chỉ nằm nhà chờ chết thôi. Từng là một nam tử hán cao to, vạm vỡ, phong độ, vậy mà giờ đây anh gầy khô, chỉ nặng khoảng 35-40 kg, khối u lan rộng chèn vào khí quản khiến anh không thể nói chuyện, càng không thể giao lưu chia sẻ. Trông thấy Liễu Thành Âm anh liền nhẹ nhàng chỉ vào yết hầu, vợ anh giải thích rằng ý anh là mình không thể nói được nữa. Nội tâm Liễu Thành Âm ngập tràn nỗi chua xót, thực ra bản thân cậu sớm đã hiểu rõ, nên liền bảo anh rằng hãy dĩ Pháp vi Sư.

Vợ anh nói rằng, thật ra Dương Phong Thanh từ trước tới nay đều không từ bỏ, vẫn luôn nhớ đến Sư phụ. Đúng vậy! Họ biết Sư phụ tốt, chỉ là mắc chứng rối loạn đa nhân cách và mất đi ý chí tự do.

Bị rối loạn đa nhân cách, nhân tính bị bóp méo trong bạo lực, từ góc độ này mà xét thì họ luôn phải sống trong thế giới tinh thần với đầy rẫy nỗi thống khổ và sự sợ hãi.

Em trai của anh là Dương Phong Phi từ khi trở về từ lớp học, mặc dù cũng luôn nói rằng bản thân vẫn muốn tu luyện, nhưng rất ít khi luyện công, Pháp cũng không học nữa. Các loại sở thích ngày trước lại quay trở lại, nào là đánh bạc, uống rượu,… suốt ngày nợ nần chồng chất, rơi vào hoàn cảnh khó khăn.

Có lẽ do đã bị giày vò quá nhiều trong các loại “lao ngục” nên anh ấy muốn từ bỏ rồi…

Trạm trưởng trạm phụ đạo Pháp Luân Công huyện Thanh Hà ngày trước là Bạch Ái Cúc sau khi được thả về từ trại cưỡng bức lao động thì mắc các loại bệnh tật do cả tâm lẫn thân đều bị tra tấn quá nhiều, đồng thời còn mắc hội chứng Stockholm, người nhà đưa đi chạy chữa khắp nơi, vài năm sau thì cô qua đời.

Hám

Hồng trần đẳng Pháp kỷ đa niên
Lịch tận phong sương khổ vạn thiên
Khả hận ác long phiên trọc lãng
Tiểu chu phúc khứ thuỷ liên thiên

Tạm dịch

Tiếc

Bao năm chờ đợi Pháp ở cõi hồng trần
Trải tận phong sương thấm muôn vàn khổ cực
Ác long đáng hận dậy cơn sóng vẩn đục
Thuyền nhỏ lật nhào nước dâng ngập trời

Hồi thứ mười sáu: Báo ứng

Sau một năm dưới chính sách tàn bạo của chính phủ họ Giang, những trường hợp người dân bị đánh chết hoặc bị thương vì vấn đề “thuế ruộng” liên tục xuất hiện ở khắp mọi nơi, gia đình và người nhà của những nạn nhân này vô cùng đau khổ và phẫn nộ nên không ngừng kiện cáo, dưới tình hình này, chính quyền địa phương buộc phải tìm ra vài “con dê thế tội”.

Nói là “dê thế tội” nhưng thực ra họ cũng không oan ức gì, ví dụ như mấy lãnh đạo thị trấn Bạch Mã, số lượng người dân và học viên bị họ đánh còn ít sao? Họ bị cách chức, bị tuyên án treo quả thực là đáng tội. Có điều về phía họ mà nói, thì họ tự thấy mình bị oan, họ chỉ là gắng hết sức thi hành nhiệm vụ mười phân vẹn mười, còn lãnh đạo cấp trên không chịu tổn thất gì, ngay cả bí thư thị trấn là Ký Thanh Vân cũng không bị xử lý, thế mà mình lại phạm tội.

Trong khi thi hành nhiệm vụ, chẳng lẽ họ không biết mình đang phạm tội sao? Câu trả lời là không. Trong suy nghĩ của họ, chỉ cần một lòng một dạ đi theo Trung Cộng, cho dù vi phạm pháp luật thì cũng không có ai truy cứu, thậm chí còn có thể được thăng chức. Nhưng thực ra không phải như vậy, khi Trung Cộng cảm thấy bạn làm ảnh hưởng đến quyền lực thống trị của nó thì nó sẽ chẳng hề tiếc rẻ mà hy sinh một vài người. Như trong cuốn “Cửu Bình” đã nói, bất cứ ai tin tưởng đảng cộng sản về vấn đề gì thì người đó sẽ mất mạng vì vấn đề ấy.

Thật ra, nếu không nhờ có Trung Cộng bao che, thì căn theo luật hình sự của Trung Cộng họ sẽ bị phán quyết nghiêm trọng hơn nữa.

Nếu sau khi trải qua chuyện này họ có thể hiểu rõ bản chất của Trung Cộng, thì đó cũng là phúc phận của họ.

Ký Thanh Vân trong thời gian đó cũng chẳng mấy dễ thở, ông ta dùng trăm phương ngàn kế để được thăng chức, đương nhiên cũng tiêu tốn không ít tiền. Ông ta chuẩn bị mua chức Cục trưởng Cục Tài chính, nhưng những người tranh giành chức vị này lại rất nhiều.

Ở đây còn nảy sinh một chuyện đáng cười, đó là người lãnh đạo bày mưu cho ông ta đã hỏi ông ta rằng: “Đã tặng quà cho lãnh đạo đương nhiệm chưa?”, ông ta vội vàng đáp tặng rồi. Kết quả thế nào? Đương nhiên là không thành công. Đây cũng là chỗ ngu dốt của ông ta, tại sao người ta lại hỏi ông ta như vậy? Chẳng phải là đang nhắc nhở ông ta tặng chưa đủ sao? Có lẽ ông ta cũng đã từng nghĩ đến, nhưng không ngờ Trung Cộng hủ bại quá nhanh, nước dâng, thuyền cũng dâng lên theo, con số mà ông biếu xén đã là quá ít. Chỉ còn trông chờ vào “thành tích chính trị” từ việc đánh đập dân chúng và đàn áp Pháp Luân Công để thăng quan tiến chức thì cũng quá ư là ấu trĩ rồi!

Ông ta cảm thấy thân thể không thoải mái, liền đi bệnh viện kiểm tra thì kinh ngạc phát hiện bản thân thế mà lại mắc bệnh ung thư. Ông ta đành phải làm phẫu thuật, tạm thời bảo toàn được tính mạng.

Thật ra, ông ta hăng hái đàn áp người tu luyện, tội ác to lớn làm sao! Nếu không phải ông Trời vẫn cấp cho cơ hội, thì ông ta đã mất mạng từ lâu rồi. Tại sao không suy nghĩ lại một chút?

Phó thị trưởng Lý Phúng năm đó cũng là nhờ có người ở trên nên không những không bị mất chức mà còn được thăng tiến lên từng bước từng bước, vài năm sau đã giữ chức bí thư thị trấn.

Anh ta dương dương tự đắc, quên mất mình là ai, đi khoe khoang khắp nơi, vung tiền đánh bạc, ngay cả những cán bộ khác cũng trái mắt, cảm thấy anh ta hành xử thái quá rồi.

Có người đã báo cáo anh ta, cấp trên điều tra thấy riêng số tiền công bị lạm dụng cũng hơn một triệu. Không biết là do anh ta là một kẻ vô dụng hay do thủ đoạn của cơ quan tư pháp quá tàn nhẫn mà người ta vừa mới tra tấn bức cung anh ta đã nhận hết tội rồi, kết quả là bị phán quyết tám năm tù. Người nhà của anh ta cũng là quan chức, nhận được tin liền lập tức quay về, nếu như lúc đó Lý Phúng không nhận tội, cố chịu đựng qua đêm đó, rồi dùng quan hệ dàn xếp ổn thoả, thì cũng được coi là “vô tội”.

Họ nào đâu biết được rằng, hăng hái tham gia đàn áp học viên Đại Pháp đã tạo nên nghiệp chướng nặng nề. Ai còn có thể cứu nổi anh ta đây?

Thực ra họ cũng là những nạn nhân của đảng cộng sản, tư tưởng và linh hồn của họ chịu đầu độc nặng nề, đây cũng là nguyên nhân khiến họ điên cuồng. Đảng cộng sản chính là muốn dẫn người dân xuống địa ngục…

Có mấy người lãnh đạo gây cản trở cho Liễu Thành Âm trong công việc, khiến cậu suýt chút nữa thì mất việc. Mặc dù lúc đó cậu rất thống khổ, nhưng suy cho cùng là người tu luyện nên dần dần cậu cũng quên đi.

Thế nhưng báo ứng lại đến rất nhanh: Không lâu sau, một lãnh đạo địa phương phát hiện bị mắc bệnh ung thư, ông ta biết rằng không chữa trị được nữa nên liền uống thuốc trừ sâu tự sát tại bệnh viện… Con trai một người lãnh đạo khác mắc bệnh trầm cảm, mấy lần tự sát bất thành, cả gia đình đều đau lòng xót ruột. Còn có một vị lãnh đạo nữ, con trai bà ấy trong lúc đi du sơn ngoạn thuỷ thì bị ngã, rơi xuống khe núi, mặc dù giữ được mạng sống, nhưng cũng tốn không ít tiền.

Làm người tu luyện sẽ không đi so đo tính toán với người thường, nhưng thiện ác hữu báo là Thiên lý, huống hồ họ còn trợ Trụ vi ngược, bức hại người tu luyện.

Liễu Thành Âm lấy làm tiếc cho họ, người chết rồi không nói làm gì, chỉ hy vọng những ai còn sống có thể liễu giải chân tướng, có thể đưa ra lựa chọn đúng đắn…

Tuyển

Thiện ác năng tri tại cá nhân
Phân minh báo ứng hữu tiền nhân
Quảng truyền chân tướng lai hồng phúc
Thiết mạt vô tâm ngộ thử thân

Tạm dịch

Lựa chọn

Có thể phân biệt rõ thiện ác là ở mỗi cá nhân
Báo ứng phân minh là bởi nhân gieo từ trước
Truyền rộng chân tướng, hồng phúc đến
Đừng vô tình mà bỏ lỡ chính mình

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/113478

 

The post Tiểu thuyết: Trùng sinh (8) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tiểu thuyết: Trùng sinh (7)https://chanhkien.org/2024/07/tieu-thuyet-trung-sinh-7.htmlSat, 20 Jul 2024 03:07:40 +0000https://chanhkien.org/?p=33542Tác giả: Tân Minh [ChanhKien.org] Hồi thứ mười ba: Hội chứng Stockholm “Bị chuyển hóa” là từ để chỉ những học viên tuyên bố từ bỏ tu luyện, bày tỏ rằng sẽ không học Pháp Luân Công nữa. Đối với học viên thành tâm muốn tu luyện mà nói thì rất khó làm nổi điều […]

The post Tiểu thuyết: Trùng sinh (7) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tân Minh

[ChanhKien.org]

Hồi thứ mười ba: Hội chứng Stockholm

“Bị chuyển hóa” là từ để chỉ những học viên tuyên bố từ bỏ tu luyện, bày tỏ rằng sẽ không học Pháp Luân Công nữa. Đối với học viên thành tâm muốn tu luyện mà nói thì rất khó làm nổi điều này. Vì họ tu theo tiêu chuẩn “Chân, Thiện, Nhẫn”, nên không thể nói dối. Vậy thì tại sao lại có không ít học viên lúc ấy “bị chuyển hóa” như vậy?

Trước tiên phải nói đến trại lao động cải tạo đã thực hiện việc “chuyển hóa” ra sao. Đến trại lao động cải tạo mà không nguyện ý từ bỏ tu luyện thì sẽ bị dọa nạt, tra tấn cả về thể xác lẫn tinh thần, trong hoàn cảnh bị tách biệt khỏi thế giới bên ngoài, họ bị cưỡng ép không ngừng xem những video, sách vở và tư liệu bóp méo sự thật, vu khống Đại Pháp; truyền bá những “cảm ngộ và Đại Pháp tại tầng thứ cao” dựa trên sự xuyên tạc và lý giải sai lệch lý luận của Đại Pháp; đặc biệt là dùng những học viên trước đây đã “bị chuyển hóa” để tăng thêm độ tin cậy cho chuyển hóa học viên.

Thông thường, trong tình huống kiểu này, cá biệt sẽ có một số học viên vì áp lực mà thỏa hiệp, mặc dù không phù hợp với yêu cầu của tu luyện, cũng là một loại sỉ nhục đối với người tu luyện, nhưng đối với dân chúng thì họ lại có thể hiểu được hành động này. Tuy nhiên trong thâm tâm các học viên ấy họ vẫn cho rằng Đại Pháp hảo.

Ngoài ra còn có một kiểu “bị chuyển hóa” vô cùng bất thường khác.

Trước tiên mọi người hãy đọc chút tài liệu về hiệu ứng Stockholm, còn gọi là biến chứng Stockholm hoặc phức cảm con tin hay hội chứng con tin. Đây là thuật ngữ chỉ việc người bị hại phát sinh tình cảm với kẻ phạm tội, thậm chí ngược lại là một loại phức cảm muốn giúp đỡ kẻ phạm tội. Loại cảm tình này khiến nạn nhân nảy sinh thiện cảm, tâm lý ỷ lại với kẻ phạm tội, thậm chí còn trợ giúp kẻ đó làm hại người khác.

Các nhà nghiên cứu phát hiện thấy những ví dụ của loại biến chứng này trong các trường hợp trải nghiệm khác nhau, từ tù nhân, tù binh trong trại tập trung, cho đến phụ nữ bị lạm dụng tình dục và nạn nhân của loạn luân đều có thể xuất hiện hội chứng Stockholm.

Hội chứng Stockholm thường có một vài đặc trưng sau:

Thứ nhất: Con tin nhất định phải thực sự cảm thấy kẻ bắt cóc (người làm hại) uy hiếp đến sự sống còn của bản thân.

Thứ hai: Trong quá trình bị bắt cóc, con tin phải cảm nhận thấy kẻ bắt cóc (người làm hại) có thể ban cho họ chút ít ân huệ.

Thứ ba: Con tin phải tách biệt, không được tiếp xúc với bất cứ quan điểm nào khác, chỉ được tiếp xúc duy nhất với góc nhìn của kẻ bắt cóc (thông thường không nhận được tin tức bên ngoài).

Thứ tư: Con tin buộc phải tin rằng không thể trốn thoát được.

Mà thông thường hội chứng Stockholm sẽ trải qua bốn giai đoạn diễn biến tâm lý lớn như sau:

Thứ nhất: Khủng hoảng: Vì sự uy hiếp và đe dọa xảy ra đột ngột dẫn đến cải biến hiện trạng.

Thứ hai: Sợ hãi: Bị bao trùm trong hoàn cảnh bất an, chịu uy hiếp cả về thể xác và tinh thần.

Thứ ba: Đồng tình: Ở chung với kẻ phạm tội trong thời gian dài sinh ra nhẫn nhịn, cảm thông cho hành động bất đắc dĩ của đối phương, do chưa phải chịu tổn thương “trực tiếp”.

Thứ tư: Giúp đỡ: Cung cấp sự trợ giúp vô hình cho kẻ bắt cóc như phối hợp, không bỏ trốn, động viên, v.v.; hoặc sự trợ giúp hữu hình như giúp đỡ trốn thoát, nói giúp với thẩm phán, cùng lánh nạn, v.v.

Nghĩa là ở thời điểm này, những người bị hại đã mất đi ý chí tự do, bị ý chí của kẻ phạm tội khống chế.

Những học viên đầu tiên “bị chuyển hoá” vốn là những học viên được các quan chức chính quyền địa phương nhận định là “có địa vị”, “có năng lực”, “có sức ảnh hưởng”. Họ bị nhốt trong tù giam hay trại lao động cải tạo của Trung Cộng, thật ra đó chính là những trại tập trung.

Bước thứ nhất, các quan chức Trung Cộng (kẻ bắt cóc – người làm hại) khiến những học viên này thật sự cảm thấy sự sống còn của họ bị uy hiếp. Nhà tù và trại lao động cải tạo tra tấn các học viên như cơm bữa, chuyện đánh chết học viên ngay tại chỗ diễn ra thường xuyên, rất nhiều học viên còn tận mắt chứng kiến, khiến học viên cảm thấy kẻ bắt cóc là bất khả chiến bại, sống trong sợ sệt (khủng hoảng, sợ hãi).

Bước thứ hai, trong quá trình này, các quan chức Trung Cộng với bộ mặt ngụy thiện, giả vờ quan tâm, đưa cơm nước, thậm chí tán gẫu về cuộc sống thường ngày, không ngừng kể lể rằng đây là công việc, làm như vậy khiến họ rất khó xử, họ thực sự không hề muốn làm như vậy, nhưng nếu không làm thì sẽ bị mất bát cơm… Việc này rất then chốt, vì nó khiến học viên bắt đầu đồng tình với những kẻ bắt cóc kia, cho rằng họ là bất đắc dĩ mới làm vậy, cho rằng họ làm thế là vì muốn tốt cho học viên (đồng tình).

Bước thứ ba, không ngừng truyền bá cho học viên về cái gọi là lý luận “chuyển hoá”, lý giải sai lệch, xuyên tạc, bóp méo các bài viết của thầy Lý; trước khi “bị chuyển hoá” thì không cho những học viên đó tiếp xúc và giao lưu với học viên chưa “bị chuyển hoá”, họ cũng bị cách ly với người thân và bạn bè, không nắm bắt được tin tức bên ngoài.

Bước thứ tư, các học viên tin là không thể trốn thoát được.

Đợi họ “bị chuyển hoá” rồi, tức là sau khi đã mắc hội chứng Stockholm, thì tương đối thả lỏng với họ. Những học viên này đã mất đi ý chí tự do, họ coi lý luận “chuyển hoá” của trại cải tạo lao động, nhà tù, cũng chính là “lý luận lệch lạc” của Trung Cộng thành tư tưởng của mình. Họ quay lại giúp đỡ trại cải tạo lao động, nhà tù tiến hành bức hại và “chuyển hóa” những học viên khác.

Từ những phân tích trên có thể thấy rằng Trung Cộng cố ý bức hại những học viên này thành người bệnh tâm thần, bất kể là bóp méo tư tưởng của học viên, hay gây rối loạn đa nhân cách!

Thực ra lớp học tập pháp luật của Trung Cộng cũng là trại tập trung, là hình thức nhà tù tạm thời “đặc sắc Trung Cộng”, có cùng bản chất với trại lao động cải tạo, tù giam. Sau khi những học viên “bị chuyển hoá” ấy được phóng thích khỏi nhà tù, trại lao động cải tạo, họ sẽ được chính quyền địa phương mời hoặc thậm chí tự chủ động tới lớp học tập để giúp đỡ Trung Cộngchuyển hoá” học viên.

Sau khi bị bức hại đến mức mắc hội chứng Stockholm, mất đi ý chí tự do, thì bản thân họ chính là nạn nhân bị Trung Cộng bức hại tín ngưỡng tôn giáo, bức hại nhân quyền; giờ lại quay sang trợ giúp chúng bức hại những học viên khác. Đây chính là đặc điểm của chứng bệnh này.

Một loạt học viên được nhắc đến trước đây như Lã Bảo Hải, Lã Kim Hải đều là những học viên đầu tiên trở thành người bị hại. Sau khi nghe những lời diễn giảng, khuyên nhủ của những “trạm trưởng trạm phụ đạo”, “phụ đạo viên”, “học viên nổi tiếng” trước kia, không đến mấy ngày là họ đã “chuyển hoá”, cũng mắc hội chứng Stockholm. Những học viên khác thấy tình thế không thuận lợi, cũng thoả hiệp, đây cũng chính là nguyên nhân khiến lớp học tập này đạt được “hiệu quả tốt”.

Dương Phong Thanh, một “học viên nổi tiếng” cũng đã từng đi thỉnh nguyện, sau đó bị bắt đi, cũng là học viên rất kiên định. Lúc đó vì có chút quan hệ với quan chức nào đó nên anh ấy không bị giam tại lớp học. Thoạt đầu, anh ấy sợ không dám tiếp xúc với những học viên “bị chuyển hoá” kia, nhưng dẫu sao cũng là bạn tốt ngày xưa, liền tiếp xúc vài lần, không lâu sau cũng “bị chuyển hoá”.

Một học viên lúc ấy vẫn có sự tự do nhất định, không bị giam ở lớp học tập mà cũng có thể “bị chuyển hoá”, nghe dường như rất kỳ lạ. Nhưng cũng không có gì khó lý giải cả, bởi vì cả Trung Quốc lúc đó giống như nhà tù của Trung Cộng vậy. Thế rồi Dương Phong Thanh còn “tốt bụng” “chuyển hoá” cả mẹ và các anh em của mình.

Đúng là:

Độc

Đông phương cổ quốc tố lao phòng
Thập ức lê dân biến mã dương
Khả tiếu sài lang vô hảo kế
Thiên minh tựu yếu hạ oa thang

Tạm dịch

Độc

Quốc gia cổ xưa ở phương Đông nay trở thành nhà tù
Hàng tỷ lê dân biến thành trâu ngựa
Bọn lang sói nực cười chẳng làm ra kế sách hữu ích nào
Đến khi trời sáng sẽ bị hạ vào vạc nước sôi

Hồi thứ mười bốn: Day dứt

Nhóm của Liễu Thành Âm ở lớp học này dường như được ăn uống đầy đủ, được chơi bài đánh cờ, nhưng trên thực tế là bề ngoài buông lỏng, bên trong sát sao, áp lực tinh thần không hề nhỏ. Tại sao vậy?

Đầu tiên, nếu không “chuyển hoá” hay thỏa hiệp thì khó có thể được thả. Cho dù có thoả hiệp hay “chuyển hoá” thì cũng phải trải qua một thời gian kiểm tra, đánh giá “đạt tiêu chuẩn” rồi mới được thả về nhà.

Tiếp đó, những “học viên” đã “bị chuyển hoá” sẽ tiếp bước làm việc của mình, đi giám sát và thù địch với người khác.

Thêm nữa, nhóm của Liễu Thành Âm đa số đều có thu nhập không cao, lại bị nhốt trong này, ở nhà thì cha mẹ lo lắng buồn phiền, chi tiêu của gia đình thì thiếu thốn, thậm chí mối quan hệ vợ chồng cũng phải đối diện với những khảo nghiệm chưa từng có.

Mỗi ngày ở đây đều khắc sâu trong ký ức của Liễu Thành Âm.

Ông Trương là một công chức về hưu, cũng là một người được thụ ích từ luyện công, thân thể khỏe mạnh, tiếc là gia cảnh cũng bình thường, ông bị nhốt trong này cũng mấy tháng rồi.

Ông chịu không nổi áp lực nên cũng đã thỏa hiệp với Trung Cộng, do đang ở trong cái gọi là “thời gian quan sát” nên ông vẫn phải ở lại đây, khổ sở vô cùng.

Vì cuộc sống thật sự khốn khó, cũng là người bản địa, nên ông vẫn làm công việc thủ công ở lớp học, chỉ là không được ra ngoài.

Điều này cũng khiến nhóm Lâm Ái Sơn rất ngưỡng mộ, dù không được tự do, nhưng còn có thể kiếm tiền, so với họ thì vẫn khá hơn chút.

Ông Trương đương nhiên không nhìn nhận như thế, sau khi luyện công thân thể ông mới đạt được trạng thái vô bệnh, giờ đây không những không được tự do, mà còn phải nói những lời trái với lòng mình, khiến lương tâm phải chịu sự day dứt khôn nguôi.

Vương Đại Lực là mẫu hình tiêu chuẩn của một “nam tử mặt đỏ” (chỉ những người đàn ông nóng nảy), đang ở tuổi trung niên, tính tình ngay thẳng, thân thể tráng kiện, làm nghề giết mổ. Anh đã bước vào con đường tu luyện như thế nào?

Mấy năm trước, sức khoẻ của vợ anh yếu, kiểm tra ra mắc ung thư cổ tử cung, lúc ấy muốn đi bệnh viện làm phẫu thuật, nhưng không đủ tiền nên đành phải đợi để gom góp; tình hình sức khoẻ của anh khi ấy cũng rất không tốt, đầu đau như búa bổ, đến mức chỉ muốn đập đầu vào tường, đi bác sĩ chữa trị cũng chẳng có hiệu quả, còn tốn kém không ít tiền.

Có một người tốt bụng mách anh tìm ông thầy phù thuỷ xem thử, anh liền đồng ý. Ông thầy phù thuỷ đến, theo lệ cũ bắt Vương Đại Lực phải quỳ gối khấu đầu lạy ông ta, lúc ấy anh đang rất đau đớn, vừa nghe thấy thế liền nổi giận: “Tôi lạy trời lạy đất lạy cha lạy mẹ, sao có thể lạy ông?!” Nói đoạn anh xách con dao mổ lợn đòi chém người. Ông thầy phù thuỷ thấy tình thế bất lợi vội vàng bỏ chạy.

Đôi vợ chồng bị bệnh tật dày vò lâm vào bước đường cùng. Lúc này một người họ hàng thân thích đến giới thiệu cho họ Pháp Luân Công. Vợ anh, Hàn Ngọc Mai, nghe xong liền quyết định thử chút xem sao. Anh ấy lúc đó vẫn không tiếp nhận nổi, cảm thấy công pháp này chắc không thần kỳ đến thế đâu.

Ước chừng khoảng một tháng sau, khi Hàn Ngọc Mai đang đi vệ sinh, thì từ phía dưới thân thể rơi xuống một vật, hoá ra là khối u! Hai vợ chồng họ vô cùng kích động, thế là anh ấy cũng bắt đầu tu luyện.

Quả nhiên chứng bệnh đau đầu của anh cũng biến mất.

Giờ đây anh vô cùng phiền não vì bị giam trong lớp học, không thể về nhà làm việc, tiền học phí của con, chi tiêu của cả gia đình phải làm sao đây? Chỉ đành thỏa hiệp thôi. Nghĩ đến ân đức của thầy Lý, sự thần kỳ của công pháp, mà bản thân lại nói lời dối trá trái lương tâm khiến trong lòng anh đau đớn khôn nguôi.

Nhóm Liễu Thành Âm gặp được một học viên nữ trung niên, tên Hướng Minh Minh, cả ngày vui tươi thoải mái, trong hoàn cảnh như thế này mà đôi lúc cô ấy vẫn có thể cười. Quen rồi mới biết cô là người dân tộc thiểu số nào đó, chồng đã qua đời, bản thân bị nhốt ở đây, để lại bọn trẻ ở nhà, tất nhiên là rất gian khổ.

Mùa hè của hai năm trước, có hai vợ chồng đến trạm phụ đạo huyện – nhà của Bạch Ái Cúc, người nam thân hình tráng kiện đưa một người nữ đến, giữa trời nắng nóng mà ăn mặc kín mít, chỉ để hở mỗi đôi mắt. Hỏi ra mới biết sức khỏe cô rất kém, sợ lạnh sợ gió. Bạch Ái Cúc nhiệt tình đón tiếp hai người họ, tận tâm dạy cô ấy động tác, gửi tài liệu, khiến họ rất cảm động. Hôm đó họ muốn đến thử vận may, chứ hoàn toàn không có chút niềm tin nào vào bản thân.

Bệnh tình của cô ấy khi đó đã bị bác sĩ phán án tử. Đã chuyển nhiều bệnh viện, tốn rất nhiều tiền của mà không thấy có hiệu quả gì, cô không cam lòng hỏi bác sĩ phụ trách một câu: “Rốt cuộc tôi bị bệnh ở đâu?” Bác sĩ bất đắc dĩ phải nói thật: “Cô giống như căn nhà tranh mục nát vậy, cô muốn hỏi chỗ nào hỏng, chỗ nào cũng hỏng cả, không còn chữa trị được nữa, về nhà rồi muốn ăn gì thì ăn đi, đừng quan tâm nhiều làm gì”.

Lúc chồng cô đang loanh quanh ở đồng ruộng của mình, có hàng xóm không kìm được còn hỏi có phải anh đang tìm mộ cho vợ mình không.

Điều làm tất cả dân làng đều không ngờ tới là: Không lâu sau khi tu luyện Pháp Luân Công thì sức khoẻ của cô đã nhanh chóng bình phục trở lại!

Tiếc rằng chồng cô sau này mắc trọng bệnh, khi sắp ra đi đã dặn dò cô rằng: “Xem ra anh không qua khỏi được, cũng không tu luyện Pháp Luân Công được rồi, em phải tu luyện cho thật tốt, chăm sóc bọn trẻ thật tốt nhé”.

Thế mà bây giờ cô (Hướng Minh Minh) lại bị nhốt ở đây, làm sao có thể chăm sóc cho các con đây?

Mạnh Oánh hơn 20 tuổi, trẻ trung xinh đẹp, vốn bị mắc bệnh tim bẩm sinh, sau khi tu luyện thì cũng khỏi bệnh. Sau đó cô kết hôn và sinh được một bé gái.

Ngay khi cuộc đàn áp xảy ra, cô trượng nghĩa đi thỉnh nguyện, thì bị nhốt lại và phải chịu hành hạ. Đừng nói là cô, một bà lão 60 – 70 tuổi đi thỉnh nguyện cũng bị giật điện, sau này Liễu Thành Âm đã tận mắt trông thấy vết sẹo. Người chồng thấy cô vẫn muốn tiếp tục tu luyện nên liền ly hôn.

Ở đây còn có một nguyên nhân khác, từ khi Đại Lục thực thi cái chính sách tàn bạo gọi là “kế hoạch hoá gia đình quốc gia”, rất nhiều phụ nữ có con đầu lòng là con gái đều bị lừa dối hoặc đánh chửi, bị bắt ép ly hôn; bởi vì nhà trai muốn sinh con trai để nối dõi “hương hoả”.

Trong tình cảnh này, tinh thần cô phải chịu kích động rất lớn, mặc dù lý trí không có vấn đề gì lớn, nhưng quan sát kỹ thì thấy phản ứng có chút chậm chạp.

Dù vậy cô vẫn không được thả về.

Khắp cả nước đã có không biết bao nhiêu gia đình đã phải tan nát vì bạo chính Trung Cộng và sự đàn áp tàn nhẫn của nó.

Tội

Thần Châu vạn lý tế tà linh
Hoán vũ hô phong thị huyết tinh
Đảo chuyển càn khôn đa tạo tội
Khởi liên bách tính lệ phiêu linh

Tạm dịch

Tội

Vạn dặm Thần Châu tế tà linh
Hô mưa gọi gió khát máu tanh
Nghịch đảo càn khôn tạo bao tội
Thương thay bách tính lệ tuôn rơi

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/113477

The post Tiểu thuyết: Trùng sinh (7) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tiểu thuyết: Trùng sinh (6)https://chanhkien.org/2024/07/tieu-thuyet-trung-sinh-6.htmlThu, 04 Jul 2024 04:18:45 +0000https://chanhkien.org/?p=33460Tác giả: Tân Minh [ChanhKien.org] Hồi thứ 11: Lớp học tập Những học viên sau khi nộp các mức “phí bảo lãnh chính trị” khác nhau thì được về nhà tạm thời. Mức phí thường là hơn 1000 nhân dân tệ, mà đó còn là giá nhờ người quen nói giúp. Các học viên là […]

The post Tiểu thuyết: Trùng sinh (6) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tân Minh

[ChanhKien.org]

Hồi thứ 11: Lớp học tập

Những học viên sau khi nộp các mức “phí bảo lãnh chính trị” khác nhau thì được về nhà tạm thời. Mức phí thường là hơn 1000 nhân dân tệ, mà đó còn là giá nhờ người quen nói giúp. Các học viên là công chức nhà nước thông thường đã bị đình chỉ công tác từ lâu, nếu không bày tỏ thái độ, không viết hối quá thư thì hoàn toàn không được đi làm.

Ở Đại Lục thì đây là điều rất bình thường, dưới những tuyên truyền vu khống, bịa đặt một chiều đầy khắp, người luyện công sớm đã bị “yêu ma hóa”, trở thành “dị loại”; cho dù có một vài người dân hiểu rõ chân tướng, nhưng đối với lãnh đạo đơn vị mà nói thì họ phải xem xét ý tứ của lãnh đạo cấp trên.

Thực ra, không cho đi làm chẳng qua là để gia tăng sức ép cho các học viên, buộc họ phải phục tùng; nếu thực sự không cho đi làm một thời gian dài thì cũng không có lợi cho việc “duy trì ổn định xã hội”; vả lại về phía chính quyền địa phương mà nói, không có trường hợp nào đi thỉnh nguyện đã là lập công lớn; cũng có một số lãnh đạo đơn vị độc ác, vì lợi ích cá nhân mà thấy người gặp nguy liền thừa cơ hãm hại. Trong cục diện phức tạp này, không ít học viên vẫn đi làm, nhưng khẳng định là ở những chức vị hoặc đơn vị cấp thấp; còn có những học viên bị đơn vị khai trừ.

Liễu Thành Âm cũng phải chuyển đến công xưởng khác, điều kiện không được tốt như ban đầu.

Yên ổn được vài tháng, bỗng một hôm có nhân viên chính quyền đến hỏi cậu về thái độ đối với Pháp Luân Công, thấy cậu vẫn rất kiên định liền không cho giải thích nữa, kéo lên xe đưa đi luôn.

Đợi đến khi xuống xe cậu mới hiểu, hóa ra là đến lớp học tập do thị trấn mở. Huyện đã mở ba lớp với tên gọi đầy đủ là “lớp học tập pháp luật” ở thị trấn Bạch Mã, thị trấn Hắc Long và lớp học cấp huyện, để lần lượt quản lý các khu vực khác nhau. Vừa đến lớp học, cậu mới biết mọi người toàn là bị lừa hoặc bị bắt cóc phi pháp đến đây, có gia đình cả nhà đều bị đưa vào đây, đại đa số họ bị bắt lúc đang làm việc.

Cũng chính lúc ấy, chính phủ họ Giang ở Đại Lục gia tăng đàn áp những người nông dân chống đối việc giao nộp “thuế nông nghiệp”, chính quyền các cấp đều tích cực hưởng ứng, một cuộc vận động đẫm máu nhắm vào nông dân lại bắt đầu. Chính quyền thị trấn tổ chức một nhóm lưu manh côn đồ cùng các cán bộ đi xuống các hương để trưng thu thuế. Phải biết rằng, có rất nhiều hộ nghèo thực sự không nộp nổi thuế, đến miếng ăn của gia đình cũng là một vấn đề; còn có một bộ phận nông dân từng làm việc cho thôn, thôn nợ tiền không trả, họ muốn nhân dịp này trừ nợ. Vì vậy đảng cộng sản đưa ra khẩu hiệu: “Trâu nước không địch nổi nợ bò vàng”. Ý nghĩa là gì? Đó là cho dù chính phủ hay ủy ban thôn nợ tiền gì, thì cũng không được trừ nợ, chỉ có thể ngoan ngoãn giao nộp thuế. Chỉ có tổ chức lưu manh đảng cộng sản mới có cái kiểu “lý luận” này, nếu bạn không làm theo thì sẽ phải hứng chịu “nắm đấm sắt”.

Chúng như thổ phỉ tiến vào làng xóm, xông vào từng nhà, bắt lợn dắt bò, có nhà còn bị lấy mất cả cánh cửa. Nếu gặp sự phản kháng thì chúng sẽ đánh đập tàn nhẫn cho đến khi những người nông dân ấy phải gào cha khóc mẹ, quỳ xuống van xin tha thứ. Đã vậy, chúng còn kéo một bộ phận những người nông dân đến lớp học tập, cưỡng ép nộp tiền. Những người này bị giam cùng với các học viên, chỉ cần đám lưu manh và cán bộ kia ăn uống no nê xong liền đến đánh đập họ. Do chính sách tàn bạo của họ Giang, khắp nơi đều có nông dân bị đánh chết, nhưng chẳng có ai đến truy cứu.

Cho đến ngày hôm nay mỗi khi nhắc lại, những người nông dân đều lặng lẽ rơi nước mắt.

Đối với các học viên Pháp Luân Công mà nói, họ không nợ thuế, cũng không làm chuyện gì phải thẹn với lòng mình, huống hồ có vài người còn là bộ mặt của thành phố, nên đám lưu manh vô lại kia vẫn phải kiêng nể, ngay cả các cán bộ cũng không dám tùy tiện đánh đập.

Ký Thanh Vân – bí thư đảng thị trấn Bạch Mã vô cùng tức giận, vì Đại Lục có người đi thỉnh nguyện, cấp trên đã không giải quyết vấn đề còn khiển trách và xử phạt cấp dưới. Ông ấy đến lớp học tuyên giảng một hồi cái gọi là “chính sách quốc gia”, sau khi dọa nạt, bức ép xong thấy không có hiệu quả, liền nghĩ: “Chẳng qua chỉ là vài người dân quèn, thực sự không được nữa thì ta đánh các ngươi! Xem các ngươi có thể làm được gì?”

Buổi chiều, rượu thịt no nê xong, ông ta lại tập hợp một nhóm người đến mở lớp học tập. Trước tiên, ông ta động thủ đánh người, những người khác trông thấy một trận đánh tơi tả. Kể từ đó, không cần nói nhiều, chỉ cần uống say là họ sẽ đến đánh học viên để tiêu khiển. Có một lần, phó trưởng thị trấn Lý Phúng dọa dẫm các học viên rằng: “Nói ra không biết các ngươi có tin không, đánh chết rồi thì tính là tự sát!”

Lại có trường hợp, giữa trời tuyết rơi, họ còn kéo học viên ra ngoài đánh đập chửi bới. Có học viên tuổi đã ngoài 60 mà vẫn bị đánh như thường. Điều khiến cả người và Thần phẫn nộ hơn cả đó là: Bọn ác ôn còn lợi dụng đêm hôm đến giở trò lưu manh với các học viên nữ. Điều này khiến gia đình của các học viên phải chịu tổn thương quá lớn.

Về sau những chuyện này bị bại lộ khắp cả huyện, dưới áp lực của quần chúng, bọn chúng mới chịu nương tay.

Quả đúng là:

Bạo

Thiên thời bất lợi quốc nan xương
Già nhật ô nha thượng miếu đường
Bách tính khấp không nhãn trung lệ
Tần vương do hận thiểu tam trường

Tạm dịch:

Bạo

Thiên thời bất lợi nước khó hưng
Người xấu che trời ngồi miếu đường
Bách tính khóc than mắt đẫm lệ
Tần Vương còn hận thiếu ba chén

Hồi thứ 12: Nói dối

Hiệu quả của các lớp học tập “chuyển hoá” ở thị trấn không tốt nên lãnh đạo huyện vô cùng tức giận, không lâu sau liền đưa một học viên kiên định vào trại cưỡng bức lao động.

Thấy việc dùng vũ lực không có hiệu quả, nên chính quyền cũng chẳng muốn tốn sức lực nữa mà tung ra một phương án mới: Đồ ăn chỉ có mì sợi, màn thầu, muối và một ít ớt bột, đến dầu ăn và rau xanh cũng bị cắt bỏ.

Chỉ cần bạn không chịu khuất phục thì sẽ vĩnh viễn bị nhốt trong này.

Sau đó Ký Thanh Vân lại đến một lần nữa và nhắc lại câu chuyện cũ: “Trương Đại Oa luyện công bị tâm thần rồi, chẳng lẽ các ngươi không biết sao? Chính phủ là muốn tốt cho các ngươi!”

Đây là một lời nói dối, đúng là thị trấn này có một người tên Trương Đại Oa. Ông ấy hơn 40 tuổi, vốn mắc bệnh tâm thần, sau đó tu luyện Pháp Luân Công thì các triệu chứng liền biến mất. (Thật ra năm xưa khi Sư phụ Lý mở lớp, hoàn toàn không nhận những người như thế này làm học viên). Khi chính quyền vừa bắt đầu đàn áp, ông ấy cảm thấy mình có thể đi Bắc Kinh chứng thực điểm tốt của Đại Pháp, kết quả là vừa trông thấy bộ mặt dữ tợn của Trung Cộng liền không dám đi thỉnh nguyện nữa, trở về thì bệnh thần kinh tái phát. Đây rõ ràng là bị sự tà ác tàn nhẫn của Trung Cộng dọa cho phát bệnh, nhưng lại vu khống là do luyện công, đúng là đổi trắng thay đen.

Có lẽ cảm thấy “trình độ” của hai thị trấn quá thấp, nên huyện Thanh Hà nhặt ra một bộ phận học viên đưa lên lớp học của huyện, vì hầu như học viên ở huyện đều “chuyển hoá” hết rồi.

Vì thế khoảng 6 – 7 học viên gồm Liễu Thành Âm, Lâm Ái Sơn, Lý Thanh Phi, v.v. đã bị chuyển lên huyện.

Thực ra họ đến để “hưởng phúc”, ăn uống cũng tốt hơn nhiều. Nguyên nhân rất đơn giản, như người nhà nói thì chính quyền “thu” học phí của lớp học tới mấy nghìn nhân dân tệ; người nhà cũng thường xuyên được tới thăm. Nhưng áp lực của họ lại lớn hơn rất nhiều.

Vừa vào lớp liền thấy trên tường treo tài liệu của một vài học viên. Đại khái đều là những ngôn từ nhục mạ và bôi nhọ Đại Pháp. Theo như học viên ở đây nói, đây chỉ là chuyện nhỏ, đều là do những học viên “chuyển hoá tốt” viết ra. Họ còn mắng chửi Sư phụ và Đại Pháp trước đám đông, nếu không sẽ bị cho là không thật lòng, sẽ không được thả về.

Tất cả mọi người đều biết rằng đây là những lời nói dối, nhưng là những lời nói dối cần thiết, nếu hôm nay bạn đã mắng chửi thầy Lý và Pháp Luân Công thì sau này bạn còn mặt mũi nào để tu luyện nữa? Mục đích của việc này chính là khiến cho những học viên ấy vĩnh viễn phải chịu sự day dứt của lương tâm, vĩnh viễn sống trong đau khổ.

Có một người trong tư liệu đã thu hút sự chú ý của Liễu Thành Âm, đó là Hoa Thanh Phương người thị trấn Lâm Hà, làm việc ở kho muối của huyện lỵ. Vài năm trước sức khoẻ của cô ấy rất tệ, điều kiện kinh tế cũng kém, mắc bệnh thận nặng, toàn thân phù thũng, không còn ra hình người, chỉ đành về nhà chờ chết. Đúng lúc ấy, một người trong đơn vị học Pháp Luân Công đã giới thiệu Pháp Luân Công cho cô ấy. Cô liền bắt đầu tu luyện, có nằm mơ cũng không ngờ rằng vài tháng sau, sức khoẻ đã bình phục trở lại. Khi cô quay lại đơn vị, rất nhiều người đều kinh ngạc, câu chuyện này đã được lan truyền rộng rãi khắp cả huyện.

Vào năm trước sau khi chính quyền bắt đầu đàn áp, cô ấy đã thỏa hiệp, nhưng lần này vẫn bị đưa đến lớp học. Lúc này cô đã không dám luyện công nữa, sức khoẻ cũng bắt đầu xấu đi, nhưng lớp học không cho cô ra ngoài chữa. Mãi cho đến gần đây, bệnh tình nghiêm trọng mới được thả về nhà. Hơn một tháng sau thì các học viên nhận được tin Hoa Thanh Phương đã tiếc hận qua đời.

Trong này áp lực khá lớn, vì nếu lãnh đạo ở đây thấy chưa “chuyển hoá tốt” thì rất có khả năng sẽ đề xuất đưa đến trại tạm giam, hoặc là chỉnh sửa một chút tài liệu, rồi đưa vào trại lao động cải tạo.

Lúc mới đến, mấy người “giáo viên cố vấn” đến đưa cho họ một số tài liệu, đều là những tư liệu được cắt ra từ báo chí, để họ hiểu rõ tình thế, “kẻ thức thời mới là người hào kiệt” mà! Những “giáo viên cố vấn” này đều là những người có khả năng ăn nói và năng lực nhất định, được điều đến từ các đơn vị trên huyện lỵ.

Sau khi họ hiểu được tình huống thụ ích cả tâm lẫn thân của các học viên thì vô cùng cảm khái, thấy khó mà hiểu nổi chính sách này của quốc gia, người bị oan quả là quá nhiều, họ cũng chẳng thể làm gì.

Sau khi gây áp lực nhất định cho học viên ở lớp học mà hiệu quả không tốt lắm, lãnh đạo dần dần cũng ít tới, dường như là buông lỏng, nhưng thật ra không phải vậy.

Vì trong này có học viên đã “chuyển hoá” nên lãnh đạo lớp học hy vọng học viên đã “chuyển hoá” giao lưu với các học viên mới đến, hay chính là để những người đó thực hiện “chuyển hóa” học viên mới đến.

Kinh nghiệm thành công của các lớp học tập là: để những “học viên cũ đã chuyển hóa”, những “học viên có uy tín” trở về từ trại cưỡng bức lao động làm việc này, hiệu quả cực kỳ tốt.

Khắp cả huyện rầm rộ rằng hiệu quả của kiểu “chuyển hóa” này rất “thần kỳ”, dọa cho một số học viên tu luyện không vững chắc ở đâu cũng không dám nói chuyện nhiều với những người đã “chuyển hoá” vì sợ bị mắc lừa và mất đi tín ngưỡng.

Cách làm ấy có thật là “thần kỳ” đến thế sao?

Thảm

Khô mộc phùng xuân duyên bất thiển
Hốt lai ác tuyết thực kham liên
Nhất triêu khí pháp hồi tiền bệnh
Tuyền lộ thê lương hận vạn thiên

Tạm dịch:

Thảm

Cây khô gặp mùa xuân là do nhờ cơ duyên thâm sâu
Thình lình tuyết dữ ập tới thật đáng thương
Lỡ bước từ bỏ Pháp bệnh cũ liền quay lại
Nơi suối vàng thê lương ôm ngàn vạn nỗi hận

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/113476

The post Tiểu thuyết: Trùng sinh (6) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tiểu thuyết: Trùng sinh (5)https://chanhkien.org/2024/06/tieu-thuyet-trung-sinh-5.htmlMon, 17 Jun 2024 23:37:55 +0000https://chanhkien.org/?p=33356Tác giả: Tân Minh [ChanhKien.org] Hồi thứ chín: Gặp nạn lao tù Trại tạm giam ở thôn Giáp Hà, huyện Thanh Hà chuyên phụ trách giam giữ các nghi phạm và các phạm nhân có thời gian thi hành án dưới một năm; nay lại được gửi đến một nhóm người khác với mọi khi, […]

The post Tiểu thuyết: Trùng sinh (5) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tân Minh

[ChanhKien.org]

Hồi thứ chín: Gặp nạn lao tù

Trại tạm giam ở thôn Giáp Hà, huyện Thanh Hà chuyên phụ trách giam giữ các nghi phạm và các phạm nhân có thời gian thi hành án dưới một năm; nay lại được gửi đến một nhóm người khác với mọi khi, họ là những học viên Pháp Luân Công.

Ở Trung Quốc người không phạm tội, đang bị tình nghi phạm tội mà bị bắt vào tù vốn là chuyện bình thường, nhưng nhiều người bị giam như hiện nay là hiện tượng trước giờ chưa từng có. Mục đích là gì? Là danh? Là lợi? Là tài? Là sắc? … Người trong các phòng giam không lý giải nổi, ngay cả các giám ngục và đồn trưởng cũng thấy khó hiểu.

Trong thời đại đạo đức suy đồi, ham muốn vật chất tràn lan, thì ở đâu ra nhóm người “ngốc” thế này? Họ thật sự không hiểu nổi. Có điều, càng tiếp xúc với những học viên Pháp Luân Công này, họ dần dần hiểu ra một chút rằng: Môn này có vẻ giống với tín ngưỡng tôn giáo, nhưng là khí công, hiệu quả rèn luyện thân thể rất thần kỳ, có thể khiến người ta thực sự trở thành người tốt; có điều họ lại càng thêm thắc mắc, hiện tại nhà nước đang phản đối, chẳng lẽ những người này không thể linh động, nói dối một câu rồi về nhà luyện không phải ra được rồi sao?

Đối với người Trung Quốc đại lục mà nói, nói dối về cơ bản đã trở thành bản năng sinh tồn, đó chẳng phải là chuyện cơm bữa sao? Nhưng đối với các học viên tu luyện Pháp Luân Công mà nói, nếu muốn tu luyện thực sự thì không được nói dối, đây là yêu cầu cơ bản nhất; từ một góc nhìn rất đơn giản mà nói, trấn áp một công pháp ích nước lợi dân là sai lầm; vu khống và phỉ báng người sáng lập Pháp Luân Công, làm trái sự thật, là sự đối xử không công bằng; ngăn cản những học viên cũ tiếp tục tu luyện, cũng cản trở con người tương lai tu luyện thụ ích thì có ích lợi gì cho ai?

Trại tạm giam hiện nay không phải là chỗ cho người ta ăn không ngồi rồi, mà cần phải làm việc. Những việc trong này không có gì khó, học mấy ngày là biết, thường là mấy việc như dán hộp giấy, làm đệm lót và hàng thủ công mỹ nghệ. Có điều, lượng công việc quá lớn, bất kể mùa đông hay mùa hè cũng đều phải dậy đúng 6 giờ sáng, thức dậy là lập tức làm việc, liên tục cho đến khoảng 12 giờ; có khi phải làm hàng gấp, ba ngày ba đêm liền không được một giấc ngủ thực sự, buổi trưa buồn ngủ thì nằm xuống sàn chợp mắt một lát. Mỗi ngày chỉ được trả thù lao một nhân dân tệ, số tiền đó có thể mua được hơn một cái bánh màn thầu. Nếu như người trong phòng giam sơ suất làm hỏng hàng hóa sẽ bị tra tấn bằng hình cụ, còng tay chỉ là chuyện nhỏ, đeo xiềng chân mấy chục cân thì ai chịu nổi đây? Còn có một loại tra tấn gọi là còng chặt vào giường sắt, vô cùng đáng sợ, mọi người hoàn toàn không chịu nổi, không cẩn thận sẽ bị bất tỉnh. Theo cách nói của đồn trưởng thì hàng hóa còn quan trọng hơn mạng của ngươi!

Trại tạm giam giờ đây chính là cơ quan kiếm tiền. Một là để đáp ứng được các khoản chi tiêu của nó, đây chỉ là con số nhỏ. Một điều chủ yếu nữa là có thể đem lại thu nhập kinh tế cao, người bị giam giữ đương nhiên là “nô lệ khổ sai”.

Ngoài những người bị vô tội oan uổng ra, đại đa số nghi phạm đều mong ngóng được nhanh chóng kết án, sớm đến nhà tù, rốt cuộc chỗ đó cũng chính quy hơn chút. Có một số ít người không bị hành hạ là các tham quan, những người mà được gọi là “tội phạm kinh tế”, vì họ có tiền có quan hệ nên vẫn được tự do tự tại như thường.

Kể từ khi mọi người trong phòng giam có sự hiểu biết nhất định về các học viên Pháp Luân Công, thì ngoài một vài phạm nhân quá hung ác ra, còn lại những người khác đều khá lịch sự với các học viên. Thứ nhất là vì các học viên tốt bụng, cũng đối xử tốt với họ. Thứ hai là vì các học viên không phạm tội.

Các học viên cùng chịu khổ với những người bị bắt giam, dù ở trong hoàn cảnh phải chịu đựng đủ các loại giày vò nhưng cứ có thời gian là họ liền giảng chân tướng. Gia đình và người thân ở bên ngoài cũng phải chịu nhẫn nhục gấp bội.

Nếu gia đình và người thân hiểu về Pháp Luân Công, thì ngoài việc đưa tiền thường sẽ không gây áp lực quá lớn cho các học viên. Nếu như không hiểu hoặc phản đối việc kháng cáo lên các cấp chính quyền, thì có khả năng là không đưa tiền, để học viên ở trong tù chịu đói. Thực ra họ không phải không biết rằng nhốt người tốt vào tù là không đúng, nhưng đối với họ cũng đâu còn cách nào khác? Chỉ là hy vọng các học viên thay đổi cách làm, “hảo hán không chịu cái thiệt trước mắt” (ý là người thông minh thì sẽ nắm bắt được tình hình, tạm thời tránh khỏi hoàn cảnh bất lợi để đỡ phải chịu thiệt thòi).

Vợ của Liễu Thành Âm mấy năm trước bị sa thải, cuộc sống hoàn toàn là dựa vào tiền lương của chồng. Nếu cậu mất việc thì việc chi tiêu sinh hoạt làm thế nào đây? Đi tìm việc mới, ở nhà lao thì làm việc được cho ai? Sau khi cô cầu xin ông nọ bà kia để được gặp chồng, trông thấy cái đầu trần chẳng mấy gọn gàng, bộ râu mọc dài và khuôn mặt hốc hác của chồng, cô đã không nhịn được mà bật khóc. Liễu Thành Âm đau đớn như bị dao cứa vào tim, cố nuốt nước mắt. Phải làm sao đây? Nếu mình không nói dối, không thoả hiệp, thôi thì dù sao cũng là cuộc đời của mình, nhưng còn cuộc sống của vợ? Tại sao mình lại khiến cho người khác phải khóc? Nhưng Pháp Luân Công là tu luyện Phật Pháp chân chính, là công pháp tốt ích nước lợi dân; Thầy Lý bị đối xử không công bằng, là một học viên tu luyện thụ ích, chẳng lẽ không nên nói lời công đạo? Nếu như đều không bước ra chứng thực Đại Pháp là tốt thì thế nhân làm sao hiểu được? …

Những ví dụ như thế này quả thực có quá nhiều, chỉ cần đàn áp chưa kết thúc thì cảnh vợ chồng ly tán, mẹ cha oán khóc sẽ thường xuyên xảy ra, nước mắt của gia đình và người thân các học viên Trung Quốc đại lục vẫn sẽ không ngừng tuôn rơi. Chính là:

Bi

Đương không chính kiến ô vân vũ
Trượng nghĩa trực ngôn lao ngục khổ
Chỉ vi thế nhân chân tướng minh
Nhẫn khán thê tử lệ như vũ

Tạm dịch

Bi

Trên trời trông thấy mây đen cuộn
Trượng nghĩa, trực ngôn lâm lao tù
Vì để nhân thế minh chân tướng
Nén nhìn vợ con lệ tuôn rơi

Hồi thứ mười: Trại tạm giam

Sau khi những học viên đi thỉnh nguyện hết thời hạn ở trại tạm giam theo luật định thì không thể tiếp tục giữ lại, nhưng cũng không được thả về nhà, các cơ quan địa phương xem xét thái độ của cấp trên rồi giam giữ các học viên ở nhà tạm giữ, gọi là “giám sát cư trú”. Vốn dĩ đối tượng thuộc loại giám sát cư trú này là các nghi phạm, giờ đây lại trở thành nơi giam giữ các học viên.

Từ xưa tới nay, tuyệt thực là phương thức con người biểu đạt ý chí của bản thân trong tình huống đặc định, là một cách làm phi bạo lực. Lúc này, vì để giành được tự do nên các học viên cũng chọn dùng phương thức ấy, hy vọng chính quyền địa phương sẽ thả họ ra.

Nếu tuyệt thực mà kèm theo không uống nước thì chắc chắn rất khó làm nổi, nhưng các học viên đã làm được. Mười, hai mươi người tuyệt thực tập thể là tiền lệ trước nay chưa từng có ở cái thị trấn huyện nhỏ bé này. Quan chức huyện cũng rất lo lắng, nhưng vẫn cần phải xem chỉ thị của cấp trên, bởi vì đây là “sự kiện chính trị”.

Tuyệt thực không ăn không uống quả thực là rất khó, nghe nói giới hạn của nam giới là 5 ngày 5 đêm, nữ giới thì nhiều hơn 1 ngày 1 đêm. Lúc mới bắt đầu tuyệt thực, Liễu Thành Âm cảm thấy rất đói, dần dần không cảm thấy đói nữa, 1 – 2 ngày sau, cơ thể dần trở nên lạnh buốt. Bản thân những người như Liễu Thành Âm không tự phát hiện ra, chỉ khi có người nhà lo lắng sốt ruột chạm vào bàn tay lạnh ngắt của họ thì mới biết được. Thoạt đầu, các quan chức cũng phớt lờ, vài ngày sau, thấy các học viên thực sự nghiêm túc, nhưng họ vẫn không thể thả. Bốn ngày sau, họ liền liên hệ với các bác sĩ bức thực các học viên, cũng chính là cho ăn qua đường mũi.

Vốn dĩ các học viên đã bị tra tấn nặng nề ở trại tạm giam, lại thêm mấy ngày không ăn không uống nên thân thể sớm đã gầy guộc không ra hình người, vòng eo nhỏ như que củi. Có một nữ học viên từ chối bức thực, lớn tiếng kêu gào. Trông thấy cảnh tượng tàn nhẫn ấy, không ít người dân bị nhốt trong trại tạm giam cũng phải tuôn trào nước mắt.

Về sau các học viên nghe lời gia đình và người thân khuyên nhủ đã ăn cơm. Tuy lần tuyệt thực này không kiên trì được thời gian quá lâu, nhưng cũng đủ để chấn động những người dân chứng kiến cảnh tượng này. Sự kiên định của các học viên đối với Pháp Luân Công, sự kiên trì với chân lý, sự tàn bạo và vô liêm sỉ của đảng cộng sản đều để lại cho họ những ấn tượng sâu sắc.

Kiểu tuyệt thực này tổn thương rất lớn đến sức khoẻ của các học viên, sau này có học viên trong khi bị bắt giữ phi pháp đã tuyệt thực trong một thời gian rất dài, 1 – 2 tháng, cuối cùng chỉ còn lại chút hơi thở thoi thóp mới được khiêng về nhà.

Rất nhiều người không hiểu về giám sát cư trú, cho rằng là có người giám sát việc cư trú của mình. Cách hiểu này sai hoàn toàn, vì nó thực ra là một phương thức giam giữ không chính quy. Thời hạn dài nhất của nó là 6 tháng, nhưng sau khi hết kỳ hạn, có thể tiếp tục gia hạn, thường được gọi là “tiểu vô kỳ” (ý là vô thời hạn nhưng được chia thành nhiều kỳ hạn nhỏ). Cũng có nghĩa là muốn giam bao lâu thì giam bấy lâu, không có giới hạn thời gian. Có thể nói là một sáng kiến, nhưng thực chất lại chính là giam cầm. Từ lâu nó đã trở thành công cụ bức hại dân chúng, chỉ trông chờ vào ý chí của các quan chức.

Ở đây khá tự do, không cần làm việc, ăn cơm phải trả tiền, phòng ở cũng không phải là miễn phí, lúc rời đi đều phải thanh toán hết theo giá cả của nhà nghỉ cấp thấp đến bình dân ở Trung Quốc.

Khi Liễu Thành Âm mới đến đây, buổi tối ngủ không được ngon, vừa chìm vào giấc ngủ là lại bắt đầu mơ thấy cảnh đang làm việc trong trại tạm giam, vô cùng căng thẳng. Qua một đoạn thời gian mới ổn, xem ra cậu đã phải chịu kích động không nhỏ ở trại tạm giam.

Những người ở đây muôn hình muôn vẻ, thông thường đều là có vấn đề. Các học viên rất nhã nhặn với họ, nói cho họ chân tướng Pháp Luân Công, đại đa số đều rất tán đồng. Có người còn tỏ ý muốn tu luyện sau khi ra ngoài.

Hôm ấy, cậu cần bàn chải và kem đánh răng, nhưng không được ra ngoài. Trong đó có một học viên tên Lý Phụng nhờ chồng giúp đỡ. Lúc mang đồ tới, Liễu Thành Âm để ý một chút tới người này, thấy anh ấy người cao ráo, vóc dáng hơi gầy, mắt to mày rậm, sắc mặt trắng hồng, khí chất tao nhã, là một người đàn ông rất ưa nhìn. Sau này mới biết anh ấy cũng là học viên, kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ.

Hóa ra học viên ở khắp cả huyện quen biết nhau không nhiều. Tại sao vậy? Vì ai ai cũng có thể tu luyện Pháp Luân Công, nhưng hoàn toàn không có tổ chức, cũng không cần tổ chức. Hình thức tu luyện là vô cùng lơi lỏng, Đại Đạo vô hình mà! Nói đơn giản là chữa bệnh khỏe người; còn nói sâu một chút thì giống như tôn giáo, mong muốn trở thành sinh mệnh cao cấp, đạt được giải thoát. Không hề có chút mâu thuẫn nào với chính phủ thế gian, thậm chí cả đảng cộng sản.

Các học viên bị giam giữ cùng một chỗ bắt đầu trở nên quen thuộc với nhau. Thông qua giao lưu chia sẻ, mọi người càng cảm nhận được sự thần kỳ và trân quý của Pháp Luân Công. Mộ Dung Chúc quê ở Thanh Sơn đã chia sẻ về trải nghiệm của mình, anh từ nhỏ đã yêu thích võ thuật, ở nhà vung gậy múa côn vô cùng thích thú. Tiếc là anh mắc bệnh tim bẩm sinh, luyện tập cũng không có hiệu quả gì. Vài năm trước, anh trai tu luyện, rồi nói với anh rằng công pháp này rất thần kỳ, thế là anh cũng bắt đầu tu luyện. Một hôm, trong khi đang ngồi đả tọa, anh đột nhiên cảm thấy ở vị trí của tim có vật gì đó xoay chuyển mấy vòng, có lẽ chính là Pháp Luân, từ đó bệnh tim của anh hoàn toàn biến mất.

Ở đây, Liễu Thành Âm đã gặp một học viên từng bị liệt toàn thân, nhưng giờ đây tràn trề sức sống. Ông ấy kể về trải nghiệm của bản thân khiến cho mọi người thổn thức mãi không thôi.

Còn có một nữ học viên tên Hàn Mai, nhờ tu luyện nên sức khỏe mới được tốt lên. Hiện nay vì thỉnh nguyện mà bị nhốt trong lao tù, lại không được tu luyện khiến cho bệnh tình ngày một chuyển biến xấu. Nhưng lãnh đạo vẫn cứ không thả người, không cho cô ấy được điều trị y tế. Chỉ thấy cô ấy rất hiền hòa, thích mỉm cười và rất có khí phách, luôn không ngừng giảng chân tướng cho các nhà chức trách.

Vài tháng sau, cô bị cưỡng ép trả vài trăm tệ tiền “phí bảo lãnh chính trị”, cuối cùng mới được thả ra, nhưng do bệnh bị trì hoãn quá lâu, không thể chữa trị được nữa nên một tháng sau thì cô qua đời.

Người tới tham dự tang lễ của cô ấy rất đông, trong đó cũng có không ít các học viên…

Phương

Băng phong tứ dã tuyết mang mang
Vạn lý giang sơn phong bạo cuồng
Trần lộ tái vô mai ngạo ảnh
Thử thời ngọc khuyết hữu thiên hương

Tạm dịch

Hương thơm

Băng lạnh bốn bề tuyết mờ mịt
Giang sơn vạn dặm nổi cuồng phong
Đường trần nay vắng bóng ngạo mai
Từ ấy cửa ngọc thoảng thiên hương

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/113475

The post Tiểu thuyết: Trùng sinh (5) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tiểu thuyết: Trùng sinh (4)https://chanhkien.org/2024/06/tieu-thuyet-trung-sinh-4.htmlFri, 07 Jun 2024 00:04:29 +0000https://chanhkien.org/?p=33289Tác giả: Tân Minh [ChanhKien.org] Hồi thứ bảy: Mây đen Ông Ngưu đang dắt xe đạp đi trên đường lớn, trên giỏ xe đựng tư liệu Đại Pháp, nhìn quanh bốn phía, trong lòng bồn chồn bất an. Đài phát thanh, truyền hình và báo chí đều đưa tin đối với sự kiện học viên […]

The post Tiểu thuyết: Trùng sinh (4) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Tân Minh

[ChanhKien.org]

Hồi thứ bảy: Mây đen

Ông Ngưu đang dắt xe đạp đi trên đường lớn, trên giỏ xe đựng tư liệu Đại Pháp, nhìn quanh bốn phía, trong lòng bồn chồn bất an. Đài phát thanh, truyền hình và báo chí đều đưa tin đối với sự kiện học viên Pháp Luân Công thỉnh nguyện ôn hòa ngày 25 tháng 4, nhưng lại nói thành “cuộc bao vây Trung Nam Hải”. Mặc dù theo thông tin nội bộ của học viên, trước sự kiện lần này, từ năm trước đó đã bắt đầu xuất hiện các động thái trấn áp ở các nơi. Ông Ngưu lúc đó cũng không để ý, xem ra trấn áp rất gắt gao, các học viên đã đến Bắc Kinh thỉnh nguyện.

Ông Ngưu đã ngần này tuổi, từng làm lãnh đạo cấp thấp, trải qua nhiều cuộc vận động chỉnh người các loại, nghĩ đến thôi cũng không rét mà run, bao nhiêu người đã bị chết oan uổng. Trong lòng như có thủy triều trào dâng, theo kinh nghiệm ông phân tích, đây chắc chắn sẽ là một cuộc vận động chính trị đáng sợ, tự mình nên tìm đường lui thôi. Ông hoài nghi mình đã làm sai điều gì, nhưng nghĩ kỹ lại thấy mình chẳng có gì sai trái cả! Quần chúng luyện khí công rèn luyện thân thể là sai sao? Pháp Luân Công chẳng phải đã được các ông phê chuẩn rồi quảng bá cho dân chúng toàn quốc hay sao?

Mặc dù trên bản tin nói rằng mỗi người đều có quyền tự do tu luyện công pháp, khiến dân chúng an tâm. Ông Ngưu hiểu rất rõ đảng cộng sản này thích nhất là nói dối, nếu đoán không nhầm thì đây có lẽ là kế hoãn binh.

Quả đúng như dự đoán, tháng 7 năm 1999, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc công bố “Thông báo về việc đảng viên đảng cộng sản không được phép tu luyện Pháp Luân Đại Pháp”. Nhìn thấy thông báo này, ông Ngưu lòng dạ rối bời vì bản thân ông cũng là một đảng viên lâu năm, thật sự không thể cúi đầu nhận sai là xong; nhưng suy nghĩ của vợ ông và ông khác nhau hoàn toàn.

Tân Lương Nam mấy bữa nay cũng rất lo lắng, áp lực ngày càng lớn. Hồi tưởng lại con đường tu luyện mà mình đã trải qua hơn một năm nay, bà thực sự nghĩ không thông, Đại Pháp dạy người hướng thiện, chữa bệnh khỏe người miễn phí, chỉ có thể có lợi cho sự ổn định của xã hội, tại sao lại phải trấn áp? Từ góc độ tín ngưỡng mà nói, đây là tín ngưỡng cá nhân, là tự do tín ngưỡng, bao nhiêu tổ chức xã hội đen ngoài kia không đi xử lý, lại đi đàn áp một quần thể những người tốt bụng hoàn toàn không có tổ chức này.

Bản thân vốn bệnh tật đầy mình, còn có thể sống thêm được mấy ngày? Đại Pháp đã cho bà một cuộc đời mới, bà phải cảm tạ Đại Pháp, tiếp tục tu luyện. Nhưng bà là nhân viên công chức đã về hưu, nếu làm không tốt thì lương hưu có thể được phát như trước không? Nếu bà không tiếp tục tu luyện, không chỉ có lỗi với sự từ bi khổ độ của Sư phụ, mà mệnh của bản thân liệu có còn được kéo dài không? Thông qua học Pháp, bà minh bạch ra rằng: Tu luyện là cực kỳ nghiêm túc, vì thế nên người đắc Đạo từ xưa tới nay mới ít như vậy. Gặp phải khảo nghiệm là bình thường, cũng có khảo nghiệm sinh tử, vì mục tiêu của người tu luyện chân chính là trở thành sinh mệnh cao cấp, sẽ không quan tâm đến sinh tử, vinh nhục và được mất nơi thế gian con người. Nghĩ tới đây, tâm của bà dần dần bình tĩnh lại.

Điểm luyện công nhà ông Ngưu càng ngày càng vắng người, một vài học viên mới thấy tình hình ngày một căng thẳng, lại trông thấy sắc mặt sợ hãi và khó xử của ông Ngưu nên ít người đến; những học viên lâu năm dù được Tân Lương Nam chào đón nhưng cũng thấy gượng gạo, song nghĩ đến việc học Pháp và luyện công tập thể là việc Sư phụ đề xướng, nên họ vẫn đến đúng giờ.

Tình hình của Liễu Thành Âm cũng không tốt, cậu cảm thấy có một luồng áp lực vô hình càng ngày càng lớn. Sau ngày 25 tháng 4, một vị đồng nghiệp cũ tốt bụng đã nghiêm túc thành khẩn nói với cậu: “Tiểu Liễu à, theo kinh nghiệm của tôi, quốc gia sẽ sớm đàn áp Pháp Luân Công, tốt hơn là cậu mau chóng dứt ra đi”. Liễu Thành Âm hiểu rằng đây là lòng tốt của người ta nên liền cảm ơn.

Thật ra lúc này cậu cũng biết rằng nội bộ đảng cộng sản đã xác định Pháp Luân Công là: tranh giành quần chúng với họ, là mặt trận đấu tranh lập trường tư tưởng, nhất định phải thủ tiêu. Phải làm sao đây?

Ngày 20 tháng 7, Trung Cộng bắt các trạm trưởng trạm phụ đạo và các phụ đạo viên ở thành phố lớn của Pháp Luân Công, ngày hôm sau tiến hành bắt giữ trạm trưởng, phụ đạo viên và người phụ trách điểm luyện công ở các thành phố nhỏ và thị trấn.

Những người như Bạch Ái Cúc, Tân Lương Nam đều bị nhốt tại trại tạm giam, ước chừng có khoảng hàng nghìn người. Cán bộ công an huyện nói với họ về “chính sách quốc gia”, “sự nguy hại” của Pháp Luân Công, hậu quả nếu “tiếp tục kiên trì” và “sự khoan hồng của nhà nước với họ”, để họ “hối cải” trước, rồi sẽ xem xét “tình hình cụ thể” mà xử lý.

Tình hình chuyển biến đột ngột, người nhà của các học viên Pháp Luân Công làm lớn chuyện. Chồng của Bạch Ái Cúc là Trương Bình và ông Ngưu mau chóng đi dò hỏi, tìm người nói giúp. Người ta nói đây là vấn đề chính trị, không dễ xử lý, phải xem quyết định của lãnh đạo cấp trên.

Chiều ngày 22 tháng 7, tất cả đài truyền hình của Trung Quốc đại lục rầm rộ phát sóng chương trình chuyên đề về Pháp Luân Công, vu khống và phỉ báng Pháp Luân Công, bịa đặt cái gọi là “1400 trường hợp”, “tự sát”, “giết người”… cùng rất nhiều bằng chứng “xác thực” khác.

Tâm tình Liễu Thành Âm và người nhà trĩu xuống đến cực điểm, những điều họ lo lắng bao ngày nay cuối cùng cũng xuất hiện. Các trường hợp trên chương trình truyền hình là thật hay giả? Đường đường là đài truyền hình quốc gia mà lại nói dối sao? Thầy Lý Hồng Chí là người như vậy sao? Hiện tại đang ở đâu? Rõ ràng là môn tu luyện Phật Pháp hướng thiện, mà tại sao “quốc gia” lại phải phản đối?…

Đúng là:

Ô vân mạc mạc mạn Thần Châu
Viên khiếu nha đề tự lãnh thu
Nhất phiến đan tâm do khả giám
Bất minh chân tướng sử nhân sầu

Tạm dịch:

Mây đen mù mịt khắp Thần Châu
Vượn kêu quạ khóc tựa thu giá
Một tấm lòng son còn soi tỏ
Không rõ chân tướng người u sầu

Hồi thứ tám: Nói lời thật lòng

Mặc dù trước kia các học viên cũng biết chút tin tức là “quốc gia” có thể sẽ cấm chỉ tu luyện, nhưng Pháp Luân Công vốn dĩ là công pháp được quốc gia cho phép tu luyện, hiệu quả đối với xã hội rất tốt. Việc “quốc gia” đàn áp một môn khí công chữa bệnh khỏe người với khí thế điên cuồng giống thời “cách mạng văn hóa” quả thực khiến học viên rất chấn động.

Mỗi học viên đều không thể không suy xét kỹ càng sự việc này. Liễu Thành Âm cũng không ngoại lệ, suy đi tính lại thì đại đa số những học viên xung quanh đều là người lớn tuổi, rất nhiều người trong số họ vốn thân mang bệnh tật, có người bị bệnh nan y, sau khi tu luyện người thì cải tử hoàn sinh, người thì hết bệnh, có thể nói tuyệt đại đa số đều có hiệu quả. Không hề nghe nói học viên vì luyện công mà giết người hay bị bệnh thần kinh, chỉ nghe nói người bị tâm thần luyện rồi khỏi bệnh. Họ còn nói rằng Thầy vơ vét của cải, nhưng sự thực học phí của những khí công sư khác cao, còn học phí của Thầy lại rất thấp, nếu là vì vơ vét tiền của, vậy thì đâu có chuyện học viên toàn quốc có hàng bao nhiêu vạn người được khỏi bệnh mà không cần lấy một xu tiền thù lao nào? Nếu thu phí thì cụ thể bao nhiêu tiền cũng không nói rõ? Chỉ có một khả năng, chính là số người luyện công quá nhiều dẫn đến sự cảnh giác của các cơ quan hữu quan, nhưng chẳng phải càng nhiều người học điều tốt thì càng tốt hay sao? Xem ra chắc chắn là làm sai rồi, vu oan cho một công pháp tốt như vậy.

Đối với một số học viên học Pháp không sâu, vừa thấy tình thế không thuận lợi liền về nhà len lén luyện công, thậm chí từ bỏ luôn. Phần đông những học viên lâu năm từng trải qua rèn giũa thì đều cho rằng đến nơi khác thỉnh nguyện không có tác dụng, quyết định là của trung ương, vậy thì chỉ có thể đến Bắc Kinh, phản ánh tình hình thực tế tới chính quyền lãnh đạo có quyền lực.

Thực ra học viên ở các thành phố lớn sớm đã hành động rồi. Các học viên tới tấp đến các cơ quan của Cục khiếu nại quốc gia để phản ánh chân tướng, họ bị bắt giam ở những sân bãi trống như sân vận động. Tiếc rằng không có quan chức nào lắng nghe lời nói chân thành của các học viên, sau mấy ngày giam giữ thì các học viên lần lượt được đưa về trại tạm giam hoặc nhà lao ở các nơi.

Trên quảng trường Thiên An Môn chỗ nào cũng có cảnh sát vũ trang và cảnh sát mặc thường phục, bắt giữ học viên từ khắp cả nước đến thỉnh nguyện mọi lúc mọi nơi. Nếu học viên cầm biểu ngữ hay hô khẩu hiệu thì hiển nhiên sẽ bị đánh, bị cưỡng chế lôi đi.

Vì muốn chặn đứng học viên ở bến xe và giảm bớt ảnh hưởng tới bên ngoài, các nhà chức trách nghĩ ra một cách “tuyệt diệu”, phóng to ảnh chụp của Sư phụ Lý Hồng Chí, đặt tại lối ra của cửa xe, hành khách nào không dẫm chân lên ảnh thì nhận định là học viên, rồi thẳng tay kéo đi.

Bạch Ái Cúc, Tân Lương Nam bị bắt giữ vài ngày thì được thả ra, không phải vô điều kiện, mà là sau khi nộp cái gọi là “phí bảo lãnh chính trị”. Nói thẳng ra là đưa chút tiền.

Cũng không vì thế mà các trại tạm giam trống không, những học viên từ thị trấn lên thỉnh nguyện lại bị bắt vào đó.

Thật ra, lúc này học viên khắp nơi ở Đại Lục đều có cảm giác trời như thể sắp sập xuống, giống như cái gọi là “Đại vương Khủng bố sẽ từ trên trời xuống”. Những người làm việc tại các đơn vị nhà nước như Liễu Thành Âm, Dương Phong Phi khi ấy đều thấy ngày dài như năm. Lãnh đạo đơn vị nghe theo chỉ thị của cấp trên, buộc các học viên phải viết hối quá thư, vạch rõ ranh giới với Pháp Luân Công, nếu không sẽ bị mất bát cơm ở các đơn vị nhà nước. Những lời khuyên nhủ có ý tốt của lãnh đạo và đồng nghiệp cùng sự phẫn nộ, đau khổ và lo lắng của người thân khiến tâm tình của họ khó mà bình tĩnh lại được.

Về danh sách học viên tu luyện, các trạm phụ đạo ở thị trấn và điểm luyện công ở vùng dưới luôn làm theo quy định của Thầy Lý, từ trước tới nay không hề thống kê tên và số điện thoại của học viên. Vì không có tổ chức mà! Người ta muốn luyện thì luyện, không muốn luyện thì đi, thống kê gì đây! Nhưng vào đêm trước khi trấn áp, trạm phụ đạo huyện đột nhiên lại để mọi người thống kê, mọi người đều thấy kỳ lạ, hỏi ra mới biết là Cục công an muốn thống kê.

Sau đó, huyện liền lấy danh sách đó để xử lý, đây được gọi là thống kê của “phía chính phủ”, tuyên bố có hơn ba triệu học viên.

Học viên Lý Vân đã mất tích, bà bị coi là “thành viên cốt cán của Pháp Luân Công”, bà đã mất tích ở huyện Thanh Hà. Có người nói bà đi thỉnh nguyện; có người nói có lẽ bà về quê. Ở thời điểm này, chuyện người đi thỉnh nguyện không bao giờ quay trở về cũng là điều bình thường. Khi đó cũng có người truyền tin, nếu đi thỉnh nguyện thì rất có khả năng bị đưa đến nhà tù bí mật xa xôi nào đó rồi. Theo tư liệu chứng thực chính xác mà cộng đồng quốc tế sau này nắm được, đúng là có nhà tù như vậy, bí mật sát hại học viên, thậm chí là thu hoạch nội tạng sống của học viên.

Lý Vân mất tích hẳn rồi, người dân nơi đây không ai còn trông thấy bà ấy nữa. Cuộc sống phu thê ân ái vừa bắt đầu ở tuổi xế chiều hoàng hôn đã vĩnh viễn phải chia ly…

Người ta chỉ thấy Trương Phi, người đàn ông đã tuổi xế chiều, vẻ mặt bần thần, miệng luôn lẩm bẩm: “Vân à, sao bà có thể đi như vậy, bà đi sao không nói lời nào? Bà đi rồi, tôi sống thế nào đây…” Dù người lòng dạ sắt đá đến đâu nghe thấy cũng phải rơi lệ, họ Giang tàn bạo kia đã bao giờ nghe thấy tiếng kêu từ tận đáy lòng này…

Trong cuộc trấn áp tà ác này, có biết bao nhiêu người phải chịu cảnh tan cửa nát nhà…

Quả là:

Oán

Càn khôn điên đảo thế phong thương
Bách tính vô cô hạ phí thang
Hổ báo sài lang bình địa tẩu
Thiện nam tín nữ nhập lao phòng

Dịch thơ:

Oán

Càn Khôn nghiêng đổ thói đời hỏng
Bách tính vô tội rơi dầu sôi
Hổ báo sài lang đầy mặt đất
Thiện nam tín nữ chốn tù giam

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/113474

The post Tiểu thuyết: Trùng sinh (4) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tiểu thuyết: Trùng sinh (3)https://chanhkien.org/2024/05/tieu-thuyet-trung-sinh-3.htmlFri, 31 May 2024 04:11:30 +0000https://chanhkien.org/?p=33257Tác giả: Tân Minh [ChanhKien.org] Hồi thứ năm: Măng mọc sau mưa Năm 1997, Pháp Luân Công tại huyện Thanh Hà mới truyền khoảng một năm đã gây được tiếng vang lớn, đây là sự ảnh hưởng mà tất cả những môn khí công khác từ trước tới nay chưa từng đạt được. Ở những […]

The post Tiểu thuyết: Trùng sinh (3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Tân Minh

[ChanhKien.org]

Hồi thứ năm: Măng mọc sau mưa

Năm 1997, Pháp Luân Công tại huyện Thanh Hà mới truyền khoảng một năm đã gây được tiếng vang lớn, đây là sự ảnh hưởng mà tất cả những môn khí công khác từ trước tới nay chưa từng đạt được.

Ở những nơi như sân vận động huyện, công viên, dọc bờ sông Thanh Hà, đâu đâu cũng thấy bóng dáng của các học viên dậy sớm luyện công buổi sáng. Họ dậy sớm hơn người dân bình thường, luyện công xong họ dọn dẹp sạch sẽ chỗ luyện công, sau đó ai về nhà thì về nhà, ai đi làm thì đi làm.

Động tác tao nhã phóng khoáng cùng âm nhạc cổ điển tường hòa đã thu hút không ít người đi luyện tập buổi sáng sớm. Khi họ hiểu được tường tận về Pháp Luân Công thì liên tiếp gia nhập vào hàng ngũ này.

Sau khi tu luyện, đại đa số những ai được thụ ích cũng nguyện ý đi tuyên truyền lợi ích của Pháp Luân Công. Vào mỗi phiên chợ ở những thị trấn nhỏ ấy, cứ chốc chốc lại nghe thấy một hồi âm nhạc tao nhã, nhìn thấy một vài người cầm cờ vàng, người thì đang đả tọa luyện công, người thì gặp ai liền tuyên truyền cho người đó. Họ có thái độ thành khẩn, lời nói ôn tồn, trông có phần khác với người bình thường bởi nét mặt hồng hào hơn nhiều, hóa ra họ là những học viên Đại Pháp đang hồng Pháp.

Không ít người đã tới xem, không ít người bày tỏ thiện cảm; cũng có không ít người cảm thấy sửng sốt rằng: Không ngờ lại có người khua chiêng gõ trống tuyên dương tu luyện Phật Pháp! Cũng có không ít người tỏ ý muốn tu luyện. Hoặc vui vẻ, hoặc nghi ngờ, hoặc ngạc nhiên, hoặc hững hờ, hoặc cười nhạo, hoặc suy xét, quả thật là tâm thái của mọi người có ngàn vạn khác biệt.

Nhân hôm rảnh rỗi, Liễu Thành Âm cũng tham gia vào hàng ngũ hồng Pháp. Ngồi đả tọa bên trong, tâm của cậu cũng không được bình ổn, vừa cao hứng bởi có thể vì hồng Pháp mà làm chút việc là vô cùng vinh hạnh; vừa lo lắng bởi con người hiện nay đều chịu nhận sự giáo dục vô thần luận, thuyết giai cấp và thuyết tiến hóa của đảng cộng sản, liệu họ có thể tiếp nhận không? Ngoài ra còn có một điểm, cậu là người thích thể diện nên có chút ngại ngùng.

Dù thế nào đi nữa thì hoạt động hồng Pháp lần này vẫn rất bổ ích, rốt cuộc cũng có không ít người tiếp nhận. Thực ra trong cõi u minh, chúng sinh đều đang chờ đợi Đại Pháp cứu thế, đáng tiếc là không ít người lại chỉ lướt ngang qua, chẳng buồn liếc mắt lấy một cái.

Lúc này, học viên ở huyện Thanh Hà đã tăng gấp bội, xuất hiện một lô học viên có tiếng tăm, cho dù là học Pháp, luyện công, hay hồng Pháp thì họ đều làm rất tốt và vô cùng tinh tấn. Đặc biệt là có mấy người trẻ tuổi, quyết tâm rất cao, sôi nổi lên tiếng, huyện này dẫu chỉ có một người tu thành thì người đó chính là mình. Khẩu khí có chút hơi lớn, nhưng từ đó có thể nhìn thấy sự trân quý của họ đối với Đại Pháp, nguyện ý tu luyện đến cùng. Họ là:

Dương Phong Thanh, nhân viên Công ty Điện lực Xuân Phong, 28 – 29 tuổi, tướng mạo anh tuấn, thân hình cao lớn, tính tình trung hậu, đặc biệt có thể chịu đựng gian khổ.

Lã Bảo Hải, nhân viên Công ty Du lịch Sơn Thủy, khoảng chừng 30 tuổi, dáng người cao ráo, vóc người hơi gầy, đôi mắt sâu thẳm, giỏi suy xét, cử chỉ cao nhã.

Lã Kim Hải, em trai của Lã Bảo Hải, ông chủ cửa hàng quần áo Avon, dáng người hơi mập, nói chuyện nhỏ nhẹ, thoạt nhìn giống như kiểu người lương thiện thời xưa, trông rất có cảm tình.

Cha của anh em họ Lã là viên chức chính phủ đã về hưu, cấp bậc khá cao, dường như được đãi ngộ như phó thị trưởng. Sau khi tuổi cao thì thân thể ông tự nhiên ngày một suy yếu, buồn phiền suốt cả ngày. Vừa nghe đến Đại Pháp, ông liền thành tâm tu hành, ai ngờ giống như cây khô gặp được mùa xuân, lại đâm chồi nảy lộc. Cả nhà họ Lã được thụ ích không ít, mang ân huệ lớn đối với Đại Pháp nên rất tích cực hồng Pháp, cả huyện đâu đâu cũng thấy có bóng dáng của họ.

Một ngày nọ, Liễu Thành Âm đang làm việc ở xưởng, vị giám đốc nhà máy vốn bình thường không hay tới văn phòng đi đến trước mặt cậu nói: “Tiểu Liễu à, tối hôm qua ông Ngưu phó trưởng thôn của thôn Trúc Than tới tìm cậu nhưng không gặp. Ông ấy nghe nói cậu cũng luyện Pháp Luân Công, nên muốn nhờ cậu đến dạy họ”. Liễu Thành Âm vừa nghĩ liền vui vẻ đồng ý luôn.

Phong cảnh ven sông thôn Trúc Than đẹp đẽ, không khí trong lành. Sau khi nghỉ hưu cả gia đình ông Ngưu sống ở một ngôi nhà vườn ven sông, ông Ngưu lại thích trồng hoa làm cỏ, nên nơi ông ở trông giống như chốn thế ngoại đào nguyên.

Ông Ngưu đối đãi với Liễu Thành Âm vô cùng khách sáo. Hóa ra, ông với vợ của mình là Tân Lương Nam lúc trẻ chạy đông chạy tây, đến khi về già thì bệnh tật đầy mình, cũng đã từng đi cầu cúng khắp nơi, học qua khí công của các môn phái khác, hiệu quả rất kém mà lại tốn không ít tiền. Nghe một người bạn cũ nói rằng công pháp này có hiệu quả thần kỳ, nên ông liền để tâm tới.

Liễu Thành Âm toàn tâm dạy động tác cho họ. Khi đang học động tác, đột nhiên nghe thấy tiếng răng rắc, âm thanh rất to khiến cậu giật mình, liền hỏi: “Có chuyện gì vậy?”, vợ ông Ngưu cười đáp: “Là khớp xương kêu đấy”. Liễu Thành Âm cũng cười ngượng. Lúc này, cậu mới để ý một chút đến Tân Lương Nam, người có nước da vàng xanh, tinh thần uể oải, chắc chắn rằng trong người cô không chỉ có một hai loại bệnh, mà phải nói là bệnh tật kinh niên.

Mặc dù hai vợ chồng họ học rất chăm chỉ, nhưng Liễu Thành Âm lại không mấy tin tưởng rằng họ có thể kiên trì tiếp tục.

Kết quả ngoài sự mong đợi của cậu, vài tháng sau, sức khỏe của ông Ngưu chuyển biến rất tốt, vợ của ông nét mặt hồng hào, bệnh tật đều khỏi hết. Nhà họ sau đó thường xuyên có hai, ba chục người tới luyện công, cộng thêm những người không thường xuyên đến tổng cộng là có hơn trăm người, trở thành điểm luyện công lớn nhất của thôn Trúc Than.

Ân

Điên phái lưu ly sổ thập niên
Nhất thân bách bệnh thực kham liên
Nhược phi thử nhật phùng chân Pháp
Tảo dĩ phương danh tại cửu tuyền

Tạm dịch:

Ân

Lang bạt kỳ hồ biết bao năm
Một thân trăm bệnh thật đáng thương
Hôm nay không nhờ gặp chân Pháp
Đã sớm điền tên nơi cửu tuyền

Hồi thứ sáu: Thần tích

Đại Pháp hồng truyền tại huyện Thanh Hà đã xuất hiện rất nhiều kỳ tích.

Dương Phong Thanh dù làm việc trên huyện nhưng quê anh ở thôn Than Đầu thị trấn Hắc Long. Cha của anh là Dương Nghiệp, trước kia làm việc tại mỏ than ở tỉnh ngoài, đã nghỉ hưu từ sớm; mẹ của anh là Đường Tần, hồi trẻ làm việc tại một nhà máy, nhưng lúc đó nhà máy bị phá sản, nên không còn thu nhập gì nữa. Em trai là Dương Phong Phi cũng đã lập gia đình, cùng vợ làm việc tại đơn vị tài chính.

Sau khi Dương Phong Thanh đắc Pháp liền giới thiệu cho người nhà, không lâu sau cả gia đình anh đều bắt đầu tu luyện. Dương Nghiệp trước làm việc ở mỏ than thì không phải nhân viên kỹ thuật, mà trực tiếp xuống giếng đào than, thân thể sớm đã tàn tạ, vừa nghe nói đến tu luyện liền có hứng thú. Mới bắt đầu tu luyện không lâu thì ông xuất hiện triệu chứng “cảm mạo”, sốt nhẹ, ho không ngừng nghỉ, giống như hiện tượng “tiêu nghiệp” được nói đến trong sách, khác hẳn so với những lần cảm mạo trước đây, thế là ông quan sát một chút đờm nhổ ra, trông đen sì sì, nhìn kĩ hơn thì kinh ngạc, sửng sốt, hóa ra là bọt xỉ than! Đây chẳng phải là thứ mà ông hít vào phổi khi làm việc trước đây sao? Chẳng trách bao nhiêu đồng nghiệp cũ vừa nghỉ hưu đã qua đời, đều là do chúng tác oai tác quái!

Từ sau khi ho ra xỉ than, thân thể ông như trở lại hồi thanh niên.

Nói đến Đường Tần, sức khỏe của bà còn tệ hơn, từng đi viện kiểm tra ra mắc ung thư tử cung, nhưng có thể bà vẫn chưa biết rõ bệnh tình. Từ sau khi tu luyện tự nhiên cũng không còn triệu chứng gì nữa.

Dương Phong Phi và vợ đều là người có tri thức, mặc dù họ xem xét lý luận của Pháp Luân Công từ góc độ khoa học hiện đại nhưng vẫn là nhìn vào hiệu quả thực tế và cảm thấy rất tốt, nên đã bắt đầu tu luyện. Sau khi tu luyện, cả hai đều được đồng nghiệp và lãnh đạo khen ngợi về nhân phẩm, sức khỏe của họ cũng khiến mọi người phải ngưỡng mộ.

Lộ Trường Minh, nhân viên trung tâm mua sắm Tân Thế Kỷ, thông minh từ nhỏ, đa tài đa nghệ, tiếc là mới ngoài 50 tuổi thì bị nghẽn mạch máu não, bán thân bất toại. Vài năm trước có thịnh hành một loại “chân công”, vì để trị bệnh ông cũng bắt đầu tu tập, môn khí công này cũng có chút hiệu quả, lúc đó ông khai mở thiên mục và đã nhìn thấy những thứ ở không gian khác, nhưng những hiệu quả khác thì không mấy rõ ràng. Đến khi Luyện Pháp Luân Công đã giúp ông đứng dậy được từ xe lăn, ông âm thầm tán thán, thật thần kỳ!

Lộ Trường Phát, em trai Lộ Trường Minh, một người thành đạt, phong lưu phóng khoáng, công tác tại chính quyền huyện, cũng có một câu chuyện truyền kỳ. Vài năm trước, từng có hai vị đạo sĩ lần lượt xuất hiện muốn đưa cậu đi tu luyện, nhưng cậu nào nỡ rời bỏ vợ đẹp con ngoan và công việc lý tưởng. Trong đó có một người tự xưng là đạo sĩ núi Võ Đang biểu diễn một chút tiểu thuật của mình ngay trước mặt cậu, tay huơ nhẹ một cái, văn phòng của cậu đột nhiên mất điện, lại huơ một cái là có điện, khiến cậu không khỏi ngưỡng mộ, nhưng cuối cùng cậu vẫn không đi theo vị đạo sĩ ấy.

Thấy được sự thần kỳ của Pháp Luân Công, lại có thể tu luyện tại nơi hồng trần, cậu liền gia nhập vào hàng ngũ tu luyện.

Lâm Ái Sơn ở thị trấn Hắc Long, lúc đó hơn 50 tuổi, do trước kia làm việc quá sức, nên đầu bị hói sớm, khuôn mặt thô ráp. Hồi trẻ ông thích du sơn ngoạn thủy, tầm đạo phỏng hữu (đi tìm đạo và viếng thăm bạn bè), đã được nghe và được thấy rất nhiều điều. Ông sớm đã có tâm muốn tu luyện, đáng tiếc là chân Pháp khó tìm. Ông từng gặp một người tu Đạo trong núi sâu ở Hồ Bắc, đó là một người khổ tu trong sơn động. Ông cùng bạn đồng hành tặng lễ vật cho đạo sĩ, vị đạo sĩ đó đặt quà trên mặt đất, dùng tay vạch một vòng tròn bao quanh. Điều kỳ lạ là vốn trong động có rất nhiều chuột, chúng đến cạnh vòng tròn kêu chít chít nhưng không dám vào trong. Sau đó người ấy còn dạy cho nhóm của Lâm Ái Sơn một chút tiểu chú ngữ. Ông còn từ chỗ người thân của quan chức cấp cao ở Bắc Kinh nghe được chuyện về một lão đạo sĩ trên núi Hoa Sơn, vị này có khả năng buổi tối dùng cơm ở Bạch Vân Quán, rồi về núi Hoa Sơn nghỉ ngơi, sáng sớm hôm sau lại về Bạch Vân Quán. Còn có dịp ông tình cờ trông thấy một vị tướng quân nổi tiếng biểu diễn khinh công, trong nháy mắt đã bay lên trên đèn pha của hội trường, rồi từ cửa sổ đang mở lại rơi xuống bên ngoài hội trường như lá cây.

Đây đều là những tiểu pháp tiểu thuật, chẳng có gì lạ, nhưng lại khơi gợi cho ông niệm đầu muốn tu luyện. Song có thể do còn mang chút tâm lý chấp trước vào công năng, nên sau khi tu luyện ông cũng không phát hiện thấy có công năng gì đặc biệt, nhưng chỗ hói trên đầu không biết từ bao giờ lại mọc ra chút tóc, sức khỏe hiển nhiên lại càng vô cùng tốt.

Âu Dương Tịnh Sơn ở công ty dầu mỏ cũng tu luyện Pháp Luân Công, cậu con trai Tiểu Cương của anh gần 10 tuổi bị thiểu năng trí tuệ, mỗi môn học chỉ được mười mấy điểm, khiến vợ chồng anh vô cùng phiền muộn.

Vừa hay lúc đó, họ cũng cho đứa trẻ học Pháp Luân Công. Tiểu Cương khi ấy khá nhỏ, bắt đầu tu luyện cũng lơ là qua quýt, không biết tinh tấn, nhưng có một hôm trong lúc đang luyện công, cậu bé cảm thấy như có ai đó vỗ vào đầu mình. Từ đó bài vở liền có tiến bộ rất lớn, điểm các môn học đều tăng lên mấy chục điểm, đặc biệt là lại đạt chất lượng môn toán. Hai vợ chồng và họ hàng thân thích đều cảm thấy quá thần kỳ.

Lần Pháp hội đầu tiên của địa phương này vô cùng thần thánh và trang nghiêm. Chỉ tiếc rằng Liễu Thành Âm khi đó vẫn chưa biết trân quý mà lỡ mất lương duyên.

Những học viên tham gia Pháp hội lần ấy sau khi về đã kể cho cậu nghe một câu chuyện với tâm tình xúc động: Pháp hội lần này có bài tâm đắc thể hội của một học viên vô cùng cảm động.

Học viên này tên là Ngưu Lương, ban đầu cũng chẳng có mâu thuẫn gì với hàng xóm, sau đó nhà hàng xóm nuôi một con chó săn lớn. Con chó săn đó thường phóng uế tiểu tiện ở hành lang chung vô cùng bẩn thỉu, khiến hai nhà tức giận nhau, đối phương ôm hận trong lòng. Không lâu sau, hàng xóm dẫn một người tu luyện tà thuật đến, đốt hương và vàng mã ở hành lang của họ, từ đó trở đi, Ngưu Lương liền mắc bệnh.

Bệnh này không hề nhẹ, trị tới trị lui còn ngày càng trầm trọng hơn, đi khắp các bệnh viện lớn nhỏ cũng không có dấu hiệu chuyển biến tốt. Kiểm tra kỹ lưỡng thì lục phủ ngũ tạng đều hỏng rồi, làm sao đây? Thực sự không còn cách nào, họ đi khắp nơi thắp hương bái Phật, cứ thấy đền chùa nào là vào khấu đầu bái lạy, nhưng cũng chẳng thấm vào đâu.

Cả nhà họ nghĩ đi nghĩ lại, quyết định chịu thua đối phương. Lúc ông đường đường một nam tử hán quỳ trước nhà người ta xin lượng thứ, không ngờ rằng đối phương không chấp nhận, còn cười lớn: “Đi mà kiện! Đến tòa mà kiện tôi đi, xem họ làm gì được tôi nào?!”

Cuộc đời của ông xem ra đã thực sự đi vào ngõ cụt, chỉ còn đợi cái chết. Đúng lúc đó, có người giới thiệu cho ông Pháp Luân Công, thế là ông quyết định thử vận may này. Vào một buổi tối sau khi đắc Pháp, ông nằm mơ, thấy thầy Lý vung một cái lưới bắt cá trắng tinh về phía ông, sau đó thu về, bên trong có một con rắn lớn dài hơn một trượng, ngoài ra còn có vô số rắn bé đang lúc nhúc động đậy. Nhưng một lát sau toàn bộ đều hóa thành nước, đều chết cả.

Sáng sớm tỉnh dậy, ông phát hiện hết thảy bệnh tật của mình đều không còn nữa.

Khi phát biểu ở Pháp hội, ông đã chia sẻ trong nước mắt, tâm tình xúc động, sau đó quay người quỳ xuống khấu đầu ba lần trước Pháp tượng của Sư phụ, cả hội trường vỗ tay như sấm.

Tiếc rằng Liễu Thành Âm đã không được tận mắt chứng kiến cảnh tượng xúc động lòng người này, thật đáng tiếc.

Trên đây chỉ là một vài ví dụ đơn giản, thực ra nhờ tu luyện Đại Pháp, tâm hồn của mọi người đã có những thay đổi rất lớn, họ sẽ không đi trộm cướp, không đi lừa gạt người,… liên tục từ bỏ những thói quen xấu hút thuốc, say xỉn ngày xưa. Hàng xóm thuận hòa, vợ chồng tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau, giữa lãnh đạo và nhân viên cũng không còn sự đối địch…

Đại Lục dưới sự thống trị của đảng cộng sản, vốn dĩ giữa người với người đều coi nhau như kẻ thù, nếu không có sự đàn áp Pháp Luân Công khốc liệt sau này thì có lẽ Đại Lục sẽ trở thành miền đất hứa cho sự phục hưng của nền văn hóa cổ xưa.

Từ bi

Đông thổ đa niên quốc bất xương
Phân phân loạn tượng kiến kim quang
Triều đình đương nhật đa thâm lự
Thiện giải nhân duyên hồng phúc trường

Tạm dịch:

Từ bi

Đông thổ bao năm nước chẳng vượng
Loạn tượng dồn dập thấy kim qua
Chính phủ ngày nay bao lo nghĩ
Thiện giải nhân duyên hồng phúc dài

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/113473

The post Tiểu thuyết: Trùng sinh (3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tiểu thuyết: Trùng sinh (2)https://chanhkien.org/2024/05/tieu-thuyet-trung-sinh-2.htmlFri, 17 May 2024 03:11:15 +0000https://chanhkien.org/?p=33174Tác giả: Tân Minh [ChanhKien.org] Hồi thứ ba: Phước ba đời Tổ tiên của Liễu Thành Âm đều là người tốt, bà cố và bà của cậu từ thiện thương người, còn giỏi châm cứu, bình thường đều giúp hàng xóm trị vài bệnh vặt, nói như người trong thôn thì họ đều đang tích […]

The post Tiểu thuyết: Trùng sinh (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Tân Minh

[ChanhKien.org]

Hồi thứ ba: Phước ba đời

Tổ tiên của Liễu Thành Âm đều là người tốt, bà cố và bà của cậu từ thiện thương người, còn giỏi châm cứu, bình thường đều giúp hàng xóm trị vài bệnh vặt, nói như người trong thôn thì họ đều đang tích đức. Cũng có lẽ vì vậy mà vận may của cậu đang dần đến.

Vào trưa hôm ấy khi Liễu Thành Âm tan làm. Vốn dĩ cậu thích đọc sách, nhưng đến lúc về nhà thì như bị một luồng lực nào đó kéo đi khiến cậu vào tiệm sách trong trấn. Cậu vừa vào đến cửa tiệm liền bị thu hút bởi một cuốn sách.

Bìa sách màu xanh có một vị sư phụ mặc trang phục luyện công màu vàng kim ngồi đả tọa trên đài sen, trông rất thần thánh. Cậu nhờ nhân viên của tiệm lấy sách qua, rồi ngồi trên ghế bắt đầu xem một cách cẩn thận. “Phật gia tu trì Đại Pháp”? Đây chẳng phải phương pháp tu luyện Phật gia mà bản thân hằng mơ ước hay sao? Càng xem nhập tâm, cậu càng phát hiện bao nhiêu khúc mắc không thể giải đáp mà cậu đã từng suy nghĩ trong lòng bao năm qua đột nhiên sáng tỏ, cậu minh bạch rất nhiều điều. “Khởi nguồn của nhân loại… Chân, Thiện, Nhẫn…” Lúc này, cậu cảm thấy có một sự liên kết thâm sâu giữa “Chân, Thiện, Nhẫn” với bản nguyên sinh mệnh mình, một nguyên tố rất xa xưa bắt đầu cộng hưởng và đi vào phần sâu thẳm của sinh mệnh cậu.

Khi cậu lật tới trang cuối, mới phát hiện bản thân đã say sưa đọc gần nửa giờ đồng hồ rồi, liền mau chóng mua cuốn sách rồi hoan hỷ vui sướng đi về nhà.

Lúc đó niềm hạnh phúc tột độ khi phát hiện ra chân lý khiến cậu thậm chí còn muốn bắc loa lớn nói với tất cả mọi người trên thế giới rằng : “Mau đến đây xem, đây chính là chân lý, mọi người hãy luyện Pháp Luân Công, chúng ta rồi sẽ quay trở về gia viên tốt đẹp của mình!”

Thế là cậu quay về nói với bác mình, nói ra suy nghĩ của mình, người bác xem cẩn thận, rồi cười nói : “Bác nhiều tuổi rồi, xem hiểu không nhiều, đợi cháu tu thành rồi, bác sẽ lại tu”. Cậu không còn lạ gì lời từ chối ấy nữa. Nhưng đối với Liễu Thành Âm mà nói thì điều đó bằng như sự khích lệ bản thân vậy, lúc đó còn chưa ăn cơm, cậu đã bắt đầu đối chiếu đồ hình tự học rồi.

Sau đó, lúc ăn cơm cậu đã kể cho mẹ biết. Không ngoài dự đoán, mẹ nhìn cậu một cách e sợ: “Quốc gia cho phép luyện môn này sao? Đây là phong kiến mê tín, tương lai nhà nước nhất định sẽ trấn áp”. Liễu Thành Âm cười ha hả: “Không thể nào, sách này dạy làm người tốt, là ấn phẩm chính quy quốc gia đó”.

Như phía trước đề cập đến, lúc này bệnh viêm dạ dày và ho đang hành hạ cậu, cậu liền hạ quyết tâm dừng hẳn thuốc thang trị liệu, thành tâm tu luyện thì bệnh tự nhiên sẽ khỏi. Tối đó, cậu ở văn phòng tắt đèn bắt đầu luyện công.

Lần đầu tiên luyện bài động tác thứ nhất, cậu cảm thấy đằng sau như có người kéo cánh tay của mình, nhưng ai ở phía sau? Đâu có người nào! Cũng không phải ảo giác. Lần thứ hai làm động tác, cảm giác vẫn mạnh mẽ như cũ, cậu hiểu ra đây chính là khí cảm được nói đến trong các tiểu thuyết võ hiệp, cũng tức là dòng năng lượng. Luyện mỗi động tác thì đều có cảm giác năng lượng rất mạnh, đều là những hiện tượng cậu chưa từng trải qua trước đây khi luyện các khí công khác khiến cậu không khỏi mừng thầm: “Đây quả đúng là Đại Pháp Phật gia chân chính!”

Kể từ ngày đó, cậu cũng không còn trị liệu bằng thuốc nữa, một tuần sau, cơn ho dữ dội tự nhiên mà hết, khiến cậu càng tăng thêm tín tâm, có điều phần bụng mặc dù thấy nhẹ nhõm hơn, nhưng vẫn còn đau. Liễu Thành Âm nghĩ nếu đã khỏi ho rồi thì còn bệnh gì không thể khỏi? Nhất định phải tin vào Sư phụ, tin vào Đại Pháp.

Đúng như dự đoán, mấy tháng sau, cơn đau bụng và mất ngủ không biết tự lúc nào mà hết, bệnh mà hồi nhỏ cứ đến mùa đông là đầu gối lại đau âm ỉ cũng khỏi hẳn rồi, triệu chứng viêm mũi ngày trước cũng gần như biến mất, cậu thật sự cảm thụ được cảm giác nhẹ nhõm của một thân thể không bệnh tật.

Lúc này dòng năng lượng chạy trong người cậu đã rất mạnh mẽ, đặc biệt khi ngồi xổm, cảm giác bên trong thân thể khi thì như dời sông lấp biển, khi thì như thác đổ. Trong một tháng, cậu đột nhiên phát hiện bản thân có thể cảm nhận được trường năng lượng của người khác, không phân già trẻ trai gái, có người năng lượng rất mạnh, nếu bạn chỉ đứng đó không dùng sức, năng lượng của người khác sẽ đẩy khiến bạn đứng không vững; đương nhiên có người mà lực đẩy chỉ nhè nhẹ bình thường. Quả nhiên một tháng sau, giống như trong sách nói, không biết từ khi nào mà không còn cảm nhận được trường ấy nữa, vì tầng thứ đó đã qua đi rồi.

Lúc này, suy nghĩ lớn nhất của cậu chính là bảo cho tất cả mọi người đều biết đến Pháp này, nên khi gặp gỡ bạn học, bạn bè, hàng xóm hay người thân cậu đều không quên giới thiệu với họ.

Có một vị giáo sư già từng dạy học Liễu Thành Âm, đa tài đa nghệ, cũng rất có đầu óc. Vị giáo sư già nói: “Rất nhiều nhân viên nhà nước ở gần đây cũng luyện công này, rất thịnh hành, nhưng tiếc là tôi không luyện được, Chân và Thiện thì tôi làm được, nhưng nếu có ai bắt nạt tôi, thì tôi phải đấu lại với người ta”. Đúng là vậy, cái mà Mao Trạch Đông gọi là “Đấu với Trời là niềm vui vô tận, đấu với đất là niềm vui vô tận, đấu với người là niềm vui vô tận!” ảnh hưởng thật rất sâu, Đại Cách mạng Văn hóa đã sớm phá hoại tinh hoa văn hóa của Nho, Thích, Đạo đến mức không còn gì nữa rồi.

Lý Thành Long của trường cấp ba thị trấn là một ân sư của Liễu Thành Âm, anh cực kỳ thông minh, vì không có người chống lưng phía sau, chỉ có thể uất ức ở lại trường dạy học. Không ngờ được rằng, anh trẻ tuổi vậy mà lại mắc bệnh lao phổi. Bệnh này vô cùng khó chữa, chỉ có thể xin nghỉ ở nhà tĩnh dưỡng, vợ của anh là công nhân cũng thôi việc, thất nghiệp rồi, gia đình kinh tế khó khăn, còn phải chạy chữa bệnh khiến anh đột nhiên rơi vào cảnh khốn khó.

Liễu Thành Âm đến nhà của thầy, thầy giáo tiếp đãi cậu rất nhiệt tình. Hai thầy trò từ trước đến nay vẫn luôn giãi bày tâm tư, nói chuyện trên trời dưới đất, trò chuyện rất vui vẻ. Liễu Thành Âm liền giới thiệu cho thầy Pháp Luân Công, kể về những biến hóa của tự thân và lợi ích của khí công. Lý Thành Long khi học đại học đã từng tận mắt chứng kiến báo cáo của nhóm các khí công sư, đã thấy nhiều người ở đó vừa khóc vừa cười, cũng rất nhiều người nói là tốt, cảm thấy rất thần kỳ, nhưng bản thân anh chẳng cảm thấy có gì đặc biệt, nên cũng không bài xích, biểu thị rằng mình sau này cũng sẽ chuẩn bị học Pháp Luân Công.

Chuyện vừa khéo là một người họ hàng của Lý Thành Long cũng từ lúc đó tu luyện Pháp Luân Công, cũng muốn giới thiệu với anh, thế là anh cùng vợ cũng tu luyện ở nhà. Anh luyện ước chừng khoảng vài tháng, trùng hợp cũng sắp đón năm mới rồi, liền kiểm tra bệnh tình của bản thân. Vừa có đơn báo cáo kết quả khám bệnh của bác sĩ, liền báo cho anh một tin tốt: Lỗ phổi tạo thành bệnh lao của anh đã bị vôi hóa rồi. Anh vô cùng kinh ngạc, thật linh nghiệm. Cố gắng luyện thêm nửa tháng nữa, anh lại đi kiểm tra, kết quả bệnh lao phổi khỏi hẳn rồi, chỉ là khí quản vẫn còn viêm, đây chẳng phải chỉ còn là vấn đề nhỏ thôi sao?

Căn bệnh khó chữa gây rắc rối cho anh mấy năm liền đã triệt để biến mất, tất cả cứ như mơ vậy. Cuộc sống tươi đẹp bắt đầu lại, sau đó anh lần lượt học thạc sĩ rồi tiến sĩ, rồi đến thành phố lớn làm việc.

Chính là:

Duyên

Tam sinh hữu hạnh tiên nhân phúc
Đắc Pháp phương tri vạn sự khinh
Tĩnh toạ vô tâm trần lý khán
Thao thiên trọc lãng khách thuyền kinh

Tạm dịch:

Duyên

Vận may từ phúc ba đời từ tổ tiên
Đắc Pháp rồi mới biết mọi chuyện đều nhẹ nhàng
Tĩnh tọa không còn tâm phàm trần mà nhìn
Tàu khách bị kinh động bởi sóng dữ cuồn cuộn ngất trời

Hồi thứ tư: Trăm hoa ngào ngạt trong gió xuân

Vào cuối xuân của năm thứ hai đắc Pháp, một buổi chiều nọ, một vị đồng nghiệp cười nói cho Liễu Thành Âm một tin tốt: “Huyện Thanh Hà chúng ta cũng có người luyện Pháp Luân Công, giờ đang tuyên truyền, cậu đi xem chưa?” Cậu từ lúc bắt đầu luyện công đến giờ căn bản đều ở trạng thái phong bế, nhưng luôn mong mỏi được cùng đồng tu giao lưu. Nếu như có thể đích thân gặp Sư phụ thì càng tốt. Lúc đó khi biết tin này, cậu vô cùng phấn khởi, quyết định mau chóng đi thăm hỏi.

Ngày hôm sau trời quang, gió êm dịu dễ chịu, cậu buổi sáng vừa hay rảnh rỗi liền vào thành phố. Nhà của đồng tu này ở khu trung tâm thành phố, nhà mặt phố nên rất dễ tìm. Trong thành phố trùng hợp là có một vị nữ đồng tu lớn tuổi hồng Pháp tại đây cũng ở lại nhà họ. Vừa gặp mặt, Liễu Thành Âm đã thấy đồng tu lớn tuổi ấy mặt mày từ thiện, nét mặt hồng hào. Sau khi nghe Liễu Thành Âm chia sẻ chuyện của mình, bà liền cao hứng nói: “Thật đúng là duyên phận, cậu đã nghe qua băng ghi âm của Sư phụ chưa?” Cậu tỏ ý đã nghe rồi. Băng đó cậu đặt hàng qua đường bưu điện gửi từ nơi khác đến, chất lượng cũng ổn.

Vị đồng tu lớn tuổi này từng tham gia lớp giảng Pháp của Sư phụ năm đó, bà kể ra trải nghiệm của bản thân khi tham gia lớp học làm Liễu Thành Âm ngưỡng mộ không thôi. Đặc biệt khi nói đến Sư phụ phổ độ chúng sinh, mong rằng nhân dân nơi đây có thể có nhiều người hơn nữa tu luyện khiến Liễu Thành Âm cũng có niềm tin vào bản thân.

Đồng tu lớn tuổi chỉnh lại động tác giúp cậu. Mặc dù bà ấy liên tục động viên cậu, nhưng động tác của Liễu Thành Âm kỳ thực sai quá rồi. Điều đáng ngạc nhiên là dù động tác sai như vậy nhưng vẫn có thể khiến cậu khỏi bệnh.

Ở đây, Liễu Thành Âm cũng hiểu hơn về gia đình đồng tu này. Người đàn ông tên là Trương Phi, hơn 60 tuổi, cao lớn tráng kiện, lòng ngay dạ thẳng. Người phụ nữ tên là Lý Vân, cũng gần 60, thông minh điềm đạm, nghe nói bà từng làm việc ở một trường đại học nào đó ở phía Nam. Cả hai đều đã nghỉ hưu, tái kết hợp gia đình với nhau, trông họ có vẻ rất hạnh phúc. Họ rất nhiệt tình, đối với Liễu Thành Âm trọn vẹn lễ nghĩa hơn cả khách. Liễu Thành Âm nghĩ thầm: “Người luyện công quả thật khác biệt!”

Lý Vân vốn là người thông minh, từng luyện qua khí công của pháp môn khác, cũng đã trị bệnh cho người, cũng chẳng chữa được cho mấy ai, nhưng tự mình lại rước về một thân bệnh tật, giống hệt như thuyết pháp mà Sư phụ Lý giảng. Đợi sau khi có duyên tu luyện Đại Pháp, những bệnh kia cũng liền hết.

Một năm sau, do hiệu quả đặc biệt của công pháp nên người luyện công đến ngày càng đông, huyện Thanh Hà cũng thành lập trạm phụ đạo, thị trấn nhỏ phía dưới cũng bắt đầu thành lập điểm luyện công.

Nguyên nhân thu hút người đến rất nhiều, ví dụ: hiệu quả tập luyện đặc biệt, ung thư và bệnh mãn tính của nhiều người không cánh mà bay, bổn phận dạy công không thu phí, dù là bệnh khỏi rồi cũng không ai nhận tiền cảm ơn hay thù lao, khiến người hướng Thiện, gia đình hòa thuận,…Đương nhiên cũng có nhiều người không có bệnh tới luyện.

Trạm phụ đạo Pháp Luân Công huyện Thanh Hà không phải công ty, cũng không phải địa điểm hoạt động của tổ chức nào, nói thẳng ra là nhà của Bạch Ái Cúc. Nhà cô ấy ở vùng ngoại ô thị trấn, có sân riêng, bài trí bên trong đơn giản mà phóng khoáng. Chính giữa phòng khách treo Pháp tượng của Sư phụ Lý, bên cạnh có tivi, máy chiếu phim và radio cassette, đây đều là tài sản riêng của nhà cô. Điều này phù hợp với yêu đối với trạm phụ đạo của Sư phụ Lý, không tồn tiền, không tồn vật. Trạm trưởng và thành viên trạm phụ đạo có bổn phận vì mọi người mà phục vụ, dạy công miễn phí và đều là tự nguyện. Học viên thường ngày luyện công được thụ ích cũng hy vọng người khác được lợi, đều nhiệt tình vì mọi người phục vụ.

Ở đây cũng có một điều: Giúp học viên đặt mua sách của công pháp đều lấy giá gốc, chi phí ăn, ở, xe cộ cũng không lấy thêm một xu một hào nào. Học viên muốn học thì học, không muốn học thì thôi; nếu không muốn làm trạm trưởng hay phụ đạo viên thì có thể không làm bất cứ lúc nào, tất cả đều là tự nguyện. Có mấy học viên muốn trả chút tiền mua máy radio phát nhạc cho mọi người luyện công cũng không được, bởi nếu vậy thì máy radio này tính là của ai? Một số học viên có bổn phận cung cấp cho mọi người thì cũng được, tài vật phân rất rõ ràng. Không ít học viên sau khi tu luyện khỏi bệnh rồi rất cảm kích, muốn cung cấp tài trợ cũng không được, trạm phụ đạo với trạm trưởng cùng phụ đạo viên không thể nhận tư trợ từ bất kỳ ai.

Bạch Ái Cúc khi đó hơn 40 tuổi, dáng người cao ráo, dung mạo đoan trang, cử chỉ hào phóng, làm việc tại công ty nào đó ở thị trấn. Cô ấy học công rồi cảm thấy rất tốt, liền nhiệt tình cung cấp sự tiện lợi này cho mọi người. Ở tại đây tiếp đón tiễn đưa, tổ chức mọi người cùng luyện công, chiếm dụng thời gian, phí tổn, bỏ ra tâm huyết, đều là cho không, cũng không ai trả lương cho cô ấy. Trạm phụ đạo ở các nơi toàn quốc đều như thế, đều cung cấp thuận tiện cho mọi người.

Rất nhiều người dân khi đó không hiểu, không có chức quan để làm, không có tiền để kiếm, rốt cuộc làm để làm gì? Nói ra cũng đơn giản, vì Pháp Luân Công quả thực rất tốt, dạy người hướng Thiện, hiệu quả chữa bệnh khỏe người rõ rệt, đối với người, xã hội hay quốc gia nào cũng đều có chỗ tốt. Có thể mang lại cho mọi người sự thuận tiện, ở mức độ nào đó mà nói, cũng là điều vinh hạnh.

Chồng cô vốn sức ăn rất tốt nhưng thân thể không khỏe, luyện công rồi thì lượng ăn ít đi, nhưng cơ thể lại trở nên vô cùng cường tráng. Anh trai của chồng cô trước kia mắc bệnh tâm thần, điên điên khùng khùng, thế nên để anh ở nhà tu tập (người bị bệnh tâm thần không thể học Pháp Luân Công, đây là quy định), sau đó thì tinh thần trở lại bình thường rồi.

Hàng xóm của anh trai là Trương Đại Phát, làm việc tại Cục Giao thông, là người đã đứng tuổi; gia đình sự nghiệp đều như ý. Nhưng đâu ai ngờ được rằng, anh ta tuổi còn trẻ thế mà lại bị chẩn đoán mắc ung thư dạ dày, chỉ đành chờ chết. Nếu bệnh viện mà thật sự trị được, thì đang công thành danh toại như thế có mấy người chịu thức khuya dậy sớm luyện khí công? Có người giới thiệu luyện Pháp Luân Công, anh ta cũng nghĩ còn nước còn tát thôi cứ thử vậy. Anh luyện công không được mấy ngày, nôn ra một chậu lớn thứ như máu tươi, nhưng lại cảm thấy dễ chịu hơn nhiều, sau đó lại nôn ra một chậu nữa, trông rất đáng sợ, có điều từ đó trở đi, bệnh ung thư dạ dày của anh cũng khỏi hẳn.

Những ví dụ như thế ngay từ đầu đã rất nhiều. Lúc này nói chung đã có rất nhiều người có chí tu luyện, nhưng vẫn chưa nhận ra rằng Phật Pháp chân chính đã đang hồng truyền tại thế gian.

Phúc

Dao đài trì lý nhất thanh liên
Lạc nhập phàm trần vị ký niên
Ngũ nhạc tam sơn giai đạp biến
Bất tri chân pháp tại môn tiền

Tạm dịch:

Phúc

Trong ao một bông sen thanh khiết
Lạc trần chẳng còn biết tháng năm
Tam Sơn Ngũ Nhạc đi khắp cả
Chân Pháp trước cửa mà chẳng hay

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/113460

The post Tiểu thuyết: Trùng sinh (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tiểu thuyết: Trùng sinh (1)https://chanhkien.org/2024/04/tieu-thuyet-trung-sinh-1.htmlTue, 23 Apr 2024 03:41:02 +0000https://chanhkien.org/?p=33027Tác giả: Tân Minh [ChanhKien.org] Lời nói đầu Tác giả đã tận mắt chứng kiến rất nhiều học viên sau khi luyện Pháp Luân Công nhận được lợi ích, nhiều học viên bị bức hại đã bi thảm lìa đời để lại trong tác giả dấu ấn sâu đậm đến tận bây giờ. Thấy rằng […]

The post Tiểu thuyết: Trùng sinh (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tân Minh

[ChanhKien.org]

Lời nói đầu

Tác giả đã tận mắt chứng kiến rất nhiều học viên sau khi luyện Pháp Luân Công nhận được lợi ích, nhiều học viên bị bức hại đã bi thảm lìa đời để lại trong tác giả dấu ấn sâu đậm đến tận bây giờ.

Thấy rằng trước mắt vẫn còn nhiều người không minh bạch chân tướng do tiếp nhận sự vu khống và phỉ báng tà ác của Trung Cộng, nên tác giả cho rằng cần viết ra những điều này.

Do nguyên nhân mà mọi người đều hiểu, các mối quan hệ thời không và nhân vật của bài văn này đã được chỉnh lý ở một mức độ nhất định, vậy nên đành gọi là tiểu thuyết.

Trình độ viết văn của tác giả hữu hạn, hành văn thô thiển, cũng không đi vào miêu tả quá nhiều về sự thống khổ mà những học viên phải chịu, tôi gắng sức dùng ngữ điệu bình đạm để tránh mang đến cho độc giả quá nhiều bi thương.

Kiến thức của bản thân nông cạn, chỉ mong các độc giả tự mình xem xét, những điều viết ra đều không hề khoa trương và có lẽ nó sẽ giúp ích cho bạn. Nếu có phần không thích đáng, xin nhận lời chỉ giáo.

Tân Minh.

Tháng 10 năm 2012.

Hồi thứ nhất: Người trung thực

Từ thời cổ, người người đều nói hồng trần tà ác, thế sự gian nan, nhân sinh như mộng. Như nhà thơ Lý Bạch thời Đường từng viết:

Quân bất kiến, Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi
Hựu bất kiến, cao đường minh kính bi bạch phát
Triều như thanh ti mộ như tuyết.

Dịch nghĩa:

Bạn chẳng thấy sao: Nước sông Hoàng Hà từ trên trời rơi xuống
Chảy băng băng ra bể không bao giờ trở lại
Lại chẳng thấy sao: Gương sáng trong nhà cao soi bật nỗi buồn tóc trắng
Mới khi sáng còn xanh như tơ, chiều đã như tuyết.

Đúng là vậy, dân chúng khắp nơi trên vùng đất Trung Hoa rộng lớn đều tôn sùng tu luyện. Truy ngược về thời kỳ Tam hoàng Ngũ đế, rồi đến Tần hoàng, Hán Vũ Đế, Đường Thái Tông… hoặc là tín ngưỡng Phật Pháp hay yêu thích đạo thuật, sách cổ qua các thời đại cùng các câu chuyện Thần Tiên đều có thể tìm thấy trong những ghi chép xác thực rõ ràng của giới văn nhân. Theo cách nói hiện đại thì tu luyện thời đó vô cùng thời thượng và cao nhã.

Tuy nhiên, những điều này đều thay đổi từ khi Đảng Cộng sản cầm quyền, vô thần luận, thuyết tiến hóa, lý thuyết giai cấp trong sách giáo khoa nhiều đến rợp trời dậy đất, trở thành chân lý đương nhiên, không được nghi ngờ. Dân chúng đã chịu tẩy não kiểu này dần trở nên lười suy xét, cũng không dám suy xét.

Liễu Thành Âm lớn lên dưới sự giáo dục như vậy. Có điều, cha của cậu ở nông thôn thời bấy giờ cũng là người có tri thức, hiểu biết, không trọng danh lợi; mẹ của cậu bản tính thương người, cần cù chịu khó.

Lúc cậu lên cấp 2, có hôm tan học về nhà, nhìn thấy mẹ đang băng bó cho vài con chim én nhỏ bị thương. Hóa ra, chim én làm tổ trên xà nhà, bị chuột gây rối, cắn bị thương rớt xuống. Thế là mẹ dùng cành cây với mảnh vải băng bó, đút thức ăn cho chúng. Vài ngày sau, mấy chú chim đáng yêu này lại có thể tự do bay lượn trên bầu trời.

Liễu Thành Âm và những đứa trẻ khác cũng không có khác biệt gì nhiều, có lúc cũng làm mấy trò như trộm dưa, có điều cậu luôn gặp rủi ro: Người khác bao nhiêu lần trộm cũng chẳng hề gì, cậu mà cứ đi trộm thì y như rằng bị người ta phát hiện. Cậu luôn vừa hối hận vì mắc lỗi, vừa âm thầm thở dài, sao vận may của mình lại kém đến vậy. Bây giờ nghĩ lại, chắc hẳn là ông trời ưu ái và bảo hộ cậu, không muốn cậu đi trên con đường sai trái. Nói đến tư tưởng của Liễu Thành Âm, ngoài thành thật ra còn cứng nhắc, học hành cũng không tệ. Nhưng trời sinh cậu có tật xấu, chính là cứ học lâu hơn chút là nhức đầu, buồn ngủ. Sau khi lên trung học thì càng rõ là không được thầy cô giáo xem trọng. Cũng may cậu tốt số, thường làm mọi người không ngờ nổi. Đến năm lớp 12, lúc đó rất thiếu sách vở, sách chính trị của cậu bị người ta trộm mất rồi, một người thân thích tặng cậu một quyển, khoảng 10 ngày sau lại bị trộm mất. Tới gần lúc thi, cậu đi mượn một quyển, còn chưa xem hết đã bị bạn học lấy lại. Nhưng đến lúc vừa có kết quả thi đại học, đến cậu cũng giật mình, thành tích môn chính trị vậy mà rất tốt. Bản thân cậu cũng trở thành một giai thoại: Một học sinh không thích học, đến sách giáo khoa cũng làm mất thế mà lên được đại học!

Đó là chuyện thời đầu những năm 90, số người lên đại học rất ít, cậu cũng coi như làm bố mẹ nở mày nở mặt.

Sau khi tốt nghiệp đại học, cậu làm một nhân viên kỹ thuật tại công ty nhà nước ở thị trấn Bạch Mã huyện Thanh Hà. Lúc đó lương của nhân viên kỹ thuật cũng 200 đồng, cuộc sống khá khó khăn, tuy nhiên đối với một người xuất thân từ nông thôn như cậu mà nói, có thể làm được kỹ thuật viên cũng khiến nhiều người nông thôn thời đó phải ngưỡng mộ.

Tuy công việc của nhân viên kỹ thuật bận rộn mệt nhọc, cậu vẫn rất vui. Vì so với việc đồng áng thì nhẹ nhàng hơn nhiều; một nguyên nhân nữa là cậu trời sinh tính lạc quan, chỉ biết làm, chẳng biết nịnh nọt lãnh đạo hay chuyện quà cáp khách khứa nên đỡ được bao nhiêu phiền phức.

Một hôm, cậu tham gia hôn lễ của một đồng nghiệp trẻ tuổi, tiệc rượu còn chưa bắt đầu, mọi người còn đang chơi ván cờ. Một vị kỹ thuật viên hơn 40 tuổi tên là Triệu Thường rất thích Kinh Dịch, anh kể chuyện đàm luận về nhân quả báo ứng. Liễu Thành Âm vừa nghe liền thấy hứng thú, rồi cũng hỏi han đôi chút, sau đó hai người trở thành bạn tri kỷ.

Liễu Thành Âm suy cho cùng vẫn đã trải qua giáo dục cao đẳng của Trung Quốc đại lục, vẫn có tâm lý bài xích đối với nhân quả báo ứng vốn bị coi là phong kiến mê tín trong sách giáo trình. Hồi còn nhỏ, có một người thân quyến tinh thông bói toán tận mắt chứng kiến được sự chuẩn xác của vận mệnh, nên tin rằng trong u minh hẳn là có số mệnh. Thế nhưng chứng cứ về nhân quả báo ứng thì ở đâu?

Đơn vị phân nhà, lãnh đạo công ty quyết định phân cho Liễu Thành Âm một căn nhà khá tốt, cậu tất nhiên bằng lòng, nhưng một đồng nghiệp lâu năm của đơn vị lại cưỡng ép lấy đi chìa khóa, muốn đưa cho một đồng nghiệp thân thích với anh ta, dẫn đến giằng co. Liễu Thành Âm biết chuyện thì cười, chuyện này cũng dễ thôi, cậu liền nhường lại căn nhà cho người đồng nghiệp kia. Về chuyện này, có người nói cậu ngốc, cũng có người bảo cậu thật thà.

Căn nhà cậu ở thật sự rất kém, cứ đến mùa hè là nóng nực khó chịu, cậu cũng chẳng để ý; tuy nhiên cuộc sống thiếu thốn, ăn cơm cũng không đúng giờ, dần dần bụng bắt đầu đau. Cậu mời bác sĩ trị bệnh nhưng hiệu quả không tốt. Có lúc đau quá cậu nằm luôn bên máy móc, được đồng nghiệp đưa đi bệnh viện, lần đầu tiên trong đời được truyền dịch. Xuất viện rồi bệnh dạ dày mạn tính vẫn y như cũ, không có quá nhiều chuyển biến tốt. Sau đó lại bị một lần nổi lở loét, lưng sau như thể bàn ủi nóng vậy, cậu trị liệu được một tháng, hôm nào cũng đau đớn khó chịu cả đêm.

Với tình hình này, cậu cũng bắt đầu mất ngủ nhẹ. Bệnh căn này từ năm cuối cấp 3, nhưng như thế đã được coi là nhẹ nhất ở Đại Lục rồi, rất nhiều bạn học còn bạc cả đầu, mất ngủ nghiêm trọng; thời nay học sinh Trung Quốc vì ôn thi đại học mà có lớp toàn bộ các bạn đều phải truyền dịch, không ít địa phương có học sinh lớp 12 tự sát, thậm chí có hiện tượng học sinh học đến chết.

Cậu vốn không béo, mà sút đến 5kg. Đoạn thời gian này còn phát sinh một chuyện dở khóc dở cười, bà mối giới thiệu cho cậu một cô gái, kết quả người ta vừa nghe ngóng đến, liền chê cậu thân thể yếu kém, rồi lập tức bỏ đi.

Qua lần này, tư tưởng của Liễu Thành Âm không biết tự lúc nào đã thay đổi. Đối với một vài vấn đề quan trọng trong đời, trong đầu não cậu cuồn cuộn lên những suy nghĩ:

Đời người vì sao mà khổ như vậy, nhân sinh rốt cuộc là vì sao? Con người có vận mệnh không? Con người cuối cùng là về đâu?

Nạn

Trần hải mang mang hà xứ ngạn
Nhân sinh lục lục kỷ thời nhàn
Bần cùng phú quý vô phi mệnh
Tai bệnh tình sầu thiểu tiếu nhan

Tạm dịch:

Nạn

Cuộc sống phàm trần mù mịt đâu là bờ
Nhân sinh lận đận khi nào nghỉ
Phú quý bần cùng thảy đều là số mệnh
Vì tai họa, bệnh tật, tình cảm, ưu sầu mà chẳng còn tươi cười

Hồi thứ hai: Đường vòng

Liễu Thành Âm nghĩ tới nghĩ lui, rốt cuộc cũng đến một vấn đề trọng điểm: Quỷ thần có thật hay không? Đúng vậy, thông qua tự mình trải nghiệm phân tích, cậu thấy rằng con người thật sự có số mệnh. Số mệnh nếu như tồn tại, vậy có khả năng là có sinh mệnh cao cấp thao túng, nếu không thì không thể khéo léo đến vậy. Nếu vận mệnh là có sinh mệnh cao cấp thao túng, thì nhân quả báo ứng tự nhiên sẽ tồn tại.

Liễu Thành Âm lúc đó cho rằng: Nếu có thể nghiệm chứng một cách chính xác liệu quỷ thần có tồn tại không, thì sẽ dễ dàng biết được bí mật của vũ trụ, thống khổ và nghi hoặc của bản thân sẽ có thể được tháo gỡ.

Từ đó, cậu nghe ngóng nhiều hơn chuyện quỷ thần từ các cụ già.

Một lần, cậu chuẩn bị mua đồ ở một cửa hàng nhỏ thì có một ông lão đến. Xem ra ông lão có quen biết với chủ tiệm, hai người bắt đầu nói chuyện trên trời dưới đất. Liễu Thành Âm cũng tiến đến, lão già thấy cậu đang lại gần, bật cười lớn: “Chàng trai trẻ, cậu nghe rồi sẽ nói là mê tín, nhưng có điều đây là sự thật. Anh ba của tôi vì hồi trẻ luyện đàn tam huyền, sợ ồn đến người khác, nên ra khu mộ để luyện. Vì trình độ đàn cao nên thu hút rất nhiều quỷ tới nghe, vừa dừng một lát, liền có hòn đất nhỏ bay tới, đều là quỷ ném, muốn ông tiếp tục đàn”. Ông lão nhìn cậu trai trẻ đang nghe đến mê mẩn, nói: “Đây đều là chân thực!”, sau đó đạp xe đi mất.

Lại có lần, một đồng sự lâu năm nói: “Quỷ thần khẳng định là tồn tại, tôi từng đích thân trải nghiệm, rạng sáng hơn 10 năm trước, tôi dậy sớm lên thị trấn, đột nhiên thấy phía trước có hai đứa trẻ đang đi. Tôi nghĩ tưởng là hai học sinh tiểu học, có điều chúng dậy quá sớm. Nhưng rồi tôi phát hiện, hướng đi của hai đứa nó rõ ràng không đúng, không phải đến trường. Thế là tôi lén lút đi theo đằng sau, muốn xem tụi nhỏ rốt cuộc muốn làm gì. Một trong hai đứa thì đi bên làn đường nhỏ, đứa kia đi đến con mương cạnh đường thì không đi tiếp, đột nhiên biến mất! Tôi giật nảy người, lẽ nào gặp phải quỷ rồi? Thế là tôi bèn theo phong tục của địa phương mình, tiểu xuống dưới, muốn xua đi tà khí, sau đó nhanh chân rời đi. Đợi đến trời sáng khi xong việc, tôi đến chỗ xảy ra sự việc, hóa ra chỗ hai đứa trẻ biến mất là hai nấm mồ nhỏ”.

Một giảng viên đại học khác cũng kể cho cậu câu chuyện của cô ấy hồi nhỏ: “Tôi lúc bé có thể giống như lời các cụ nói, nhìn thấy những thứ người lớn không thấy, có một lần tôi thấy bên tường rào có một người khổng lồ cao hơn một trượng, kim quang lấp lánh, nghĩ rằng có lẽ là một vị Thần”.

Liễu Thành Âm qua điều tra, lại suy xét thấu đáo thêm. Bởi vì cậu thuộc kiểu người nhìn không thấy quỷ thần, mà lại chịu nhận cái gọi là giáo dục khoa học hiện đại, chú trọng vào thực chứng, không tận mắt chứng kiến nên vẫn còn chút hoài nghi. Cậu cho rằng nếu như tận mắt nhìn được hoặc liên kết một chút với quỷ thần, vậy không phải là rõ ràng rồi sao?

Thật ra, lúc này cậu vẫn chưa biết rằng, làm người phàm trần mà tiếp xúc với sinh mệnh của không gian khác là một chuyện nguy hiểm đến nhường nào.

Triệu Thường đối với Kinh Dịch có nghiên cứu nhất định, mà lại thích kết giao bằng hữu, trong đó có Vạn Thủy Minh ở huyện bên. Vạn Thủy Minh tinh thông Kinh Dịch, viết chữ đẹp, sở trường là toán mệnh, xem phong thủy, đa tài đa nghệ, rộng lượng với người khác. Anh ta còn có một điểm đặc biệt, nghe đâu có thể dùng chú ngữ sai khiến quỷ thần.

Điểm này khiến Liễu Thành Âm vô cùng hứng thú. Trong lúc Liễu Thành Âm và Vạn Thủy Minh trở thành bạn bè, cậu liền mong được truyền thụ “bản lĩnh” này, Vạn Thủy Minh cũng rất vô tư truyền lại bí quyết với chú ngữ.

Liễu Thành Âm vừa về nhà liền lén mua tài liệu, âm thầm lập đàn tu luyện tại nhà. Lương cậu vốn không cao, nhưng về phương diện này khá hào phóng, có điều cậu vẫn không biết là mình đang dạo một vòng dưới Quỷ Môn Quan.

Thời Trung Hoa Dân quốc, Liễu Thành Âm có một đồng hương là con rể của Chu Kiến Sinh ở thôn bên, vốn trời sinh thông minh, xem đến đâu nhớ đến đấy, cũng chưa bái sư, tự mình có xem sách về sai khiến quỷ thần rồi không suy nghĩ kỹ càng mà thực hiện. Đêm hôm khuya khoắt, anh ta làm một cái bàn vuông, bên trên tay cầm kiếm gỗ, thờ thần, bấm tay niệm chú, kêu gọi quỷ thần. Không lâu sau, chỉ thấy cuồng phong nổi lên, xuất hiện một lô quỷ quái cao thấp béo gầy các loại. Anh ta nhất thời sợ hãi mà quên luôn khẩu quyết tiễn thần, thế mà đột nhiên từ bàn ngã xuống, mất mạng vô ích!

Liễu Thành Âm quả thật may mắn hơn, mặc dù thực hành nhiều lần trong hai tuần nhưng luôn không gọi được quỷ thần đến; chỉ là cậu quỳ nhiều đến mức chai sạn cả đầu gối, uống nước lá bùa chứa thủy ngân cũng gây tổn hại nhất định cho cơ thể.

Cậu có chút thất vọng. Lúc này, một cuốn sách lọt vào mắt cậu, là “Kinh thư đan giải”. Nếu lúc trước cậu nói dù có thế nào thì cũng không xem mấy loại sách này, chẳng có chút giá trị khoa học nào, toàn là phong kiến mê tín. Nhưng khi mở sách ra lại khiến cậu kinh ngạc, hóa ra Thích Ca Mâu Ni là một người tu hành thời cổ đại, tương tự như thế khí công rất phổ biến thời bấy giờ, tuyệt đối không phải gì mà “phong kiến mê tín”, mà lúc đó Thích Ca Mâu Ni đã biết tới tam thiên đại thiên thế giới, cũng tức là không gian khác, điều này dường như so với sách giáo khoa của Trung Cộng thì tiến bộ hơn nhiều, “khoa học” hơn nhiều.

Nói đến khí công, cậu hồi cấp ba và đại học đã luyện qua một chút. Nào là “Kinh Dịch” rồi “Nhất Thiền”, hiệu quả chỉ ở mức trung bình, mà cũng chẳng có chút cảm ứng nào, còn làm ra mấy trò cười. Lúc đó ở xã hội và nhà trường còn lan truyền nào là chuyện thần kỳ về thiên mục, đối với cậu mà nói, hết thảy đều là nói nhảm, cậu chỉ tin vào thực tế thực chứng.

Lúc này, một người bạn kể cho cậu, cạnh làng của Vương Trang có một người phụ nữ luyện công Thái Dương, cô ta khai thiên mục rồi, bệnh lao của chồng cô ấy sau khi luyện cũng đã khỏi.

Đây quả là một tin tốt đối với Liễu Thành Âm, cậu quyết định đích thân đi dò hỏi. Đến nhà ấy thấy họ đều là những nông dân chất phác, quả không sai, có điều rằng công pháp này cũng rất tốn kém, được chia theo trình tự, càng luyện phí tổn càng đắt, tốn từ hàng trăm đến hàng ngàn.

Thứ nhất là Liễu Thành Âm không có nhiều tiền, cậu cũng mơ hồ cho rằng một pháp môn phổ độ chúng sinh chân chính không nên thu tiền tài như vậy. Thứ hai, cậu cảm thấy tầng thứ của công pháp này hữu hạn, dường như không chú trọng tâm tính, không giống với thuyết pháp của Thích Ca Mâu Ni trong kinh thư, liền bỏ cuộc.

Từ đó, cơ thể của cậu không còn được như trước, chỉ riêng viêm dạ dày đã giày vò cậu chết đi sống lại, các loại rau tươi cũng không ăn được nhiều, nóng lạnh chua cay đều có thể dẫn đến cơn đau. Mới gần đây lại thêm bệnh ho.

Các loại phương thuốc cổ truyền chữa lưng gần như đã thử hết rồi cũng không hiệu quả lắm; liên tục một tháng uống thuốc khiến bụng càng đau nghiêm trọng, chỉ đành châm cứu hàng ngày, bởi vì truyền dịch lúc đó không phổ biến. Mỗi khi đêm đến là ra đờm rất nhiều, có lúc nhổ không ra làm ngực đau rát, quả là sống không bằng chết. Lúc này cậu nghĩ: “Pháp môn đến giải thoát sự giày vò nhục thân và linh hồn tôi ơi, Ông rốt cuộc ở đâu vậy?”

Tầm

Tu Đạo bàng môn vạn vạn thiên
Hà nhân khoá hạc thượng thanh thiên
Nhược năng chính Pháp kim sinh đắc
Bất tiện vương hầu chỉ tiện Tiên

Tạm dịch

Tìm

Tu Đạo ngàn vạn cửa bàng môn
Mấy ai cưỡi hạc bay về trời
Đời này nếu được đắc chính Pháp
Chẳng màng vương hầu muốn thành Tiên

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/113460

The post Tiểu thuyết: Trùng sinh (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>