Thương Hiệt | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 24 Apr 2025 07:00:24 +0000en-UShourly1Thương Hiệt chân ý (Quyển 2): Thiên bạo của chữ “bạo” – Sự thai nghén và ra đời của ĐCSTQhttps://chanhkien.org/2025/04/thuong-hiet-chan-y-quyen-2-thien-bao-cua-chu-bao-su-thai-nghen-va-ra-doi-cua-dcstq.htmlFri, 04 Apr 2025 01:46:00 +0000https://chanhkien.org/?p=36998Tác giả: Nguyên Tử [ChanhKien.org] Đặc tính vận hóa năng lượng của âm dương trời đất không chỉ thể hiện ở tầng diện “tính”, có sự phân chia giữa “nhẫn” và “bạo”, mà còn thể hiện ở tầng diện “năng”, có khả năng “sinh hóa”. Từ phương diện lưu hành âm dương phản bối của […]

The post Thương Hiệt chân ý (Quyển 2): Thiên bạo của chữ “bạo” – Sự thai nghén và ra đời của ĐCSTQ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Nguyên Tử

[ChanhKien.org]

Đặc tính vận hóa năng lượng của âm dương trời đất không chỉ thể hiện ở tầng diện “tính”, có sự phân chia giữa “nhẫn” và “bạo”, mà còn thể hiện ở tầng diện “năng”, có khả năng “sinh hóa”.

Từ phương diện lưu hành âm dương phản bối của trời đất, sự giao tranh giữa âm dương trời đất đối ứng với tính đấu tranh và tính cách mạng của nhân loại. Xét về công năng sinh hóa của trời đất, sự lưu hành và vận hóa của khí trong trời đất có thể sinh ra vạn vật. Lão Tử giảng: “Vạn vật cõng âm mà ôm dương”. Sự ngưng tụ của âm dương trong trời đất và Phật tính của “nhẫn” đối ứng với nhân loại có sự xuất hiện của Thánh nhân; còn ma tính của sự chiến đấu giữa âm dương trong trời đất đối ứng với nhân loại có ma vương xuất hiện. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất là sản phẩm của tâm tham lợi ích của nhân loại gây ra, kết quả là cuộc cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, sản sinh ra chính quyền tà ác Xô Viết màu đỏ. Chiến tranh thế giới lần thứ hai là sản phẩm của sự tham lam, dục vọng chiếm hữu và tâm lý độc tài muốn kiểm soát thế giới, kết quả của nó là chiến thắng của cách mạng cộng sản Trung Quốc vào tháng 10 năm 1949, thiết lập nên chính quyền tà ác khủng bố đỏ tà ác nhất trong lịch sử nhân loại.

Từ quẻ tượng của chữ bạo “暴” mà xét, nhật chủ hỏa ở trên trời; khảm thủy (khảm có thể hiểu là đất trũng, trở ngại) ở dưới đất, âm dương của trời đất giao chiến. Trên trời là thiên đạo cương liệt, sát phạt hung bạo, gọi là “thiên bạo”, lực lượng và năng lượng chủ của nó chính là “võ bạo”. Kinh Dịch giảng rằng: “Tại thiên thành tượng”, tức là trên trời thể hiện bản tượng của sinh mệnh. Đối ứng với tầng diện vật chất của nhân loại chính là chiến tranh và bạo lực cách mạng, từ đó thúc đẩy hình thành kết cấu vật chất của trật tự mới của nhân loại; đối ứng với tầng diện tinh thần của nhân loại là cách mạng văn minh, thúc đẩy hình thành kết cấu tinh thần của trật tự mới của nhân loại; đối ứng với tầng diện ý thức của sinh mệnh chính là chiêu mời tà linh phụ thể. Dụng ý thực sự của lịch sử phức tạp và đầy biến động trong nửa đầu thế kỷ XX của Trung Quốc cũng như thế giới, là thúc đẩy sản sinh ra ĐCSTQ: chính quyền ĐCSTQ với kết cấu vật chất khổng lồ của nó, tư tưởng Mao Trạch Đông – văn hóa đảng tà ác lấy “giả, ác, đấu” làm cốt lõi, cũng như tà linh cộng sản với kết cấu ý thức tà ác của nó. Sự thật này đã được dự báo trong pháp tướng của chữ “暴” – giữa Mặt Trời gay gắt và nước khảm, trong hoàn cảnh âm dương phản bối như vậy, ở giữa đất trời đã sinh ra một chữ cộng “共”, đồng thời còn tiên đoán rằng thời kỳ thai nghén của bào thai này kéo dài 28 năm (chữ 共 có thể chiết tự thành hai chữ thập 十 và một chữ bát 八, tức là 28), từ năm 1921 đến 1949.

Tiếp theo, chúng ta sẽ tiến hành phân tích sâu hơn về quá trình sinh hóa phức tạp và tà ác của sinh mệnh này.

I. Sự sinh hóa của kết cấu vật chất của ĐCSTQ – Quá trình thai nghén và ra đời của chính quyền Trung Cộng

Hiển nhiên, hiện tượng “thiên bạo” này không chỉ hạn cuộc ở Trung Quốc, nó mang tính toàn cầu. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (từ tháng 07 năm 1914 đến tháng 11 năm 1918) và chiến tranh thế giới lần thứ hai (từ năm 1938 đến năm 1945) chính là “thiên bạo” tàn khốc nhất trong lịch sử nhân loại. Cuộc cách mạng bạo lực “dân chủ mới” mà ĐCSTQ tiến hành để giành chính quyền bằng vũ trang chính là kết quả thực sự của “thiên bạo” mang tính toàn thế giới này.

Chiến tranh thế giới lần thứ nhất là cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa do các nước thuộc phe liên minh gồm Đức – Áo – Hung đứng đầu, đối đầu với các nước thuộc phe hiệp ước Anh, Pháp và Nga. Hai bên đều vì tranh giành thị trường hàng hóa và phân chia lại thế giới nên đã tiến hành chiến tranh giữa các đế quốc. Ngọn lửa chiến tranh lan rộng khắp ba châu lục: châu Âu, châu Á và châu Phi. Cuộc chiến đã kéo theo sự tham gia của 33 quốc gia, với hơn 1,5 tỷ người bị cuốn vào vòng xoáy chiến tranh. Tổng số binh lính được huy động lên đến 65 triệu, trong đó có hơn 30 triệu người thương vong. Cuộc chiến kết thúc với thất bại của phe liên minh do Đức dẫn đầu. Mặc dù Anh và Pháp giành được chiến thắng, nhưng thực lực của họ đã bị suy yếu đáng kể, trong khi Mỹ và Nhật Bản bắt đầu vươn lên. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, chính quyền Xô Viết đỏ ra đời ở Nga, sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, ĐCSTQ được thai nghén và thành lập.

Chiến tranh thế giới lần thứ hai là cuộc đại chiến có quy mô chưa từng có trong lịch sử nhân loại, với 61 quốc gia và vùng lãnh thổ cùng hơn hai tỷ người bị cuốn vào trong đó. Tổng số binh lính tham chiến vượt quá 100 triệu người, trong đó có khoảng 90 triệu binh sỹ và dân thường thương vong, khoảng 30 triệu người mất nhà cửa, phải lưu lạc. Với mức độ tàn khốc và thiệt hại trên phạm vi lớn, cuộc chiến này đã viết nên trang sử đẫm máu nhất trong lịch sử chiến tranh nhân loại. Khi nhìn lại chiến tranh thế giới lần thứ hai, những hình ảnh bi thương nhưng hào hùng, đẫm máu nhưng chấn động lòng người vẫn mãi khắc sâu trong ký ức nhân loại, khiến ai ai cũng không thể quên.

Thế nhưng, cho đến ngày nay, nhân loại vẫn nghiên cứu bàn luận về chiến tranh thế giới lần thứ hai, mà đem hết thảy tội lỗi quy kết một cách giản đơn cho kẻ đầu sỏ là Hitler độc tài và tham vọng. Nhưng đây chỉ là hiện tượng bên ngoài của những nguyên nhân phức tạp dẫn đến cuộc chiến này. Dù con người có tàn ác đến đâu cũng không thể ác bằng ma quỷ. Điều mà nhân loại chưa nhận ra là đằng sau cuộc chiến này, kẻ chủ mưu thực sự, tên hung thủ ẩn giấu trong bóng tối, chính là ĐCSTQ – diện mục chân thực của nó là con ác long màu đỏ mà Kinh Thánh nhắc tới, cũng chính là hóa thân của con rắn cổ xưa – Satan. Con rồng đỏ này đã phụ thể vào Trung Quốc, một quốc gia với nền văn minh lâu đời, con phụ thể này thông thường cũng được gọi là tà linh cộng sản.

Tại Trung Quốc, từ năm 1921 đến 1949 của thế kỷ trước, ĐCSTQ gọi thời kỳ này là “Cách mạng dân chủ mới”, với mục tiêu lật đổ chính quyền cách mạng quốc dân chủ nghĩa Tam Dân do Tôn Trung Sơn thành lập, dựng lên một chính quyền xã hội chủ nghĩa được cai trị theo lý luận chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, ĐCSTQ đã lãnh đạo nhân dân Trung Quốc tiến hành cách mạng, khởi xướng các phong trào như đánh thổ hào, chia ruộng đất, khởi nghĩa thu hoạch mùa thu, kiến lập căn cứ vũ trang đỏ ở tỉnh Cương Sơn, khởi nghĩa Nam Xương, nội chiến Quốc – Cộng, cuộc trường chinh, thiết lập căn cứ đỏ Diên An, chiến tranh kháng Nhật, vận động chỉnh phong ở Diên An, ba năm nội chiến, giải phóng toàn Trung Quốc, lật đổ ba ngọn núi lớn đè lên đầu nhân dân Trung Quốc, đập tan thế giới cũ vạn ác. Đó thực sự là một thời kỳ cách mạng đầy mưa máu gió tanh – đại bạo loạn trong vũ trụ. Cuộc cách mạng bạo lực kinh tâm động phách này cuối cùng đã dùng xương cốt của 30 triệu sinh mạng người Trung Quốc để xây dựng lên một Vạn Lý Trường Thành màu đỏ, và vào ngày 01 tháng 10 năm 1949, một thể xác khổng lồ mang tên Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã ra đời. Chính quyền tà ác được tạo ra từ “thiên bạo” này đã hình thành.

Sự sinh hóa vật chất của bạo – chính là quá trình tạo dựng tà ác trên tầng diện vật chất, với mục đích thúc đẩy thai nghén một thể xác tà ác để làm nơi trú ngụ và thao túng, khống chế của tà linh cộng sản. Nó nắm giữ toàn bộ bộ máy của quốc gia, khống chế hàng chục triệu đảng viên, chiếm đoạt toàn bộ tài nguyên vật chất của xã hội.

II. Sự sinh hóa của kết cấu tinh thần ĐCSTQ – Quá trình thai nghén và ra đời của tư tưởng Mao Trạch Đông

Trong quá trình hình thành kết cấu vật chất của ĐCSTQ từ năm 1921 đến 1949, đồng thời cũng diễn ra quá trình sinh hóa kết cấu tinh thần của ĐCSTQ. Quá trình này cũng chính là quá trình hình thành cái gọi là tư tưởng Mao Trạch Đông trong sách giáo khoa của ĐCSTQ. Nó được ĐCSTQ coi là “tam đại pháp bảo”, gồm có: Mặt trận thống nhất, đấu tranh vũ trang, xây dựng đảng. Từ đó đã cấu thành nên cơ sở “văn hóa đảng” tà ác của Trung Cộng. Dưới đây, chúng ta sẽ phân tích ngắn gọn về ba đại ác pháp này.

(1) Mặt trận thống nhất – giả – ác pháp dùng dối trá và lừa gạt để thao túng toàn bộ xã hội

ĐCSTQ có một bộ phương pháp tư tưởng thống chiến tà ác, tức là cái gọi là các giai cấp, giai tầng, đảng phái, và các đoàn thể xã hội, v.v. có thể đoàn kết vì một mục tiêu chung để thực hiện hành động thống nhất. Thực chất là lúc cần dùng, thì sẽ đứng cùng một chiến tuyến, để nó tận dụng các lực lượng, các thế lực xã hội, dùng xong rồi thì lần lượt chuyên chính, tiêu diệt. Mao Trạch Đông đã trình bày rất rõ về chiến lược này trong các tác phẩm “Báo cáo điều tra phong trào nông dân Hồ Nam” và “Phân tích các giai cấp trong xã hội Trung Quốc”. Vì đảng cộng sản bị tà linh thao túng, nó có một tôn chỉ tà ác là tiêu diệt giai cấp, tiêu diệt bóc lột, hiện thực hóa chủ nghĩa cộng sản, thống nhất toàn nhân loại. Vì vậy, tất cả các giai tầng, đoàn thể và thế lực xã hội đều trở thành đối tượng tiêu diệt của nó. Cái gọi là “Mặt trận thống nhất” chỉ là một chiến lược tạm thời khi ĐCSTQ chưa đủ mạnh để tiêu diệt đối thủ, một hình thức nhượng bộ và thỏa hiệp mang tính chiến thuật. Ví dụ điển hình là hai lần hợp tác Quốc – Cộng trong lịch sử: ĐCSTQ khi thực lực khá nhỏ thì dùng sách lược chiếc lược hợp tác rồi bám vào đối phương để phát triển lực lượng, cũng giống như chính sách của nó đối với tôn giáo, dân tộc, “một quốc gia hai chế độ”, v.v. cũng đều là đặt bản thân ở vị trí lãnh đạo, dùng văn hóa cộng sản dần dần chia rẽ đối phương, cho đến khi khiến đối phương bị tiêu diệt. Do đó, Mặt trận thống nhất của ĐCSTQ là một thủ đoạn hư giả, không có thiện niệm, không chút thành ý, một loại pháp thuật tà ác hoàn toàn không có gì đáng tin. Nguồn gốc của nó chính là đặc tính lừa dối của ma quỷ Satan, con đại ác long màu đỏ – chính là “giả”.

(2) Đấu tranh vũ trang – bạo – thực chiến và phát huy tà thuật cách mạng bạo lực

Giai đoạn lịch sử này chủ yếu là quá trình dùng vũ trang để cướp đoạt chính quyền. Vì đây là sự bùng phát dữ dội của năng lượng đối kháng lẫn nhau giữa âm và dương trong trời đất, nên gọi là “vũ bạo” – tức bạo động vũ trang, bạo động vũ lực. Tư tưởng cốt lõi của vũ bạo được Mao Trạch Đông tóm gọn trong câu nói: “Chính quyền sinh ra từ họng súng”. Đây chính là tinh túy và bản chất của tư tưởng quân sự Mao Trạch Đông, được ĐCSTQ xây dựng suốt 28 năm. Đương nhiên đây là sự phơi bày của tính man rợ và tà ác trong xã hội loài người. Mao Trạch Đông từng nói: “Cách mạng không phải là mời khách ăn cơm, không phải là viết văn chương, không phải là vẽ tranh thêu hoa; nó không thể tinh tế, tao nhã, không thể điềm đạm, không thể ôn hòa, tử tế, nhã nhặn, kiềm chế và cao thượng. Cách mạng là bạo động, một hành động bạo lực do giai cấp này tiến hành nhằm lật đổ giai cấp khác”. Đây cũng là sự lý giải sâu sắc nhất và điển hình nhất về bản chất của cách mạng bạo lực, là đặc trưng quan trọng của phong trào cộng sản và là minh chứng sống động cho chữ “bạo”. Nếu những lời này do người ngoài nói ra, rất có thể họ sẽ bị quy kết là “kẻ thù giai cấp” hay “phản động”, rồi bị bức hại tàn khốc. Cách mạng bạo lực trong thời kỳ này thể hiện qua đấu tranh vũ trang. ĐCSTQ định nghĩa: “Cách mạng vũ trang chống lại phản cách mạng vũ trang là hình thức đấu tranh chủ yếu của giai cấp bị áp bức lật đổ giai cấp thống trị phản động; dân tộc bị áp bức lật đổ chế độ thực dân”. Nguồn gốc của nó xuất phát từ đặc tính hiếu chiến của ma quỷ Satan, con đại ác long màu đỏ – chính là “bạo”.

(3) Xây dựng đảng – ác – tà thuật dùng ma tính khống chế linh hồn của con người

Trung Cộng định nghĩa cái gọi là “xây dựng đảng” bằng ba nguyên tắc ưu tú của ĐCSTQ: lý luận kết hợp với thực tiễn, gắn bó chặt chẽ với quần chúng, phê bình và tự phê bình.

“Lý luận kết hợp với thực tiễn” chính là sử dụng lý luận tà ác của chủ nghĩa cộng sản (tà pháp chủ nghĩa cộng sản) để chỉ đạo khống chế hành động thực tế của con người. “Liên hệ chặt chẽ với quần chúng” là một ác pháp phụ thể với hình thức thẩm thấu và khống chế chặt chẽ theo mô hình phân tầng và mạng lưới đặc trưng của ĐCSTQ trong thực tiễn. Trong lịch sử quân sự thế giới, chế độ chính ủy đặc biệt của ĐCSTQ chính là sản phẩm và sự vận dụng thực tế của loại hình linh hồn phụ thể này. Do đó, quân đội của ĐCSTQ không sợ gian khổ, không sợ chết, coi sinh mạng như cỏ rác, hoàn toàn mất đi nhân tính, thay vào đó là thứ “đảng tính” tà ác – ma tính. Vì vậy, việc xây dựng đảng có nguồn gốc từ đặc tính hủy diệt sinh mệnh của ma quỷ Satan, con đại ác long màu đỏ – chính là “ác”.

Tóm lại, từ khi thành lập vào năm 1921 đến khi cướp đoạt chính quyền năm 1949, nó đã diễn hóa ra một vũ khí tinh thần – cái gọi là “tam đại pháp bảo”, chính là khung xương cốt lõi của tư tưởng Mao Trạch Đông. Thực chất, đó là một loại đại ma pháp “giả, ác, bạo” cực kỳ tà ác! Là sự bộc phát mạnh mẽ về ma tính của con rồng đỏ ma quỷ Satan phụ thể ĐCSTQ.

Quá trình sinh hóa tinh thần của “bạo” – chính là sự tạo dựng tà ác trên tầng diện tinh thần, nhằm thúc đẩy sự ra đời của một tinh thần – là cái mà ĐCSTQ gọi là “tam đại pháp bảo”. Chúng ta gọi nó là “văn hóa đảng”, nó là một tải thể văn hóa quán triệt đặc tính “giả, ác, bạo” của tà linh Satan, được sử dụng để khống chế toàn bộ thể xác vật chất khổng lồ của ĐCSTQ.

III. Quá trình sinh hóa của kết cấu ý thức ĐCSTQ – Quá trình phụ thể của u linh tà ác phương Tây

Từ thiên tượng của chữ “bạo” (暴), sự bất hòa của trời đất có thể truy ngược về thời điểm khoảng 800 năm trước, hoặc thế kỷ thứ VIII, hoặc thậm chí xa hơn.

Nhìn lại tình hình tôn giáo thế giới vào khoảng 800 năm trước, chúng ta có thể tổng kết sơ bộ như sau: về cơ bản, phương Tây và châu Âu chủ yếu chịu ảnh hưởng của Cơ Đốc giáo; còn phương Đông, đặc biệt là châu Á, bao gồm Trung Quốc và Ấn Độ, chủ yếu chịu ảnh hưởng của Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo. Nếu nhìn vào chữ “bạo” (暴), bên trong có chứa chữ “bát” (八), ngụ ý rằng khoảng 800 năm trước, chính vào thời điểm đó, quỷ Satan (lấy hình thức của ác long màu đỏ hiển hiện) được nhắc đến trong Kinh Thánh đã bắt đầu kế hoạch thách thức Phật Pháp trên Trái Đất. Nói cách khác, thiên tượng không hài hòa mà chữ “bạo” thể hiện thực ra đã xuất hiện từ khá sớm tại phương Tây. Mặc dù mục tiêu cuối cùng của tà ác là hạ xuống và phụ thể vào Trung Quốc, nhưng tại sao nó không hạ xuống trực tiếp tại Trung Quốc?

Vào thời điểm đó, dù là trong khu vực Cơ Đốc giáo hay Thần giáo ở phương Tây, hay khu vực Phật, Đạo, Nho ở phương Đông, tà ác đều gặp phải sự ngăn cản khá lớn. Bởi vì tại phương Đông, Trung Quốc đã thiết lập một hệ thống phòng thủ lập thể ba lớp Phật, Đạo và Nho. Ba lớp bảo hộ này liên kết từ con người đến Thần linh cũng như tương thông hô ứng với thế giới của chư Phật ở ngoài tam giới, hòa hợp gắn kết, hình thành một mạng lưới chính Pháp dày đặc bao trùm toàn bộ trời đất, khiến tà linh không thể tiến nhập, chỉ đành tìm cách xâm nhập vào khu vực Cơ Đốc giáo phương Tây, rồi sau đó tìm cơ hội để tiến nhập vào Trung Quốc, đây là một nguyên nhân. Cơ Đốc giáo phương Tây lấy niềm tin tuyệt đối và duy nhất vào Thần làm nền tảng, điều này vốn là rất tốt. Tuy nhiên, khu vực Cơ Đốc giáo phương Tây có một vấn đề: tại ba tầng thứ cao, trung, thấp, hệ thống bảo hộ chỉ dựa vào một vị Thần duy nhất là Chúa Jesus, tại tầng cao là các nhà thờ và những người tu hành chuyên nghiệp, những người này sống tương đối đơn thuần nên hiệu quả bảo hộ khá tốt; tín đồ tại tầng trung và tầng thấp tu luyện trong xã hội, dễ chịu can nhiễu bởi cuộc sống thế tục, điều tạo ra sơ hở để con rồng đỏ có thể lợi dụng mà xâm nhập. Dù vậy, nó cũng không hề dễ dàng, vì những người này về cơ bản vẫn là tin vào Thần, do đó tà ác không thể xâm nhập từ sớm.

Mà một nguyên nhân quan trọng nhất chính là ác ma đại hồng long cần hấp thụ toàn diện những vật chất bại hoại rơi xuống từ không gian cao tầng đối ứng ở phương Tây. Ở phương Tây, châu Âu, đã kế thừa một số nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại cùng nhiều nền văn minh khác. Đặc trưng cơ bản của những nền văn minh này là thiên về hướng ngoại, tập trung vào nghiên cứu các nguyên lý như số học, hình học, logic học, triết học và khoa học. Những đại diện tiêu biểu gồm triết gia Plato, nhà vật lý Aristotle, nhà toán học Euclid, v.v.. Xét về bản chất, tất cả những điều này đều là khoa học, xa rời Phật Pháp. Lúc bấy giờ, nước Ý đặc biệt hứng thú với nền văn hóa Hy Lạp, thể hiện qua các lĩnh vực như triết học, nghệ thuật, văn học, điêu khắc, hội họa, v.v.. Từ bề ngoài mà nhìn, về cơ bản họ vẫn là tín đồ Cơ Đốc giáo, nhưng không đạt đến cảnh giới của những tín đồ chức sắc, tà ma liền thông qua những người này, thông qua khoa học, thông qua văn nghệ thời Phục Hưng ở giai tầng bậc trung hạ mà mở ra một lỗ hổng để tiến nhập vào. Quá trình này kéo dài khoảng ba đến bốn trăm năm, tức là trùng với thời kỳ văn nghệ Phục Hưng (từ năm 1300 – 1600). Trong thời gian này, ma tính xâm nhập mạnh mẽ thông qua các hình thức khoa học, nghệ thuật, điêu khắc và hội họa, từ đó đặt Cơ Đốc giáo trước một thách thức chưa từng có. Tình hình ngày một xấu đi, vào giai đoạn này, thuyết nhật tâm của Copernicus đã giáng một đòn mạnh vào Cơ Đốc giáo, từ đó trở nên suy yếu không thể gượng dậy. Sang thế kỷ XIX, thuyết tiến hóa của Darwin (1809 – 1882) với quan điểm sinh vật tiến hóa thông qua đấu tranh sinh tồn theo quy luật “chọn lọc tự nhiên”, cùng với học thuyết cộng sản của Karl Marx (1818 – 1883) cho rằng “đấu tranh giai cấp và cách mạng bạo lực là động lực căn bản của sự phát triển xã hội loài người”, đã đưa học thuyết đấu tranh toàn diện tiếp nhập vào tầng diện vật chất, tầng diện tinh thần của sinh mệnh và tầng diện xã hội của nhân loại. Từ đó, sinh mệnh cấp cao tà ác nhất trong lịch sử loài người – “chủ nghĩa cộng sản” ra đời. Thực chất, nó là con ác long Satan hạ xuống một tầng không gian, tồn tại dưới hình thái sinh mệnh trong không gian này. Nhân loại về cơ bản đã đặt niềm tin vào khoa học và “tà ma cộng sản”, trong khi đức tin vào Cơ Đốc, việc đến nhà thờ hành lễ dần trở thành một thói quen trong đời sống và một nghi thức tôn giáo để cầu xin sự che chở từ Thần linh.

Bản chất của khoa học: ngày nay, con người đều cho rằng khoa học là thần thánh, là tiên tiến, là chân lý. Tuy nhiên, những thảm họa to lớn mà khoa học mang đến cho nhân loại vẫn chưa được con người nhận thức đầy đủ, cũng như chưa thể chấp nhận toàn bộ. Trong khi đó, cách nhìn nhận về khoa học của hết thảy các bậc Giác Giả, Thánh nhân lại hoàn toàn khác biệt. Hãy xem Thánh nhân Thương Hiệt đã nhìn nhận khoa học như thế nào. Tôi đặc biệt chú ý đến chữ “科” (khoa), bởi nó không hề tầm thường, rất có thể được tạo ra dành riêng cho Chính Pháp, nhằm chỉ rõ chân tướng của khoa học. Chữ “科” (khoa) có phần bên phải là chữ “斗” (đấu), thể hiện bản chất của khoa học chính là tính đấu tranh, là sự đấu tranh và kiểm soát giữa tinh thần và vật chất. Bên trái là chữ “禾” (hòa), biểu trưng cho mầm non của thực vật, tượng trưng cho sinh mệnh nhỏ bé, bao gồm thực vật và con người, không bao gồm Thần. Do đó, khoa học đã khơi mào sự đối kháng giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên, thực chất là sự tàn phá sinh mệnh. Khoa học tuyên truyền chủ nghĩa vô thần và tư tưởng đấu tranh, khiến đạo đức nhân loại băng hoại đến mức vũ trụ không thể dung chứa, đẩy nhanh cơ chế “Thành – Trụ – Hoại – Diệt” của vũ trụ, đẩy nhân loại đến bờ vực diệt vong.

Khoa học thúc đẩy xã hội loài người từ nền kinh tế tự nhiên bước vào nền kinh tế thị trường. Giá trị cốt lõi của nền kinh tế thị trường là lợi nhuận, hình thức biểu hiện của nó là hàng hóa, cơ chế vận hành của nó là cạnh tranh, cốt lõi văn hóa của nó là đấu tranh, nguồn động lực của nó là khoa học kỹ thuật, đặc tính thiên tượng của nó là âm dương phản bối. Do đó, khoa học và nền kinh tế thị trường phù hợp với tính chất đấu tranh của con rắn cổ Satan, tạo thành một trường văn hóa mang đầy ma tính.

Mọi người có thể đưa ra nghi vấn: tại sao con ác ma đại hồng long lại nhất định phải hạ xuống châu Âu? Tại sao không phải là nơi khác như Liên Xô, Ấn Độ, Tây Tạng, Nhật Bản, v.v.? Hoặc tại sao không trực tiếp hạ xuống Trung Quốc cho xong? Vấn đề này đã được đề cập ở trên, hóa ra lục địa châu Âu là nơi khai sinh ra các nền văn minh phương Tây như nền văn minh Hy Lạp cổ đại, văn minh La Mã, văn minh Maya, v.v., cũng chính là nơi khởi nguồn của khoa học. Trong khi đó, các khu vực khác thì không có điều kiện tương tự. Ở trên đã bàn đến vấn đề trong khoa học ẩn chứa văn hóa của ma, mà cốt lõi của nó là đem vật chất và tinh thần phân tách và đối lập, mang tính đấu tranh. Vì vậy, ma nó tất yếu phải ra đời tại đây để hấp thụ tinh hoa của văn hóa ma quỷ. Hãy thử nghĩ mà xem, một “thánh ma” muốn giáng thế để tranh đấu với Phật Pháp, nếu không có sự hun đúc thâm hậu trong văn hóa ma quỷ thì làm sao có thể thành công? Tất nhiên, đây chỉ là một cách nói đứng tại góc nhìn từ không gian vật chất. Ở một khía cạnh khác, nếu Trái Đất và nhân loại tồn tại để dùng cho Chính Pháp, còn con ác ma rồng đỏ là máy thu gom rác thải của vũ trụ, vậy thì nó tất yếu phải đến phương Tây để thu thập và hấp thụ những vật chất bại hoại của sinh mệnh vũ trụ giáng xuống ở phương Tây. Tại sao trạng thái của xã hội ở phương Tây lại tốt hơn phương Đông? Chính vì ma đã hấp thụ lượng vật chất bại hoại cực đại của vũ trụ tại phương Tây, giúp môi trường sống ở đó trở nên trong sạch và cải thiện. Ngược lại, vào cuối thời nhà Thanh, sau năm 1840, tình trạng xã hội ở phương Đông, nhất là Trung Quốc, đột ngột xấu đi, rất có thể là bởi nguyên nhân này, con ác long đỏ đã mang vật chất bại hoại tà ác nhất trong vũ trụ đến Trung Quốc, mang đến những tai họa khủng khiếp cho Trung Quốc.

Nghe nói năm đó, Chúa Jesus đã căn dặn rõ ràng cho các môn đồ là không được truyền giáo về phương Đông. Nhưng không rõ là họ không biết hay cố tình làm trái, mà vẫn ồ ạt truyền giáo sang Trung Quốc. Điều này khiến mạng lưới phòng vệ ba chiều của Phật, Đạo, Nho ở phương Đông trở nên khó đối phó hơn, bởi vì tất cả đều là Phật Pháp, đều là muốn độ nhân. Khi người ta muốn độ nhân, làm sao có thể cự tuyệt người ta ở ngoài cửa? Điều đó không đúng. Và điều này chính là vấn đề nghiêm trọng mà Chúa Jesus đã lường trước, văn hóa ma quỷ có thể lợi dụng các giáo đồ của Ngài để thâm nhập vào Trung Quốc, trong khi những người truyền giáo lại không nhận thức được điều đó. Họ nghĩ rằng mình đang truyền bá văn minh phương Tây, độ con người về thiên quốc, mà không hay biết rằng họ đang phá hoại Phật Pháp ở giáo phận phương Đông! Vào cuối đời Minh, khoảng năm 1600, một nhà truyền giáo người Ý tên là Matteo Ricci (Lợi Mã Đậu) đã thông qua một học sỹ Hàn Lâm Viện người Thượng Hải là Từ Quang Khải, truyền bá cuốn “Cơ sở hình học” (Elements) của Euclid. Từ Quang Khải đã dịch và xuất bản cuốn sách này với hy vọng mở ra cánh cửa khoa học cho Trung Quốc, nhưng cuối cùng không thành công. Điều này cho thấy mạng lưới phòng thủ ba chiều của Phật, Đạo, Nho vô cùng nghiêm ngặt. Lúc bấy giờ, đại nho gia Vương Dương Minh đã khởi tác dụng quan trọng. Ông đã khai ngộ và đắc đạo tại Quý Châu, truyền giảng “Tâm học” của ông, thu hút đông đảo môn đồ. Những người theo học có căn cơ lớn đều mong muốn thành Phật, đắc Đạo, tìm kiếm bậc đại đức để dẫn dắt họ đột phá không gian, tiến nhập vũ trụ. Vì thế, họ không mấy bận tâm đến việc nghiên cứu một hệ thống lý thuyết cơ sở hình học vốn chỉ xoay quanh cái không gian nhân loại nhỏ bé này. Giới học thuật cận đại và hiện đại từng bày tỏ sự tiếc nuối về cơ hội này, quy kết rằng văn hóa Phật, Đạo, Nho quá lạc hậu, làm chậm bước tiến của Trung Quốc. Họ không hiểu chân lý của Phật Pháp, cũng không biết đây thực chất là cuộc đối kháng và thẩm thấu giữa Phật và ma. Còn vị mục sư Matteo Ricci này, quả thực là hồ đồ, chẳng rõ bản thân đã vượt ngàn dặm đến Trung Quốc để làm gì. Nếu như một nhà khoa học hay nhà toán học phàm nhân truyền bá “Cơ sở hình học” thì đó là chuyện tự nhiên, hợp tình hợp lý, không có gì để bàn cãi. Nhưng thử hỏi, với tư cách là một nhà truyền giáo, liệu đạo mà Chúa Jesus muốn ông truyền giảng có phải là “Cơ sở hình học” hay không?

Vào thế kỷ XVIII và XIX, phương Tây đã bước vào kỷ nguyên công nghiệp nặng với động cơ hơi nước, từ đó chủ nghĩa tư bản ra đời, tầng lớp công nhân cũng xuất hiện. Lòng tham làm của chủ nghĩa tư bản cùng với các cuộc khủng hoảng kinh tế xuất hiện dường như đã tạo ra cuộc khủng hoảng lớn của chủ nghĩa tư bản, điều này đã tạo ra điều kiện hư giả cho sự sản sinh của học thuyết cách mạng bạo lực. Trong bối cảnh lịch sử này, chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa cộng sản xuất hiện. Mà tinh thần cốt lõi của chủ nghĩa cộng sản chính là “bạo lực cách mạng và đấu tranh giai cấp”, điều này hoàn toàn phù hợp với đặc tính của ma quỷ đại hồng long. Vì vậy, tinh thần của ma quỷ cũng đã tiến nhập vào đó. Ban đầu, nó định thực hiện tại Pháp thông qua cái gọi là Công xã Paris, nhưng đã không thành công. Bởi vì châu Âu là trung tâm của Thiên Chúa giáo, dù chịu ảnh hưởng nặng nề của khoa học và vật dục, nhưng con người vẫn không ưa chuộng loại ma tính cực đoan của “bạo lực, cách mạng, đấu tranh”. Mà ma quỷ muốn kiểm soát Trung Quốc trước khi Chính Pháp đến, mà thời gian chỉ còn lại hơn 100 năm, đã vô cùng cấp bách. Phải làm sao đây? Nó đã dùng thuốc phiện để bào mòn tinh thần và trí tuệ của người Trung Quốc, đột phá mạng lưới phòng hộ ba chiều của Phật Pháp. Nhưng nhân dân Trung Quốc kiên cường kháng cự, dẫn đến chiến tranh nha phiến, cách này vẫn không thành công. Đến năm 1860, Trung Quốc vẫn là một hệ thống độc lập và khép kín. Không còn cách nào khác, ma quỷ đành phải dùng vũ lực, nó thao túng liên quân tám nước tiến vào Trung Quốc, ép triều đình nhà Thanh phải mở cửa bờ biển, mở rộng thông thương. Từ góc độ con người, mục đích là xuất khẩu hàng hóa do chủ nghĩa tư bản sản xuất, tìm kiếm thị trường rộng lớn hơn, đồng thời đưa các giá trị phương Tây như tự do, khoa học, dân chủ, văn minh vật chất, kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường tiến vào Trung Quốc. Những điều này, xét trên bề mặt vật chất, có thể thúc đẩy văn minh của xã hội, nhưng đây không phải là bản chất. Chúng chỉ là tải thể của văn hóa ma quỷ, bên trong ẩn chứa bản chất ma tính của đại hồng long: tính đấu tranh, tính phá hoại, kỳ thực chính là “bạo”. Thiên tượng đối ứng của nó là nước lửa không giao hòa, tương chiến. Ngọn lửa thiêu rụi vườn Viên Minh, sự bùng nổ của phong trào Ngũ Tứ, bức tường phòng thủ khổng lồ, lớp phòng hộ ba chiều của văn hóa truyền thống Trung Quốc đã hoàn toàn sụp đổ. Triều đình nhà Thanh bị tiêu diệt, nhưng lại xuất hiện Tôn Trung Sơn cùng với chủ nghĩa Tam Dân. Mà văn hóa của chủ nghĩa Tam Dân không phải là văn hóa ma quỷ, ma quỷ không thể phụ thể lên thân của Tôn Trung Sơn.

Vậy thì phải làm thế nào? Vì Liên Xô là cây cầu nối giữa châu Âu và Trung Quốc, cộng thêm đây vốn là vùng đất rộng lớn và tôn giáo yếu kém, nên con đường từ châu Âu, qua Liên Xô, rồi hạ cánh lần thứ hai tại Trung Quốc là một phương án tương đối đáng tin. Thế là ma quỷ đại hồng long đã lợi dụng tranh chấp lợi ích giữa các nước phương Tây để khơi mào chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Đương nhiên kết quả cuối cùng là Anh và Pháp thu lợi, còn đế quốc Nga bị tổn thương nặng nề trong cuộc chiến. Điều này đã tạo ra điều kiện cực kỳ thuận lợi cho cuộc cách mạng bạo lực của đảng cộng sản Nga. Năm 1917, cách mạng Tháng Mười giành thắng lợi, kế hoạch phụ thể vào Liên Xô của ma quỷ đại hồng long đã thành công. Ma quỷ cần ở lại Liên Xô một thời gian để hấp thu những tinh hoa tà ác và bạo lực nhất từ Stalin và đảng cộng sản Liên Xô. Làm thế nào để tiếp tục xâm nhập Trung Quốc? Chẳng bao lâu sau, “một phát súng từ cách mạng Tháng Mười đã đưa chủ nghĩa Marx-Lenin đến Trung Quốc”. Dưới sự thao túng của đảng cộng sản Liên Xô, vào năm 1921, ĐCSTQ được thành lập, đây chính là thời điểm tà linh của ma quỷ đại hồng long chính thức xâm nhập vào Trung Quốc. Lúc này, nó vẫn giống như một đứa trẻ sơ sinh, cần sự bao bọc từ người mẹ Liên Xô. Khi ĐCSTQ tiến lên phía Bắc, nó không có chủ trương gì rõ ràng. Quân đoàn IV của Trương Quốc Đào là lực lượng chủ lực của hồng quân, đã muốn tiến về phía Tây để dựa vào Liên Xô, đã nói rõ điểm này, nhưng chỉ dựa vào sự che chở của Liên Xô thì vẫn chưa đủ. Nếu không có một môi trường tà ác, âm tính an toàn, thì ma quỷ đại hồng long rất khó trưởng thành và lớn mạnh. Vì vậy, cần có một môi trường quốc tế hỗn loạn để thu hút sự chú ý của thế giới, đó chính là bản chất thực sự của cuộc xâm lược Trung Quốc do Nhật Bản thực hiện. Những sinh mệnh tà ác ở tầng cao đã lợi dụng tham vọng của người Nhật để đạt được mục đích “một mũi tên trúng con chim” (xem “Nhật ký Tưởng Giới Thạch 1931-1945” do Đài truyền hình Phượng Hoàng phát sóng: Ngày 18 tháng 09 năm 1931, Tưởng Giới Thạch đang ngồi trên chiến hạm tiến về phía Nam để trấn áp cộng sản. Vào đúng 10 giờ tối hôm đó, Nhật Bản phát động “Sự kiện 18/09”. Đây tuyệt đối không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên của lịch sử, mà thực ra là an bài tỉ mỉ của cựu thế lực). Hitler là người cực kỳ căm ghét chủ nghĩa cộng sản. Một loại sinh mệnh cao tầng khác đã lợi dụng tham vọng độc tài của Hitler để thực hiện kế hoạch của họ. Họ muốn thông qua Hitler để tiêu diệt Liên Xô đỏ, từ đó kiểm soát Trung Quốc, nhằm ngăn chặn con quỷ đỏ lớn mạnh tại Trung Quốc. Điều này đã dẫn đến sự bùng nổ của chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ở phía Bắc, Liên Xô đóng vai trò như một lá chắn bảo vệ cho Trung Quốc. Nếu Hitler chinh phục được Liên Xô, thì Trung Quốc chắc chắn sẽ nằm dưới sự kiểm soát của Hitler, và ĐCSTQ sẽ không thể lớn mạnh tại Trung Quốc. Khi vũ trụ bước vào thời kỳ Chính Pháp, mọi vật chất bại hoại trong vũ trụ sẽ không thể tập hợp đầy đủ để bị tiêu diệt trong quá trình Chính Pháp. Đây đại khái là điều mà những sinh mệnh cao tầng trong vũ trụ (cựu thế lực) cho là như vậy. Do đó, làm sao Hitler có thể vượt qua được rào cản của Liên Xô? Sự thất bại của Hitler là điều tất yếu. Ở phương Đông, tham vọng và dã tâm của Nhật Bản đã bị những sinh mệnh cao tầng (cựu thế lực) lợi dụng. Bề ngoài, Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, nhưng trên thực tế là để bảo vệ ĐCSTQ, làm suy yếu lực lượng quân đội Quốc Dân Đảng, khiến chính phủ Quốc Dân phải đối phó với ngoại xâm mà không còn sức lực để tiêu diệt nội loạn. Điều này giúp ĐCSTQ tránh khỏi bị tiêu diệt, và quan trọng hơn, còn tạo cho họ một lý do chính đáng để nó tồn tại – kháng Nhật. Chính phủ Quốc Dân không những không thể tiêu diệt đảng cộng sản mà còn phải cung cấp súng đạn, lương thực, thậm chí còn phải nhường lại một căn cứ địa hợp pháp. Trong khi Quốc Dân Đảng tổn thất binh tướng trong cuộc kháng chiến, thì đảng cộng sản lại bí mật phát triển lực lượng, tích lũy sức mạnh và ung dung lớn mạnh tại Diên An. Tưởng Giới Thạch chứng kiến tất cả, nhưng dù có lo lắng thế nào cũng không thể làm gì được. Khi cuộc kháng chiến chống Nhật kéo dài, đảng cộng sản ngày càng lớn mạnh, đến mức vượt qua cả chính quyền Quốc Dân. Khi đảng cộng sản đã đủ mạnh, sứ mệnh của Nhật Bản cũng hoàn thành, và cả cuộc kháng chiến chống Nhật lẫn chiến tranh thế giới lần thứ hai đều không còn cần thiết nữa nên chiến tranh kết thúc. Ngay sau khi chiến tranh chống Nhật chấm dứt, đảng cộng sản lập tức tranh giành thành quả thắng lợi với Quốc Dân Đảng, lập tức thách thức chính quyền Tưởng Giới Thạch. Chỉ trong ba năm nội chiến, qua ba chiến dịch, Tưởng Giới Thạch đã hoàn toàn thất bại. Cảnh tượng trắng đen bị đảo lộn, điên đảo thị phi này đã lan tràn khắp vũ trụ, khiến chúng ta thấy rõ sự suy tàn và bại hoại của các sinh mệnh vật chất trong vũ trụ, cựu thế lực quả là quá độc ác! Nếu không có sự an bài Nhật Bản đảo loạn của cựu thế lực thì theo tình hình lúc bấy giờ, ĐCSTQ chắc chắn sẽ không thoát khỏi kiếp nạn bị tiêu diệt!

ĐCSTQ, một lực lượng hùng mạnh, đã trỗi dậy nhanh chóng. Sự trỗi dậy của nó không phải vì bất kỳ mục đích nào khác, mà là tạo ra vì Chính Pháp, để phục vụ cho Chính Pháp. Tháng 10 năm 1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập. Lúc này, Liên Xô vẫn còn giá trị sử dụng, khoa học kỹ thuật của Liên Xô khi đó rất phát triển, nhân cơ hội tranh thủ học hỏi chút kỹ thuật. Vì vậy, đã nhanh chóng ký kết 150 dự án xây dựng với Liên Xô. Tuy nhiên, khi Stalin qua đời, người Liên Xô bắt đầu tỉnh ngộ và ngay lập tức thiêu xác Stalin. Điều này khiến Mao Trạch Đông không thể ngồi yên, làm sao có thể như vậy, tư tưởng thức tỉnh ư, không thể để điều này tái diễn ở Trung Quốc! Chính vì vậy, kế hoạch “phản sửa chữa, phòng sửa chữa” đã được ấp ủ. Đến năm 1960, Trung Quốc đã có thể tự lập, không còn cần Liên Xô che chắn nữa. Khi đó, cuộc chiến ở đảo Trân Bảo có thể được tiến hành. Mục đích thực chất căn bản của cuộc chiến này không chỉ đơn giản là tranh chấp biên giới, mà còn nhằm cáo buộc Liên Xô là “đế quốc xã hội chủ nghĩa” và “chủ nghĩa xét lại” trên lý luận, đồng thời thông qua chiến tranh để đánh lạc hướng sự tỉnh ngộ của người dân Trung Quốc sau sự kiện thiêu xác Stalin, từ đó duy trì sự thống trị bạo lực của đảng tính tà ác của nó. Đối với ĐCSTQ, “qua cầu rút ván” chẳng là gì cả. Nếu không làm vậy, thì còn gọi là con rắn cổ đại ma quỷ Satan không? Khi Gorbachev lên nắm quyền, Liên Xô đã không còn chút giá trị nào đối với tà linh cộng sản của con rồng đỏ nữa. Tinh hoa năng lượng tà ác của nó đã bị hút cạn, nên việc Liên Xô tan rã là điều tất yếu. Nếu Liên Xô không sụp đổ, ngược lại sẽ là một mối đe dọa đối với Trung Cộng. Nhưng người Liên Xô chẳng thể ngờ rằng, hai mươi triệu chiến sỹ hy sinh trong thế chiến II thực chất chỉ là để làm lá chắn cho sự trỗi dậy của ĐCSTQ! Đâu chỉ Liên Xô, cả thế giới đều bị con ma tà linh cộng sản này xoay vòng như con rối!

Có người hỏi: Vậy cuộc chiến kháng Mỹ viện Triều từ năm 1950 đến 1952 ở phía Đông và cuộc chiến Trung – Ấn năm 1959 ở phía Tây thì giải thích thế nào? Bây giờ nhìn lại, cuộc chiến kháng Mỹ viện Triều hoàn toàn không cần thiết. Ngay cả các chuyên gia quân sự của ĐCSTQ hiện nay cũng thừa nhận điều này. Nhưng bản chất của đảng cộng sản là hiếu chiến, không coi sinh mạng của người dân là sinh mệnh. Đây chính là do ma tính của con rồng đỏ quyết định, nó cần hút lấy năng lượng tà ác từ máu tươi của chiến tranh, để thể hiện sức mạnh bạo lực và chấn nhiếp chính nghĩa quốc tế. Nó sinh tồn trong chiến tranh và bạo lực, phát triển trong hỗn loạn và bạo lực. Khi có yếu tố bên ngoài kích thích, nó sẽ lập tức bộc phát ma tính, không thể nhẫn nại mà sử dụng bạo lực. Khi không có yếu tố tự nhiên nào dẫn đến bạo lực, nó sẽ tự tạo ra bạo lực thông qua đấu tranh, thông qua “đấu trời đấu đất” để sinh ra bạo lực hủy diệt môi trường sống. Sau khi thất bại trong việc bạo hành thế giới vật chất, nó nhanh chóng đổi hướng, chuyển sang sử dụng bạo lực để hủy hoại sinh mệnh vật chất thông qua đấu tranh giai cấp, đồng thời dùng bạo lực tư tưởng để đàn áp tinh thần và linh hồn. Đây chính là bí mật giúp đảng cộng sản tồn tại và giành chiến thắng. Cái gọi là “đại loạn đạt đến đại trị” của Mao Trạch Đông chính là bảo bối tà ác duy trì sự tồn tại của đảng cộng sản. Hiện nay, việc công khai hô hào đấu tranh giai cấp hay phát động cách mạng văn hóa với chiêu bài “đại loạn đạt đến đại trị” đã không còn khả thi. Tuy nhiên, bản chất tà ác của nó là không thể thay đổi, bởi nếu thay đổi, nó sẽ trở thành Phật, sẽ đồng hóa với “Chân, Thiện, Nhẫn”. Do đó, ác ma tất yếu sẽ thay đổi hình thái, cái gọi là “cải cách kinh tế”, khi cuộc chiến đấu trời, đấu đất không mang lại lợi ích, nó liền chuyển hướng sang đấu người. Nhưng đấu người cũng không thể kéo dài mãi, nó lại quay sang bóc lột và tàn phá tự nhiên, phá hoại tự nhiên dẫn đến cát vàng cuồn cuộn, sông ngòi ngập lụt. Bản chất đấu tranh và bức hại của nó không thể che giấu. Vài năm trước, nó lại tiến thêm một bước vào tầng sâu hơn với cái gọi là “tiến lên cùng thời đại”. Thực chất, đó chỉ là thuận theo dòng chảy, dung túng sắc dục và tình dục để tổ vẽ cảnh thái bình. Thuận theo dục vọng vật chất hoành hành, tham nhũng tràn lan làm suy đồi tư tưởng con người, khiến linh hồn con người trở nên trống rỗng. Trên mạng, trụy lạc và khiêu dâm lan tràn, trò chơi bạo lực bùng phát, văn hóa đảng lưu manh tà ác của Triệu Bản Sơn lại hoành hành khắp nơi. Duy chỉ có văn hóa truyền thống, văn hóa Thần truyền, những giá trị chính thống của nhân loại thì bị cấm đoán và phong tỏa nghiêm ngặt. Tuy nhiên, chiêu trò này cũng không còn hiệu quả. Sau khi tân lãnh đạo ĐCSTQ lên nắm quyền, nó lại thay đổi bộ mặt tà ác, đưa ra khẩu hiệu “xã hội hài hòa” để tiếp tục mê hoặc thế nhân. Nhưng dù có dùng những lời lẽ hoa mỹ đến đâu, đảng cộng sản vẫn có thể nhét vào đó nội hàm tà ác. Càng lợi dụng lớp vỏ bọc đẹp đẽ, nó càng dễ đánh lừa con người. Bởi vì đảng cộng sản không chấp nhận “Chân”, nên nó không thể đạt được sự thống nhất giữa lời nói và hành động, giữa bên trong và bên ngoài. Nó không chấp nhận “Thiện”, nên không thể thực sự mang lại phúc đức cho nhân dân. Nó không chấp nhận “Nhẫn”, nên không thể mang lại sự cai trị ổn định lâu dài!

Ở trên bàn luận về bản chất của cuộc chiến kháng Mỹ viện Triều dường như vẫn chưa đủ sâu sắc. Sau khi đọc bài “Thiển ngộ nông cạn về thiên cơ của Thần (Phần 3): Những đại sự thế gian khiến con người tỉnh ngộ”, tác giả Đường Lý đã thực sự vạch trần bí mật tận gốc rễ:

Năm 1986, “Cách Am Di Lục” xuất thế; năm 1987, Phật chỉ xá lợi tái hiện; năm 1992, Pháp Luân Đại Pháp khai truyền; năm 2005, Ưu Đàm Bà La hoa khai nở. Thần đã dùng một thời gian biểu chặt chẽ như vậy để nói rõ cho thế nhân rằng: hiện thực Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền thế giới chính là ấn chứng cho thiên cơ trọng đại ‘Vạn Vương chi Vương’ (Vua của các vị vua) hạ thế truyền Pháp cứu độ thế nhân.

Thiên cơ này khiến ĐCSTQ vô cùng khiếp sợ! Đây chính là lý do tại sao Thần đã để cho Cách Am Di Lục xuất thế, và Ưu Đàm Bà La hoa khai nở ở Hàn Quốc, mà không phải ở Triều Tiên hay Trung Quốc; cũng là để con người hiểu vì sao nửa thế kỷ trước lại xuất hiện cục diện chiến tranh, kết quả là phân chia bán đảo Triều Tiên bằng vĩ tuyến 38, bởi vì Thần muốn bảo hộ cửa sổ phương Đông tiết lộ thiên cơ này: Hàn Quốc.

Ở đây, một lần nữa chúng ta lại thấy rằng nước Mỹ là một quốc gia vĩ đại. Nước Mỹ luôn đứng về phía Thần, bảo vệ trật tự của vũ trụ trước khi Chính Pháp đến. Tới thời kỳ Chính Pháp khi ĐCSTQ tà ác điên cuồng bức hại, nước Mỹ lại trở thành nơi an toàn để các đệ tử Đại Pháp tị nạn. Những người Trung Quốc có thái độ thù địch với nước Mỹ thực chất là kết quả của sự đầu độc và nhồi nhét tà ác của “văn hóa đảng” mà ĐCSTQ cưỡng ép lên họ.

Vào thời khắc cuối cùng của cuộc đại thanh lọc vũ trụ, những thủ đoạn mà ĐCSTQ từng sử dụng đều đã mất tác dụng. Chúng đã tung ra chiêu bài cuối cùng gọi là “xã hội hài hòa”. Tuy nhiên, sự ra đời của Cửu Bình đã vạch trần bản chất tà ác của ĐCSTQ, khiến thế nhân thức tỉnh. Trong tiếng nói lên án từ toàn thế giới, ĐCSTQ ở quốc tế giờ đây giống như con chuột chạy qua phố, bị mọi người đuổi đánh. Nó không còn có thể mê hoặc cộng đồng quốc tế nữa. Thế nhưng, dựa vào những năm tháng nhồi nhét văn hóa đảng tà ác, dựa vào bộ máy nhà nước mà chúng nắm giữ, cùng với quyền kiểm soát tuyệt đối đối với truyền thông và dư luận, ĐCSTQ vẫn đang cố gắng sử dụng chiêu cuối cùng này, dù có chết vẫn giữ chặt chúng sinh trong nước không buông, chờ đến ngày bị vũ trụ chính Pháp đào thải. Nhân dân Trung Quốc ơi, không thể chỉ dựa vào các học viên Pháp Luân Công, những người đã hy sinh cả sinh mệnh để giảng chân tướng. Hãy tự mình suy nghĩ, hãy tự cứu lấy mình, tự tỉnh ngộ đi! Hiện nay không còn như trước kia khi ĐCSTQ có thể dùng một bàn tay che kín bầu trời nữa. Giờ đây, mọi người có thể tìm hiểu sự thật thông qua việc vượt tường lửa internet, thông qua các kênh truyền hình vệ tinh, để hiểu rõ xu thế của thế giới, để liễu giải chân tướng cuộc bức hại, để thấy rằng ngày vũ trụ tiêu diệt ác ma đại hồng long, thời khắc đại thanh lọc đang từng bước đến gần. Thoái xuất khỏi ĐCSTQ, mới có hy vọng được cứu!

Từ đó có thể thấy rằng, mục đích cuối cùng của ĐCSTQ không phải là tạo ra “giả, ác, đấu”. Mục đích cuối cùng của nó là dùng mọi thủ đoạn, biến hóa vô số hình thức để khiến con người từ bỏ chính niệm, từ bỏ đạo đức lương tri, từ bỏ sự đồng hóa với “Chân – Thiện – Nhẫn”, khiến con người không thể được chính Pháp của Phật Chủ cứu độ, để rồi trong khi chính Pháp mà bị đào thải và hủy diệt.

Bạo lực ý thức sinh hóa là quá trình tạo ra tà ác trên tầng linh hồn, nhằm dung hợp linh hồn của ma quỷ – tà linh cộng sản – dùng để điều khiển thể xác vật chất của ĐCSTQ.

Những phân tích trên có thể được tóm tắt như sau: từ năm 800, con ác long đỏ tiến vào và hấp thụ tinh hoa của văn hóa ma quỷ tại phương Tây và châu Âu. Đến năm 1818, khi Karl Marx ra đời, đó chính là sự kết tinh đỉnh cao của tinh hoa tà ma, dẫn đến việc sáng lập “chủ nghĩa cộng sản”. Việc công bố “Tuyên ngôn cộng sản” đã đánh dấu sự ra đời của thực thể tinh thần của con ác long đỏ trên nhân gian – chủ nghĩa cộng sản. Năm 1917, với thắng lợi của cách mạng Tháng Mười tại Liên Xô, chủ nghĩa cộng sản bước vào vỏ bọc vật chất là Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết. Năm 1921, sự thành lập của ĐCSTQ đánh dấu việc chủ nghĩa cộng sản đã được thai nghén thành công tại Trung Quốc, hình thành bào thai ma quỷ của ĐCSTQ. Giai đoạn từ 1921 đến 1949 chính là quá trình phát triển của bào thai này, trong đó, nó đã hấp thụ đầy đủ tinh hoa của các yếu tố tà ác trong văn hóa truyền thống Trung Quốc. Đến năm 1949, vỏ bọc ma quỷ này chính thức chào đời. Đây chính là chức năng sinh hóa của thiên bạo.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/53239

The post Thương Hiệt chân ý (Quyển 2): Thiên bạo của chữ “bạo” – Sự thai nghén và ra đời của ĐCSTQ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thương Hiệt chân ý (Quyển 1): Dự ngôn của chữ “bạo” – Thiên tượng bại hoại của Trung Cộnghttps://chanhkien.org/2025/03/thuong-hiet-chan-y-quyen-1-du-ngon-cua-chu-bao-thien-tuong-bai-hoai-cua-trung-cong.htmlSun, 30 Mar 2025 23:39:52 +0000https://chanhkien.org/?p=36943Tác giả: Nguyên Tử [ChanhKien.org] Chúng ta hãy xem chữ bạo “暴” này, mặt trời ( bộ Nhật – 日) ở trên, nước (bộ Thủy – 水) ở dưới, trên trời có mặt trời, dưới đất có nước. Điều này thật tốt đẹp làm sao, bạn nhìn bầu trời quang đãng vạn dặm kia xem, […]

The post Thương Hiệt chân ý (Quyển 1): Dự ngôn của chữ “bạo” – Thiên tượng bại hoại của Trung Cộng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Nguyên Tử

[ChanhKien.org]

Chúng ta hãy xem chữ bạo “暴” này, mặt trời ( bộ Nhật – 日) ở trên, nước (bộ Thủy – 水) ở dưới, trên trời có mặt trời, dưới đất có nước. Điều này thật tốt đẹp làm sao, bạn nhìn bầu trời quang đãng vạn dặm kia xem, có nước thì có sự sống, thật tốt biết bao, mọi người nhất định đang nghĩ rằng đây là một thời kỳ thái bình thịnh thế. Tuy nhiên, người xưa không nhìn nhận đơn giản như vậy, và trong Kinh Dịch cũng không nhận thức theo cách đơn giản như thế. Trong Kinh Dịch, có một quẻ tượng gọi là “Hỏa Thủy Vị Tế”, tức là quẻ Ly ở trên, quẻ Khảm ở dưới, tạo thành quẻ Hỏa Thủy Vị Tế. Trong ngũ hành, hỏa có đặc tính bốc lên trên, thủy có tính chảy xuống dưới, khi thủy và hỏa giao hòa với nhau mà sinh ra trung khí, thì sự sống trong môi trường hòa hợp này có thể sinh sôi và tiếp nối không ngừng. Thế nhưng, trong chữ bạo “暴”, hỏa đã ở trên cùng mà không thể hướng lên cao hơn, thủy đã ở dưới cùng mà không thể thấm xuống tiếp, nước và lửa không giao hòa, âm dương không đắc chính vị, âm dương không hòa hợp, âm dương phản bối. Đối với cơ thể con người, nếu âm dương không giao hòa, vậy thì sự vận hành của ngũ hành sẽ không chính thường, dẫn đến trạng thái bệnh, con người dễ trở nên nóng nảy, dễ giận dữ và có tính cách bạo lực. Đối với thiên thể hoặc vũ trụ, nếu âm dương không giao hòa thì sự vận hành của thiên thể hoặc vũ trụ sẽ không chính thường, dẫn đến thiên thể khô nóng, khí hậu khô hạn hoặc mưa quá nhiều gây ra thiên tai như hạn hán, lũ lụt, xói mòn đất, hoặc chiến tranh, động đất, dịch bệnh lan tràn,… Thần nhân gọi trạng thái này của thiên thể hoặc cơ thể con người là “bạo”.

Dưới mặt trời có thảo đầu (bộ thảo “艹”), tượng trưng cho thân cây và cỏ khô, bên dưới cỏ có một nét ngang tượng trưng cho mặt đất, còn dưới nét ngang là chữ bát (八) tượng trưng cho con người. Bạn có thể tưởng tượng: một vầng thái dương đỏ rực chiếu rọi khắp mặt đất, trên mặt đất mọc đầy cỏ dại. Củi khô gặp lửa mạnh, cộng với ánh nắng gay gắt từ mặt trời thiêu đốt, dẫn đến nắng gắt, hạn hán, mặt đất nứt nẻ, cây cối khô héo thành củi khô, lương thực tự nhiên khan hiếm, khiến bách tính rơi vào cảnh nước sôi lửa bỏng. Mặt trời có màu đỏ như máu, mặt trời như quả cầu lửa, báo hiệu đây là một thời đại máu và lửa. Nhìn tiếp, dưới lòng đất lại có người, thực chất là hình tượng quỷ bát giác trong cõi âm. Dưới mặt đất còn có dòng chảy ngầm, vận mệnh của chúng sinh đầy hiểm nguy. Con người mà ở dưới lòng đất thì muốn làm gì? Chẳng phải là sợ ánh sáng, sợ lộ diện hay sao? Vì vậy, trong thời đại này, có rất nhiều người hành động bí mật, đặc vụ trong Quốc Dân Đảng, đặc vụ trong quân đội, đặc vụ Nhật Bản không đâu không thấy, đảng cách mạng, đảng ngầm len lỏi vào từng ngõ ngách. Đây chính là quẻ tượng của thiên tượng và trạng thái xã hội trước năm 1949, chiến tranh loạn lạc, dân chúng lầm than, xã hội hỗn loạn, bất ổn. Đương nhiên, dưới con mắt của người bình thường, trách nhiệm và tội lỗi lịch sử này tự nhiên đổ lên đầu chính phủ Quốc Dân Đảng, là một lãnh tụ thì người gánh chịu tiếng oan không ai khác chính là Tưởng Giới Thạch. Thế nhưng, nhìn từ tầng thứ cao hơn của pháp lý vũ trụ, từ góc độ văn hóa truyền thống Trung Quốc, thì nước lửa không hòa hợp mới là nguyên nhân căn bản nội tại của loại thời vận và thiên tượng này, dẫn đến chiến tranh liên miên, sinh linh đồ thán. Vậy ai đã tạo thành loại thiên tượng này? Chính là Trung Cộng. Vấn đề này chúng ta sẽ phân tích kỹ hơn ở phần sau.

Bạn hãy nhìn kỹ thêm lần nữa, ở giữa nước và lửa, giữa trời và đất có một chữ cộng (共), vậy ai đang thao túng thiên hạ đây? Chính là đảng cộng sản đang thao túng thiên hạ. Đặc trưng của thời đại này chính là một chữ “cộng” (共), chủ nghĩa cộng sản lan tràn khắp nơi. Trước năm 1949, tuy là thiên hạ của Quốc Dân Đảng, chứ không phải là thiên hạ của đảng cộng sản, nhưng phong trào chủ nghĩa cộng sản đã dấy lên liên tục, trong khi Quốc Dân Đảng lại rơi vào trạng thái bị động, bị đảng cộng sản dắt mũi. Thần nhân đã tiên đoán điều này từ 5000 năm trước về sự tồn tại của đảng cộng sản và cuối cùng nó sẽ có được thiên hạ. Chữ cộng (共) có thể tách ra thành “hai mươi tám” (二十八), ngụ ý rằng đảng cộng sản có thể dùng thời gian 28 năm để giành thiên hạ. Ngoài ra, chữ cộng (共) còn có thể phân giải thành “二十、一、八” (hai mươi, một, tám), ám chỉ rằng Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) ra đời vào tháng 8 năm 1921. Hôm nay nhìn lại lịch sử, từ khi ĐCSTQ được thành lập vào tháng 7 năm 1921 đến khi giành chính quyền vào năm 1949, quả thật mất đúng 28 năm, thật là kỳ diệu! Nhưng tại sao quẻ tượng lại nói là tháng tám, trong khi thực tế ĐCSTQ lại thành lập vào tháng bảy? Ở đây có một huyền cơ. 7 thông thường là thời điểm Thần nghỉ ngơi, lúc này việc quản lý vũ trụ có phần lơi lỏng, ma trong vũ trụ liền nhân cơ hội này để hành ác nhằm đạt được hiệu quả tối đa. Chúng ta sẽ dần thể hội được rằng Trung Cộng nó thực sự là một con quỷ Sa-tăng gian xảo, nó nắm rõ thời gian nghỉ ngơi của Thần, nó rất biết lợi dụng thiên tượng và thiên thời, thậm chí ngay cả ngày ra đời, Trung Cộng cũng muốn tận dụng thiên thời một cách triệt để.

Có người sẽ nghĩ rằng thời kỳ thay đổi triều đại trong lịch sử Trung Quốc đều là những ngày tháng loạn lạc, vậy tại sao lại khẳng định đây không phải là một thời kỳ loạn lạc thông thường trong lịch sử, chẳng hạn như thời nhà Tần? Thực ra, Thần Thương Hiệt đã lường trước được rằng hậu nhân sẽ có thắc mắc như vậy, vì thế khi phân phối xưng hiệu cho các triều đại trong lịch sử, chữ cộng “共” tuyệt đối không được dùng. Chữ cộng “共” chỉ xứng dành riêng cho chủ nghĩa cộng sản và đảng cộng sản, để phân biệt rõ ràng.

Hơn nữa, để diễn đạt rõ ràng hơn thời kỳ lịch sử này, Thần đã đặc biệt nhấn mạnh tín tức về thời gian ngay trong chữ cộng (共). Vì vậy, bộ thảo “艹” trong chữ này cũng có thể đọc là nhị thập (二十), có nghĩa là 20, ý chỉ thế kỷ 20. Dưới chữ nhị thập (二十) có một nét ngang (一), tượng trưng cho một thế kỷ là 100 năm. Phần dưới cùng là chữ bát (八) chỉ số 8, biểu thị thời gian kéo dài của đoạn lịch sử này là 80 năm, đồng thời cũng tượng trưng rằng trong khoảng thời gian đó sẽ có 80 triệu sinh mạng bị cướp đi trong cơn bão cách mạng. Tất cả những điều này đã được định sẵn từ trước, rất khó có thể thay đổi. Giờ đây, lịch sử đã lật sang trang mới, những tiên đoán trước kia đã trở thành hiện thực một trăm phần trăm. Từ năm 1921, khi ĐCSTQ ra đời, đã chính thức tuyên bố bắt đầu bạo lực cách mạng dưới sự lãnh đạo của ĐCSTQ, cho đến năm 2002, khi người Hồ chấp chính, đồng thời tuyên bố Trung Quốc tiến nhập vào cái gọi là “xã hội hài hòa”, thì lịch sử đấu tranh giai cấp dữ dội như bão tố đã chính thức đặt một dấu chấm. Vừa đúng 80 năm! Điều này hoàn toàn phù hợp với thuyết chu kỳ vũ trụ trong văn hóa truyền thống Trung Hoa, gọi là “Cửu cửu quy chân” (九九归真). Có thể thấy, lịch sử nhân loại được vận hành và sắp đặt một cách tinh vi, tuyệt đối không phải do nhân loại sáng tạo ra lịch sử. Đại Thánh Nhân đã nói: “Nhân loại trước giờ chưa từng thực sự nắm giữ vận mệnh của chính mình”.

Tiếp tục quan sát, ta thấy trong chữ cộng còn ẩn chứa phần đầu của chữ cách “革”, thể hiện tính cách mạng của nó. Cách mạng mà đảng cộng sản nói đến chính là bạo lực, chính là đập phá, là cướp đoạt. Chính tổ tông của nó là Karl Marx từ sớm đã quy định rõ trong Tuyên ngôn đảng cộng sản rằng: “Phải đập tan cái xã hội cũ thối nát!”

Tiếp tục quan sát, trong chữ cộng còn ẩn chứa chữ phần đầu của chữ thảo “草” tượng trưng cho thảo mộc đều là binh, tượng trưng cho bách tính. Điều này cho thấy đảng cộng sản đã phát động toàn thể nhân dân làm cách mạng, tiến hành chiến tranh nhân dân, khiến thảo mộc trở thành binh lính. Lịch sử Trung Quốc trước đây chưa từng có chuyện huy động quy mô lớn bách tính thường dân vào chiến tranh, đều là do quân đội chuyên nghiệp tác chiến, các trận đánh thường diễn ra ở những vùng hẻo lánh, ít người để tránh hết mức làm thương tổn bách tính. Khi chiếm được thành trì, việc đầu tiên là dán bảng thông báo trấn an dân chúng. Thế nhưng, trong thời cận đại, bãi chiến trường lại thường được đặt ngay giữa những khu vực đông dân cư, biến người dân thành lá chắn sống. Nếu Gia Cát Lượng sống đến ngày nay, ông cũng không thể nào hiểu nổi cách đánh trận này, sau mỗi trận chiến đều phải tế trời để tạ tội, còn phải siêu độ vong linh. Người dân bình thường không được huấn luyện quân sự bài bản, năng lực tự vệ yếu kém, một khi bị cuốn vào chiến tranh thì chẳng khác nào mạng người rẻ rúng như cỏ rác. Rõ ràng, các bậc thánh nhân xưa không đồng tình với việc phát động chiến tranh nhân dân. Cũng không hiểu nổi cách nói chiến thuật biển người, cũng không lý giải nổi cái gọi là “quân dân như một”.

Tiếp tục quan sát, ta thấy rằng chữ bạo “暴” có phần trên chứa quẻ ly nhật “日” (Mặt Trời), cho thấy một nguồn năng lượng khổng lồ. Tuy nhiên, nguồn năng lượng này cấp cho ĐCSTQ, không phải cấp cho Quốc Dân Đảng, bởi trong chữ bạo “暴” này ở giữa trời đất không có tín tức nào của Quốc Dân Đảng. Nguồn năng lượng này xuất phát từ Mặt Trời, vì thế Mao Trạch Đông tự ví mình như “mặt trời đỏ”, với ý đồ hấp thụ năng lượng cực đại từ Mặt Trời. Mặt Trời có màu đỏ, do đó đảng cộng sản sùng bái màu đỏ, cũng là muốn đắc được năng lượng của Mặt Trời. Lá cờ Mặt Trời của đế quốc Nhật Bản, trên thực tế, cũng bí mật truyền năng lượng cho ĐCSTQ trong thời kỳ khó khăn. Trong khoảng từ năm 1931 – 1945, cuộc chiến tranh chống Nhật đã đẩy nhân dân Trung Quốc vào vực thẳm tối tăm của chiến tranh, nhưng lại mang đến bước ngoặt lịch sử cho ĐCSTQ. Từ đó, đảng cộng sản lợi dụng lá cờ chính nghĩa của dân tộc để bước lên vũ đài lịch sử của Trung Quốc, không còn phải chui rúc trong những hầm mỏ ở An Nguyên, hay xúi giục công nhân, nông dân bạo loạn, đập phá, cướp bóc, gây rối trật tự xã hội ở Hồ Nam như trước nữa. Do đó, sau khi cướp chính quyền năm 1949, điều đầu tiên mà đảng cộng sản làm là hủy bỏ toàn bộ khoản bồi thường chiến tranh mà Nhật Bản phải trả cho Trung Quốc. Đảng cộng sản thật là “hào phóng”, nhìn xem, trong cuộc kháng chiến chống Nhật, ngươi đã làm được gì? Ngươi có tư cách gì mà đem hàng chục triệu sinh mạng của nhân dân Trung Quốc và lợi ích quốc gia ra đổi lấy lợi ích riêng cho đảng mình?

Tiếp tục quan sát sâu hơn, ta thấy rằng phần dưới của chữ “暴” chứa quẻ khảm thủy “水” cho thấy hành động của nó linh hoạt như nước. Năng lực thẩm thấu của nó giống như nước, không chỗ nào không len lỏi vào được. Mưu kế của nó giống như nước biến hóa khôn lường, khó mà đoán trước. Hình thức hoạt động của nó như nước biến hóa vô thường. Sự tồn tại của nó luôn trong tình trạng mong manh, như đi trên băng mỏng, như sợi tơ bay trước gió. Chính vì vậy, khi Tưởng Giới Thạch còn chưa kịp ban hành kế hoạch tác chiến, Mao Trạch Đông đã biết trước rồi. Do đó Lâm Bưu đánh trận xuất quỷ nhập thần. Do đó, ĐCSTQ không ngừng tiến hành đấu tranh nội bộ, không ngừng cải cách, gọi đó là theo kịp thời đại. Do đó cũng dự báo sự tồn tại của chiến tranh du kích, lúc tập hợp thành quân đội, lúc lại hòa vào dân chúng, khiến quân Nhật không phân biệt được mục tiêu tác chiến dẫn đến việc quân Nhật đã áp dụng chính sách tàn bạo “Tam Quang” (giết sạch, đốt sạch, phá sạch) để đối phó với bách tính, khiến hàng loạt ngôi làng và bách tính bị tàn sát. Chúng ta vẫn quy kết cuộc đại thảm sát Nam Kinh và chính sách Tam Quang hoàn toàn là do sự tàn bạo, vô nhân tính của quân xâm lược Nhật Bản. Hôm nay quay đầu nhìn lại một cách lý trí, nếu nghiêm túc phản tỉnh về những nguyên nhân sâu xa của đoạn lịch sử đau thương không muốn nhớ lại này, vậy thì ĐCSTQ có trách nhiệm gì trong đó không? Không chỉ là trách nhiệm! Có thể nói rằng chính sách quân dân không phân biệt của ĐCSTQ, bản chất lưu manh tự tư lợi dụng sinh mạng nhân dân để bảo vệ sự tồn tại của mình mới chính là kẻ đứng sau và là thủ phạm thật sự của cuộc thảm sát Nam Kinh! Còn sự tàn bạo của quân đội Nhật chỉ đơn thuần là công cụ để ĐCSTQ thực hiện sự hủy diệt nhân dân mà thôi. Mao Trạch Đông, loại “vĩ nhân” xuất sinh này, kỳ thực là tạo hóa của ngũ hành, an bài của thượng thiên, nhưng nó không cùng hàng ngũ với các bậc thánh hiền xưa (như Thích Ca Mâu Ni đại diện cho từ bi, Chúa Jesus và Khổng Tử đề cao lòng nhân ái, còn Mao Trạch Đông thì cổ xúy đấu tranh, cách mạng). Nói theo văn hóa truyền thống Trung Quốc, đây chính là sự mất cân bằng nghiêm trọng của âm dương tương chiến, ngũ hành vận hóa của đạo trời, là sự tích tụ cao độ của những vật chất bại hoại trong vũ trụ, từng tầng từng tầng dồn xuống Trái Đất, một nơi đặc thù dùng cho Chính Pháp. Mà nó chính là “Tư tưởng Mao Trạch Đông” khét tiếng. Vì vậy, giải thể tư tưởng Mao Trạch Đông chính là hành động đại thiện để thanh lọc vũ trụ, giúp vũ trụ quay về bản nguyên chân thật! Đây là điều sẽ nói ở phần sau, ở đây chỉ nhắc qua trước.

“Thương Hiệt chân ý” khác với một số lời tiên tri trước đây. Nó không chỉ dự báo các sự kiện lịch sử cụ thể mà còn triển hiện sinh mệnh quan và vũ trụ quan vô cùng sâu sắc trong văn hóa truyền thống Trung Hoa. Điều đáng quý hơn nữa là nó sử dụng một phương thức biểu hiện ngược tức chữ “暴” (bạo), ở một tầng thứ nhất định, thể hiện một nguyên lý tối cao và căn bản của Đại Pháp vũ trụ. Sự vận hành của âm dương ngũ hành chính là nguyên nhân căn bản sản sinh ra thiên tượng. Thiên tượng, địa tượng và nhân tượng là đối ứng. Bất kỳ thể sinh mệnh nào cũng đều có sự ảnh hưởng qua lại với thiên tượng, bởi vì con người vốn là một bộ phận của thiên tượng. Mối quan hệ này là sự tác động lẫn nhau giữa con người và trời đất. Chính vì vậy, các bậc thánh nhân thường quan sát thiên văn địa lý để tu chính đức tính của mình, sao cho phù hợp với thiên đạo. Như câu “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức” (Đạo trời vận hành mạnh mẽ, bậc quân tử cần tự cường không ngừng). Khi thiên đạo vận hành mất cân bằng, người có đức hạnh cao sẽ dùng chính phẩm đức của mình để bù đắp, thậm chí điều chỉnh sự sai lệch của thiên đạo, giúp thiên đạo trở về trạng thái chính thường. Điều này được gọi là “Di luân thiên địa chi đạo” (gánh vác, điều hòa đạo trời đất). Đây cũng chính là tinh hoa rực rỡ nhất của nền văn minh Trung Hoa, quan niệm Thiên nhân hợp nhất. Nếu xuất hiện thiên tượng bất lợi, con người có thể tập hợp hành vi mang tính thiện lành của mình để hóa giải một phần ảnh hưởng tiêu cực từ Thiên thời và Địa lợi. Nhờ đó, có thể giảm bớt, kiềm chế, thậm chí xoay chuyển thiên tượng xấu, làm giảm thiểu tai họa và cải thiện vận mệnh con người, điều này là có thể. Tuy nhiên, ĐCSTQ đã hủy hoại và phủ nhận văn hóa truyền thống Trung Hoa, bóp méo mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, cổ xúy tư tưởng nhân định thắng thiên, nhồi nhét triết học đấu tranh, làm bại hoại đạo đức nhân luân, đi ngược lại hoàn toàn quy luật vũ trụ tam vị nhất thể của Thiên, Địa, Nhân, biến mối quan hệ tương hỗ trong bạn có tôi, trong tôi có bạn thành quan hệ đấu tranh có ngươi thì không có ta, có ta thì không có ngươi. Do đó, chỉ trong vài chục năm ngắn ngủi, đảng cộng sản đã đẩy xã hội Trung Quốc và môi trường sống vào tình trạng nguy kịch. Từ thiên tượng mang chữ “bạo”, con người có thể dễ dàng nhận thấy viễn cảnh đáng sợ này. Ngay từ khi ra đời, đảng cộng sản đã ồ ạt tràn đến, mang theo thiên tượng bại hoại nghiêm trọng, gieo rắc tai họa cho Trung Hoa và cả thế giới, như một lời thị uy đáng sợ. Kể từ khi đàn áp Pháp Luân Đại Pháp, thiên tượng vốn đã suy bại lại càng nhanh chóng xấu đi. Năm 2008, các thảm họa như bão tuyết, tai nạn xe cộ, vấn đề nhân quyền ở Tây Tạng, dịch bệnh EV71, và động đất liên tiếp xảy ra, tất cả đều là nhân họa do tư tưởng đấu tranh tà ác của ĐCSTQ mà ra, là lời cảnh báo nghiêm khắc từ thiên thượng.

Những phân tích trên thông qua thiên tượng của chữ “暴” (bạo) và những thông tin ẩn chứa trong đó đã sơ lược phác họa trạng thái xã hội tồi tệ mà đảng cộng sản mang đến cho Trung Quốc. Dưới đây sẽ tiếp tục lý giải sâu hơn về chữ “bạo”, phân tích ba tầng ý nghĩa ẩn giấu trong đó: Thiên bạo, Địa bạo và Pháp bạo. Qua đó, sẽ làm rõ quá trình sinh hóa vật chất, sinh hóa tinh thần và sinh hóa tà pháp của đảng cộng sản. Bằng cách kết hợp giữa pháp lý và các sự kiện lịch sử để đối chứng lẫn nhau, chúng ta có thể nhận thức sâu sắc bản chất tà ác, tà giáo và tà linh của đảng cộng sản, từ đó đặt nền tảng nhận thức vững chắc để thoát khỏi sự kiểm soát của nó.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/53084

The post Thương Hiệt chân ý (Quyển 1): Dự ngôn của chữ “bạo” – Thiên tượng bại hoại của Trung Cộng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thương Hiệt chân ý (Lời nói đầu): Khái lược về Thương Hiệt tạo chữ và Chính Pháp vũ trụhttps://chanhkien.org/2025/03/thuong-hiet-chan-y-loi-noi-dau-khai-luoc-ve-thuong-hiet-tao-chu-va-chinh-phap-vu-tru.htmlThu, 27 Mar 2025 03:51:13 +0000https://chanhkien.org/?p=36910Tác giả: Nguyên Tử [ChanhKien.org] Nền văn hóa Trung Hoa có lịch sử lâu đời, chữ viết của dân tộc Hoa Hạ huyền diệu vô cùng, chứa đựng nội hàm bác đại tinh thâm, mang theo hàm ý xa xưa thâm trầm. Nó được coi như một viên ngọc sáng chói trong lịch sử văn […]

The post Thương Hiệt chân ý (Lời nói đầu): Khái lược về Thương Hiệt tạo chữ và Chính Pháp vũ trụ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nguyên Tử

[ChanhKien.org]

Nền văn hóa Trung Hoa có lịch sử lâu đời, chữ viết của dân tộc Hoa Hạ huyền diệu vô cùng, chứa đựng nội hàm bác đại tinh thâm, mang theo hàm ý xa xưa thâm trầm. Nó được coi như một viên ngọc sáng chói trong lịch sử văn tự và văn minh thế giới, tỏa ra ánh sáng trí huệ sâu sắc.

Tương truyền, “Thương tự” (chữ của Thương Hiệt) do sử quan Thương Hiệt từ thượng cổ thời Hoàng Đế sáng tạo ra. Ông ngước lên trời quan sát thiên văn, cúi xuống đất nghiên cứu địa lý, thấu hiểu việc người, phân biệt được dấu tích của chim thú mà sáng tạo văn tự. Ông đã đem quy luật vận hành của vũ trụ, đạo lý tạo hóa của thiên địa và chân lý của nhân sinh ẩn tàng trong các ký hiệu văn tự, giúp con người trong cuộc sống hàng ngày có thể lĩnh ngộ được đạo lý vận hành biến hóa của trời đất, và hiểu được sự biến đổi của thiên địa bất cứ lúc nào. Trong cuốn “Hoài Nam Tử – Bản Kinh Huấn” có chép rằng: “Thương Hiệt tạo chữ, trời giáng mưa thóc, quỷ khóc ban đêm”, ý nói rằng khi con người nắm vững văn tự, trí huệ sẽ tăng lên rất nhiều, khiến Thần quỷ bất an. Chữ viết do một vị Thần nhân tạo ra, vì thế từ xưa, Thương tự đã được coi là văn hóa Thần truyền.

Ở đây trước tiên nói về Thần Thương Hiệt, chỉ cần nhìn vào chữ “Thương” (蒼) trong tên ông cũng có thể thấy rằng đây là một vị đại Thần đến từ vũ trụ bao la với lai lịch phi phàm, từ chữ “Hiệt” (頡) có thể biết được ông là một vị Thần truyền thừa văn minh. Vì vậy, có thể nói văn hóa mà Thần Thương Hiệt mang đến có nguồn gốc rất sâu xa. Do đó, trong bài viết này, chữ Hán được gọi là Thương tự – chữ của vũ trụ, văn tự Trung Hoa cổ đại được gọi là Thương văn – văn tự vũ trụ, những tín tức chân thực ở các tầng khác nhau trong Thương tự được gọi là “Thương ngôn” – chân ngôn của vũ trụ.

Trong Thương tự không chỉ hàm chứa chân lý nhân sinh, mà còn ẩn chứa quy luật tạo hóa của trời đất, cũng như nguyên lý diễn hóa của vũ trụ qua các giai đoạn: thành, trụ, hoại, diệt. Đặc biệt còn chứa đựng thiên tượng bại hoại vào thời kỳ hoại diệt cuối cùng của vũ trụ, cũng như đối sách của vũ trụ đối với hiện tượng này – chính là vũ trụ Chính Pháp. Thông qua việc chứng ngộ Thương tự, có thể khiến con người thấy được cảnh tượng Chính Pháp trong thời kỳ cuối của vũ trụ, bao gồm địa điểm diễn ra Chính Pháp và kết cục cuối cùng, cùng với rất nhiều thông tin khác. Vì thế, nghiên cứu Thương tự có thể giúp con người nhận thức sâu sắc hơn về chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, từ đó giúp lý giải rõ hơn về sự hồng truyền của Pháp Luân Đại Pháp năm đó, cũng như chân tướng về cuộc bức hại tà ác do Trung Cộng gây ra. Điều này cũng có lợi cho việc nhận thức được sự cấp bách của cứu độ chúng sinh.

Để có thể cảm nhận sơ bộ về điểm này, trước hết tôi phân tích một cách đơn giản về chữ “滅” (diệt) phồn thể. Chữ này được cấu thành từ các bộ: “氵” (thủy – nước), “戌” (tuất), và “火” (hỏa – lửa). Trong chữ phồn thể, chữ “滅” (diệt) biểu thị sự diệt vong của sinh mệnh chỉ là sự hủy diệt của thể xác vật chất, khiến nó trở thành Tuất thổ (trong ngũ hành Tuất thuộc thổ). Tuy nhiên, bên trong nó vẫn tiềm ẩn hỏa chủng (mầm lửa), bên ngoài sau khi được hóa bởi nước (氵), chữ tuất “戌” có thể biến thành “成” (thành), cũng tức là nói diệt chỉ là một loại trạng thái trong chu kỳ “thành, trụ, hoại, diệt” của sinh mệnh, và sau khi diệt đi, lại bắt đầu một chu kỳ sinh mệnh mới, chứ không phải là sự hủy diệt thực sự của sinh mệnh. Chúng ta biết rằng “thành, trụ, hoại, diệt” là quy luật diễn hóa của vũ trụ mà Phật Đà đã chứng ngộ, bao gồm cả sinh mệnh con người, chính là “sinh, lão, bệnh, tử”. Mà Phật Pháp chỉ mới được truyền vào Trung Thổ khoảng 2000 năm. Nhưng từ 5000 năm trước, bậc thánh nhân sáng tạo chữ viết của Trung Thổ đã biết về nguyên lý sinh hóa của vũ trụ “thành, trụ, hoại, diệt” và ẩn giấu nó sâu bên trong văn tự. Điều này cho thấy rằng Thương tự thực sự chứa đựng pháp tắc của vũ trụ và nhân sinh. Nếu không phải là trí huệ đến từ Thần ở nơi sâu thẳm trong vũ trụ, thì làm sao con người có thể thông hiểu được những pháp tắc này?

Chúng ta biết rằng khoa học hiện đại, đặc biệt là chủ nghĩa duy vật, thuyết tiến hóa và thuyết vô thần, đều cho rằng cái chết của sinh mệnh là sự tiêu hủy triệt để, không còn gì nữa. Nhưng văn hóa Thần truyền không nhìn nhận như vậy. Văn hóa này cho rằng sinh mệnh là một loại vật chất phổ biến trong vũ trụ, giống như những gì khoa học công nhận về vật chất, là bất diệt. Cái chết của sinh mệnh chỉ là một loại hình thức biến đổi của trạng thái tồn tại của loại vật chất này mà thôi, điều này lại là điều mà khoa học hiện đại vẫn khó có thể chấp nhận. Tuy nhiên, quan niệm về vật chất trong văn hóa Thần truyền lại có thể bao hàm và viên dung quan niệm vật chất của khoa học. Khoa học không những không bị văn hóa Thần truyền bài xích mà còn được dung nạp. Trong khi đó, khoa học lại không làm được điều tương tự, mà còn cực lực bài xích và đàn áp văn hóa Thần truyền. Điều này phản ánh sự hạn hẹp của khoa học so với sự rộng lớn, bác đại tinh thâm của văn hóa Thần truyền.

Lại nói một cách đơn giản về chữ “忍” (nhẫn), thế nhân nhìn là hiểu rõ rằng trên chữ “心” (tâm) có một lưỡi đao “刃”. Cảm giác này như thế nào? Đó chính là tâm thái của Thần, trong tâm có thể dung chứa một lưỡi đao, thì đó chính là Thần, là trạng thái của Chúa Giê-su và Đức Kitô. Hãy nhìn các đệ tử Pháp Luân Công ngày nay, dưới cuộc đàn áp tàn khốc và tà ác nhất của Trung Cộng, vào những thời khắc nhân phẩm bị chà đạp nghiêm trọng, đối diện với những hình thức tra tấn phi nhân tính, thậm chí khi sinh mệnh bị tước đoạt, họ trước sau vẫn giữ vững lòng khoan dung và từ bi của Thần, không lời oán trách, không phản kháng. Họ dùng tâm đại thiện, đại nhẫn để giảng rõ chân tướng cho thế nhân, cứu độ chúng sinh. Điều này chẳng phải là sự tái hiện của Thần như Giê-su hay sao? Biểu hiện chí thiện chí nhẫn của các đệ tử Đại Pháp trước cuộc bức hại tàn khốc đã giúp con người thấy được sự cứu độ từ bi, và kiên định không lùi bước của Đại Pháp vũ trụ.

Thương tự là một yếu tố cơ bản cấu thành nền văn hóa Thần truyền suốt 5000 năm, đồng thời là một phương thức “nghệ thuật” mà Thần dùng để truyền đạt trí huệ và chân lý cho nhân loại. Nội hàm của nó bác đại, vẫn luôn hấp dẫn con dân Hoa Hạ cần mẫn tham ngộ và khám phá. Những chữ như: “愛” (ái – yêu), “親” (thân – người thân), “進” (tiến – đi tới), “滅” (diệt – tiêu hủy), “殺” (sát – giết), “悟” (ngộ – giác ngộ), “肉” (nhục – thịt), “鬥” (đấu – tranh đấu), “貪” (tham – tham muốn), “婪” (lam – tham lam), “船” (thuyền), v.v, người ta không biết từ trong những chữ này đã thu hoạch được bao nhiêu hiểu biết chân chính về nhân sinh, phá trừ biết bao nhiêu ngu muội và chấp trước. Có thể nói, văn hóa Thần truyền đã giải phóng trí tuệ của nhân loại khỏi sự trói buộc của vật chất, khiến con người cất cánh hướng về vũ trụ bao la và xa xôi, đóng góp bất hủ cho hành trình khám phá chân lý vũ trụ của nhân loại.

Con người từ đâu đến? Con người sẽ đi về đâu? Ý nghĩa cuối cùng của đời người là gì? Những câu hỏi thiên cổ này luôn làm trăn trở tâm trí của nhân loại, đồng thời cũng thôi thúc con người khám phá. Tuy nhiên, chính sự tìm kiếm này lại trở thành động lực để con người hướng về vũ trụ, hướng về Thần. Chữ viết truyền từ Thần đã ban cho nhân loại một sức hấp dẫn vô hạn, khơi dậy niềm khao khát mở ra trí huệ đã bị bụi trần phong bế từ lâu.

Bài viết này được đặt trong bối cảnh Pháp Luân Đại Pháp Chính Pháp vũ trụ hiện nay, thông qua việc lý giải nội hàm của mười chữ: “暴” (bạo), “共” (cộng), “洪” (hồng), “迫” (bức), “害” (hại), “重” (trọng), “出” (xuất), “谐” (hài), “中” (trung), “国” (quốc), ở một tầng nhất định là thể hiện chân tướng lịch sử của Chính Pháp vũ trụ. Tôi cảm thấy rằng rất nhiều người có hứng thú hoặc muốn nghiên cứu, hoặc muốn ứng dụng đối với tín tức của văn tự và dự ngôn của văn tự, điều này có lẽ không phải là ngẫu nhiên. Rất có thể đây chính là một phương thức mà Thần ban cho con người nhằm cứu độ thế nhân vào thời khắc then chốt cuối cùng khi sinh mệnh bước vào thời kỳ Chính Pháp vũ trụ. Vì vậy, bài viết này hy vọng có thể đóng vai trò như một chất xúc tác, giúp khai mở trí huệ và chứng ngộ chân lý.

Chúng ta sẽ kinh ngạc nhận ra rằng chỉ riêng mấy chữ này thôi, đằng sau mỗi chữ đều ẩn chứa nội hàm thâm sâu của Chính Pháp vũ trụ. Chỉ riêng chữ “暴” (bạo) thôi cũng đã giống như một kịch bản lịch sử được viết sẵn từ 5000 năm trước, viết rõ ràng về cơn bão cách mạng máu tanh màu đỏ của chủ nghĩa cộng sản! Nó cũng là bộ phận lịch sử diễn nghĩa về Chính Pháp của Đại Pháp vũ trụ nơi nhân gian! Nó hàm chứa thiên văn địa lý, văn minh tiền sử, nguyên lý Thái cực, Âm dương, Ngũ hành, Chu dịch, Bát quái, v.v.. Nhưng quan trọng hơn cả, nó dùng phương thức đặc định để ẩn chứa rất nhiều pháp lý thâm sâu, huyền ảo của vũ trụ. Dường như nó được viết riêng cho nhân loại sau thế kỷ XX, bởi vì thời đại của chúng ta đồng tại với Chính Pháp vũ trụ, nên cũng chỉ có chúng ta, con người ngày nay mới có phúc phận được thưởng thức ý nghĩa huyền cơ của nó. Một lần nữa, chúng ta không khỏi chấn động tâm linh trước sự huyền diệu của tạo hóa và lòng từ bi vô hạn của Thần.

Ở đây, nói về chữ “暴” (bạo), không đơn thuần chỉ là một ký hiệu ngôn ngữ thể hiện một loại khuynh hướng tính cách của con người, mà nó giống như một bộ đại dự ngôn của lịch sử. Nếu đúng như vậy, thì đại dự ngôn này đã có lịch sử gần 5000 năm. Trong khi đó, dự ngôn lâu đời nhất mà nhân loại hiện nay biết đến chỉ có khoảng hơn 3000 năm lịch sử, vượt xa lịch sử dự ngôn đã biết hiện nay. Có thể nói đây là lời dự ngôn lâu đời nhất trong tất cả các lời dự ngôn trên thế giới cho đến nay. Chữ “暴” (bạo) này vô cùng huyền diệu, nó vượt qua những lời dự ngôn thông thường, vì nó là một quẻ tượng. Ở các tầng thứ khác nhau, bạn có thể khám phá những nội hàm khác nhau. Chữ “共” (cộng) được đặt giữa trời và đất, do nước và lửa tạo thành. Theo nguyên lý của Kinh Dịch, trời và đất có cơ chế sinh hóa, do đó từ chữ “暴” (bạo) có thể khám phá ra quá trình hình thành của đảng cộng sản, thậm chí có thể thấy được sự bức hại của nó đối với Chính Pháp. Từ đó có thể từ một tầng diện rất thâm sâu giúp con người nhận thức về bản chất lịch sử của Trung Cộng.

Bài viết này cũng đề cập đến những lý giải về bản chất của hàng loạt sự kiện lớn của lịch sử cận đại, bao gồm: khoa học, dân chủ, kinh tế thị trường, chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa cộng sản, chiến tranh thế giới thứ nhất, chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc xâm lược Trung Hoa của Nhật Bản, nội chiến Quốc – Cộng, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), cải cách chữ viết, cải tạo xã hội chủ nghĩa công thương nghiệp, phong trào chống cánh hữu, Đại Nhảy Vọt, hội nghị Lư Sơn, công xã nhân dân, chiến tranh Trung – Xô, chiến tranh Trung – Ấn, cách mạng văn hóa kéo dài mười năm, cải cách kinh tế, sự kiện Lục Tứ (thảm sát Thiên An Môn), cuộc bức hại Pháp Luân Công, Pháp nạn năm 1999, chân tướng bức hại, cứu độ chúng sinh, viên mãn quy vị, v.v.. Từ đó, giúp con người nâng cao nhận thức về bản chất của lịch sử nhân loại. Đó chính là điều mà Sư phụ đã khai thị: lịch sử nhân loại, thậm chí cả lịch sử của Tam giới, đều vì Chính Pháp vũ trụ mà được khai sáng.

Nội dung chứng ngộ trong loạt bài viết này được tóm lược như sau:

(Một) Thông qua chứng ngộ chữ “暴” (bạo), từ ba tầng diện vật chất, tinh thần và ý thức, làm sáng tỏ quá trình hình thành và tôi luyện của ĐCSTQ, cũng như cuộc bức hại của nó đối với Đại Pháp. Từ các tầng diện thiên tượng, thiên bạo, địa bạo, pháp bạo mà phơi bày bản chất tàn bạo và tội ác của ĐCSTQ. Qua đó, luận chứng sâu sắc rằng lịch sử của ĐCSTQ chính là quá trình tập hợp toàn bộ những thứ “giả, ác, bạo” tà ác nhất từ cổ chí kim, từ trong và ngoài Trung Quốc. Ngoài ra, bài viết cũng đưa ra những nhận định cá nhân về khoa học dựa trên những chân ngôn trong chữ viết của Thương Hiệt. Lần đầu tiên vạch trần hoàn toàn và phủ định triệt để luận điệu tà ác mà ĐCSTQ đã tuyên truyền từ năm 1949: “Đáp ứng nhu cầu vật chất và văn hóa ngày càng tăng của nhân dân”, đồng thời chỉ ra rằng đó là một loại ma pháp tà ác nhằm rỗng hóa linh hồn, mê hoặc nhân tâm.

(Hai) Thông qua hai chữ “迫害” (bức hại) thể hiện rằng trong thời kỳ Chính Pháp, mục đích của ĐCSTQ khi bức hại Pháp Luân Công là để ngăn chặn chúng sinh bước lên con thuyền Pháp, nhằm hủy diệt chúng sinh.

(Ba) Thông qua chữ “共” (cộng) làm rõ được bốn vấn đề: (1) Nội hàm chữ “共” (cộng) hàm chứa quá trình bại hoại của vũ trụ. (2) Nó thể hiện vật chất và các nhân tố dẫn đến sự bại hoại của vũ trụ. (3) Thông qua chữ “共” (cộng) diễn dịch ra hầu như toàn bộ đặc tính tà ác và bại hoại của ĐCSTQ. (4) Chữ này cũng phác họa sơ bộ quá trình sinh mệnh trở về cội nguồn.

(Bốn) Thông qua chứng ngộ chữ “洪” (hồng), cho thấy rằng chữ “洪” thể hiện pháp tượng của văn tự Chính Pháp tất thành. Đồng thời, thông qua danh hiệu, làm sáng tỏ đức hạnh chí thiện của người sáng lập Pháp Luân Công, cũng như hiện nguyên hình bản tướng tà ác của Mao Trạch Đông – kẻ sáng lập ĐCSTQ. Điều này giúp con người nhận ra tính thấu triệt và sâu sắc của “Thương ngôn” đối với việc nắm bắt bản chất sự vật.

(Năm) Thông qua chứng ngộ từ hai chữ “重出” (trọng xuất) cho thấy: (1) Nhân tố gây ra sự bại hoại và sa đọa của sinh mệnh chính là “重” (trọng) – tức là “中共” (Trung Cộng). Ngược lại, yếu tố giúp sinh mệnh thăng hoa là “出” (xuất) – Đại Pháp. Chỉ có tu luyện, đồng hóa với Pháp Luân Công và giải thể ĐCSTQ thì sinh mệnh mới có thể vượt khỏi Tam giới và phản bổn quy chân. (2) Trung Cộng (中共) có hai nghĩa rộng và hẹp: nghĩa rộng là vật chất bại hoại của vũ trụ, nghĩa hẹp là ĐCSTQ trong hiện thực; chính là mẫu vật sống điển hình nhất của vật bại hoại trong vũ trụ. (3) Bài viết đưa ra cấu trúc khái niệm về “trọng lực” (重力), “xuất lực” (出力) hay “Thương lực” (苍力): “trọng lực” là đặc tính lực học của vật chất bại hoại trong vũ trụ – tức ĐCSTQ. Nó là lực khiến tầng thứ sinh mệnh hạ xuống. Nhìn chung, khoa học của nhân loại thuộc về “trọng lực học” – tức là môn học nghiên cứu và ứng dụng học vấn tăng tốc làm bại hoại và giải thể vũ trụ và sinh mệnh. “Xuất lực” hay “Thương lực” là đặc tính lực học biểu hiện ra vật chất chí thiện. “Xuất lực học” hay “Thương lực học” là loại học vấn nghiên cứu sự thăng hoa và trở về của vũ trụ, sinh mệnh – tức là một phần của Phật Pháp. Thể ngộ sâu sắc về việc tiến hành giải thể ĐCSTQ từ góc độ Pháp lý. (5) Thể ngộ sâu sắc về ý nghĩa của việc thoái đảng từ góc độ Pháp lý.

(Sáu) Thông qua chứng ngộ từ chữ “谐” (hài) cho thấy rằng Pháp Luân Công, khi đối diện với cuộc bức hại, vẫn kiên định giảng chân tướng, truyền rộng Cửu Bình, cứu độ chúng sinh, đây là phương thức giải thể ĐCSTQ một cách hòa bình, không đổ máu, không bạo lực, chính là Phật Pháp cứu thế từ bi nhất.

(Bảy) Thông qua chứng ngộ từ hai chữ “中国” (Trung Quốc) cho thấy: (1) Ý nghĩa chân thực của “Trung Quốc” chính là “Pháp Chính càn khôn, vạn Vương quy Chủ” là kết cục đại viên mãn. (2) ĐCSTQ thực chất có nghĩa là “hệ thống sinh mệnh hắc ám tà ác do vật chất bại hoại trong vũ trụ sinh ra”. (3) “Trung Nam Hải” (中南海) mang ý nghĩa “biển tai họa của vũ trụ”, “vùng đất hội tụ vật chất bại hoại trong vũ trụ”. (4) Mọi phương pháp tu luyện của Phật, Đạo, Thần thực chất đều là các trường hợp tu luyện đặc biệt của Pháp Luân Đại Pháp. Vạn Pháp quy về một, chính là Pháp Luân Đại Pháp.

Thông qua việc chứng ngộ mười chữ “暴、共、洪、迫、害、重、出、谐、中、国” (bạo, cộng, hồng, bức, hại, trọng, xuất, hài, trung, quốc), bài viết giúp con người có nhận thức sâu sắc và lý tính, lý giải được cơ hội lịch sử vạn cổ khó gặp Chính Pháp vũ trụ, từ đó lựa chọn, đồng hóa với Đại Pháp, lựa chọn tương lai của chính mình. Đồng thời, giúp con người hiểu sâu sắc bản chất lịch sử và bộ mặt xấu xa của ĐCSTQ, đẩy nhận thức về bản chất tà linh của nó lên một tầng sâu hơn, khiến mọi người không còn bất kỳ ảo tưởng nào về sự thay đổi của ĐCSTQ, từ đó lựa chọn xa rời, kháng cự, bài trừ nó, giữ gìn sinh mệnh quý giá của mình.

Bài viết này có thể giúp những người trẻ tuổi hoặc người nước ngoài, những ai chưa từng trực tiếp trải qua cuộc bức hại tà ác theo kiểu cách mạng văn hóa của ĐCSTQ vào những năm 1950 – 1960, nhưng có lý tính và khả năng tư duy logic, thông qua các tín tức chân tướng biểu lộ ra từ pháp tướng văn tự mà thấu hiểu sâu sắc bản chất bại hoại của ĐCSTQ, và bản chất hủy diệt chúng sinh căn bản của nó. Qua đó, họ có thể tự giác sản sinh thiện niệm thoái xuất khỏi ĐCSTQ, tự giác tránh xa nó, và tự giác khao khát đồng hóa với Đại Pháp của vũ trụ để có được một tương lai tốt đẹp.

Tại Trung Quốc, hơn nửa thế kỷ qua, ĐCSTQ đã cưỡng ép nhồi nhét nền văn hóa đảng tà ác dựa trên “giả, ác, đấu” với một mục đích duy nhất là phá hoại thiện niệm và lương tri của con người, hủy hoại đạo đức luân lý, khiến con người không lựa chọn Đại Pháp của vũ trụ với nguyên lý “Chân – Thiện – Nhẫn” vào thời khắc Chính Pháp, không tiếp nhận sự cứu độ của Thần, và từ đó bị hủy diệt trong Chính Pháp. Việc vận dụng văn hóa truyền thống của tổ tiên, một bảo kiếm trí tuệ vô giá, có thể giúp con người phá bỏ sự lừa dối và mê hoặc của văn hóa đảng, đạt được chính tín và tiến vào một tương lai mới.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/53083

The post Thương Hiệt chân ý (Lời nói đầu): Khái lược về Thương Hiệt tạo chữ và Chính Pháp vũ trụ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>