Thuyết vô thần | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 24 Apr 2025 07:00:24 +0000en-UShourly1ĐCSTQ dùng “thuyết vô thần” để bức hại tự do tín ngưỡng (3)https://chanhkien.org/2012/07/dcstq-dung-thuyet-vo-than-de-buc-hai-tu-do-tin-nguong-3.htmlhttps://chanhkien.org/2012/07/dcstq-dung-thuyet-vo-than-de-buc-hai-tu-do-tin-nguong-3.html#respondWed, 18 Jul 2012 07:02:27 +0000http://chanhkien.org/?p=20539Tác giả: Âu Dương Phi, bình luận viên Minh Huệ [Chanhkien.org] (Tiếp theo Phần 1, Phần 2) 4. “Vô thần” là một trường hợp ngoại lệ ngoài biên của “hữu thần” Khi thảo luận về vô thần và hữu thần, những người vô thần thường có xu hướng tin rằng họ là hiện thực hơn, […]

The post ĐCSTQ dùng “thuyết vô thần” để bức hại tự do tín ngưỡng (3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Âu Dương Phi, bình luận viên Minh Huệ

[Chanhkien.org] (Tiếp theo Phần 1, Phần 2)

4. “Vô thần” là một trường hợp ngoại lệ ngoài biên của “hữu thần”

Khi thảo luận về vô thần và hữu thần, những người vô thần thường có xu hướng tin rằng họ là hiện thực hơn, và do đó cảm thấy quan điểm của họ là chính đáng hơn. Sau cùng, quan điểm về Thần không thể được thấy rõ hay động chạm được. Vô thần và hữu thần dường như không so sánh được, như nước với lửa vậy. Tuy nhiên, có một số hiện tượng thú vị khi chúng ta nghiên cứu thuyết vô thần và hữu thần từ một thế giới quan rộng lớn hơn.

Lấy ví dụ, từ vũ trụ quan rộng lớn của Phật gia, có tồn tại các hiện tượng như không gian khác, luân hồi, sinh mệnh cao cấp và nhân quả báo ứng. Các bất hạnh như nghèo khó, bệnh tật, và tai họa thường được gây ra bởi trường nghiệp lực. Các nhà vật lý luôn tìm kiếm một lý thuyết đồng nhất về trường. Các tôn giáo khác nhau có nhận thức khác nhau, và các tín đồ khác nhau trong cùng một tôn giáo cũng có nhận thức khác nhau. Thuyết hữu thần, có thể nói là tồn tại trong một khoảng rộng về trình độ nhận thức. Khi nhận thức giảm xuống đến mức chỉ thừa nhận những gì thấy quá rõ, đó là “một không gian, một đời sống, không có sinh mệnh cao tầng, và không có nhân quả báo ứng”, thì nó trở thành thuyết vô thần.

Nghĩa là từ cái nhìn này, thuyết vô thần có thể được hiểu như là nhận thức thấp nhất có thể nhận thức được của thuyết hữu thần.

Với cái nhìn từ thế giới quan rộng lớn hơn, chúng ta sẽ có thể hiểu được thuyết vô thần là hạn chế hơn rất nhiều thuyết hữu thần. Thuyết vô thần không có bất cứ lý do nào cao cả hơn, hay lập luận nào thuyết phục hơn và hợp lý hơn thuyết hữu thần.

Thực ra, quan sát thế giới từ góc độ hữu thần là thâm sâu và rộng lớn hơn khi quan sát thế giới từ góc độ vô thần (một cái nhìn cực đoan chỉ tồn tại ở tầng thấp nhất có thể của thuyết hữu thần). Khi ấy, nhiều điều khoa học hiện đại không thể giải thích đã trở nên dễ hiểu hơn nhiều. Ví dụ, y học hiện đại công nhận chỉ có đời này, hay cuộc sống hiện tại của một người. Cùng lắm nó cũng chỉ xem xét đến các yếu tố gene hay di truyền. Tuy nhiên, theo thuyết hữu thần của Phật gia, một người có nhiều đời (hay “kiếp”). Bệnh tật trong đời này có thể là kết quả của các đời trước. Cuộc đời của một người cũng có biểu hiện của nó ở các không gian khác. Lý do một căn bệnh có thể xảy đến là do cá nhân ấy đã làm điều xấu trong quá khứ. Cách nhìn này là rộng lớn hơn rất nhiều so với chỉ xét đến một đời người.

Khi khai thác thị giác và các lĩnh vực khoa học mới, thuyết vô thần thực tế là bó hẹp suy nghĩ của người ta, cản trở tri giác và năng lực sáng tạo của con người. Nếu người ta không tin có không gian khác, thì họ sẽ không theo đuổi việc khám phá các sinh mệnh hay sự sống ở đó. Khi họ không tin có luân hồi chuyển thế, họ sẽ không buồn nghĩ về các đời trước hay chú ý đến các hành động trong đời này để có trách nhiệm với tương lai của mình. Dưới sự thống trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), thuyết vô thần đã trở thành lý thuyết căn bản, và quan điểm hữu thần bị bài xích như ngu muội và bị diệt trừ. ĐCSTQ đã cố tình dựng nên khu vực cấm trong nghiên cứu khoa học. Ngược lại, khoa học phương Tây đã đột phá các lý luận cũ và dám nói đến ‘đa không gian’ và ‘đa vũ trụ’. Tuy nhiên, nhiều lý thuyết như vậy vẫn còn ở mức độ khái niệm toán học trừu tượng.

5. ĐCSTQ biến “thuyết vô thần” thành một công cụ chính trị

5.1 “Thuyết vô thần” nguyên là một môn học

Trong lịch sử, ở cả phương Đông và phương Tây, chỉ có một vài đại diện ít ỏi của thuyết vô thần. Ở Trung Quốc, Vương Sung thời Đông Hán (người viết “Luận hành”), Phạm Chẩn thời Nam triều (người viết “Thần diệt luận”), và Hùng Bá Long đầu thời Thanh (người viết “Vô hà tập”), tất cả đều đặt dấu hỏi và phản bác các hiện tượng về quỷ thần. Nhiều triết gia phương Tây như Ludwig Feuerbach (người viết “Bản chất của tôn giáo”), Benedictus de Spinoza (người viết “Luận về thần học chính trị”), và Bertrand A. W. Russell (người viết “Tôn giáo và khoa học”), cũng đều phê phán thuyết hữu thần và tôn giáo.

Thuyết vô thần, như một loại thế giới quan, là một môn học ở thế giới phương Tây. Người ta tự do cởi mở nghiên cứu học thuật, bao gồm nghiên cứu thuyết vô thần. Đây là biểu hiện điển hình của một xã hội bình thường. Nhưng ĐCSTQ lại dùng thuyết vô thần làm công cụ chính trị để thống trị người dân và công kích hay khống chế tín ngưỡng của nhân dân. Khi một nền độc tài dùng thuyết vô thần theo cách này, nó đã từ một quan điểm tùy chọn hay môn học nghiên cứu trở thành một công cụ mạnh mẽ hay vũ khí giết người tàn bạo.

5.2 Vì sao ĐCSTQ cổ xúy “thuyết vô thần”?

ĐCSTQ giành quyền lực thông qua bạo lực và muốn dùng bạo lực để lật đổ tất cả hệ thống xã hội đang tồn tại, từ đó dựng lập xã hội của ĐCSTQ. Do đó, ngay từ đầu, ĐCSTQ đã là một lực lượng “phản thiên, phản địa, phản nhân loại”. Chỉ bằng cách loại bỏ “Thần”, nó mới có thể tự do dùng bạo lực không hạn chế, và đây là cách duy nhất để ĐCSTQ có thể tuyên bố nó đã tạo ra “thiên đường trên mặt đất”.

Văn minh 5.000 năm của Trung Quốc là văn hóa nửa-Thần, dựa trên tam giáo là Khổng giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Bởi vậy có thể nói đức tin vào Thần Phật của người Trung Quốc là đã được bén rễ sâu. Từ khi nắm quyền, ĐCSTQ đã giáo dục nhân dân bằng “thuyết vô thần” qua nhiều thập niên, mãi cho đến tận ngày nay. Đó là bởi vì rất khó để hoàn toàn tẩy sạch niềm tin của con người vào Thần Phật. “Thuyết vô thần” cực đoan của ĐCSTQ không gì khác là một bóng ma từ Châu Âu truyền đến Trung Quốc. Tuy nhiên, các quan chức ĐCSTQ tuyên bố xã hội Trung Quốc, vốn có hàng ngàn năm lịch sử tin vào Thần Phật, là xã hội lấy “vô thần luận” làm chủ thể. Một số học giả ĐCSTQ thậm chí còn lấy học thuyết Lão Tử và Trang Tử (của Đạo gia), mà trọng tâm là tu luyện Đạo gia (“Đạo pháp tự nhiên”), coi đó là cơ sở của thuyết duy vật vô thần, điều này quả thực là quá xa rời sự thật.

Không chịu hạn chế của Thần trên thiên thượng, ĐCSTQ tự coi nó là một vị “thần” vô pháp vô thiên và làm tất cả những gì nó muốn.

5.3 ĐCSTQ cổ xúy “thuyết vô thần” như thế nào?

ĐCSTQ dùng hai phương thức chính để truyền bá thuyết vô thần: tuyên truyền và giết chóc. Thông qua tuyên truyền, ĐCSTQ cố gắng tiêm nhiễm thuyết vô thần vào đầu óc của người dân trong nhiều lĩnh vực, bao gồm chính trị, triết học, v.v. Dưới cờ hiệu khoa học, ĐCSTQ bôi nhọ thuyết hữu thần, thậm chí không cho phép những người hữu thần có bất cứ cơ hội nào để giải thích hay giãi bày quan điểm của họ. Trong mấy năm qua, để phối hợp với cuộc đàn áp Pháp Luân Công, ĐCSTQ đã liên tục yêu cầu các trường cao đẳng và đại học đẩy mạnh giáo dục vô thần và gây dựng các “nhân tài vô thần”.

Bởi vì rất nhiều tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, như Phật giáo, Đạo giáo, Cơ Đốc giáo, Thiên Chúa giáo, v.v. đã được truyền lại từ xa xưa ở Trung Quốc hay truyền đến Trung Quốc từ ngoại quốc, nên sẽ là không dễ để ĐCSTQ trực tiếp đặt ra ngoài vòng pháp luật hay tiêu diệt tất cả các tôn giáo. Để đạt mục tiêu khống chế và dần tiêu diệt các tôn giáo, ĐCSTQ đã chọn cách tiếp cận là thay chúng bằng các tôn giáo biến dị và đặt dưới sự kiểm soát của ĐCSTQ.

Với những ai không chấp nhận thuyết vô thần của ĐCSTQ, phương cách mà ĐCSTQ dùng là trấn áp không thương tiếc và tiêu diệt thông qua diệt chủng.

6. “Thuyết vô thần” đã mang đến điều gì cho người Trung Quốc?

6.1 “Thuyết vô thần” mang đến tiến bộ khoa học kỹ thuật cho Trung Quốc?

Không. Sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật ở các nước phương Tây, nơi mọi người được tự do thực hành tín ngưỡng vào Thần, là vượt xa so với Trung Quốc. Khi Giang Trạch Dân ghé thăm Hoa Kỳ, ông ta đã hỏi Tổng thống Clinton: “Tại sao khoa học lại phát triển như vậy ở Mỹ, và tại sao nhiều người tin vào tôn giáo như vậy?” Đây là một ví dụ điển hình minh chứng rõ ràng sự ngu dốt của ĐCSTQ.

Hầu hết các xã hội tự do và các nhà khoa học nhìn chung có lý do để tin: “Không có khu vực cấm trong lĩnh vực khoa học”. Tuy nhiên, điều này không áp dụng với quan điểm về khoa học của ĐCSTQ. Không ai có thể đụng tới những khu vực cấm mà vượt qua điều ĐCSTQ có thể dung thứ trong chính trị (thay vì chân lý khách quan). Chẳng phải đây là một chướng ngại cho sự phát triển tự do của khoa học?

Hà Tộ Hưu và các lưu manh chính trị của ĐCSTQ, những người làm điều xấu dưới cờ hiệu khoa học, đã nói rằng con người không cần phải kính sợ tự nhiên; mà thay vào đó, người ta nên dám thách thức tự nhiên. Tuy nhiên, khi tự nhiên bắt đầu đáp trả thái độ và hành vi ngạo mạn của những người vô thần này, thì có lẽ khi ấy họ mới biết con người là nhỏ bé vô năng như thế nào.

6.2 “Thuyết vô thần” nâng cao đạo đức cho người Trung Quốc?

Không. Ngược lại, dưới thuyết vô thần, đạo đức xã hội ở Trung Quốc ngày càng trượt dốc tới một mức độ nguy hiểm và đáng sợ. Ở Trung Quốc, sự xuất hiện thường xuyên của thực phẩm độc trong những năm vừa qua đã vượt qua giới hạn được mô tả bởi câu cấm xưa là “có thất đức đến đâu cũng không thể hạ độc người khác”. Sự cố về sữa độc trẻ em được sản xuất tại Trung Quốc và gây ra cái chết của trẻ sơ sinh đã chứng thực hơn nữa sự thật rằng việc thiếu “thành thực và tin cậy” đã trở thành cuộc khủng hoảng đạo đức nghiêm trọng nhất trong xã hội Trung Quốc.

6.3 “Thuyết vô thần” mang đến hạnh phúc thịnh vượng cho người Trung Quốc?

Không. Sống trong một xã hội không có thành thực, không có tin cậy, không có bồi dưỡng tinh thần, và không có sức mạnh nội tâm (điều xuất phát từ niềm tin vào Thần), con người không thể có hạnh phúc. Khi một cụ già, người tin vào “thuyết vô thần” (do tuyên truyền của ĐCSTQ) và người đang bị bệnh hấp hối, họ sẽ thở dài và ca thán: “Sẽ tốt làm sao nếu Thần thực sự tồn tại”, đây là điều ước xuất phát từ nội tâm họ. Tuy nhiên, tin rằng Thần không tồn tại, không có đời sống tiếp theo, thì người ta không còn lựa chọn nào khác ngoài đối mặt với số phận đáng sợ và sự vô vọng khi chờ đợi cái chết. “Những người vô thần” của ĐCSTQ đang bắt đầu nói về “quan tâm chăm sóc sau khi chết”. Tuy nhiên, ĐCSTQ vốn tin vào “chết là hết” (câu của Bertrand Russell), thì vấn đề “quan tâm chăm sóc sau khi chết” là đến từ đâu? “Lo liệu hậu sự” và “linh hồn bất diệt” là hoàn toàn không có quan hệ gì với những người vô thần.

Kết luận

Trong một xã hội mà người ta không tin vào Thần, rất dễ để phát động một chiến dịch quần chúng nhắm vào một đoàn thể tu luyện và hiện vẫn còn tiếp diễn.

Trong vài thập kỷ qua, ĐCSTQ đã tuyệt đối hóa thuyết vô thần trong giáo dục, nơi mà lừa dối được coi như sự thật và khiến người ta tin rằng họ “có khoa học bảo vệ và có chân lý trong tay”. Với cách giáo dục này, nhiều người đã cười nhạo và chế giễu những ai tin vào Thần, và họ nghĩ rằng những người hữu thần ngu ngốc như trong tuyên truyền của ĐCSTQ. Họ thậm chí còn cảm thấy thương hại những ai tin vào Thần. Tâm thái này đã trở thành lý do để nhiều người thờ ơ (và thậm chí giúp đỡ kẻ ác hành ác) khi ĐCSTQ và tập đoàn Giang Trạch Dân bức hại tàn khốc những người có đức tin, bao gồm Pháp Luân Công.

Milan Kundera, một nhà văn thế kỷ 20, có câu nói nổi tiếng rằng: “Con người nghĩ, Thượng Đế cười”. Thuyết vô thần, như một lý thuyết gần nhất với những gì con người thấy ở bề mặt, là một hiện tượng bình thường trong thế giới loài người. Ở đây tôi không có ý phủ định thuyết vô thần, mà là hy vọng những người vô thần, khi ĐCSTQ dùng cực quyền phỉ báng đức tin của những người hữu thần, thì xin đừng hợp tác với ĐCSTQ và cho thuyết hữu thần một không gian sống.

Niềm tin vào Thần là ký ức tiên thiên của con người và nó là “ánh sáng tâm hồn” đến từ tiềm thức sâu thẳm của nhân loại. Bất kể những người vô thần vắt óc thế nào để phê phán đức tin hữu thần, thì tất cả nỗ lực của họ đều là vô nghĩa đối với những người tin vào Thần.

Tin Thần hay không tin Thần, đây là lựa chọn tự do và là quyền cơ bản của con người.

Những người theo chủ nghĩa Marx có hai dự đoán lớn, một là hệ thống tư bản sẽ diệt vong, và hai là thuyết hữu thần, hay tôn giáo, sẽ biến mất. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản đã không tiêu vong, mà ngược lại, chủ nghĩa cộng sản của Marx đang tiến đến những ngày cuối cùng. Cũng như vậy, các tôn giáo đã không biến mất, mà trái lại, có một lượng rất lớn người tin vào Thần, ngay cả ở các quốc gia mà khoa học kỹ thuật tiến bộ nhất.

Chẳng lẽ tất cả những điều này chưa đủ để khiến những người vô thần suy ngẫm từ góc độ khoa học hay sao?

(Hết)

Dịch từ:

http://www.minghui.org/mh/articles/2005/3/31/98146.html
http://www.clearwisdom.net/emh/articles/2005/4/29/60153.html

The post ĐCSTQ dùng “thuyết vô thần” để bức hại tự do tín ngưỡng (3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/07/dcstq-dung-thuyet-vo-than-de-buc-hai-tu-do-tin-nguong-3.html/feed0
ĐCSTQ dùng “thuyết vô thần” để bức hại tự do tín ngưỡng (2)https://chanhkien.org/2012/07/dcstq-dung-thuyet-vo-than-de-buc-hai-tu-do-tin-nguong-2.htmlhttps://chanhkien.org/2012/07/dcstq-dung-thuyet-vo-than-de-buc-hai-tu-do-tin-nguong-2.html#respondFri, 13 Jul 2012 09:08:17 +0000http://chanhkien.org/?p=20530Theo tuyên truyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), thuyết hữu thần là thế giới quan của loài người trong thời kỳ mông muội. Theo đó, loài người vào thời kỳ bấy giờ không thể tìm được giải thích khoa học cho một số hiện tượng tự nhiên.

The post ĐCSTQ dùng “thuyết vô thần” để bức hại tự do tín ngưỡng (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Âu Dương Phi, bình luận viên Minh Huệ

[Chanhkien.org] (Tiếp theo Phần 1)

3. “Vô thần” có thể phủ nhận “hữu thần”?

3.1 “Khoa học phổ cập” của ĐCSTQ đả kích điều gì?

Theo tuyên truyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), thuyết hữu thần là thế giới quan của loài người trong thời kỳ mông muội. Theo đó, loài người vào thời kỳ bấy giờ không thể tìm được giải thích khoa học cho một số hiện tượng tự nhiên. Vì vậy, người ta tin các hiện tượng đó được truyền đến bởi Thiên Đàng hay Thượng Đế. Kết quả là, khái niệm về quỷ và Thần được hình thành, cho phép “mê tín” phát triển.

ĐCSTQ đánh đồng “hữu thần” với “ngu muội” hay “thuật phù thủy” và mô tả đồ đệ của các môn này như là những người bị lừa dối. Nắm lấy tiền đề này, công cụ “khoa học phổ cập” đã trở thành vũ khí lợi hại nhất của ĐCSTQ để đả kích “thuyết hữu thần”. Sau khi nắm quyền, ĐCSTQ tuyên truyền “khoa học phổ cập” để kết thúc “thuyết hữu thần”.

Thực ra trong một xã hội điển hình (ghi chú: Trung Quốc Đại Lục dưới sự thống trị của ĐCSTQ không phải là một xã hội điển hình), “khoa học phổ cập” không phải là khoa học tuyến đầu (frontiers of science). Nó thực sự giống một hành vi xã hội hơn, trong đó người ta giới thiệu các khái niệm khoa học cơ bản. “Khoa học phổ cập” nhìn chung chỉ thảo luận một cách hời hợt và ở mức độ thực tiễn. Nó thật cách xa các khám phá mới nhất của khoa học, và không đại diện các dữ liệu cập nhật nhất bởi các nhà khoa học. Trên thực tế, những dữ liệu như vậy sẽ gây sốc xã hội, và sau cùng là cho phép một đột phá căn bản trong hiểu biết về các không gian khác nhau, sự sống và vũ trụ.

Chúng ta cũng cần hiểu rằng trong nhiều quốc gia trên thế giới, người ta tìm hiểu các tập tục cổ xưa, cũng như các câu chuyện gây tò mò về ma quỷ. Một số người có thể lấy sự xuất hiện của các linh thể ma quỷ cấp thấp để lừa người ta. Tuy nhiên, nhiều hiện tượng hữu thần được thảo luận không giống cách mô tả các linh thể cấp thấp này. Dưới tuyên truyền lâu dài của ĐCSTQ, người Trung Quốc đang lầm lẫn các linh thể cấp thấp với Phật, Đạo và Thần.

Chính tín vào Thần Phật và các chính giáo ở Trung Quốc trước đây là nói về đức tin vào các Giác Giả, bao gồm Lão Tử, Phật Thích Ca Mâu Ni và Chúa Jesus. Họ đã hạ xuống cõi phàm để truyền chính Đạo và cứu độ chúng sinh. Nó cũng gồm niềm tin rằng nếu luyện tập trí huệ theo Kinh Thánh và Kinh Phật, vốn được lưu lại bởi Thần Phật, thì người ta có thể đạt giác ngộ và cuối cùng là trở về với nguồn gốc chân thật (phản bổn quy chân). ĐCSTQ dán nhãn các niềm tin chân chính của loài người vào Thần Phật là “mê tín phong kiến” của những người lạc hậu quê mùa. Cách thao túng này là một thể hiện bản chất lừa dối của ĐCSTQ.

Cũng như những gì được giả định trong một cuộc nghiên cứu khoa học. Lịch sử có vô số ví dụ về lừa đảo, ăn cắp, dối trá và thậm chí là giết người. Tuy nhiên, những hành động ấy không thể được dùng để công kích “khoa học”. Nó cũng tương tự với những gì ĐCSTQ đã làm những năm qua. Nó mang theo một số người “thiếu sáng kiến cá nhân” hay những người chỉ cốt cho đủ số để tiến hành chiến dịch tuyên truyền công kích Pháp Luân Công. Tuy nhiên, các ví dụ này không thể đại diện cho dòng chính hàng chục triệu học viên Pháp Luân Công, nói gì đến bản thân Pháp Luân Công.

Về mặt khái niệm, chúng ta không thể lầm lẫn giữa thực hành tu luyện với thuyết hữu thần. Những người hữu thần chỉ đồng ý một điểm về sự tồn tại của “Thần”. Còn những người thực hành tu luyện, không chỉ tin vào sự tồn tại của Thần, mà còn cải thiện đạo đức của họ và thực hành trong cả suy nghĩ lẫn hành động các lời dạy của Thần. Khác biệt căn bản giữa những ai thực hành tu luyện và những người hữu thần là vấn đề quan điểm nhận thức hay khía cạnh thực hành.

Hiểu biết cá nhân và hành động của bất cứ người hữu thần cụ thể nào không thể được dùng để làm căn cứ phủ định thuyết hữu thần, cũng như phủ định “niềm tin vào Thần”. Một tu sĩ có hiểu biết của riêng mình về thế giới mà chỉ có thể đại diện cho hiểu biết cá nhân, thứ được hình thành trong môi trường và dưới ảnh hưởng của khoa học hiện đại. Hiểu biết của ông ta không tương đương với hiểu biết về Thần. Nếu một nhà khoa học chứng minh được một tu sĩ là sai, ông ta chỉ chứng minh được cá nhân vị ấy là sai chứ không phải niềm tin vào Thần là sai.

Nếu chúng ta nói từ một khía cạnh cao hơn, một “tôn giáo” cũng không tương đương với Thần. Khi một tôn giáo làm điều gì đó cực đoan hay các tín đồ phạm phải tội ác, nó đến từ nhận thức phía con người của các tín đồ, được hình thành trong môi trường của họ, và không thể được dùng để phủ định Thần. Ngay cả với những người đã phạm tội ác lấy danh nghĩa của Thần, hay thậm chí tuyên bố Thần đã bảo họ phạm tội, thì niềm tin vào Thần cũng không phải chịu trách nhiệm cho tội ác. Trái lại, nếu những gì họ làm đi ngược lại giáo lý của các chính giáo, nó chỉ xác nhận sự quý giá trong các lời dạy của Thần, và cho thấy sự hủ bại của các “tôn giáo” hiện đại.

Trong các dối trá và phỉ báng thêu dệt nhằm bức hại Pháp Luân Công, ĐCSTQ tập trung công kích niềm tin vào Thần của Pháp Luân Công. ĐCSTQ đã đàn áp các chính giáo cũng như đức tin vào Thần trong suốt lịch sử. Tuyên truyền của ĐCSTQ xoáy sâu vào “hậu quả tai hại” của việc thiếu hiểu biết và “mê tín”, cũng như các “phù phép”, vốn không có quan hệ gì với Pháp Luân Công. Điều này hoàn toàn không nằm trong khái niệm “niềm tin vào Thần”.

“Khoa học phổ cập” là nông nạn, nhưng không phải là điều xấu. Tuy nhiên, nếu người ta dùng một tiếng nói để thao túng truyền thông, và gán cho “khoa học phổ cập” một mục đích chính trị, thì khi ấy “khoa học phổ cập” không phải là khoa học, mà đơn giản là chính trị bẩn thỉu.

3.2 Vũ trụ có biên giới hay không?

Thuyết vô thần có một gánh nặng chứng minh lớn hơn nhiều so với thuyết hữu thần. Tại sao nói như vậy? Khi thuyết hữu thần muốn chứng minh thuyết vô thần là sai, nó chỉ cần tìm một bằng chứng ngược lại. Nghĩa là nó chỉ cần tìm chứng cứ về sự tồn tại của Thần trong vũ trụ bao la này. Khi ấy thuyết vô thần sẽ được chứng minh là sai. Còn nếu thuyết vô thần muốn chứng minh thuyết hữu thần là sai, sẽ là rất khó khăn. Nó phải đảm bảo rằng không có Thần nào hết trong toàn bộ vũ trụ này. Chỉ như vậy thuyết vô thần mới chứng minh được thuyết hữu thần là sai. Do đó, bất cứ khi nào có một khám phá khoa học mới, những người vô thần sẽ lo lắng hơn những người hữu thần, bởi vì trong mỗi khám phá mới, thuyết vô thần phải phủ định khả năng về sự tồn tại của Thần nếu nó muốn tồn tại. Tuy nhiên, thuyết hữu thần không dùng khoa học con người để chứng minh điều gì cả.

Một câu hỏi cơ bản luôn tồn tại với thuyết vô thần. Liệu vũ trụ này có biên giới hay không? Hầu hết những người vô thần tin rằng nó không có biên giới. Đó là bởi vì nếu họ thừa nhận rằng nó có biên giới, thì điều gì bên ngoài biên giới này? Liệu đó vẫn còn là vũ trụ? Có lẽ nó nên được bao gồm trong vũ trụ. Do đó, có lẽ là không có biên giới. Vậy thì một vấn đề nảy sinh. Người vô thần phải tìm kiếm tất cả các không gian trong vũ trụ và chứng minh rằng không có Thần. Chỉ như vậy thuyết vô thần mới bác bỏ được thuyết hữu thần. Nếu họ giả thuyết rằng vũ trụ không có biên giới, thì có khả thi khi tìm kiếm tất cả các không gian? Làm sao để tiến hành tìm kiếm, và phương pháp được dùng đều phụ thuộc vào mức độ phát triển của khoa học vào thời điểm đó! Khi khoa học tiếp tục phát triển, các phương pháp tìm kiếm mới sẽ không ngừng được khám phá. Chẳng phải họ cần tìm kiếm lại ở những khu vực đã được tìm kiếm trước đó?

Điều này đã trở thành một nghịch lý của thuyết vô thần. Một số người vô thần sau đó đề xuất rằng vũ trụ này có bờ. Stephen Hawking, một nhà vật lý lý thuyết nổi tiếng người Anh, đã đưa ra một giả thuyết, pha trộn thuyết tương đối rộng với cơ học lượng tử để phân tích các mẫu tối giản của vũ trụ. Dựa trên lý thuyết này, ông đi đến kết luận rằng vũ trụ có bờ (edge) nhưng không có biên giới (boundary). Nó cũng giống như một quả bóng. Lý thuyết này đã mở rộng tới mức mà không có sự khởi đầu của vũ trụ. Nói cách khác, theo cách hiểu đó về vạn vật, không có sự sống khởi đầu, và do đó, cũng không cần Thần phải tồn tại.

Lý thuyết của Giáo sư Hawking chỉ là một trong vô số giả thuyết về sự khởi đầu của vũ trụ. Ông cũng viết một tác phẩm khoa học thường thức có tựa đề “Giản sử về thời gian” (A Brief History of Time), trong đó tuyên bố quan điểm của ông về vũ trụ. Năm 2002, khi Giáo sư Hawking viếng thăm Bắc Kinh, Giang Trạch Dân đã gặp gỡ ông. Truyền thông nhà nước Trung Quốc đã quảng bá rầm rộ về ông. Quan điểm vô thần tuyệt đối của Giáo sư Hawking là tương hợp với ý thức hệ của ĐCSTQ, do đó Trung Quốc đã lên cơn sốt “sính Hawking”.

Giáo sư Hawking được mô tả bởi nhiều người là một thiên tài khoa học. Tuy nhiên, sự thực là có tồn tại nhiều thuyết về nguồn gốc của vũ trụ. Lý thuyết của Hawking cũng chỉ là một giả thuyết mà thôi. Trong cơn sốt “sính Hawking”, một số người đã lầm lẫn lý thuyết của ông là một kết luận khoa học cuối cùng, như thể lý thuyết “vũ trụ có bờ” của ông và “không có sự tồn tại của Thần” đã được chứng minh thuyết phục. Giáo sư Hawking nói mặc dù ông đã khám phá ra vũ trụ khởi đầu như thế nào, ông cũng phải thừa nhận: “Tôi vẫn không hiểu tại sao nó muốn bắt đầu”. “Tại sao nó muốn bắt đầu” là câu hỏi mà Newton, Einstein và nhiều nhà khoa học khác suy ngẫm nhưng không thể giải được. Người ta đã gọi nó là một “chủ đề của Thần”, nghĩa là đề tài này vượt quá năng lực trí óc của con người và khả năng của khoa học.

Trong những năm gần đây, thuyết Big Bang đã trở thành một đề tài nóng. Có đồn đại rằng các nhà nghiên cứu đã đạt tới 3 giây trước vụ nổ lớn. Liệu điều này có nghĩa là sau khi nghiên cứu 3 giây này, vạn vật đã được ổn định? Có thể chúng ta sẽ khám phá một vũ trụ còn lớn hơn nữa. Theo cách hiểu của trường phái Phật, trước Big Bang, vũ trụ đã tồn tại nhiều lần. Vũ trụ mà con người nghiên cứu hôm nay chỉ là một vũ trụ rất nhỏ bé (tiểu vũ trụ). Những vũ trụ như vậy là vô số. Các tiểu vũ trụ kết hợp cùng nhau thành một vũ trụ lớn (đại vũ trụ), hết lớp này đến lớp khác. Cũng có các tổ hợp khác theo hướng ngang nữa. Toàn bộ đại khung là rất vĩ đại và mức độ phức tạp của nó nằm ngoài sức tưởng tượng. Các vũ trụ của một lớp nhất định có quy luật vận hành của riêng chúng, và các vũ trụ của mỗi lớp cũng có hình thức sự sống (sinh mệnh) của riêng chúng.

Chúng ta đều biết chữ “trời” hay “thiên” (天). Nhưng trời là ở đâu? Khi nhìn lên bầu trời xanh trên đầu chúng ta, đó đã là trời chưa? Từ góc độ con người, mặt trăng nằm trên bầu trời. Tuy nhiên, nếu bạn nhìn trái đất từ mặt trăng, chẳng phải trái đất cũng là trời hay sao? Do đó, trời mà con người nói đến thực ra vẫn là đất. Trường phái Phật luận chứng rằng trời thật sự, hay “Thiên Đàng” là ở vi mô. Hệ thống phân tử là một lớp của Thiên Đàng, nguyên tử cũng là một lớp khác của Thiên Đàng, và electron là một lớp khác nữa. Kích thước hạt tử càng vi quan, phạm vi thế giới đặc thù cấu thành bởi hạt tử đó lại càng lớn.

Từ quan điểm như vậy, nghiên cứu của nhân loại với vũ trụ quả là quá nhỏ bé.

Điều thú vị là, theo các mô hình hiện tại về vũ trụ, khi các nhà khoa học khám phá bí mật của vũ trụ, họ thấy sự tương đồng đáng kinh ngạc với nhận thức về vũ trụ của Phật gia. Cũng không lạ gì khi một số người muốn nghiên cứu văn hóa thần bí phương Đông để lấy cảm hứng cho việc khám phá vũ trụ.

“Liệu bạn có tin nếu tôi nói với bạn rằng khi bạn đọc bài này, một ‘bạn’ khác đang làm việc tương tự? ‘Bạn’ đó thực sự không phải là bạn, nhưng cũng sống trên một hành tinh gọi là trái đất, nơi có núi, có mây, đất đai và các thành phố trải khắp mặt đất. Hệ mặt trời mà trái đất đó tọa lạc cũng có 8 hành tinh lớn. Cá nhân ấy sống trong môi trường rất tương tự với bạn. Có lẽ anh/cô ấy đã đặt tờ tạp chí này xuống trong khi bạn vẫn đang đọc nó”.

Đây không phải là mê tín. Nó đã được xuất bản trên trang nhất tạp chí khoa học Scientific American số 7 năm 2003, thảo luận về đa vũ trụ (multiple universes).

Bài báo cũng nói, trong lịch sử khoa học, với sự mở rộng của biên giới vật lý học, một số khái niệm trừu tượng vốn thuộc về siêu hình học, chẳng hạn trái đất hình tròn, sự tồn tại của các làn sóng điện từ vô hình, sự chậm lại của thời gian, bẻ cong của không gian và hố đen, v.v. đều tồn tại. Tất cả những điều này đã được bao gồm trong phạm trù vật lý học. Trong những năm này, khái niệm về ‘đa vũ trụ’ bắt đầu xuất hiện trong danh sách.

Cộng đồng khoa học Mỹ không hề bài xích nghiên cứu loại này, hay dán nhãn nó là “mê tín” để phục vụ mục đích chính trị. Tuy nhiên, ĐCSTQ đã làm như vậy. ĐCSTQ đã đi theo con đường trái ngược với nước Mỹ.

3.3 Có thể dùng tư tưởng của người để nghĩ việc của Thần được không?

Khi các tín đồ ngoan đạo nói: “Chúa là toàn năng”, những người vô thần thầm cười và nghĩ: “Liệu Chúa Toàn Năng có giống một tảng đá không thể nhúc nhích hay không?”

Học giả vô thần người Nga được đề cập ở lời nói đầu cũng ôm giữ một suy nghĩ tương tự. Nếu Thượng Đế tồn tại, tại sao ông không triển hiện quyền năng? Hãy bảo ông ấy biểu diễn thần lực cho chúng ta xem! Chẳng phải Thần có năng lực rất lớn hay sao? Tại sao ông không gây báo ứng cho con người? Nếu tôi nhục mạ ông, thì tôi xứng đáng nhận quả báo! Tại sao không xảy ra quả báo?

Thậm chí có một số người vô thần rất thích nghiên cứu kinh của các tôn giáo. Rồi họ cố gắng lấy ra ý nghĩa tách khỏi toàn văn. Họ cố tìm ra các chỗ mâu thuẫn, nghịch lý và chứng minh chúng là hoang đường. Rồi họ đưa ra những bình luận nhạo báng để hạ thấp Thần Phật.

Những người vô thần này có một lý do để say sưa với sự khôn ngoan kiêu ngạo của mình. Họ bị thuyết phục rằng đối mặt với lô-gíc “không thể chối cãi” này, những người hữu thần hẳn sẽ cảm thấy lúng túng. Tuy nhiên, điều mà những người vô thần không lý giải được là sau nhiều thế kỷ thảo luận sự về mâu thuẫn trong đức tin hữu thần, các đức tin này vẫn tồn tại trong cộng đồng. Còn với những ai tin, thì cơ sở lô-gíc của các lời chỉ trích “thiên tài” từ những người vô thần này là không hề tồn tại.

Trên thực tế, lô-gíc của những người vô thần thực sự không tồn tại. Dùng lý luận con người để nghĩ việc của Thần chính là thách thức Thần. Trong mắt những người hữu thần, lô-gíc như vậy là không có lô-gíc.

Con người là anh linh của vạn vật, con người có thể chế tạo ra “người máy” (robot). Nhưng, trong một thế giới “người máy”, có lẽ một ngày nọ sẽ nảy sinh tranh cãi về vấn đề có con người hay không. Những “người máy” này, vốn không tin sự tồn tại của con người, sẽ nói: Gọi “người” tới xem. Tại sao “người” không tới? Dẫu các “người máy” này tranh cãi với nhau thế nào, dẫu các “người máy” này không tin vào sự tồn tại của “người”, thách thức và lăng mạ các “người máy” tin vào sự tồn tại của “người”, chúng ta đều biết rằng “người máy” là do “người” chế tạo ra. “Người máy” có thể hiểu cách chúng được tạo ra như thế nào, và thậm chí có thể chế tạo các “người máy” mới, nhưng chúng sẽ không có một hiểu biết sâu sắc về tại sao “người máy” lại tồn tại.

Chúng ta thực sự có thể lập luận rằng quan hệ giữa người và Thần là rất tương tự quan hệ giữa “người máy” và “người”, bởi vì cả hai đều liên quan đến vấn đề sáng tạo sự sống. Nếu con người muốn hiểu việc của Thần, thì họ phải đặt mình vào vị trí của Thần.

3.4 Phù hợp với lý của người liệu có ý chí của Thần hay không?

Sự phát triển của khoa học cho phép con người hiểu được những gì mà họ chưa biết, và cho người ta một giải thích phù hợp với tư tưởng của con người ở một mức độ lớn nhất. Quá trình này, nếu giải thích theo cách của những người vô thần, là quá trình liên tục “bài trừ mê tín”. Hệ thống giáo dục vô thần của ĐCSTQ đã đẩy nó tới mức phủ nhận sự tồn tại của Thần cùng các lời dạy về đạo đức của Thần.

Điều này liên tưởng đến một câu chuyện cổ: Người Trung Quốc xưa thường nói, “Thiện có thiện báo”. Câu chuyện là như thế này. Vào thời Xuân Thu có Sở Huệ Vương, một ngày khi đang ăn dưa chua, ông tìm thấy một con đỉa trong đó. Nếu ông gẩy con đỉa ra, người đầu bếp sẽ bị kết tội chết. Thấy tội nghiệp cho người đầu bếp, ông đã không kêu tiếng nào mà nuốt hết miếng dưa. Khi bài tiết vào buổi tối, Sở Huệ Vương không chỉ bài tiết con đỉa, mà còn thấy rằng bệnh đau dạ dày của ông đã lành. Chẳng phải đây là minh chứng nguyên lý “thiện có thiện báo” ư?

Có nhiều tầng cấp khác nhau của Lý. Học sinh học phép tính từ trung học cho tới đại học, nhưng nó nói về những điều khác nhau và là quá trình từ cụ thể tới trừu tượng. Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ định nhận thức ở cấp cao chỉ bằng khám phá ở cấp thấp.

Giờ hãy nói về nguyên lý “thiện có thiện báo”. Phật gia giảng làm việc thiện sẽ nhận được “đức”, hay “tích đức”. “Đức” là một loại vật chất màu trắng tồn tại bên ngoài thân thể. Nói bằng thuật ngữ khoa học, thì nó hình thành một trường năng lượng. Trường này có thể bảo vệ người ta, chuyển hung thành cát. Cụ thể chuyển hung hóa cát như thế nào? Mỗi lần cũng phải phù hợp với một tầng Lý nơi con người đây. Đối với hữu thần luận, khi Thần muốn làm gì đó ở nơi con người, thì ắt phải phù hợp với Lý của con người, bởi vì tầng con người đây là Thần sáng tạo ra, cũng là biểu hiện “trí tuệ của Thần’. Làm sao có thể phủ định ý chí của Thần khi Thần hành sự cũng theo Lý của con người đây?

Có rất nhiều ví dụ về người vô thần phủ định thuyết hữu thần bằng cách tìm ra một nguyên lý ở thế giới con người. Rất nhiều lý luận về phân tử, gene, v.v. đã xuất hiện trong thuyết tiến hóa. Cứ cho là ngay cả các lý luận này cũng có thể giải thích thuyết tiến hóa, thì có thể loại bỏ khả năng phân tử, gene, v.v. đều là công cụ mà Thần sử dụng để hành sự tại thế giới con người?

Hãy so sánh một chút bằng cách tiếp tục câu chuyện về “người máy”. Giả sử các “người máy” này được nghe một tiếng chuông mỗi ngày. Các “người máy” ngu ngốc ban đầu sẽ nghĩ rằng “con người” đang tác quái. Dần dần, một số “người máy” thông minh sẽ phát hiện về cách tiếng chuông được tạo ra. Thế giới “người máy” đã biết được rằng tiếng chuông kêu vào buổi trưa là do cơ chế cơ khí của đồng hồ gây ra. Sau khi khám phá ra bí mật này, chúng sẽ không còn tin rằng “con người” đang tác quái nữa. Đây có thể coi là một Lý ở tầng thấp. Cũng giống như con người khám phá ra bí mật về tiếng sét vậy. Sau khám phá, họ không còn tin rằng “Thần” tạo ra sấm chớp nữa. Tuy nhiên, nếu các “người máy” muốn tiến thêm một bước, chúng sẽ dùng khám phá về tiếng chuông để phủ định sự tồn tại của “con người”. Điều này, tất nhiên, đã lệch quá xa. Đó là vì cái chuông thực sự đã được thiết kế, tạo ra, và được con người đặt ở đó.

3.5 “Không thể chứng minh tồn tại” liệu có nghĩa là “không hề tồn tại” hay không?

Ngày 26 tháng 2 năm 2004, Vương Quán Trường, Chủ nhiệm Bảo tàng Khoa học và Công nghệ Trung Quốc đã viết một bài trong “Báo cáo thời sự”, lấy danh nghĩa Ban Tuyên giáo Trung ương như sau: “Ngày nay, không có bằng chứng nào chứng minh sự tồn tại của quỷ thần. Bởi vậy, thuyết hữu thần là một lý luận sai lầm, là sự lầm lẫn của nhân loại, làm đảo lộn thế giới quan của con người”.

Sự tồn tại của Thần là rất khó để chứng minh. Nhân loại đã tranh luận về chủ đề này trong hàng ngàn năm qua. Tuy nhiên, theo cách nhìn của Chủ nhiệm Vương, nó trở thành một câu hỏi rất đơn giản, và có thể giải quyết dễ dàng: Vì sao “thuyết hữu thần” là sai? Bởi vì không có bằng chứng về sự tồn tại của Thần được tìm thấy.

Giả thuyết của Goldbach, tuyên bố năm 1742 rằng “Mọi số lẻ lớn hơn 5 đều có thể được biểu diễn thành tổng của 3 số nguyên tố”, chưa hề được chứng minh, nhưng vẫn ngầm được thừa nhận. Người ta có thể khẳng định giả thuyết của Goldbach là sai hay không? Về trường hợp Chủ nhiệm Vương, ông ta theo sát đường hướng và các “hình mẫu” mà ĐCSTQ dùng để phê phán thuyết hữu thần. Ông ta cũng không theo phương pháp khoa học trong việc đưa ra kết luận.

Sai lầm của Chủ nhiệm Vương nằm ở chỗ không có chuẩn mực đúng-sai trong việc đưa ra kết luận, mà chỉ giải thích câu hỏi theo lô-gíc của bản thân.

Chủ nhiệm Vương không phải là một học giả chân chính. Trong bài viết của mình, Chủ nhiệm Vương đã nhắm vào Pháp Luân Công. Những lời của ông ta được lấy làm “căn cứ lý luận” để bức hại Pháp Luân Công và làm hài lòng Chủ tịch Giang Trạch Dân. Những gì ông Vương viết thực ra là phục vụ mục đích chính trị của Ban Tuyên giáo Trung ương ĐCSTQ. Nó lệch quá xa khỏi phạm vi của một nghiên cứu học thuật. “Lô-gíc sai lầm” của Chủ nhiệm Vương không thể được coi là một tranh luận học thuật đơn thuần, mà là một hung khí chết người.

(còn tiếp…)

Dịch từ:

http://www.minghui.org/mh/articles/2005/3/30/98145.html
http://www.clearwisdom.net/emh/articles/2005/4/27/60092.html

The post ĐCSTQ dùng “thuyết vô thần” để bức hại tự do tín ngưỡng (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/07/dcstq-dung-thuyet-vo-than-de-buc-hai-tu-do-tin-nguong-2.html/feed0
ĐCSTQ dùng “thuyết vô thần” để bức hại tự do tín ngưỡng (1)https://chanhkien.org/2012/07/dcstq-dung-thuyet-vo-than-de-buc-hai-tu-do-tin-nguong-1.htmlhttps://chanhkien.org/2012/07/dcstq-dung-thuyet-vo-than-de-buc-hai-tu-do-tin-nguong-1.html#respondWed, 04 Jul 2012 10:30:37 +0000http://chanhkien.org/?p=20521Nhiều năm trước, có một học giả người Nga nọ cổ xúy thuyết vô thần. Một ngày, trong một hội nghị lớn, ông đã có một bài phát biểu thuyết phục thính giả rằng Thượng Đế là tuyệt đối không thể tồn tại.

The post ĐCSTQ dùng “thuyết vô thần” để bức hại tự do tín ngưỡng (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Âu Dương Phi, bình luận viên Minh Huệ

“Thẩm phán của thiên sứ”, tranh của Uông Vệ Tinh

[Chanhkien.org]

NỘI DUNG:

Lời mở đầu

1. “Thuyết vô thần” đã được chứng thực bởi khoa học?

2. “Khoa học” và “hữu thần” bổ sung cho nhau

3. “Vô thần” có thể phủ nhận “hữu thần”?

3.1 “Khoa học phổ cập” của ĐCSTQ đả kích điều gì?
3.2 Vũ trụ có biên giới hay không?
3.3 Có thể dùng tư tưởng của người để nghĩ việc của Thần được không?
3.4 Phù hợp với lý của người liệu có ý chí của Thần hay không?
3.5 “Không thể chứng minh tồn tại” liệu có nghĩa là “không hề tồn tại” hay không?

4. “Vô thần” là một trường hợp ngoại lệ ngoài biên của “hữu thần”

5. ĐCSTQ biến “thuyết vô thần” thành một công cụ chính trị

5.1 “Thuyết vô thần” nguyên là một môn học
5.2 Vì sao ĐCSTQ cổ xúy “thuyết vô thần”?
5.3 ĐCSTQ cổ xúy “thuyết vô thần” như thế nào?

6. “Thuyết vô thần” đã mang đến điều gì cho người Trung Quốc?

6.1 “Thuyết vô thần” mang đến tiến bộ khoa học kỹ thuật cho Trung Quốc?
6.2 “Thuyết vô thần” nâng cao đạo đức cho người Trung Quốc?
6.3 “Thuyết vô thần” mang đến hạnh phúc thịnh vượng cho người Trung Quốc?

Kết luận

*****************

Lời mở đầu

Nhiều năm trước, có một học giả người Nga nọ cổ xúy thuyết vô thần. Một ngày, trong một hội nghị lớn, ông đã có một bài phát biểu thuyết phục thính giả rằng Thượng Đế là tuyệt đối không thể tồn tại. Trong khi phát biểu, khi tới chỗ lập luận của ông thực sự bắt đầu thuyết phục người nghe, ông ngửa mặt lên trời nói to thách thức Thượng Đế: “Thượng Đế, nếu ông tồn tại, hãy xuống đây và giết chết tôi giữa đám đông này. Có vậy chúng tôi mới tin rằng ông tồn tại!” Và rồi, ông ngưng một vài phút như thể đang thực sự chờ đợi điều gì đó xảy ra. Tất nhiên, Thượng Đế đã không đi xuống và giết ông ta. Ông ta nhìn quanh rồi kết luận: “Thấy chưa? Thượng Đế làm gì tồn tại!”

Trước sự ngạc nhiên của ông, một người phụ nữ quàng khăn trên đầu đứng dậy và đáp lời: “Thưa ông, lý thuyết của ông rất sâu sắc và ông quả là một học giả đọc rộng biết nhiều. So với ông, tôi chỉ là một phụ nữ quê mùa. Tôi không đủ khả năng bác lại lý thuyết của ông. Tuy nhiên, tôi mong muốn ông trả lời giúp câu hỏi của tôi. Tôi đã thờ phượng Đức Chúa Jesus trong nhiều năm. Tôi cảm thấy an lành trong tâm khi tôi nghĩ rằng Chúa là Đấng cứu rỗi chúng ta. Tôi thích đọc Kinh Thánh. Càng đọc Kinh Thánh, tôi càng cảm thấy an lành. Sự huy hoàng của Chúa Jesus sung mãn trái tim tôi. Bởi vì tôi tin vào Chúa Jesus, tôi có được niềm vui lớn nhất trong cuộc đời. Tôi muốn hỏi ông câu hỏi sau đây. Nếu, sau khi chết, tôi phát hiện rằng Chúa không hề tồn tại, rằng Chúa Jesus không phải Con của Thượng Đế, và rằng những gì nói trong Kinh Thánh là không đúng, thì tôi đã đánh mất điều gì nếu tôi tin vào Chúa Jesus trong suốt cuộc đời?” Vị học giả cổ xúy thuyết vô thần ngẫm nghĩ về câu hỏi này một lúc. Toàn bộ hội trường yên lặng như tờ. Họ đồng ý với lý lẽ của người phụ nữ. Ngay cả học giả vô thần kia cũng kinh ngạc trước lô-gíc đơn giản và thuần khiết của người phụ nữ. Ông thầm đáp: “Tôi không nghĩ bà sẽ mất mát điều gì”.

Người phụ nữ nói: “Cám ơn ông đã cho tôi một câu trả lời hay. Tôi còn một câu hỏi khác. Nếu, sau khi chết, ông phát hiện Chúa quả đúng là tồn tại, rằng những gì viết trong Kinh Thánh là tuyệt đối đúng, rằng Chúa Jesus đúng là Con của Thượng Đế, và rằng Thiên Đàng và địa ngục là có tồn tại, thì xin hỏi ông, ông đã đánh mất điều gì?” Vị học giả im lặng thời gian lâu và không biết phải trả lời ra sao trước câu hỏi thứ hai này.

Hàng ngàn năm đã trôi qua. Câu chuyện về vị học giả người Nga và người phụ nữ quê mùa – cuộc tranh luận giữa “hữu thần” và “vô thần” – đã không ngừng tái diễn trong lịch sử nhân loại.

Trong một xã hội bình thường, liệu một người có tin vào Thần hay không hoàn toàn là lựa chọn tự do của cá nhân người ấy. Tranh luận như vậy đơn giản chỉ là biểu hiện của thế giới quan khác nhau. Tuy nhiên, đáng buồn thay, tại Trung Quốc ngày nay, thuyết vô thần đã bị chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) lợi dụng. Sự khác biệt trong thế giới quan đã trở thành một cuộc diệt tuyệt tín ngưỡng vô nhân đạo và bi thảm. Dưới cờ hiệu “khoa học”, ĐCSTQ đã vắt kiệt tài nguyên của cả một quốc gia để bức hại những người tin vào Thần. Mức độ của thảm họa bức hại là chưa từng có trong lịch sử nhân loại.

Liệu “vô thần” khoa học hơn hay “hữu thần” khoa học hơn?

Trong bài này, tôi sẽ giải đáp câu hỏi này từ một góc độ rộng lớn hơn. Mục đích là phá trừ gông cùm ý thức hệ của ĐCSTQ vốn cổ xúy thuyết vô thần như một chân lý tuyệt đối và lấy đó để trói buộc người dân Trung Quốc. Đồng thời, chúng ta cũng nhìn lại xem tập đoàn Giang Trạch Dân và ĐCSTQ đã sử dụng thuyết vô thần để phỉ báng và bôi nhọ Pháp Luân Công trong một thời gian dài như thế nào, tới mức những lời lừa dối che kín cả trời và đất. Tôi hy vọng bài viết này sẽ không chỉ giúp những ai không tin vào Thần nhìn nhận lại vấn đề này với một tâm cởi mở và khoan dung hơn, mà còn góp phần bảo vệ tự do tín ngưỡng chân chính của tất cả mọi người.

1. “Thuyết vô thần” đã được chứng thực bởi khoa học?

Có một khẩu hiệu nổi tiếng của những người cổ xúy thuyết vô thần rằng: “Khoa học tiến thêm một bước, thì Thần rút lui một bước”. Trên thực tế, mỗi bước đột phá trong khoa học, ngược lại, mở ra một không gian chưa biết lớn hơn cho nhân loại. Kết quả là, loài người càng phát hiện ra rằng bản thân mình thật nhỏ bé.

Năm 1928, người đoạt giải Nobel, nhà vật lý Max Born, dựa trên khám phá của Paul Dirac về phương trình mô tả hành vi của electron, đã có bình luận như sau: “Vật lý học mà chúng ta biết sẽ kết thúc trong vòng 6 tháng”. Tuy nhiên, sau đó, phát hiện về neutron đã mở ra cánh cửa mới cho vật lý học. Sáu tháng đã hết, nhưng vật lý học vẫn không kết thúc. Tới ngày nay, hơn 70 năm đã trôi qua và vật lý học vẫn chưa kết thúc.

Thực tế, sự tiến bộ của khoa học không có nghĩa là ngược hướng với thuyết hữu thần.

Người vô thần nổi tiếng thời Đông Hán ở Trung Quốc là Vương Sung không tin vào “Thiên nhân cảm ứng”. Ông cho rằng người ở trên mặt đất còn Thần thì ở trên thiên thượng. Cách xa như vậy, làm sao tiếng của người có thể được Thần nghe thấu! Từ đó ông kiên quyết phủ định thuyết “Thiên nhân cảm ứng”.

Tuy nhiên hiện tại chúng ta biết rằng chỉ với một ăng-ten thu phát sóng, chúng ta có thể liên lạc với vệ tinh trên bầu trời. Chẳng phải hệ thống GPS (hệ thống định vị toàn cầu) được cài trong các xe hơi cũng dựa trên nguyên lý tương tự? Khoa học nhìn nhận rằng cơ thể người là cực kỳ phức tạp và tiến bộ hơn rất nhiều các “ăng-ten” thu phát sóng. Ngay cả GPS cũng có thể giao tiếp với vệ tinh, vậy con người chúng ta, còn tiến bộ hơn các “ăng-ten”, liệu có thể giao tiếp với Thần trên thiên thượng hay không? Nếu Vương Sung còn sống đến hôm nay, sự tiến bộ của khoa học sẽ không giúp ông xác nhận thuyết vô thần, mà hoàn toàn ngược lại. Một số người nói rằng thuyết hữu thần bắt nguồn từ sự ngu muội của con người trong những ngày mà khoa học còn chưa phát triển. Tuy nhiên trái lại, bằng lý luận tương tự, chúng ta có thể nói rằng sự ngu ngốc của con người có thể được dùng để giải thích tại sao một số người lại tin vào thuyết vô thần.

Thực ra, con người vẫn luôn vận dụng khoa học để khám phá các sinh mệnh ngoài hành tinh. Nhiều người thích nói hoặc đọc các chủ đề về UFO. Theo quan sát thiên văn và vũ trụ gần đây nhất, chỉ 4% vật chất trong vũ trụ cấu thành mô hình vật lý tiêu chuẩn, mà vật chất lại được cấu thành bởi các hạt tử vi mô (các hạt tử chưa được con người biết đến), trong khi 96% vật chất được cấu thành bởi vật chất tối và năng lượng tối còn là bí ẩn với nhân loại. Liệu vật chất tối có linh tính và sự sống hay không? Các khám phá khoa học, bản thân nó không thể phủ nhận sự tồn tại của các sinh mệnh cấp cao. Nếu các nhà khoa học có thể phát hiện các sinh mệnh cao cấp, cao tầng tới mức có thể tạo ra nhân loại, thì chẳng phải có nghĩa Thần đã được tìm thấy?

Do đó, khoa học không phải là độc quyền của những người vô thần. ĐCSTQ, vốn không bao giờ theo quy luật khoa học thực sự, lại thích dùng cái mác “khoa học”. Kỳ thực đây là lạm dụng danh xưng “khoa học” và dùng nó như cái gậy để đánh người. Trong cuộc đàn áp Pháp Luân Công, ĐCSTQ và tập đoàn Giang Trạch Dân đã cổ vũ rùm beng cái gọi là “ủng hộ khoa học” và nhân danh “vô thần khoa học”, cứ như thể thuyết vô thần là một định luật khách quan đã được chứng thực bởi khoa học. Trên thực tế, một môn khoa học thực sự không cần phải lấy mác “khoa học” để quảng bá danh tiếng của chính nó. Liệu đã ai nghe về cụm từ “vật lý khoa học” hay “hóa học khoa học”? Chưa. Trên thực tế, ĐCSTQ có sở thích gọi những thứ không khoa học là “khoa học”. Nó vừa trang điểm cho ĐCSTQ, lại vừa lừa dối người dân. Lấy ví dụ, cái gọi là “chủ nghĩa xã hội khoa học” và “chủ nghĩa cộng sản khoa học” là những cụm từ điển hình của ĐCSTQ. Liệu còn ai ở Trung Quốc thực sự tin chúng là khoa học? Liệu có nước tư bản thịnh vượng nào tự xưng mình là theo “chủ nghĩa tư bản khoa học”?

Nếu thuyết hữu thần được coi là một giả thuyết trong thế giới quan của một cá nhân, thì thuyết vô thần, nhiều nhất cũng chỉ có thể được coi là một giả thuyết khác. Khách quan mà nói, không có cái gọi là “định luật khoa học” trong cuộc tranh luận giữa vô thần và hữu thần. Ngay cả thuyết vô thần kinh điển được sùng bái bởi những người vô thần —thuyết tiến hóa— cũng chỉ là một giả thuyết mà Darwin đề xuất dựa trên quan sát cá nhân. Tuy nhiên, thuyết tiến hóa lại được tuyên truyền như một loại “niềm tin”. Nó không có luận chứng chặt chẽ và vẫn chưa được xác nhận bởi khoa học thực nghiệm. Nếu bạn hỏi các chuyên gia tiến hóa hiện đại ngày nay rằng họ đang làm gì, thì họ sẽ trả lời bạn rằng họ vẫn đang gắng sức tìm bằng chứng ủng hộ lý thuyết của họ, cũng như tìm đủ mọi cách bài xích các bằng chứng ngược lại với thuyết tiến hóa.

2. “Khoa học” và “hữu thần” bổ sung cho nhau

Sự thành công của một nhà khoa học không nhất thiết là liên quan đến người đó tin vào Thần hay là không. Nhiều nhà khoa học nổi tiếng, chẳng hạn Kepler, Boyle, Newton, Faraday, Morse, Joule, Maxwell, Mendel, và Fleming, v.v. đều là “người hữu thần” có tín ngưỡng tôn giáo. Họ đều tin vào sự tồn tại của Thần. Mặt khác, cũng có nhiều nhà khoa học thành công là người vô thần.

Trên thực tế, khoa học phương Tây đã hoàn toàn thay đổi phương thức sinh hoạt của con người. Nó thâm nhập vào đủ mọi khía cạnh của đời sống. Con người đang phụ thuộc vào khoa học, và điều này khiến người ta sùng bái khoa học, chứ không phải Thần.

Báo cáo một cuộc khảo sát các nhà khoa học ở Mỹ về đức tin cá nhân của họ cho thấy ngày càng ít nhà khoa học tin vào Thần vào cuối thế kỷ 20 so với đầu thế kỷ. Những người vô thần hẳn là rất tự hào về điều này. Tuy nhiên, người ta không chú ý tới một xu hướng rất thú vị và trớ trêu. Mặc dù nhiều người hơn trở thành nhà khoa học, sự đột phá của khoa học lại chậm hơn trong giai đoạn này. Nhiều nhà khoa học đã mất niềm tin của họ vào công việc và chuyển sự nghiệp sang lĩnh vực phần mềm máy tính hay tài chính.

Chúng ta không thể nói rằng khi có nhiều người vô thần hơn thì khoa học sẽ phát triển chậm hơn. Tuy nhiên, khoa học ngày nay thực sự cần một bước đột phá. Nhiều nhà khoa học đã bắt đầu bước vào nghiên cứu các lĩnh vực mà họ không muốn, hay thậm chí không dám nghiên cứu trước đó.

Trong những năm gần đây, nhiều nhà khoa học phương Tây đã bắt đầu hợp tác với các nhà thần học. Họ đã học hỏi kinh nghiệm từ những nhóm tôn giáo trong khi nghiên cứu khoa học hiện đại.

Các câu hỏi mà khoa học muốn tìm kiếm câu trả lời đều liên quan đến cụm từ “như thế nào”. Các tế bào hoạt động như thế nào trong cơ thể chúng ta? Chúng ta nên thiết kế các máy bay siêu thanh như thế nào? Còn các câu hỏi mà tôn giáo cố gắng trả lời đều liên quan đến cụm từ “tại sao”. Tại sao nhân loại được tạo ra? Tại sao tôi phải nói lên sự thật? Tại sao vũ trụ này tồn tại? Tại sao vũ trụ lại ở trong trạng thái hiện nay?

Khoa học phân tích sự vật, cũng như hành vi của người và động vật. Nó không quan tâm liệu hành vi đó là tốt hay là xấu. Tuy nhiên, các câu hỏi tôn giáo lại là về tốt hay xấu. Do đó, người ta nói rằng khoa học chỉ nghiên cứu “như thế nào” và “cái gì”, còn tôn giáo nghiên cứu “tại sao”. Mặc dù khoa học cũng giải thích “tại sao” ở một mức độ nhất định, nó không thể giải thích gốc rễ câu hỏi “tại sao”, cái gọi là “nguyên nhân đầu tiên” – “tại sao” về các vấn đề lớn, đó là gốc rễ sâu xa của mọi việc.

Một số nhà khoa học thành công với nền tảng tôn giáo đều có một ước muốn chung, đó là tìm kiếm chỗ đứng chung giữa khoa học và thần học. Họ đều cố gắng dùng thần học để trả lời một số câu hỏi căn bản mà khoa học không thể giải thích. Các nhà khoa học này đưa ra một vấn đề, chẳng hạn: Nếu mọi thứ tiến hóa từ cấp thấp cho đến cấp cao, thì hướng tiến hóa được xác định như thế nào? Thuyết tiến hóa không thể giải đáp câu hỏi này. Mọi thứ chỉ có thể tiến hóa sau khi phương hướng đã được xác định. Chẳng phải điều này có nghĩa là Thần đã xác định phương hướng?

ĐCSTQ có một câu nói thường dùng: “Quy luật khách quan không thay đổi bởi ý chí con người”. Ý chí nào không thể lay chuyển bởi ý chí của con người? Chẳng phải hai chữ “Tự Nhiên” có thể đơn giản giải thích mọi thứ hay sao?

Tôn giáo không phải là để trợ giúp sự phát triển của khoa học, mà bản thân tín ngưỡng tôn giáo của nhà khoa học có thể giúp khoa học đột phá qua nghiên cứu cá nhân của họ. Tuy nhiên, nếu những người vô thần có thể có một cái nhìn “khoa học” cho phép sự tồn tại của đức tin vào Thần, và tôn trọng tự do tín ngưỡng của người khác, thì thế giới này sẽ trở nên hài hòa mỹ mãn hơn.

(còn tiếp…)

Dịch từ:

http://minghui.ca/mh/articles/2005/3/29/98144.html
http://www.clearwisdom.net/emh/articles/2005/4/25/60043.html

The post ĐCSTQ dùng “thuyết vô thần” để bức hại tự do tín ngưỡng (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/07/dcstq-dung-thuyet-vo-than-de-buc-hai-tu-do-tin-nguong-1.html/feed0